Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Quá trình cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.34 KB, 83 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đã có một quá trình hơn 20 năm với
những kinh nghiệm rất phong phú ở nhiều thời kì. Trong môi trường kinh doanh
mới, với không ít khó khăn nhưng nhiều doanh nghiệp đã trụ được tại Việt Nam ,
vượt qua thử thách và thành công.
Khi chính sách Đổi mới bắt đầu được áp dụng, với những chính sách mới về đầu tư
nước ngoài không ngừng được cải thiện của Chính phủ, Việt Nam được các nhà đầu
tư nước ngoài đánh giá cao về tính ổn định và độ an toàn. Những yếu tố này đang
thực sự quan trọng đối với những khoản đầu tư lớn và dài hạn.
Không phải ngẫu nhiên mà thời gian gần đây, sự chú ý của doanh nghiệp quốc tế
tăng cao đối với Việt Nam . Với mức tăng trưởng GDP rất cao trong khu vực, cùng
với các ổn định về chính trị xã hội thì rõ ràng đây là những điều kiện thuận lợi cho
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam .
Trong giai đoạn phát triển, hiện nay đang diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các
quốc gia nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, giữa các doanh nghiệp trong
nước với nhau và với doanh nghiệp nước ngoài. Trong cuộc cạnh tranh này, môi
trường đầu tư mà Nhà nước tạo ra là yếu tố tiên quyết. Chính phủ Việt Nam đã làm
tất cả để môi trường Đầu tư ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện, thông thoáng, minh
bạch hơn và cạnh tranh hơn. Tuy nhiên, Việt Nam hiện còn gặp nhiều khó khăn,
thách thức liên quan đến hạ tầng kinh tế còn nhiều yếu kém, chi phí sản xuất gia
tăng trong bối cảnh giá cả gia tăng chưa có dấu hiệu suy giảm; khan hiếm lao động
có tay nghề và cán bộ có trình độ quản lý tiên tiến, tổ chức và cán bộ ở các địa
phương còn nhiều bất cập, thủ tục hành chính còn nhiều phức tạp, gây phiên hà,
nhũng nhiễu nhà đầu tư và doanh nghiệp.
Trước những khó khăn còn tồn tại thì Chính Phủ đã có những biện pháp gì để cải
thiện môi trường đầu tư. Từ đó em quyết định lựa chọn nghiên cúu đề tài:
“ Quá trình cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam ”


Đề tài gồm ba chương:
Chương I: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và môi trường đầu tư trực


tiếp nước ngoài.
Chương II: Thực trạng quá trình cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam
Chương III: Một số giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam .
Thông qua đề tài này em mong muốn có thể góp một phần nhỏ những kiến thức của
mình cho công cuộc đổi mới và phát triển của nền kinh tế nước nhà.
Với vốn hiểu biết và kinh nghiệm còn hạn hẹp, em mong nhận được những đánh
giá, nhận xét, và cho ý kiến của các thầy cô nhằm hoàn thiện đề tài nghiên cứu này.












CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
VÀ MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI)
1.1. Khái niệm, vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
đối với Việt Nam
1.1.1. Khái niệm
Theo quĩ tiền tệ quốc tế IMF, FDI được định nghĩa là một khoản đầu tư với những
quan hệ, theo đó một tổ chức trong một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được

