Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Giáo trình luật đầu tư (giáo trình đào tạo từ xa) phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.43 KB, 34 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA
Chủ biên
TS Lê Thị Hoài Ân

GIÁO TRÌNH
LUẬT ĐẦU TƯ

Vinh - 2011

1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA
Chủ biên
TS Lê Thị Hoài Ân

GIÁO TRÌNH
LUẬT ĐẦU TƯ
(Giáo trình đào tạo từ xa)

Vinh – 2011

2


Phân công biên soạn
Chủ biên: TS Lê Thị Hoài Ân
Từ Chương 1 đến Chương 7


3


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LUẬT ĐẦU TƯ
1. KHÁI QUÁT VỀ ĐẦU TƯ

1.1. Khái niệm về đầu tư:
Khái niệm đầu tư trong khoa học kinh tế được quan niệm là hoạt động sử
dụng các nguồn lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế, xã hội những kết quả
trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó. Đầu
tư là những nhân tố không thể thiếu để xây dựng và phát triển kinh tế, là "chìa
khóa" của sự tăng trưởng kinh tế. Các nguồn lực được sử dụng để đầu tư có thể là
tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, trí tuệ. Trong cơ chế thị trường, hoạt
động đầu tư có thể do những chủ thể khác nhau (cá nhân, tổ chức) tiến hành và ngày
càng phong phú, đa dạng về cả tính chất và mục đích. Tuy vậy, mọi hoạt động đầu
tư suy cho cùng đều nhằm mang lại những lợi ích xác định. Những lợi ích đạt được
của đầu tư có thể là sự tăng thêm tài sản vật chất, tài sản trí tuệ hay nguồn nhân lực
cho xã hội. Kết quả đầu tư không chỉ là lợi ích trực tiếp cho nhà đầu tư mà còn
mang lại lợi ích cho nền kinh tế và toàn xã hội.
Dưới góc độ pháp lý, đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn, tài sản theo các hình
thức và cách thức do pháp luật quy định để thực hiện hoạt động nhằm mục đích lợi
nhuận hoặc lợi ích kinh tế, xã hội khác. Hoạt động đầu tư có thể có tính chất kinh
doanh (thương mại) hoặc phi thương mại. Trong khoa học pháp lý cũng như thực
tiễn xây dựng chính sách, pháp luật về đầu tư, hoạt động đầu tư chủ yếu được đề
cập là đầu tư kinh doanh, với bản chất là "sự chi phí của cải vật chất nhằm mục đích
làm tăng giá trị tài sản hay tìm kiếm lợi nhuận".
Ở Việt Nam, trước khi ban hành Luật Đầu tư năm 2005, khái niệm đầu tư
kinh doanh chưa được định nghĩa thống nhất trong văn bản pháp luật. Luật đầu tư
năm 2005 với phạm vi điều chỉnh là hoạt động đầu tư nhằm mục địhs kinh doanh,

đã đưa ra định nghĩa: "Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu
hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư". Luật này
còn có sự phân biệt về thuật ngữ giữa đầu tư và hoạt động dầu tư, theo đó hoạt động
đầu tư được hiểu là hoạt động của nhà đầu tư trong qua trình đầu tư bao gồm các
khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý dự án đầu tư.
Hoạt động đầu tư có những đặc điểm của hoạt động thương mại nói chung,
và có mối liên hệ mật thiết với các bộ phận khác của hoạt động thương mại như
mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại... Sự khacs biệt cơ bản của hoạt
động đầu tư so với các hoạt động thương mại khác thể hiện ở chỗ đầu tư là hoạt
động có tính chất tạo lập (bỏ vốn, tài sản) nhằm hình thành cơ sở vật chất, kỹ thuật
cũng như các điều kiện kacs để thực hiện hoạt động tìm kiếm lợi nhuận.
1.2. Phân loại đầu tư
Dựa trên những tiêu chí khác nhau, người ta có thể phân chia đầu tư thành
các loại khác nhau. Việc phân loại hoạt động đầu tư là rất cần thiết, nhằm lựa chọn
các giải pháp kinh tế và pháp lý thích hợp, thúc đẩy và tăng cường hiệu quả đầu tư
cũng như hiệu quả quản lý Nhà nước về đầu tư. Từ phương diện pháp lý, có thể
phân loại hoạt động đầu tư theo những tiêu chí cơ bản sau:

4


1.2.1. Căn cứ vào mục đích đầu tư, có thể chia đầu tư thành: Đầu tư phi lợi nhuận
và đầu tư kinh doanh.
- Đầu tư phi lợi nhuận: Là việc sử dụng các nguồn vốn để thực hiện các hoạt
động không nhằm mục tiêu thu lợi nhuận. Dây là các hoạt động đầu tư của Nhà
nước hoặc các tổ chức, cá nhân nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội. Ví dụ:
Nhà nước đâu tư (từ ngân sách Nhà nước) xây dựng cơ sở hạ tầng công cộng; các tổ
chức, cá nhân đầu tư mua sắm tài sản, trang thiết bị phục vụ sinh hoạt tiêu dùng...
- Đầu tư kinh doanh: Là hoạt động đầu tư sử dụng các nguồn lực để kinh
doanh thu lợi nhuận. Về phương diện pháp lý, đầu tư kinh doanh có thể được thực

hieenjbawngf nhiều hình thức và phương thức tổ chức khác nhau như: đầu tư vốn
thành lập doanh nghiệp, hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng, thực hiện hợp
đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng - chuyển
giao - kinh doanh (BTO)...
1.2.2. Căn cứ vào nguồn vốn đầu tư, có thể chia đầu tư thành: đầu tư trong nước và
đầu tư nước ngoài
- Đầu tư trong nước: Là các hoạt động đầu tư mà các nguồn lực đầu tư được
huuy động từ ngân sách Nhà nước và từ các tổ chức, cá nhân trong nước. Theo Luật
đầu tư năm 2005, đầu tư trong nước là việc nhà đầu tư trong nước bỏ vốn bằng tiền
và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam
- Đầu tư nước ngoài (còn gọi là đầu tư quốc tế): Là hoạt động đầu tư mà các
nguồn lực đầu tư được huy động từ các tổ chức, cá nhân nước ngoài hoặc người của
nước nhận đầu tư định cư ở nước ngoài đầu tư về nước. Thực tiễn điều chỉnh pháp
luật đối với hoạt động đầu tư nước ngoài còn có sự phân biệt giữa đầu tư từ nước
ngoài và đaàu tư ra nước ngoài. Theo Luật đầu tư năm 2005 đầu tư từ nước ngoài là
việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp
khác để tiến hành hoạt động đầu tư; Đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tư đưa
vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác từ Việt Nam ra nước ngoài để tiến hành
hoạt động đầu tư.
1.2.3. Căn cứ vào tính chất quản lý của nhà đầu tư đối với vốn đầu tư, có thể chia
đầu tư thành: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp
- Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham
gia quản lý, điều hành quá trình sử dụng các nguồn lực (vốn) đầu tư. Trong hoạt
động đầu tư trực tiếp không có sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản lý
của nhà đầu tư đối với vốn đầu tư. Theo Luật đầu tư năm 2005 của Việt Nam, đầu
tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt
động đầu tư. Đầu tư trực tiếp có thể là đầu tư trực tiếp trong nước hoặc đầu tư trực
tiếp nước ngoài. Đầu tư trực tiếp trong nước có nội dung là việc bỏ vốn của các tổ
chức, cá nhân trong nước để kinh doanh theo các hình thức do pháp luật quy định
(như hợp tác kinh doanh, thành lập các loại hình doang nghiệp...). Đầu tư trực tiếp

nước ngoài (FDI) là một loại quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài, được đặc trưng
bởi sự di chuyển nguồn lực đầu tư (tư bản) trên phạm vi quốc tế với mục đích kinh
doanh thu lợi nhuận.

5


Hiện nay, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đang diễn ra ở hầu hết các
nước trên thế giới. Mặc dù xu hướng phổ biến trên thế giới là các nước không có sự
phân biệt trong cơ chế điều chỉnh pháp luật giữa đầu tư trực tiếp trong nước và đầu
tư trực tiếp nước ngoài, khái niệm FDI vẫn được định nghĩa trong luật pháp của
nhiều nước, như Luật khuyến khích đầu tư của Thái Lan (ban hành năm 1962 và
được sửa đổi năm 1977), Luật khuyến khích và bảo hộ đầu tư nước ngoài của Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào (ban hành năm 1994), Luật khuyến khích đầu tư áp dụng
cho từng nghành của Hàn Quốc, Luật đầu tư của Indonesia (ban hành năm 1967 và
được sửa đổi năm 1970)... Trong hợp tác đầu tư giữa các nước ASEAN, việc tăng
cường thúc đẩy đầu tư trực tiếp rất được coi trọng. Điều này được thể hiện qua các
hiệp định giữa các nước ASEAN như: Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư
năm 1987, Hiệp định khung khu vực đầu tư ASEAN (Asean Investment) năm
1998... các hiệp định này có nội dung cơ bản là các quốc gia thành viên khu vực
ASEAN cam kết xây dựng và thực hiện các chương trình hợp tác nhằm tăng cường
tính hấp đẫn đầu tư của khu vực ASEAN, thúc đẩy đầu tư trực tiếp.
- Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư mà ở đó nhà đầu tư không trực tiếp
tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Như vậy, khác với đầu tư trực tiếp, trong hoạt
động đầu tư gián tiếp, người đầu tư vốn và người quản lý, sử dụng vốn là hai chủ
thể khác nhau và có thẩm quyền chi phói khác nhau đối với nguồn lực đầu tư.
Những hoạt động đầu tư mà nhà đầu tư không trực tiếp nắm quyền quản lý, kiểm
soát và điều hành hoạt dộng kinh doanh đều có tính chất là đàu tư gián tiếp (đầu tư
tài chính, nhượng quyền, quyền theo hợp đồng, cho vay, cho thuê...).
1.3. Hình thức đầu tư

Hình thức đầu tư là cách tiến hành hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư theo
quy định của pháp luật. Trong điều kiện kinh tế thị trường, hình thức đầu tư kinh
doanh ngày càng phong phú, đa dạng; mỗi hình thức đầu tư có những đặc điểm
riêng nhất định về cách thức đầu tư vốn, tính chất liên kết và phân chia kết quả kinh
doanh giữa các nhà đầu tư. Căn cứ vào nhu cầu và điều kiện cụ thể của mình, các
nhà đầu tư có quyền lựa chọn các hình thức đầu tư thích hợp theo quy định của pháp
luật. Luật đầu tư năm 2005 phân chia các hình thức đầu tư thành hai nhóm là: đầu tư
trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
1.3.1. Các hình thức đầu tư trực tiếp
Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư mà ở đó nhà đầu tư nắm quyền quản trị
kinh doanh; người đầu tư vốn (chủ đầu tư) đồng thời là người sử dụng vốn. Theo
Luật đầu tư năm 2005, các hình thức đầu tư trực tiếp bao gồm:
* Đầu tư vòa tổ chức kinh tế (thành lập hoặc góp vốn)
Đầu tư vào các tổ chức kinh tế có nội dung là việc nhà đầu tư bỏ vốn thành
lập mới các cơ sở kinh doanh hoặc góp vốn vào vốn điều lệ để nắm quyền quản trị
của cơ quan kinh doanh đang hoạt động. Theo quy định hiện hành, đầu tư vào tổ
chức kinh tế bao gồm các nhóm hình thức đầu tư chủ yếu sau:
- Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư. Thuộc nhóm hình thức
đầu tư này bao gồm: doang nghiệp tư nhân, công ty TNHH một thành viên (do một
cá nhân hoặc một tổ chức làm chủ sở hữu), hộ kinh doanh cá thể.

6


- Thành lập, góp vốn vào tổ chức kinh tế có sự hợp tác giữa nhiều nhà đầu tư.
Ở nhóm hình thức đầu tư này, nhà đầu tư có thể thành lập hoặc góp vốn vào công ty
hợp danh, công ty TNHH hai thành vbieen trở lên, công ty cổ phần, tổ hợp tác, hợp
tác xã và liên hiệp hợp tấc xã.
Trong nhóm hình thức đầu tư vào tổ chức kinh tế, hoạt động kinh doanh của
các nhà đầu tư được tiến hành thông qua tư cách pháp lý của các tổ chức kinh tế.

Ngoài việc tuân thủ các quy định của Luật đầu tư, việc thành lập, tổ chức hoạt động
của các tổ chức kinh tế còn chịu sự điều chỉnh của các quy định trong các văn bản
pháp luật về hình thức tổ chức kinh doanh.
* Đầu tư theo hợp đồng
Khác với hình thức đầu tư vào tổ chức kinh tế, ở nhóm hình thức đầu tư theo
hợp đồng, việc đầu tư vốn để kinh doanh của nhà đầu tư được tiến hành trên cơ sở
hợp đồng được giao kết giữa các nhà đầu tư hoặc giữa nhà đầu tư với Nhà nước (các
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền). Nhà đầu tư trực tiếp tiến hành hoạt động kinh
doanh với tư cách pháp lý của mình phù hợp với nội dung thỏa thuận trong hợp
đồng. Khi nhà đầu tư lựa chọn đầu tư theo hợp đồng, ngoài việc phải tuân thủ Luật
đầu tư, việc giao kết, thực hiện hợp đồng còn phải phù hợp với các quy định chung
về hợp đồng trong kinh doanh, thương mại. Theo quy định hiện hành, đầu tư theo
hợp đồng bao gồm các hình thức sau:
- Hợp tác kinh doanh (hợp doanh): Là hình thức đầu tư được thực hiện trên
cơ sở hợp đồng giao kết giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi
nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân. Hình thức hợp doanh có
thể là hợp tác song phương (hai bên) hoặc hợp tác đa phương (nhiều bên). Hình
thức hợp doanh có những đặc điểm cơ bản là: (i) Được thực hiện bằng hình thức
pháp lý là hợp đồng hợp tác kinh doanh; (ii) Các bên hợp doanh cùng nhau góp vốn
cùng nhau tiến hành hoạt động kinh doanh và phân chia kết quả kinh doanh theo
thỏa thuận trong hợp đồng; (iii) Các bên hợp doanh thực hiện hoạt động kinh doanh
với tư cách pháp lý của mình thay vì thành lập ra một pháp nhân kinh tế mới.
Cần lưu ý rằng các hợp đồng thương mại và hợp đồng giao nguyên lieeuh lấy
sản phẩm, hợp đồng mua bán hàng hóa trả chậm và các hợp đồng khác mà khong
thực hiện phân chia lợi nhuận hoặc kết quả kinh doanh đều không phải là hợp đồng
hợp tác kinh doanh theo quy định cuat Luật đầu tư. Tuy nhiên, trong quá trình kinh
doanh, các bên hợp doanh có thể thỏa thuận thành lập ban điều phối (điều hành) để
theo dõi, giám sát việc thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Ban điều phối hợp
đồng hợp tác kinh doanh không phải là đại diện pháp lý cho các bên hợp doanh.
- Đầu tư theo hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO) và hợp đồng xây

dựng - chuyển giao (BT): BOT, BTO và BT là những hình thức đầu tư thông qua
hợp đồng được ký giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư. Theo các
hợp đồng này, nhà đầu tư bỏ vốn để xây dựng, kinh doanh các công trình kết cấu hạ
tầng và chuyển giao cho Nhà nước theo những phương thức thanh toán, đền bù khác
nhau.
Các hình thức BOT, BTO và BT có ý nghĩa quan trọng trong việc thu hút
vốn đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng ( giao thông, sản xuất và kinh doanh điện,
7


cấp thoát nước, xử lí chất thải...). Thay vì phải đầu tư vốn xây dựng các công trình
kết cấu hạ tầng quan trọng, Nhà nước áp dụng những chính sách ưu đãi cho nhà đầu
tư để họ có được hệ thống cơ sở hạ tầng thông qua việc nhậ chuyển giao quyền sở
hữu các công trình từ nhà đầu tư, bằng những phương thức chuyển giao khác nhau.
Về mặt pháp lý, sự khác nhau chủ yếu giữa các hình thức đầu tư BOT, BTO
và BT thể hiện ở thời điểm chuyển giao quyền sở hữu công trình gắn với quyền
quản lý, vận hành, khai thác công trình của nhà đầu tư cho Nhà nước và phương
thức thanh toán, đền bù của Nhà nước cho nhà dầu tư. Trong hình thức BOT sau khi
xây dựng xong công trình nhà đầu tư quản lý và kinh doanh công trình trong một
thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý, hết thời hạn kinh
doanh, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình cho Nhà nước. Với hình
thức BTO sau khi xây dựng xong công trình, nhà đầu tư chuyển giao quyền sở hưu
công trình cho Nhà nước; nhà đầu tư được Nhà nước giành cho quyền kinh doanh
công trình trong thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. Ở
hình thức BT, sau khi xây dựng xong công trình, nhà đầu tư chuyển giao quyền sở
hữu công trình cho Nhà nước; nhà đầu tư được Nhà nước tạo điều kiện thực hiện dự
án khác để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.
* Đầu tư phát triển kinh doanh
Đầu tư phát triển kinh doanh là hình thức đầu tư theo đó, nhà đầu tư bỏ vốn
để mở rộng quy mô hoặc nâng cao năng lực hoạt động của cơ sở kinh doanh. Đầu tư

phát triển kinh doanh có vai trò quan trọng trong việc phát huy hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư hiện có đồng thời bổ sung vốn đầu tư mới, tạo nền tảng cho sự tăng
trưởng và phát triển bền vững của cơ sở kinh doanh. Đầy tư phát triển kinh doanh
bao gồm các hình thưc cụ thể là mở rộng quy mô, nâng cao công suất, năng lực kinh
doanh (thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện, các đơn vị trực thuộc...); đổi mới
công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm ô nhiễm môi trường.
* Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp, chi nhánh doanh
nghiệp.
sáp nhập doanh nghiệp là hình thức đầu tư được thực hiện thông qua việc chuyển
toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp bị sáp nhập
sang doanh nghiệp nhận sáp nhập đồng thowic hấm dứt sự tồng tại của doanh
nghiệp bị sáp nhập. Mua lại doanh nghiệp, chi nhánh doanh nghiệp là hình thức đầu
tư theo đó nhà đầu tư chuyển giao quyền sở hữu doanh nghiệp, chi nhánh doanh
nghiệp ó thanh toán. Từ phương diện luật cạnh tranh, sấp nhập và mua lại doanh
nghiệp là hành vi của doanh nghiệp thuộc nhóm hành vi tập trung kinh tế. Việc đầu
tư thông qua thực hiện sáp nhập và mua lại doanh nghiệp tiềm ẩn khả năng tạo lập
vị trí thống lĩnh, và cao nhất là vị trí độc quyền của doanh nghiệp trên thị trường
hàng hóa, dịch vụ; làm giảm chỉ số cạnh tranh, thậm chí triệt tiêu cạnh tranh của thị
trường. Vì lẽ đó, khi sáp nhập và mua lại doanh nghiệp, ngoài việc phải đáp ững các
điều kiện quy định bởi Luật đầu tư, các nhà đầu tư còn phải tuân thủ các quy định
của pháp luật cạnh tranh và các quy định háp luật có liên quan.
1.3.2. Các hình thức đầu tư gián tiếp
Như đã phân tích, sự khác nhau cơ bản giữa các hình thức đầu tư trực tiếp và
các hình thức đầu tư gián tiếp là mức độ phạm vi quản lý và kiểm soát của chủ đầu
8