lơi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Mục đích của nhà
đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại
nền kinh tế khác đó.
Hội nghị Liên Hợp Quốc về TM và phát triển UNCTAD cũng đưa ra một khái niệm
về FDI. Theo đó, nguồn vốn FDI bao gồm vốn được cung cấp (trực tiếp hoặc thông
qua các công ty liên quan khác) bởi nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các doanh
nghiệp FDI, hoặc vốn mà nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhận được từ doanh
nghiệp FDI, FDI gồm có 3 bộ phận: vốn cổ phần, thu nhập tái đầu tư và các khoản
vay trong nội bộ công ty.
Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa: đầu tư trực tiếp nước ngoài là người sở hữu tại
nước này hoặc mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Đó là một
khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để có ảnh
hưởng quyết định đối với thực thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong
thực thể kinh tế ấy.
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: một doanh nghiệp
đầu tư trực tiếp là một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách
pháp nhân trong đó nhà đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất 10% cổ phiếu thường hoặc có
quyền biểu quyết. Điểm mấu chốt của đầu tư trực tiếp là chủ định thực hiện quyền
kiểm soát công ty. Tuy nhiên không phải hầu hết các quốc gia đều sử dụng mốc
10% làm mốc xác định FDI. Trong thực tế có những trường hợp tỉ lệ sở hữu tài sản
trong doanh nghiệp của chủ đầu tư nhỏ hơn 10% nhưng họ vẫn được quyền điều
hành quản lý doanh nghiệp, trong khi nhiều lúc lớn hơn vẫn chỉ là người đầu tư gián
tiếp.
Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp nước
ngoài như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là việc nhà đầu
tư ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào vào quốc gia đó để
được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc
gia đó, với mục tiêu tối đa hóa lợi ích của mình”.
Tài sản trong khái niệm này, theo thông lệ quốc tế có thể hiểu là tài sản hữu hình
(máy móc, thiêt bị, quy trình công nghệ, bất động sản, các loại hợp đồng và giấy

phép có giá trị…), tài sản vô hình (quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết và kinh nghiệm
quản lý…) hoặc tài sản tài chính (cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, giấy ghi nợ…). Như
vậy FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài.
1.1.2. Các hình thức FDI.
1.1.2.1. Doanh nghiệp liên doanh:
Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài gọi tắt là liên doanh là hình thức được sử
dụng rộng rãi nhất của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới từ trước đến nay.
Nó là công cụ để thâm nhập vào thị trường nước ngoài một cách hợp pháp và có
hiệu quả thông qua hoạt động hợp tác.
Khái niệm liên doanh là một hình thức tổ chức kinh doanh có tính chất quốc tế, hình
thành từ những sự khác biệt giữa các bên về quốc tịch, quản lý, hệ thống tài chính,
luật pháp và bản sắc văn hoá, hoạt động trên cơ sở sự đóng góp của các bên về vốn,
quản lý lao động và cùng chịu trách nhiệm về lợi nhuận cũng như rủi ro có thể xảy
ra, hoạt động của liên doanh rất rộng, gồm cả hoạt động sản xuất kinh doanh, cung
ứng dịch vụ, hoạt động nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu triển khai.
1.1.2.2. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cũng là một hình thức doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài nhưng ít phổ biến hơn hình thức liên doanh trong hoạt động đầu
tư quốc tế.
Khái niệm doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là một thực thể kinh doanh có tư
cách pháp nhân, được thành lập dựa trên các mục đích của chủ đầu tư và nước sở
tại.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động theo sự điều hành quản lý của chủ
đầu tư nước ngoài nhưng vẫn phải tuỳ thuộc vào các điều kiện về môi trường kinh
doanh của nước sở tại, đó là các điều kiện về chính trị, kinh tế luật pháp văn hoá,
mức độ cạnh tranh…
1.1.2.3. Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hình thức này là hình thức đầu tư trong đó các bên quy trách nhiệm và phân chia
kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh mà không thành lập
pháp nhân mới.

Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản được kí kết giữa đại diện có thẩm quyền
của các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, quy định từ việc thực hiện phân
chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên.
Đặc điểm là các bên kí kết hợp đồng hợp tác kinh doanh, trong quá trình kinh doanh
các bên hợp doanh có thể thành lập ban điều phối để theo dõi, giám sát việc thực
hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Phân chia kết quả kinh doanh: hình thức hợp
doanh không phân phối lợi nhuận và chia sẻ rủi ro mà phân chia kết quả kinh doanh
chung theo tỷ lệ góp vốn hoặc theo thoả thuận giữa các bên. Các bên hợp doanh
thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước sở tại một cách riêng rẽ. Pháp lý hợp
doanh là một thực thể kinh doanh hoạt động theo luật pháp nước sở tại, chịu sự điều
chỉnh của pháp luật nước sở tại. Quyền lợi và nghĩa vụ của các bên hơp doanh được
ghi trong hợp đồng hợp tác kinh doanh.
1.1.2.4. Đầu tư theo hợp đồng BOT
BOT (xây dựng - vận hành - chuyển giao) là một thuật ngữ để chỉ một số mô hình
hay một cấu trúc sử dụng đầu tư tư nhân để thực hiện xây dựng cơ sở hạ tầng vẫn
được dành riêng cho khu vực nhà nước. Trong một dự án xây dựng BOT, một
doanh nghiệp tư nhân được đặc quyền xây dựng và vận hành một công trình mà
thường do chính phủ thực hiện. Công trình này có thể là nhà máy điện, sân bay, cầu,
cầu đường… Vào cuối giai đoạn vận hành doanh nghiệp tư nhân sẽ chuyển quyền
sở hữu dự án về cho chính phủ. Ngoài hợp đồng BOT còn có BTO, BT.
Hợp đồng BOT là văn bản kí kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan có
thẩm quyền của nước chủ nhà để đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng (kể cả
mở rộng, nâng cấp, hiện đại hoá công trình) và kinh doanh trong một thời gian nhất
định để thu hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý, sau đó chuyển giao không bồi hoàn toàn
bộ công trình cho nước chủ nhà.
Hợp đồng xây dựng chuyển giao kinh doanh BTO và hợp đồng xây dựng chuyển
giao BT, được hình thành tương tự như hợp đồng BOT nhưng có điểm khác là: đối
với hợp đồng BTO sau khi xây dựng xong công trình nhà đầu tư nước ngoài chuyển
giao lại cho nước chủ nhà và được Chính phủ nước chủ nhà dành cho quyền kinh
doanh công trình đó hoặc công trình khác trong một thời gian đủ để hoàn lại toàn bộ

vốn đầu tư và có lợi nhuận thoả đáng về công trình xây dựng và chuyển giao đó.
Đối với hợp đồng BT, sau khi xây dựng xong công trình nhà đầu tư nước ngoài
chuyển giao lại cho nước chủ nhà và được chính phủ nước chủ nhà thanh toán bằng
tiền hoặc bằng tài sản nào đó tương xứng với vốn đầu tư đó bỏ ra và một tỉ lệ lợi
nhuận hợp lí.
1.1.2.5. Đầu tư thông qua mô hình công ty mẹ và con
Holding company là một trong những mô hình tổ chức quản lý được thừa nhận rộng
rãi ở hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường phát triển.
Holding company là một công ty sở hữu vốn trong một công ty khác ở mức đủ để
kiểm soát hoạt động quản lý và điều hành công ty đó thông qua việc gây ảnh hưởng
hoặc lựa chọn thành viên hợp đồng quản trị.
Holding company được thành lập dưới dạng công ty cổ phần và chỉ giới hạn hoạt
động của mình trong việc sở hữu vốn, quyết định chiến lược và giám sát hoạt động
quản lí của các công ty con, các công ty con vẫn duy trì quyền kiểm soát hoạt động
kinh doanh của mình một cách độc lập, tạo rất nhiều thuận lợi:
- Cho phép các nhà đầu tư không chỉ huy động vốn để triển khai nhiều dự án đầu tư
khác nhau mà còn tạo điểu kiện thuận lợi cho họ điều phối hoạt động và hỗ trợ các
công ty trực thuộc trong việc tiếp thị, tiệu thụ hàng hoá, điều tiết chi phí thu nhập và
các nghiệp vụ tài chính.
- Quản lí các khoản vốn góp của mình trong công ty khác như một thể thống nhất và
chịu trách nhiệm về việc ra quyết định và lập kế hoạch chiến lược điều phối các
hoạt động và tài chính của cả nhóm công ty.
- Lập kế hoạch, chỉ đạo, kiểm soát các luồng lưu chuyển vốn trong danh mục đầu
tư. Holding company có thể thực hiện cả hoạt động tài trợ đầu tư cho các công ty
con và cung cấp dịch vụ tài chính nội bộ cho các công ty này.
- Cung cấp cho các công ty con các dịch vụ như kiểm toán nội bộ, quan hệ đối
ngoại, phát triển thị trường, lập kế hoạch, nghiên cứu và phát triển (R&D)…
1.1.2.6. Hình thức công ty cổ phần
Công ty cổ phần (công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn) là doanh nghiệp trong đó
vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, các cổ đông chỉ

chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi
vốn góp vào doanh nghiệp, cổ đông có thể là tổ chức cá nhân với số lượng tối đa
không hạn chế, nhưng phải đáp ứng yêu cầu về số cổ đông tối thiểu. Đặc trưng của
công ty cổ phần là nó có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng và các cổ
đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác.
Cơ cấu tổ chức, công ty cổ phần phải có đại hội cổ đông, hội đồng quản trị và giám
đốc. Thông thường ở nhiều nước trên thế giới, cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu
trên 10% số cổ phiếu thường có quyền tham gia giám sát quản lý hoạt dộng của cty
cổ phần. Đại hôi cổ đông gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết là cơ quan quyết
định cao nhất của công ty cổ phần.
Ở một số nước khác, cty cổ phần hữu hạn có vốn đầu nước ngoài được thành lập
theo cách: thành lập mới, cổ phần hoá doanh nghiệp FDI (doanh nghiệp liên doanh
và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) đang hoạt động, mua lại cổ phần của doanh
nghiệp trong nước cổ phần hoá.
1.1.2.7. Hình thức chi nhánh công ty nước ngoài
Hình thức này được phân biệt với hình thức công ty con 100% vốn nước ngoài ở
chỗ chi nhánh không được coi là một pháp nhân độc lập trong khi công ty con
thường là một pháp nhân độc lập. Trách nhiệm của công ty con thường giới hạn
trong phạm vi tài sản ở nước sở tại, trong khi trách nhiệm của chi nhánh theo quy
định của một số nước, không chỉ giới hạn trong phạm vi tài sản của chi nhánh, mà
còn được mở rộng đến cả phần tài sản của công ty mẹ ở nước ngoài. Chi nhánh
được phép khấu trừ các khoản lỗ ở nước sở tại và các khoản chi phí thành lập ban
đầu vào các khoản thu nhập của công ty mẹ tại nước ngoài. Ngoài ra chi nhánh còn
được khấu trừ một phần các chi phí quản lý của công ty mẹ ở nước ngoài vào phần
thu nhập chịu thuế ở nước sở tại.
Việc thành lập chi nhánh thường đơn giản hơn so với việc thành lập công ty con.
Do không thành lập 1 pháp nhân độc lập, việc thành lập chi nhánh không phải tuân
thủ theo các quy định về thành lập công ty, thường chỉ thông qua việc đăng kí tại
các cơ quan có thẩm quyền của nước chủ nhà.
1.1.2.8. Hình thức công ty hợp danh