tư đối với hoạt động kinh doanh. Trong các hình thức đầu tư gián tiếp, nhà đầu tư
không trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thhực hiện và sử dụng các
nguồn lực đầu tư. nhà đầu tư gián tiếp về cơ bản chỉ được hưởng các lọi ích kinh tế

từ hoạt động đầu tư. Các hình thức đầu tư gián tiếp bao gồm những hình thức phổ
biến như: đầu tư thông qua mua chứng khoán (cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các
giấy tờ có giấ khác); đầu tư thông qua quỹ đầu tư chứng khoán; đầu tư thông qua
ngân hàng, doanh nghiệp bảo hiểm...
1.4. Lĩnh vực và địa bàn đầu tư
Lĩnh vực, địa bàn đầu tư liên quan mật thiết tới chính sách của Nhà nước về
đảm bảo và khuyến khích đầu tư. Trong mỗi thời kỳ, việc ngăn cấm hay khuyến
khích đầu tư vào các địa bàn, lĩnh vực của nền kinh tế được pháp luật quy định cụ
thể phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội trong nước cũng như bối cảnh quốc tế.
Thông th]ơngf, lĩnh vực, địa bàn đầu tư được pháp luật quy định theo ba nhóm cơ
bản là: lĩnh vực cấm đầu tư, lĩnh vực đầu tư có điều kiện và lĩnh vực địa bàn khuyến
khích đầu tư.
Trong giai đoạn hiện nay, nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia và để phù hợp với
thông lệ quốc tế, Nhà nước Việt Nam cấm csac dự án đầu tư gây phương hại đến
quốc phồng, an ninh quốc gia lợi ích công cộng: gây phương hại đến di tích lịch sử,
văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam: gây tổn hại đến sức khỏe nhân
dân, làm hủy hoại tài nguyên, phá huuyr môi trường; các dự án xử phế thải độc hại
đưa từ bên ngoài vào Việt Nam; sản xuất các loại hóa chất độc hại hoặc sử dụng tác
nhân độc hại bị caamstheo điều ước quốc tế.
Trong một số lĩnh vực đầu tư có ảnh hưởng tới quốc phòng, an ninh quốc gia
và lợi ích kinh tế, xã hội quan trọng như tài chính, ngân hàng, văn hóa, báo chí. xuất
bản, giải trí... nhà đầu tư chỉ được thực hiện đầu tư với csac điều kiện cụ thể do
pháp luật quy định.
Bên cạch đó, nhằm thúc đẩy sự phát triển cân đối trong các lĩnh vực, địa bàn
của nền kinh tế quốc dân, thực hiện có hiệu quả của Luật đầu tư, Nhà nước đầu tư
vào các lĩnh vực và địa bàn nhất định. Việc xác định các dự án được nhiều ưu đãi
dựa trên nhiều yếu tố khác nhau (sản xuất hiệu quả công nghệ cao, sử dụng nhiều
loại lao động, xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển giáo dục đào tạo...).
Các địa bàn khuyến khích đầu tư, các dự án kuyến khích, đặc biệt khuyến
khích đầu tư, các lĩnh vực đầu tư có điều kiện được quy định bằng dánh mục cụ thể,

căn cứ vào quy hoạch, định hướng phát triển trong từng thời kỳ và cam kết quốc tế
về đầu tư.
2. KHÁI QUÁT VỀ LUẬT ĐẦU TƯ

2.1. Khái niệm về Luật đầu tư
Hoạt động đầu tư được xác định trong môi trường xác định. Môi trường đầu
tư bao gồm tập hợp các yếu tố có tác động, chi phối hoạt động đầu tư, trong đó có
pháp luật về đầu tư. Sự tồn tại và phát triển của hoạt động đầu tư chính là cơ sở thực
tiễn cho sự ra đời của pháp luật đầu tư. Thực tiễn cho thấy trong việc cạnh tranh thu
hút vốn đầu tư quốc tế các quốc gia đều chú trọng việc cải thiện môi trường đầu tư,

9


trong đó công việc được đặc biệt coi trọng là xây dựng và hoàn thiện chính sách,
pháp luật.
Luật đầu tư là một nội dung cơ bản trong chương trinnhf nghiên cứu và giảng
dạy pháp luật bậc. Tuy nhiên, cho đến nay khoa học pháp lý Việt Nam vẫn chưa có
một định nghĩa thống nhất về lĩnh vực pháp luật này. Về lí luận, từ quan điểm tiếp
cận hệ thống chính sách pháp luật.
Theo nghĩa rộng, luật đầu tư gồm tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động đầu tư.
các quan hệ đầu tư trải rộng trên nhiều giai đoạn, nhiều lĩnh vực của quá trình tổ
chức và triển khai hoạt dộng đầu tư, trong đó cơ bản phải kể đến là: quan hệ giữa
Nhà nước với nhà đầu tư trong quản lý hoạt động đầu tư; quan hệ giữa các nhà đầu
tư với nhau (trong hợp tác kinh doanh hay thành lập doanh nghiệp có nhều chủ sở
hữu); quan hệ giữa nhà đầu tư (với tư cách chủ sở hữu cơ sở kinh doanh) và người
quản lý cơ sở kinh doanh; quan hệ giữa nhà đầu tư và chủ thể khác (trong sử dụng
đất, thuê lao động, trong lĩnh vực tài chính, trong lĩnh vực bảo về môi trường...).
Các quan hệ này có sự khác nhau nhất định về cả tính chất nội dung và thành phần

chủ thể. Với đối tượng điều chỉnh như vậy, luật đầu tư là hệ thống các quy tắc xử
sự, do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình tổ chức và tiến hành hoạt động đầu tư. Từ quan điểm truyền thống
của lý luận pháp luật ở Việt nam, luật đầu tư theo nghĩa rộng là mọt lĩnh vực pháp
luật, bao gồm các quy phạm các chế định được quy định trong các văn bản pháp
luật thuộc nhiều nghành luật khác nhau (như luật hiến pháp, luật hành chính, luật
dân sự, luật môi trường...). Nói cách khac luật đầu tư theo nghĩa rộng là một lĩnh
vực pháp luật, chứa đựng quy phạm thuộc nhiều nghành luật khác nhau, điều chỉnh
quá trình tổ chức và tiến hành hoạt động đầu tư.
Theo nghĩa hẹp, đối tượng quy định của luật đầu tư là các quan hệ đầu tư
kinh doanh - một bộ phận của các quan hệ thương mại. Các quan hệ đầu tư kinh
doanh phát sinh trong quá trình các nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản khác
nhau để tạo lập cơ sở tiến hành các hoạt động đầu tư (boa gồm chuẩn bị đầu tư, thực
hiện và quản lý dự án đầu tư). Theo nghĩa này, có thể định nghĩa:
Luật đầu tư là hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc
thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức thực
hiện và quản lý thực hiện đầu tư kinh doanh.
Với cách hiểu về đầu tư kinh doanh như đã phân tích, luật đầu tư là một bộ
phận và có mối quan hệ chặt chẽ với các bộ phận cấu thành khác của luật thương
mại. Theo logic đó, các quy định nguyên tắc chung trong pháp luật dân sự và luật
thương mại có ảnh hưởng sâu sắc với luật đầu tư. Nội dung của luật đầu tư thể hiện
sự tiếp tục phát triển của luật dân sự và luật thương mại phù hợp với tính chất của
hoạt động đầu tư kinh doanh. Nếu như các quy định trong pháp luật dân sự truyền
thống là cơ sở pháp lý đảm bảo quyền sở hữu tài sản trong trạng thái "tĩnh" thì luật
đầu tư, với tư cách là một chế định của luật thương mại, là cơ sở pháp lý để đảm
bảo quyền sở hữu tài sản trong trạng thái "động".
Các chế định của pháp luật thương mại có sự khác nhau nhất định về chức
năng và nội dung cụ thể. Chế định thương nhân quy định các vấn đề về tổ chức
10



(thành lập, quản trị, tổ chức lại, giải thể) của các hình thức thương nhân, mà chủ yếu
là các loại hình doang nghiệp. Chế định mua bán hàng hóa và cung cấp dịch thương
mại, với chức năng cơ bản là đảm bảo sự tự do và bình đẳng trong giao lưu thương
mại, quy định các vấn đề về hình thức và nội dung của quan hệ mua bán hàng hóa
và cng cấp dịch vụ trong thương mại. Trong khi đó luật đầu tư quy định những vấn
đề pháp lý cho những quy định chuẩn bị, thực hiện và quản lý dự án đầu tư. Với
chức năng cơ bản là đảm bảo an toàn pháp lý cho hoạt động đầu tư vốn vào kinh
doanh, luật đầu tư có nội dung chủ yếu là các quy định về những vấn đề sau:
- Hình thức đầu tư;
- Lĩnh vực và địa bàn đầu tư;
- Quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư;
- Quy trình, thủ tục và triển khai dự án đầu tư;
- Bảo đảm, khuyến khích và ưu đãi các nhà đầu tư;
- Quản lý Nhà nước về đầu tư;
Trong giáo trình này, luật đầu tư được tiếp cận nghiên cứu theo nghĩa hẹp,
đặt trên khuôn khổ hệ thống lý luận và thực tiễn của luật thương mại. Tuy nhiên,
việc phân biệt phạm vi, đối tượng điều chỉnh của luật đầu tư theo nghĩa rộng và
nghĩa hẹp chỉ có tính chất tương đối. Hệ thống pháp luật điều chỉnh đầu tư là một
chỉnh thể thống nhất. các bộ phận cấu thành pháp luật về đầu tư, dù được xác định
trên nguyên tắc nào, luôn có mối liên hệ chặt chẽ và thống nhất với nhau về mặt nội
dung.
2.2. Đối tượng và phương pháp điều chỉnh của luật đầu tư
Đối tượng điều chỉnh của luật đầu tư là các quan hệ đầu tư kinh doanh. Bản
chất của các quan hệ đầu tư là một loại quan hệ xã hội, phát sinh trong lĩnh vực đầu
tư. Quan hệ đầu tư diễn ra giữa các chủ thể trong quá trình huy động và sử dụng các
nguồn lực vào sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế cũng như toàn
xã hội. Các quan hệ này khi được điều chỉnh bởi pháp luật thì trở thành quan hệ
pháp luật đầu tư.
Xét từ góc độ lý luận pháp luật, quan hệ pháp luật đầu tư là các quan hệ xã