Công ty hợp danh là doanh nghiệp phải có ít nhất hai thành viên hợp danh, ngoài
các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là
cá nhân có trình độ chuyên môn, có uy tín nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về nghĩa vụ của cty; thành viên góp vốn chỉ chịu
trách nhiệm về các khoản nợ của cty trong phạm vi số vốn góp vào cty. Cty hợp
danh không được phát hành bất kì loại chứng khoản nào. Các thành viên hợp danh
có quyền ngang nhau khi quyết định các vấn đề quản lý công ty, còn thành viên góp
vốn có quyền được chia lợi nhuận theo tỷ lệ quy định tại điều lệ công ty nhưng
không được tham gia quản lý cty và hoạt động kinh doanh nhân danh cty.
1.1.2.9. Hình thức công ty mua lại và sát nhập (M&A)
Phần lớn các vụ M&A được thực hiện giữa các TNC lớn và tập trung vào các lĩnh
vự công nghiệp ô tô, dược phẩm, viễn thông và tài chính ở các nước phát triển.
Mục đích chủ yếu :
- Khai thác lợi thế của thị trường mới mà hoạt động thương mại quốc tế hay đầu tư
mới theo kênh truyền thống không mang lại hiệu quả mong đợi. Hoạt động M&A
tạo cho các công ty cơ hội mở rộng nhanh chóng hoạt động ra thị trường nước
ngoài.
- Bằng con đường M&A, các TNC có thể sáp nhập các cty của mình với nhau, hình
thành một cty khổng lồ hoạt động trong nhiều lĩnh vự hay các cty khác nhau cùng
hoạt động trong một lĩnh vực có thể sáp nhập lại nhằm tăng khả năng cạnh tranh
toàn cầu của tập đoàn.
- Các cty vì mục đích quốc tế hoá sản phẩm muốn lấp chỗ trống trong hệ thống
phân phối của họ trên thị trường thế giới.
- Thông qua con đường M&A các ty có thể giảm chi phí từng lĩnh vực nghiên cứu
và phát triển sản xuất, phân phối và lưu thông.
- M&A tao điều kiện thuận lợi cho việc tái cấu trúc các ngành công nghiệp và cơ
cấu ngành công nghiệp ở các quốc gia, do đó, hình thức này đóng vai trò quan trọng
trong sự phát triển công nghiệp ở mọi quốc gia.
1.1.3. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam
(nước nhận đầu tư).

1.1.3.1. Tác động tích cực của FDI.
* Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã kịp thời bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư
phát triển, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
FDI là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt về vốn ngoại tệ
của các nước nhận đầu tư, đặc biệt là đối với các nước kém phát triển.
Hầu hết các nước kém phát triển đều rơi vào cái “vòng luẩn quẩn”. Đó là: Thu nhập
thấp dẫn đến tiết kiệm thấp, vì vậy đầu tư thấp và rồi hậu quả thu lại là thu nhập
thấp. Tình trạng luẩn quẩn này chính là điểm nút khó khăn mà các nước này phải
vượt qua để hội nhập vào quỹ đạo kinh tế hiện đại. Nhiều nước lâm vào tình trạng
trì trệ của nghèo đói bởi lẽ không lựa chọn và tạo ra điểm đột phá chính xác.
Trở ngại lớn nhất để thực hiện điều đó đối với các nước kém phát triển là vốn đầu
tư và kỹ thuật. Vốn đầu tư là cơ sở tạo ra công ăn việc làm trong nước, đổi mới
công nghệ, kỹ thuật, tăng năng suất lao động vv...Từ đó tạo tiền đề tăng thu nhập,
tăng tích lũy cho sự phát triển của xã hội.
Tuy nhiên để tạo ra vốn cho nền kinh tế chỉ trông chờ vào vốn nội bộ thì hậu quả
khó tránh khỏi là sẽ tụt hậu trong sự phát triển chung của thế giới. Do đó vốn nước
ngoài sẽ là một “cú hích” để góp phần đột phá vào cái “vòng luẩn quẩn” đó. Đặc
biệt là FDI: nguồn quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu vốn mà không gây nợ
cho các nước nhận đầu tư. Không như vốn vay nước đầu tư chỉ nhận một phần lợi
nhuận thích đáng khi công trình đầu tư hoạt động có hiệu quả. Hơn nữa lượng vốn
này còn có lợi thế hơn nguồn vốn vay ở chỗ. Thời hạn trả nợ vốn vay thường cố
định và đôi khi quá ngắn so với một số dự án đầu tư, còn thời hạn vốn FDI thì linh
hoạt hơn.
* Chuyển giao công nghệ.
Lợi ích quan trọng mà FDI mang lại đó là công nghệ khoa học hiện đại, kỹ sảo
chuyên môn, trình độ quản lý tiên tiến. Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ đầu tư
không chỉ đưa vào nước đó vốn bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật như máy
móc thiết bị, nguyên vật liệu...(hay còn gọi là phần cứng), tri thức khoa học, bí
quyết quản lý, năng lực tiếp cận thị thường ...(hay còn gọi là phần mềm.) Do vậy
đứng về lâu dài đây chính là lợi ích căn bản nhất đối với nước nhận đầu tư. FDI có

thể thúc đẩy phát triển các nghề mới, đặc biệt là những nghề đòi hỏi hàm lượng
công nghệ cao. Vì thế nó có tác dụng to lớn đối với quá trình công nghiệp hóa, dịch
chuyển cơ cấu kinh tế nhanh của các nước nhận đầu tư. FDI đem lại kinh nghiệm
quản lý, kỹ năng kinh doanh và trình độ kỹ thuật cho các đối tác trong nước nhận
đầu tư, thông qua những chương trình đào tạo và quá trình vừa học vừa làm. FDI
còn mang lại cho họ những kiến thức sản xuất phức tạp trong khi tiếp nhận công
nghệ của các nước nhận đầu tư. FDI còn thúc đẩy các nước nhận đầu tư phải cố
gắng đào tạo những kỹ sư, những nhà quản lý có trình độ chuyên môn để tham gia
vào các công ty liên doanh với nước ngoài.
* Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, các nước đang phát triển muốn thực hiện
mục tiêu quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh kinh tế. Đây cũng là điểm nút để các
nước đang phát triển khoát ra khỏi các vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo. Thực tiễn
và kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, các quốc gia nào thực hiện chiến lược
kinh tế mở của với bên ngoài, biết tranh thủ và phát huy tác dụng của các nhân tố
bên ngoài biến nó thành những nhân tố bên trong thì quốc gia đó tạo được tốc độ
tăng trưởng cao.
Mức tăng trưởng ở các nước đang phát triển thường do nhân tố tăng đầu tư, nhờ đó
các nhân tố khác như tổng số lao động được sử dụng, năng suất lao động cũng tăng
lên theo.
Rõ ràng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần tích cực thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển. Nó là tiền đề, là chỗ dựa để khai thác
những tiềm năng to lớn trong nước nhằm phát triển nền kinh tế.
* Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Yêu cầu dịch chuyển trong nền kinh tế không chỉ đòi hỏi của bản thân sự phát triển
nội tại nền kinh tế, mà còn là đòi hỏi của xu hứng quốc tế hóa đời sống kinh tế đang
diễn ra mạnh mẽ hiện nay.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong bộ phận quan trọng của hoạt động kinh tế
đối ngoại. Thông qua các quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình phân
công lao động quốc tế. Để hội nhập vào nền kinh tế giữa các nước trên thế giới, đòi