hội phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình thực hiện các hoạt động đầu tư và
được điều chỉnh bởi luật đầu tư. Trong điều kiện kinh té thị trường, các quan hệ đầu
tư ngày càng phong phú, đa dạng về nội dung, hình thức cũng như thành phần chủ
thể. Dựa vào nội dung và chủ thể của quan hệ pháp luật đầu tư, có thể chia quan hệ
pháp luật đầu tư thành hai nhóm chủ yếu là:
Thứ nhất, quan hệ pháp luật đầu tư phát sinh giữa các nhà đầu tư trong quá
trình tổ chức thực hiện hoạt động đầu tư (quan hệ pháp luật đầu tư theo chiều
ngang). Ví dụ: quan hệ phát sinh giữa các tổ chức, cá nhân trong quá trình góp vốn
thành lập doanh nghiệp (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp
danh...); quan hệ phát sinh giữu các tổ chức, cá nhân trong việc hợp tác kinh doanh
trên cơ sở hợp đồng, thực hiện dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng xây dựng kinh dsonh - chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh
(BTO)... Quan hệ pháp luật đầu tư giữa các nhà đầu tư là đối tượng điều chỉnh chủ
11


yếu của luật đầu tư. Nhóm quan hệ đầu tư này có những đặc điểm pháp lý cơ bản
sau:
- Phát sinh trực tiếp trong quá trình thực hiện hoạt động đầu tư của các nhà
đầu tư;
- Chủ thể là các nhà đầu tư có tư cách chủ thể pháp lý độc lập, bình đẳng với
nhau;
- Về nội dung, các quan hệ đầu tư là quan hệ tài sản; quyền và nghĩa vụ của
các bên luôn gắn liền với đối tượng là các nguồn lực đầu tư;
- Về hình thức pháp lý, các quan hệ đầu tư được thực hiện thông qua hình
thức pháp lý chủ yếu là hợp đồng giao kết giữa các nhà đầu tư hoạc điều lệ của
doanh nghiệp.
Với tính chất về chủ thể và nội dung như trên, các quan hệ đầu tư theo chiều
ngang được điều chỉnh chủ yếu bằng phương pháp của luật đầu tư- phương pháp
dân sự. theo phương pháp này, luật đầu tư tạo cho các nhà đầu tư khả năng và điều
kiện để tự do sáng tạo và thỏa thuận. Việc sử dụng hay không và đến mức nào của

sự tự do và bình đẳng sẽ phụ thuộc vào ý chí riêng của từng chủ thể quan hệ pháp
luật đầu tư. Việc một nhà đầu tư quyết định đầu tư hay không? mức vốn bao nhiêu?
có ký hợp đồng với một đối tác nào đó hay không và với nội dung ra sao? điều đó
họ tự quyết định. . Với phương pháp điều chỉnh của luật đầu tư, những thỏa thuận
hợp pháp giữa các nhà đầu tư với nhau sẽ trở thành ", "luật riêng" ràng buộc các chủ
thể của quan hệ đầu tư. Một nhà đầu tư quyết định thành lập một doanh nghiệp thì
mọi quy định phát sinh từ việc đầu tư sẽ được áp dụng đối với nmhaf đầu tư đó; một
nhà đầu tư đã tự do thỏa thuận và ký một hợp đồng nào đó thì toàn bộ nội dung đã
cam kết hợp pháp sẽ trở thành bắt buộc đối với nhà đầu tư và không ai ngoài các
bên tham gia hợp đồng được tự do sửa đổi, bổ sung hay giải thích nội dung của hợp
đồng.
Thứ hai: Quan hệ pháp luật đầu tư phát sinh giữa các nhà đầu tư và các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền. Nhóm quan hệ đầu tư này phát sinh trong quá trình
thực hiện chức năng quản lý của Nhà nước đối với hoạt động đầu tư (quan hệ pháp
luật đầu tư theo chiều dọc); Ví dụ: quan hệ phát sinh giữa các nhà đầu tư với cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền trong quá trình xem xét và cấp giấy chứng nhận đầu
tư; trong quá trình thanh tra hoạt động đầu tư và xử lý vi phạm... Quan hệ pháp luật
đầu tư theo chiều dọc có đặc điểm pháp lý cơ bản sau:
- Phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý Nhà nước về đầu tư;
- Về chủ thể, nhóm quan hệ này luôn luôn tồn tại theo nhóm chủ thể coa vị
trí pháp lý khác nhau (không bình đẳng): một bên là cơ quan quản lý Nhà nước về
đầu tư; một bên là các nhà đầu tư;
- Cơ sở pháp lý làm phát sinh các nhóm quan hệ này là các văn bản quản lý
do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Với tính chất nội dung và chủ thể của quan hệ pháp luật đầu tư theo chiều
dọc, luật đầu tư cần thiết phải sử dụng cả phương pháp điều chỉnh của luật công phương pháp hành chính. Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường, luôn đòi

12



hỏi Nhà nước phải có những điều tiết, định hướng và khuyến khích phát triển đầu tư
và trong chừng mực như vậy, những quan hệ đầu tư theo chiều dọc khó có thể điều
chỉnh bằng phương pháp dân sự. Với sự can thiệp của công quyền và hoạt động đầu
tư, dù ở mức độ và hình thức nào, cũng cần được điều chỉnh bằng phương pháp
hành chính. Không thể có sự thoả thuận của nhà đầu tư với cơ quan quản lý Nhà
nước về cấp chứng nhận hay điều kiện đầu tư về xử lý vi phạm pháp luật trong đầu
tư... Khi điều chỉnh csc quan hệ đầu tư bằng phương pháp hành chính, luật đầu tư
coi là một lĩnh vực của pháp luật công mà theo đó, giữa các chủ thể của quan hệ
pháp luật không có sự bình đẳng, không được tự do thỏa thuận về nội dung cũng
như hình thức quan hệ pháp luật đã được pháp luật ghi nhận và mô tả.
2.3. Chủ thể của luật đầu tư
2.3.1. Các chủ thể của luật đầu tư
Một trong những đặc trưng của quan hệ pháp luật nói chung và quan hệ đầu
tư nói riêng là tính xác định về cơ cấu chủ thể. Xuất phát từ tính chất của hoạt động
đầu tư, để bảo vệ lợi ích của các cá nhân, tổ chức của toàn thể xã hội, pháp luật quy
định những chủ thể đáp ứng các điều kiện tham gia các quan hệ đó. Các chủ thể đáp
ứng các điều kiện do pháp luật quy định để tham gia quan hệ đầu tư được coi là có
năng lực chủ thể của pháp luật đầu tư (năng luật pháp luật và năng lực hành vi).
Chủ thể cơ bản của quan hệ pháp luật đầu tư là nhà đầu tư và các cơ quan quản lý
Nhà nước về đầu tư.
* Nhà đầu tư:
Trước khi ban hành luật đầu tư năm 2005, đối tượng nhà đầu tư ( chủ thể của
quan hệ đầu tư) được quy định không giống nhau giữa đầu tư trong nước và đầu tư
nước ngoài. Đối với các quan hệ đầu tư trong nước, chủ thể quan hệ đầu tư đươch
quy định trong nhiều văn bản pháp luật (Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa
đổi) năm 1998, Luật doanh nghiệp Nhà nước năm 2003, Luật hợp tác xã năm 2003,
Luật doanh nghiệp năm 1999 và các văn bản hướng dẫn thi hành). Theo đó cho
thấy, chủ thể của các quan hệ pháp luật đầu tư trong nước có phạm vi rất rộng, bao
gồm các tổ chức, cá nhân không bị cấm đầu tư vốn để kinh doanh và các cơ quan
quản lý Nhà nước có thẩm quyền. Đối với đầu tư nước ngoài, chủ thể của quan hệ

đầu tư trực tiếp nước ngoài được quy định trong luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tham gia quan hệ đầu tư trực tiếp nước
ngoài do luật đầu tư nước ngoài điều chỉnh: các doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi
thành phần kinh tế; bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu trong lĩnh vực công
nghệ, khoa học kỹ thật, khoa học tự nhiên; Nhà đầu tư nước ngoài (gồm tổ chức
kinh tế nước ngoài và cá nhân nước ngoài; Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
(gồm doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài); các
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ký hợp đồng BOT, BTO và BT (bao gồm các bộ
phận, cơ quan thuộc Chính phủ, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương).
Theo luật đầu tư năm 2005, chủ thể nhà đầu tư trong quan hệ pháp luật đầu
tư đươc mở rộng và quy định thống nhất giữa đầu tư trong nước và đàu tư nước
ngoài. Nhà đầu tư được hiểu là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư theo
quy định của pháp luật Việt Nam, bao gồm:
13


- Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế lập theo Luật doang nghiệp;
- Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập theo Luật hợp tác xã;
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập trước khi luật này
có hiệu lực;
- Hộ kinh doanh, cá nhân;
- Tổ chức, các nhân nước ngoài: người Việt Nam định cư ở nước ngoài;
người nước ngoài thường trú ở Việt Nam;
- Các tổ chức khác theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Quy định về nhà đàu tư theo Luật đầu tư năm 2005 thể hiện quan điểm
không phân bệt đối xử giữ các nhà đầu tư thuộc các hình thưc sở hữu, các thành
phần kinh tế khác nhau, không phân biệt quốc tịch của nhà đầu tư. Đây là cơ sở
đảm bảo quyền tự do và sự bình đẳng giữa các nhà đầu tư, đáp ứng yêu cầu đảm
bảo và khuyến khích đầu tư trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

* Cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư
Đêt thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về đầu tư, Nhà nước phải thông
qua các cơ quan Nhà nước khác nhau, với sự phân công, phân cấp, về thẩm quyền
quản lý cho từng cơ quan một cách phù hợp. Theo Luật đầu tư năm 2005, trách
nhiệm quản lý Nhà nước về dầu tư được phân cấp như sau:
- Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về đầu tư trong phạm vi cả nước.
- Bộ kế hoạch và đầu tư chịu trách nhiệm trước chính phủ thực hiện quản lý
Nhà nước về hoạt động đầu tư.
- Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
trách nhiệm thực hiện quản lý Nhà nước về đầu tư đối với lĩnh vực được phân công.
- Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm thực hiện quản lý Nhà nước về
đầu tư trên địa bàn theo phân cấp của Chính phủ.
Khi xem xét tư cách chủ thể của cơ quan Nhà nước trong các quan hệ pháp
luật đầu tư, cần phân biệt hoạt động quản lý Nhà nước về đầu tư với hoạt động đầu
tư vốn để kinh doanh của Nhà nước. Khi Nhà nước đầu tư vốn để kinh doanh, Nhà
nước có tư cách của một nhà đầu tư có tổ chức. Nhà nước (thông qua các cơ quan,
tổ chức của công chức Nhà nước) phải tuân thủ pháp luật về đầu tư và được đối xử
bình đẳng với các nhà đầu tư khác trong xã hội.
2.3.2. Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư
Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư là một nội dung cơ bản của pháp luật đầu
tư. Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư được ghi nhận bởi pháp luật. Trong quá trình
hoạt động đầu tư, trên cơ sở pháp luật, nhà đầu tư còn có thể tạo ra các quyền và
nghĩa vụ cho mình, gắn với những quan hệ đầu tư cụ thể
Luật đầu tư năm 2005 quy định (ở mức độ nguyên tắc) những quyền và
nghĩa vụ cơ bản của nhà đầu tư. Ngoài ra, gắn với từng dự án đầu tư các quyền và
nghĩa vụ cụ thể của nhà đầu tư được quy định trong các văn bản pháp luật thuộc các
lĩnh vực khác nhau: pháp luật về tổ chức doanh nghiệp, pháp luật về pháp luật lao
14



động, pháp luật về đất đai, Tài nguyên, pháp luật về thuế, pháp luật về quản lý ngoại
hối, pháp luật về bảo vệ môi trường...
2.4. Nguồn của luật đầu tư
Nguồn của luật đầu tư là các văn quy phạm pháp luật hoặc tập quán, chứa
đựng các quy phạm pháp luật về đầu tư. Trong thực hiện tiễn điều chỉnh pháp luật
về đầu tư hiện nay, nguồn cơ bản của pháp luật đầu tư là các điều ước Quốc tế và
pháp luật quốc gia.
2.4.1. Các văn bản pháp luật quốc gia
Các văn bản Pháp luật đầu tư do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tồn tại
dưới nhiều hình thức, tên gọi, thứ bậc hiệu lực của các văn bản pháp luật nói chung
và các văn bản pháp luật về đầu tư nói riêng được quy định trong Luật ban hành văn
bản pháp luật. Trong các văn bản pháp luật.trong các văn bản pháp luật hiện hành
về đầu tư ở Việt Nam, Luật đầu tư năm 2005 là nguồn cơ bản của Luật đầu tư năm
2005 là nguồn cơ bản của Luật đầu tư. Cần lưu ý, đối với hoạt động đầu tư nước
ngoài có thể được áp dụng theo nhữngđiều kiện nhất định.
2.4.2. Điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế về đầu tư là thỏa thuận giữa các chủ thể của công pháp quốc tế (
chủ yếu là quốc gia) nhằm thiết lập những nguyên tắc pháp lý bắt buộc để xác định,
thay đổi hoặc hủy bỏ quyền và nghĩa vụ với nhau trong lĩnh vực đầu tư. Điều ước
quốc tế có giá trị áp dụng trên toàn lãnh thổ của tất cả các quốc gia tham gia điều
ước. Các văn bản pháp luật quốc gia được ban hành phải có nội dung phù hợp với
điều ước. Về nguyên tắc chung, trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của pháp
luật một quốc gia với điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên, các quy định
của điều ước sẽ được áp dụng. Nguuyeen tắc này cũng được ghi nhận theo luật đầu
tư của Việt Nam.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa về kinh tế, các điều ước quốc tế về đầu tư được
các nước sử dụng như là một công cụ quan trọng để tạo môi trường hấp dẫn cho đầu
tư nói chung và đầu tư trực tiếp nói riêng. Không ngoài xu hướng đó, trong nhiều
năm qua Việt Nam đã không ngừng quan hệ hợp tác đầu tư với nhiều quốc gia trên
thế giới. Các điều ước quốc tế về đầu tư mà Việt Nam kí hoặc tham gia ngày càng

nhiều. Đến nay, Việt Nam đã kí kết gần 50 hiệp định (song phương hoặc đa
phương) về khuyến khích và bảo hộ đầu tư, như: Hiệp định về thúc đẩy và bảo hộ
đầu tư lẫn nhau giữa Việt Nam và Australia ngày 05/3/1991; Hiệp định giữa chính
phủ cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chính phủ vương quốc Thái Lan về
khuyến khích và bảo hộ đầu tư ngày 30/10/1991; Hiệp định giữa chính phủ cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Cộng hòa liên bang Nga về khuyến
khích và bảo hộ đầu tư ngày 16/6/1994; Hiệp định giữa chính phủ cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Cộng hòa Hiệp định giữa chính phủ cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về khuyến
khích và bảo hộ đầu tư ngày 02/12/1994; Hiệp định khung về khu vực ASEAN
(Asean Investmet Agreement) - năm 1998; Hiệp định thương mại song phương Việt
nam - Hoa Kỳ ngày 23/7/2000 (chương IV quy định về phát triển quan hệ đầu tư);
Hiệp định giữa chính phủ cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Nhật
bản về khuyến khích và bảo hộ đầu tư ngày 14/11/2003...
15


2.4.3. Tập quán về đầu tư
Ngoài các văn bản pháp luật quốc gia và điều ước quốc tế, thực tiễn phát
triển của pháp luật về đầu tư còn biết đến nguồn tập quán. Tập quán về đầu tư
thường được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ đầu tư khi các mối quan hệ này
không được điều chỉnh bởi hợp đồng giữa các bên hoặc điều ước quốc tế và các văn
bản pháp luật của các quốc gia, Tuy vậy, trong bối cảnh hiện nay, tập quán không
phải là nguồn phổ biến của luật đầu tư trên cả bình diện quốc gia và quốc tế. Theo
Luật đầu tư năm 2005 của Việt Nam, nguồn tập quán được giới hạn ở tập quán quốc
tế về đầu tư và chier được áp dụng đối với hoạt động đầu tư nước ngoài theo những
điều kiện nhất định.
2.5. Khái quát lịch sử phát triển của luật đầu tư ở Việt Nam
Điều kiện lich sử đã tạo nên sự ra đời muộn và chậm phát triển của pháp luật
vè đầu tư kinh doanh ở Việt Nam. Sau khi giành được chính quyền năm 1945, chủ

trương của Đảng cộng sản Việt Nam là "kháng chiến kiếm quốc": nhiệm vụ của
Nhà nước ta là Bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia
trên nền tảng dân chủ". Trong điều kiện lịch sử, chính trị hết sức khó khăn nhưng
Nhà nước ta đã có sự quan tâm nhất định đến việc tạo cơ sở pháp lý cho lĩnh vực
đầu tư thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Cùng với việc cho phép sự tồn tại và
hoạt động của các doanh nghiệp từ chế độ cũ, các văn bản được phát hành trong
thời kỳ đầu còn xây dựng chính quyền còn quy định hoạt động đầu tư của Nhà nước
thành lập các đơn vị kinh tế quốc doanh. Bên cạnh đó, để thúc đẩy đầu tư phù hợp
với cơ chế kinh tế nhiều thành phần, Nhà nước còn cho phép đầu tư thành lập các
đơn vị kinh doanh với sự hợp tác đầu tư vốn của cả Nhà nước và tư nhân. Xuất phát
từ điều kiện kinh tế , chính trị và xã hội thời kỳ này, pháp luật về đầu tư thể hiện
tính ổn định không cao; chưa có văn bản pháp luật do cơ quan quyền lực Nhà nước
ban hành quy định về đầu tư.
Trong thời kỳ trước 1975 ở miền Bắc và từ 1975 đến 1986 trên phạm vi cả
nước, Đảng và Nhà nước chủ trương xây dựng nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế
hoạch hóa tập trung với hai thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế quốc doanh và
kinh tế tập thể. Các đơn vị kinh tế thời kỳ này được tổ chức với hai loại hình là các
tổ chức kinh tế quốc doanh (với rất nhiều tên gọi khác nhau như xí nghiệp công
nghiệp quốc doanh, xí nghiệp liên hợp và liên hiệp các xí nghiệp...) và các hợp tác
xã, gọi chung là tổ chức kinh tế xã hội chủ nghĩa. Để điều chỉnh hoạt động đầu tư
vào các tổ chức kinh tế này, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật. Tuy
nhiên, với sự chi phối của kế hoạch Nhà nước trong cơ chế kinh tế kế hoach hóa tập
trung, pháp luật về đầu tư không thực sự là quan trọng nhất trong điều tiết kinh tế
nói chung và điều chỉnh hoạt động đầu tư nói riêng. Về mặt pháp lý, hoạt động đầu
tư của khu vực kinh tế tư nhân không được thừa nhận trong giai đoạn này.
Hệ thống pháp luật về đầu tư của Việt Nam chỉ thực sự được quan tâm xây
dựng trong những năm thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986 đã đánh dấu một
bước ngoặt quan trọng trong chiến lượ phát triển kinh tế với quyết định phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa. Với quan điểm huy động tối đa các nguồn lực để phát triển kinh
16