hỏi mỗi quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước cho phù hợp với sự phân
công lao động quốc tế. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế của nước phù hợp với trình
độ chung trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài.
Ngược lại, chính hoạt động đầu tư lại góp phần thúc đẩy nhanh quá trình dịch
chuyển cơ cấu kinh tế. Bởi vì: Một là, thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài đã làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành kinh tế mới ở các nước nhận đầu tư.
Hai là, đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần vào sự phát triển nhanh chóng trình độ
kỹ thuật công nghệ ở nhiều ngành kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao
động ở một số ngành này và tăng tỷ phần của nó trong nền kinh tế. Ba là, một số
ngành được kích thích phát triển bởi đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng cũng có
nhiều ngành bị mai một đi, rồi đi đến chỗ bị xóa bỏ.
* Một số tác động khác.
Ngoài những tác động trên, đầư tư trực tiếp nước ngoài còn có một số tác động sau:
- Góp phần đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà nước thông qua việc nộp thuế của
các đơn vị đầu tư và tiền thu từ việc cho thuê đất ....
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đóng góp cải thiện cán cân quốc tế cho nước tiếp
nhận đầu tư. Bởi vì hầu hết các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài là sản xuất ra các
sản phẩm hướng vào xuất khẩu phần đóng góp của tư bản nước ngoài và việc phát
triển xuất khẩu là khá lớn trong nhiều nước đang phát triển. Cùng với việc tăng khả
năng xuất khẩu hàng hóa, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn mở rộng thị trường cả
trong nước và ngoài nước. Đa số các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đều có
phương án bao tiêu sản phẩm. Đây gọi là hiên tượng “hai chiều” đang trở nên khá
phổ biến ở nhiều nước đang phát triển hiện nay.
- Về mặt xã hội, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra nhiều chỗ làm việc mới, thu
hút một khối lượng đáng kể người lao động ở nước nhận đầu tư vào làm việc tại các
đơn vị của đầu tư nước ngoài. Điều đó góp phần đáng kể vào việc làm giảm bớt nạn
thất nghiệp vốn là một tình trạng nan giải của nhiều quốc gia. Đặc biệt là đối với
các nước đang phát triển, nơi có lực lượng lao động rất phong phú nhưng không có
điều kiện khai thác và sử dụng được, thì đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là
chìa khóa quan trọng để giải quyết vấn đề trên đây. Vì đầu tư trực tiếp nước ngoài

tạo ra được các điều kiện về vốn và kỹ thuật, cho phép khai thác và sử dụng các
tiềm năng về lao động.
Tuy nhiên sự đóng góp của FDI đối với việc làm trong nước nhận đầu tư phụ thuộc
rất nhiều vào chính sách và khả năng kỹ thuật của nước đó.
1.1.3.2. Những ảnh hưởng tiêu cực của FDI
* Chuyển giao công nghệ.
Khi nói về vấn đề chuyển giao kỹ thuật thông qua kênh đầu tư trực tiếp nước ngoài
ở phần trên, chúng ta đã đề cập đến một nguy cơ là nước tiếp nhận đầu tư sẽ nhận
nhiều kỹ thuật không thích hợp. Các công ty nước ngoài thường chuyển giao những
công nghệ kỹ thuật lạc hậu và máy móc thiết bị cũ. Điều này cũng có thể giải thích
là: Một là, dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật cho nên máy
móc công nghệ nhanh chóng trở thành lạc hậu. Vì vậy họ thường chuyển giao
những máy móc đã lạc hậu cho các nước nhận đầu tư để đổi mới công nghệ, đổi
mới sản phẩm, nâng cao chất lượng của sản phẩm của chính nước họ. Hai là, vào
giai đoạn đầu của sự phát triển, hầu hết các nước đều sử dụng công nghệ, sử dụng
lao động. Tuy nhiên sau một thời gian phát triển giá của lao động sẽ tăng, kết quả là
giá thành sản phẩm cao. Vì vậy họ muốn thay đổi công nghệ bằng những công nghệ
có hàm lượng cao để hạ giá thành sản phẩm. Do vậy việc chuyển giao công nghệ lạc
hậu đã gây thiệt hại cho các nước nhận đầu tư như là:
- Rất khó tính được giá trị thực của những máy móc chuyển giao đó. Do đó nước
đầu tư thường bị thiệt hại trong việc tính tỷ lệ góp trong các doanh nghiệp liên
doanh và hậu quả là bị thiệt hại trong việc chia lợi nhuận.
- Gây tổn hại môi trường sinh thái. Do các công ty nước ngoài bị cưỡng chế phải
bảo vệ môi trường theo các quy định rất chặt chẽ ở các nước công nghiệp phát triển,
thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài họ muốn xuất khẩu môi trường sang các nước
mà biện pháp cưỡng chế, luật bảo vệ môi trường không hữu hiệu.
- Chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất cao và do đó sản phẩm của các nước nhận
đầu tư khó có thể cạnh tranh trên thị trường thế giới.
* Phụ thuộc về kinh tế đối với các nước nhận đầu tư.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài thường được chủ yếu là do các công ty xuyên quốc gia,