tế, pháp luật về đầu tư của Việt Nam đã từng bước được xây dựng và hoàn thiện
theo hướng ngày càng đảm bảo hành lang pháp lý an toàn, thông thoáng cho các
nhà đầu tư bỏ vốn kinh doanh. Đối với hoạt động đầu tư thuộc thành phần kinh tế
Nhà nước, Quyết định số 217/HĐBT ngày 14/11/1987 là văn bản đầu tiên cụ thể
hóa Nghị quết Đại hội Đẩng khóa VI về chuyển hoạt động của các đơn vị cơ sở kinh
tế quốc doanh sang hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, thực hiện chế độ tự chủ
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước. Sau đó, trên cơ sở quan điểm của
Đẩng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định về đầu tư của Nhà
nước trong điều kiện mới, như: Nghị định số 50/HĐBT ngày 22/3/1988 ban hành
điều lệ xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, Nghị định số 27/HĐBT ban hành điều lệ
về liên hiệp xí nghiệp...
Với cơ chế kinh tế thị trường, mà giai đoạn đầu là kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, một yêu cầu có tính nguyên tắc cơ bản là phải đảm bảo quyền tự do và
sự bình đẳng trong đầu tư kinh doanh, trong đó nhệm vụ quan trọng đặt ra là phải
mở rộng quyền đầu tư cho các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế. Đáp ứng yêu
cầu đó, từ quan điểm quản lý kinh tế bằng pháp luật được khẳng định trong Hiến
pháp năm 1992. Nhà nước ta đã ban hành và từng bước xây dựng, haonf thiện các
văn bản pháp luật mới về đầu tư như: Luật công ty và Luật công nghiệp tư nhân
năm 1990 (đã được thay thế bởi Luật doanh nghiệp năm 1999 và sau này là Luật
doanh nghiệp năm 2005); Luật doanh nghiệp Nhà nước năm 1995 (đã được thay thế
bởi Luật doanh nghiệp Nhà nước năm 2003); Luật hợp tác xã năm 1996 (đã được
thay thế bởi Luật hợp tác xã năm 2003), Luật khuyến khích đầu tư năm 1994 (đã
được thay thế bởi Luật sửa đổi Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1998),
Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 ban hành kèm theo Quy chế quản lý
đầu tư và xây dựng... Các văn bản pháp luật này, cùng với các văn bản hướng dẫn
thi hành và các văn bản pháp luật có liên quan, đã tạo thành một pháp luật về đầu tư

với phương pháp, nội dung điều chỉnh mới, quy định các vấn đề pháp lý về đầu tư
trong nền kinh tế thị trường trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản như tự do, bình đẳng,
cạnh tranh lành manhjv. v...Các quy định này đã góp phần không nhỏ vào việc tăng
cường hiệu quả vốn đầu tư trong thời gian qua. Kể từ khi có Luật khuyến khích đầu
tư trong nước năm 1994, số lượng dự án đầu tư gia tăng không ngừng, số lượng vốn
tư nhân đa vào đầu tư và số việc làm mới được tạo ra ngày càng nhiều. Qua 9 năm
thực hiện Luật này, đã có trên 1,5 triệu chỗ làm mới được tạo ra nhờ các dự án được
cấp giấy ưu đãi đầu tư. Riêng khu vực kinh tế dân doanh, đã tạo ra hơn một triệu
việc làm trực tiếp và hàng nghìn việc làm gián tiếp khác. Tuy nhiên bên cạnh những
thành tựu đã đạt được, còn không ít những tồn tại chưa giải quyết, như về hỗ trợ
mặt bằng sản xuaatskinh doanh cho doanh nghiệp, về thu tục hành chính, về phân
cấp đầu mối cơ quan quản lý đầu tư...
Cùng với chủ trương huy động tối đa nguồn lực trong nước, Đảng và Nhà
nước ta đòng thời thực hiện chính sách tăng cường hợp tác kinh tế quốc tế. Trong
việc tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại, việc mở rộng thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài là một hướng ưu tiên quan trọng. Ngày 29/12/1987, tại kỳ họp thứ hai
khóa VII, Quốc hội đã thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Qua gần 20
năm đổi mới, hệ thống pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam đã
được hoàn thiện từng bước. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được sửa đổi
17


bổ sung vào các năm 1990, 1992. Năm 1996, Luật đầu tư nước ngoài mới tại Việt
Nam được thông qua, thay thế cho Luật năm 1987 và các văn bản luật sửa đổi, bổ
sung năm 1990, 1992. Ngày 09/6/2000, Việt Nam tiếp tục ban hành Luật sửa đổi bổ
sung một số điều Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 (Luật này có hiệu
lực từ ngày 01/7/2000). Trên cơ sở Luật đầu tư nước ngoài, Chính phủ và các bộ,
nghành đã ban hành một số lượng lớn các văn bản hướng dẫn thi hành, tạo thành hệ
thống pháp luật về đầu tư nước ngoài, điều chỉnh khá toàn diện hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. So với pháp luật của nhiều nước khác trong khu

vực, pháp luật hiện hành về luật đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam được
đánh giá là khá thông thoáng, cởi mở và có tính chất hấp dẫn đối với các nhà đầu tư
nước ngoài. Tuy nhiên, trước yêu cầu tăng cường hội nhập kinh tế khu vực và quốc
tế, mà trực tiếp nhất là thực hiện các thỏa thuận trong hiệp định đầu tư khu vực
ASEAN, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, pháp luật về đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Việt Nam đã bộc lộ nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Sự chưa hoàn
thiện và thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật về đầu tư nói riêng và của toàn bộ hệ
thống pháp luật điều chỉnh các hoạt động kinh doanh nói chung là trở ngại lớn nhất
đối với đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, Việc tăng cường hợp tác kinh tế quốc tế
tạo ra cho Việt Nam nhiều cơ hội và cả thách thức. Pháp luật về đầu tư của Việt
Nam đứng trước yêu cầu phải vận động theo xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, phù
hợp với pháp luật về đầu tư thế giới. Trước yêu cầu đó, Việt Nam đã không ngừng
hoàn thiện môi trường pháp lý về đầu tư. Trong nhều nỗ lực nhằm cải thiện môi
trường đầu tư của Việt Nam thời gain qua, tâm điểm phải kể đến là việc Quốc hội
thông qua Luật đầu tư ngày 29/11/2005. Việc ban hành Luật đầu tư năn 2005 là một
bước tiến lớn trong sự phát triển của pháp luật đầu tư hướng vào việc tạo cơ sở pháp
lý bình đẳng, thống nhất trong khuyến và đảm bảo đầu tư tại Việt Nam.
3. KHOA HỌC LUẬT ĐẦU TƯ VÀ HỆ THỐNG LUẬT MÔN LUẬT ĐẦU TƯ

3.1. Khoa học luật đầu tư
Khoa học Luật đầu tư là một nghành khoa học nghiên cứu các quy phạm
pháp luật đầu tư bao gồm những khái niệm, quan điểm, phạm trù về những vấn đề
khác nhau của luật đầu tư, trong đó có những nội dung cơ bản sau:
- Bản chất, sự hình thành phát triển và cơ sở khoa học của các quy phạm ,
các chế định của luật đầu tư;
- Nội dung, đặc điểm của các quan hệ pháp luật đầu tư;
- Mối quan hệ biện chứng giữa đầu tư và pháp luật đầu tư;
- Thực tiễn áp dụng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cuar pháp luật đầu
tư.
Khoa học luật đầu tư có vị trí là một nhánh của khoa học luật thương mại và

có mối quan hệ chặt chẽ với các môn học pháp lý khác như: khoa học luật dân sự,
khoa học luật hành chính... Khoa học luật đầu tư cũng có mối quan hệ mật thiết với

18


khoa học kinh tế. Khoa học luật đầu tư nghiên cứu lý luận, cách thức thể hiện nội
dung kinh tế của hoạt động đầu tư về mặt pháp lý.
3.2. Hệ thống môn học luật đầu tư
Nội dung của môn học luật đầu tư được xây dựng dựa trên cơ sở những
thành tựu nghiên cứu của khoa học luật đầu tư và nội dung của hệ thóng pháp luật
thực định về đầu tư. với những nội dung cơ bản của khoa học luật đầu tư và hệ
thống pháp luật đầu tư như đã trình bày, để thực hiện nhiệm vụ của mình, môn học
Luật đầu tư tại Trường Đại học Vinh được xây dựng với những nội dung cụ thể sau
đây:
- Những vấn đề chung về luật đầu tư;
- Thủ tục đầu tư và triển khai dự án đầu tư;
- Các biện pháp đảm bảo và khuyến khích đầu tư;
- Quy chế pháp lý về khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghiệp cao và
khu kinh tế;
- Hoạt động đầu tư ra nước ngoài;
- Đầu tư, kinh doanh vốn Nhà nước;
- Một số vấn đề cơ bản về luật đầu tư quốc tế.
Nội dung môn học Luật đầu tư bám sát thực tiễn về đầu tư ở Việt Nam. Pháp
luật về đầu tư ở Việt Nam đã có quá trình hình thành và phát triển trải qua nhiều
giai đoạn, với những điều kiện khác nhau về chính trị, kinh tế và xã hội. Trong bối
cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, với vị trí là bộ
phận cấu thành cơ bản của lĩnh vực pháp luật năng động nhất - pháp luật thương
mại, pháp luật về đầu tư sẽ còn có những thay đổi cả về nội dung và kỹ thuật luật
pháp trước đòi hỏi của thực tiễn kinh doanh. Cùng với sự không ngừng của hệ thống

pháp luật về đầu tư, hệ thống môn học luật đầu tư sẽ tiếp tục được bỏ sung, hoàn
thiện.

Câu hỏi ôn tập chương I
1. Phân tích đối tượng, phương pháp điều chỉnh của Luật đầu tư năm 2005.
2. Trình bày các loại chủ thể của Luật đầu tư?
3. Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư
4. Trình bày nguồn của Luật đầu tư

19


CHƯƠNG 2
QUY TRÌNH, THỦ TỤC ĐẦU TƯ, TRIỂN KHAI DỰ ÁN ĐẦU TƯ
1. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI DỰ ÁN ĐẦU TƯ

Hoạt động đầu tư là hoạt động của nhà đầu tư ntrong quá trình đầu tư bao
gồm các khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý đầu tư. Như vậy, hoạt động đầu
tư luôn gắn liền với dự án đàu tư. Nói cách khác, dự án đầu tư là biều hiện cụ thể
của hoạt động đầu tư. Vì vậy, việc tìm hiểu những vấn đề pháp lý về hoạt động đầu
tư thực chất là việc tìm hiểu quy trình, thủ tục đầu tư và triển khai dự án đầu tư mà
trước hết phải tìm hiểu khái niệm dự án đầu tư. Việc tìm hiểu vấn đề này có ý nghĩa
rất quan trọng trong việc nhận diện được dấu hiệu pháp lý của một dự án đầu tư
cũng như nhận thấy được cơ chế điều chỉnh của pháp luật đối với mội dự án đầu tư.
1.1. Khái niệm dự án đầu tư
Thuật ngữ "Dự án" (Projeect) dùng để chỉ một kế hoạch chi tiết và thận trọng
do một chủ thể lập ra để thực hiện một công việc nào đó trong khoảng thời gian
nhất định nhằm đật được hiểu kết quả mà chủ thể đó mong muốn. Trong một lĩnh
vực của đời sống kinh tế - xã hội đều có csac dự án song hay gặp nhất là các dự án
trong lĩnh vực đầu tư.

Khía niệm dự án đầu tư được ghi nhận tại Luật đầu tư năm 2005, theo đó:
"Dự án đầu tư là tập hợp các vấn đề xuất bỏ vốn trung và dài hạn để tiến
hành các hoạt động đầu tư trên địa bàn cụ thể, trong khoảng thời gian xác định".
Từ định nghĩa trên, chúng ta có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của một dự
án đầu tư là:
- Nội dung của dự án đầu tư chỉ mang tính đề xuất. Hay nói cách khác, đó là
những kế hoạch tương lai của một hoạt động đầu tư. Những kế hoạch, đề xuất đó dù
được xây dựng dựa trên những cơ sở khoa học và thực tiễn vững chắc đến đâu thì
vẫn mang dấu ấn chủ quan của nhà đầu tư, do đó không thể loại trừ hoàn toàn yếu tố
rủi ro. Đây là điều cần hết sức chú ý trong khi lập và triển khai các dự án.
- Dự án đầu tư luôn xác định về mặt không gian và thời gian. Một dự án đầu
tư dù quy mô nhỏ hay lớn đều nằm trên một địa bàn cụ thể và có thời gian tiến độ
thực hiện cụ thể , không có một dự án đầu tư nào không nằm trên một địa bàn cụ
thể và vô thời hạn. Việc xác định địa bàn và thời gian, tiến đọ cụ thể là yêu cầu bắt
buộc để dự án được đầu tư, xây dựng vân hành đúng kế hoạch và đạt mục tiêu đề ra
đồng thời làm căn cứ để kiểm tra, đánh gí hiệu quả của dự án. Vì vậy, tất cả các
khâu, các bước triển khai dự án đều phải đảm bảo yêu cầu này. Tuy nhiên có mọt
vấn đề khó hiểu khi Luật đầu tư quy định, dự án đầu tư là tập hợp các đề xuất bỏ
vốn trung và dài hạn. Vạy phải chăng những dự án tập hợp các đề xuất việc bỏ vốn
ngắn hạn, tức là các dựa án có thời hạn bỏ vốn đầu tư dưới 12 tháng không được coi
là dự án đầu tư?

20


- Dự án đầu tư luôn gắn với các quan hệ đầu tư cụ thể. Trước kia, theo Quy
chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP
của Chính phủ ngày 08/7/1999 thì dự án đầu tư chỉ bao gồm các dự án đầu tư trực
tiếp, tức là nhà đầu tư vừa bỏ vốn thành lập vừa trực tiếp quản lý, điều hành cơ sở
sản xuất kinh doanh và chịu mọi rủi ro từ hoạt động kinh doanh. Hiện nay, theo

Luật đầu tư, dự án đầu tư không chỉ có dự án đầu tư trực tiếp mà còn bao gồm cả
các dự án đầu tư gián tiếp. Tuy nhiên, dù là dự án đầu tư trực tiếp hay gián tiếp thì
mỗi dự án đầu tư đều phải được lên kế hoạch thận trọng, chi tiết và cụ thể.
1.2. Phân loại dự án đầu tư
Hoạt động đầu tư rất đa dạng nên dự án đầu tư cũng rất phong phú và có thể
chia thành nhiều loại theo những tiêu chí khác nhau.
a. Theo tiêu chí nguồn vốn đầu tư
- Dự án đầu tư bằng vốn Nhà nước, gồm: Vốn ngân sách, vốn tín dụng do
Nhà nước bỏa lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn đầu tư khác
của Nhà nước.
- Dự án đầu tư bằng vốn của các tổ chức, cá nhaankhacs trực tiếp của ba
nhóm dự án là dựa án đầu tư không phải làm thủ tục đăng ký đầu tư, dự án đầu tư
phải làm thủ tục đăng ký đầu tư và dự án đầu tư phải thực hiện thủ tục thẩm tra đầu
tư với các giai đoạn chính trong hoạt động đầu tư, tiến hành các thủ tục đầu tư và
triển khai thực hiện dự án đầu tư.
2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUY TRÌNH, THỦ TỤC ĐẦU TƯ VÀ
TRIỂN KHAI DỰ ÁN ĐẦU TƯ
2.1. Chuẩn bị đầu tư
Chuẩn bị đầu tư là giai đoạn đầu của một dự án đầu tư, nó ảnh hưởng đến
chất lượng, hiệu quả và giá thành của dự án đó. Bởi vậy, nếu giai đoạn này được
chuẩn bị tốt thì sẽ quyết định sự thành công của dự án. Ngược lại, nếu chuẩn bị
không tốt thì dự án đầu tư sẽ có giá thành cao hoặc kém chất lượng.
Trong giai đoạn, này nhà đầu tư phải tiến hành những công việc sau đây:
2.1.1. Nghiên cứu, đánh giá thị trường đầu tư
Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đều phải
tuân theo tín hiệu của thị trường. Vì thế, nghiên cứu, đánh giá thị trường là khâu
quan trọng hàng đầu đối với nhà đầu tư. Không có nhà đầu tư nào lại đưa ra một
quyết định đầu tư khi chưa nắm bắt được các thông tin về thị trường. Khi tiến hành
việc nghiên cứu thị trường, nhà đầu tư cần điều tra các yếu tố:
- Nguồn cung ứng thiết bị vật tư, nguyên liệu đầu vào cho sản xuất;

- Khả năng cung ứng nguồn lao động cho dự án;
21


- Chất lượng và giá cả nhân công;
- Khả năng huy động vốn cho hoạt động đầu tư;
- Dung lượng của thị trường;
- Sức mua của người tiêu dùng hiện tại và tương lai;
- Mối quan tâm của người tiêu dùng đối với sản phẩm của mình trên thị
trường;
- Trình độ, kinh nghiệm quản lý;
- Khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường;
- Khả năng thiết lập các kênh phấn phối sản phẩm.
Công tác điều tra, đánh giá thị trường luôn là một thử thách với nhà đầu tư,
đặc biệt trong bối cảnh nước ta chưa thiết lập được hệ thống thông tin thị trường
chính thức thì công việc này càng khó khăn. Nhà đầu tư cần có kế hoạch cụ thể và
sự đầu tư thỏa đáng cho việc điều tra, khảo sát thị trường thì mới thu được những
thông tin đáng tin cậy làm cơ sở cho việc phân tích thị trường. Phương pháp điều tra
và phân tích thị trường cũng phải hết sức khoa học thì mới đưa ra được kết luận
chính sách về nhu cầu đầu tư. Ngược lại sử dụng những phương pháp phân tích thị
trường thiếu khoa học hoặc dựa trên những thông tin không chính xác thì nhà đầu tư
có thể sẽ phải trả giá đắt.
Đối với nhà đầu tư nước ngoài lần đầu đầu tư vào Việt Nam thì việc tìm hiể
nghiên cứu và đánh giá về môi trường đầu tư tại Việt Nam trước khi có ý nghĩa vô
cùng quan trọng. Bởi lẽ, hoạt động đầu tư của họ được thực hiện tại một thị trường
hoàn toàn mới lạ, nên để đảm bảo sự an toàn vốn đầu tư và lợi ích của mình nhà
đầu tư cần phải nghiên cứu rất kỹ lưỡng môi trường đầu tư của nước tiếp nhận đầu
tư.
Dưới con mắt của các nhà đầu tư nước ngoài, môi trường đầu tư của một
nước được quan tâm ở rất nhiều khía cạnh, bao gồm:

- Môi trường chính trị: sự ổn định chính trị, uy tín, năng lực điều hành của
Chính phủ; sự nhất quán trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội và đối ngoại;
- Môi trường tự nhiên: vị trí địa lý, diện tích tự nhiên; điều kiện khí hậu, thổ
nhưỡng; các nguồn tài nguyên, khoáng sản và khả năng khai thác; mức độ ô nhiễm
môi trường;
- Môi trường quốc tế: Nguuy cơ xung đột quan sự trong khu vực; quan hệ
ngoại giao với các nước; sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với chính sách ngoại
giao và phát triển kinh tế;

22


- Môi trường kinh tế: Dung lượng và sức mua của thị trường; năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế...
2.1.2. Xác định sự cần thiết phải đầu tư và quy mô đầu tư
2.1.3. Lựa chọn hình thức đầu tư
2.1.4. Tiến hành khảo sát và lựa chọn địa điểm đầu tư
2.1.5. Lập dự án đầu tư
2.2. Thủ tục đầu tư
2.2.1. Dự án đầu tư không phải làm thủ tục đăng ký đầu tư.
Các dự án đầu tư trong nước có quy mô có vốn đầu tư dưới 15 tỷ đồng Việt nam
không thuộc danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì nhà đầu tư không phải làm
thủ tục đăng ký đầu tư( xem khoản 1 điều 45 Luật đầu tư 2005)
2.2.2. Dự án đầu tư phải làm thủ tục đăng ký đầu tư( xem khoản 2,3 điều 45 Luật
đầu tư năm 2005)
+ Dự án đầu tư trong nước có quy mô vốn đầu tư từ15 tỷ đồng Việt nam đến dưới
300 tỷ đồng Việt nam và không thuộc danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì nhà
đầu tư làm thủ tục đăng ký đầu tư theo mẫu đăng ký đầu tư tại cơ quan Nhà nước
quản lý đầu tư cấp tỉnh.
+ Đối với dự án đầu tư nước ngoài có quy mô vốn đầu tư dưới 300 tỷ đồng Việt

nam và không thuộc danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì nhà đầu tư làm thủ
tục đăng ký đầu tư tại cơ quan Nhà nước quản lý cấp tỉnh để được cấp giấy chứng
nhận đầu tư trong thời hạn 15 ngày kể từj ngày nhận đủ hồ sơ đăng ký hợp lệ.
Hồ sơ đăng ký bao gồm:
+ Bản đăng ký hồ sơ (theo mẫu)
+ Báo các năng lực tài chính của nhà đầu tư.
+ Hợp đồng hợp tác kinh doanh đối với hình thức đầu tư theo hợp đồng hợp
tác kinh doanh.
2.2.3. Dự án đầu tư phải thực hiện thủ tục thẩm tra đầu tư
a. Những loại dự án phải thẩm tra
- Dự án có quy mô vốn đầu tư từ 300 tỷ đồng Việt nam trở lên không thuộc danh
mục dự án đầu tư có điều kiện.
- Dự án thuộc danh mục dự án đầu tư có điều kiện.
b. Hồ sơ thẩm tra
Chủ đầu tư phải lập hồ sơ thẩm tra dự án đầu tư trình cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thẩm tra. Mỗi nhóm dự án đầu tư thì yêu cầu về hồ sơ thẩm tra có khác nhau
b.1. Đối với dự án có quy mô vốn đầu tư từ 300 tỷ đồng Việt nam trở lên và không
thuộc danh mục dự án đầu tư có điều kiện
- Văn bản đề nghị cấp giấy chứng nhận đầu tư (theo mẫu).
- Văn bản xác nhận tư cách pháp lý của nhà đầu tư.
- Báo cáo năng lực tài chính của nhà đầu tư.
- Giải trình kinh tế - Kỹ thuật.
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh đối với hình thức đầu tư theo hợp đồng hợp tác
kinh doanh.

23


b.2. Đối với các dự án thuộc danh mục dự án đầu tư có điều kiện
c. Nội dung thẩm tra

d. Thời hạn và quy trình thẩm tra đầu tư
Thời hạn thẩm tra đầu tư không quá 30 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ hợp lệ, trường
hợp cần thiết thời hạn trên có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày.
Quy trình thẩm tra được quy định tài điều 48.49 Nghị định 108/2008/NĐ- CP ngày
22/09/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư.
đ. Cơ quan thẩm tra và cấp giấy chứng nhận đầu tư
* Cơ quan có thẩm quyền thẩm tra là những cơ quan nhà nước quản lý về đầu tư
theo sự phân cấp của chính phủ. Trong đó vai trò chủ trì tổ chức việc thẩm tra
thuộc về cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư
* Theo Nghị định 108/2006/NĐ – CP ngày 22/09/2006 thì cơ quan có thẩm quyền
cấp giấy chứng nhận đầu tư bao gồm:
- UBND cấp tỉnh cấp giấy chứng nhận đầu tư đối với dự án đầu tư ngoài khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu kinh tế
- Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu kinh tế
thực hiện việc cấp giấy chứng nhận đầu tư đối với dự án đầu tư vào khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế
2.3. Triển khai thực hiện dự án đầu tư
Nhà đầu tư phải theo đúng mục tiêu, tiến độ đã cam kết và các quy định tại giấy
chứng nhận đầu tư, đồng thời phải tuân theo các quy định của Văn bản pháp luật
chuyên ngành, ngành có liên quan như pháp luật về đất đai, về môi trường, về xây
dựng, về lao động, về thuế, về đăng ký kinh doanh....
- Xin giao đất và thuê đất thực hiện dự án.
- Xin giấy phép xây dựng.
- Xin giấy phép khai thác.
- Chuẩn bị mặt bằng xây dựng.
- Thực hiện việc khảo sát, thiết kế xây dựng.
Câu hỏi ôn tập chương II:
1.
Trình bày đặc điểm, nội dung cơ bản của quy trình thủ tục đầu tư và triển
khai dự án đầu tư

2.
Nêu và phân tích các loại dự án đầu tư phải kthực hiện thủ tục thẩm tra
đầu tư?
3.
Trình bày các cơ quan có thẩm quyền thẩm tra và cấp giấy đầu tư đối với
các dự án đầu tư

24


CHƯƠNG 3
CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM VÀ KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ
A. CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM ĐẦU TƯ
1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO ĐẦU TƯ

1.1. Khái niệm các biện pháp bảo đảm đầu tư
Một trong nững nỗ lực của các quốc gia đang phát triển nhằm giải bài toán
phức tạp về nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư trong cũng như ngoài nước chính
là công việc thiết kế nên những quy định quy pháp luật có tính chất hấp dẫn đầu
tư.Nói đến khả năng thu hút đầu tư của một quốc gia, trước tiên phải nói đến sự
thống nhất và hoàn thiện pháp luật về đầu tư của quốc gia đó. Trong đó phải kể đến
sự góp mặt của các quy định về đảm bảo đầu tư với vai trò như một sự thể hiện rõ
nét nhất thiện ý của Nhà nước tiếp nhận đầu tư đối với các chủ đầu tư và dự án đầu
tư của họ.
Các biện pháp bảo đảm đầu tư là những biện pháp được thể hiện trong các
quy định của pháp luật nnhawmf đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các nhà
đầu tư trong quá trình thực hiện hoạt động đầu tư với mục đích kinh doanh. Các
biện pháp đảm bảo đầu tư chính là những cam kết từ phía Nhà nước tiếp nhận đầu
tư với các chủ thể đầu tư về trách nhiệm của Nhà nước tiếp nhận đầu tư trước một
số quyền lợi cụ thể của nhà đầu tư.

Đặc trưng của hoạt động đầu tư kinh doanh là khả năng xảy ra rủi ro rất lớn,
chính vì vậy khi tiến hành đầu tư, các nhà đầu tư thường chú trọng đến việc lựa
chọn các biện pháp để giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh. Rủi ro có thể được giảm
bớt bằng cách chính bản thân các nhà đầu tư thiết kế và thực hiện các biện pháp
bảo đảm riêng của mình ( ví dụ như tiến hành mua bảo hiểm đối với một số bộ phận
của dự án đầu tư). Ngoài ra, những khả năng rủi ro do đó cũng có thể được cam kết
giảm bớt hoặc ngăn chặn không cho xảy ra bởi chính Nhà nước tiếp nhận đầu tư.
Hai cách thức giảm thiểu rủi ro trên đây có những điểm phân biệt rõ nét, cụ thể:
Thứ nhất, nếu các nhà đầu tư phải chi trả một khoản tài chính không nhỏ để
có được sự an toàn nhất định trong kinh doanh, trong cách thức tự đảm bảo đầu tư
thì đối với những biện pháp bảo đảm đầu tư do nước tiếp nhậ đầu tư cam kết thực
hiện thì các nhà đầu tư không phải chi trả bất cứ một khoản tiền nào.
Thứ hai, khi các nhà đầu tư tiến hành bảo dảm đầu tư cho mình có nghĩa là
các hà đầu tư đã cá biệt hoá dự án dầu tư của mình với một khả năng giảm thiểu rủi
ro có thể không tìm thấy ở các dự án đầu tư khác, mặc dù các dự án đầu tư khác này
có thể cùng địa bàn, cùng lĩnh vực đầu tư. Tuy nhiên, với các biện pháp bảo đảm
đầu tư do nhà nước tiếp nhận đầu tư quy định thì những cam kết đó được áp dụng
đối với tất cả các dự án đầu tư, không phân biệt về quy mô vốn, nguồn gỗ vốn cũng
như lĩnh vực và địa bàn đầu tư.
Thứ ba, việc các nhà đầu tư mua bảo hiểm hoặc dùng một số biện pháp đảm
bảo tự thân khác cho dự án đầu tư của mình thì kết quả cũng chỉ có thể giảm thiểu
những rủi ro mà nguyên nhân là do những khuyết tật của nền kinh tế thị trường hoặc
do trình độ quản lí kinh doanh yếu kém của nhà đầu tư. Nếu sử dụng các biện pháp
bảo đảm đầu tư do nước tiếp nhận đầu tư ban hành thì các nhà dầu tư còn tránh
được cả những rủi ro về mặt lập pháp hoặc sự thay đổi bất thường về mặt chính
sách đối với các hoạt động kinh doanh của nước tiếp nhận đầu tư.

25



×