đã làm nảy sinh nỗi lo rằng các công ty này sẽ tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế
của nước nhận đầu tư vào vốn, kỹ thuật và mạng lưới tiêu thụ hàng hóa của các
công ty xuyên quốc gia. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có đóng góp phần vốn bổ sung
quan trọng cho quá trình phát triển kinh tế và thực hiện chuyển giao công nghệ cho
các nước nhận đầu tư. Đồng thời cũng thông qua các công ty xuyên quốc gia là
những bên đối tác nước ngoài để chúng ta có thể tiêu thụ hàng hóa vì các công ty
này nắm hầu hết các kênh tiêu thụ hàng hóa từ nước này sang nước khác. Vậy nếu
càng dựa nhiều vào đầu tư trực tiếp nước ngoài, thì sự phụ thuộc của nền kinh tế
vào các nước công nghiệp phát triển càng lớn. Và nếu nền kinh tế dựa nhiều vào
đầu tư trực tiếp nước ngoài thì sự phát triển của nó chỉ là một phồn vinh giả tạo. Sự
phồn vinh có được bằng cái của người khác.
Nhưng vấn đề này có xảy ra hay không còn phụ thuộc vào chính sách và khả năng
tiếp nhận kỹ thuật của từng nước. Nếu nước nào tranh thủ được vốn, kỹ thuật và có
ảnh hưởng tích cực ban đầu của đầu tư trực tiếp nước ngoài mà nhanh chóng phát
triển công nghệ nội tại, tạo nguồn tích lũy trong nước, đa dạng hóa thị trrường tiêu
thụ và tiếp nhận kỹ thuật mới cũng như đẩy mạnh nghiên cứu và triển khai trong
nước thì sẽ giảm được rất nhiều sự phụ thuộc của các công ty đa quốc gia.
* Chi phí cho việc thu hút FDI và sản xuất không thích hợp.
Một là: Chi phí của việc thu hút FDI.
Để thu hút FDI, các nước đầu tư phải áp dụng một số ưu đãi cho các nhà đầu tư như
là giảm thuế hoặc miễn thuế trong một thời gian khá dài cho phần lớn các dự án đầu
tư nước ngoài. Hoặc việc giảm tiền cho họ cho việc thuê đất, nhà xưởng và một số
các dịch vụ trong nước là rất thấp so với các nhà đầu tư trong nước. Hay trong một
số lĩnh vực họ được Nhà nước bảo hộ thuế quan.... Và như vậy đôi khi lợi ích của
nhà đầu tư có thể vượt lợi ích mà nước chủ nhà nhận được. Thế mà, các nhà đầu tư
còn tính giá cao hơn mặt bằng quốc tế cho các yếu tố đầu vào. Các nhà đầu tư
thường tính giá cao cho các nguyên vật liệu, bán thành phẩm, máy móc thiết bị mà
họ nhập vào để thực hiện đầu tư. Việc làm này mang lại nhiều lợi ích cho các nhà
đầu tư, chẳng hạn như trốn được thuế, hoặc giấu được một số lợi nhuận thực tế mà
họ kiếm được. Từ đó hạn chế cạnh tranh của các nhà đầu tư khác xâm nhập vào thị

trường. Ngược lại, điều này lại gây chi phí sản xuất cao ở nước chủ nhà và nước
chủ nhà phải mua hàng hóa do các nhà đầu tư nước ngoài sản xuất với giá cao hơn..
Hai là: Sản xuất hàng hóa không thích hợp.
Các nhà đầu tư còn bị lên án là sản xuất và bán hàng hóa không thích hợp cho các
nước kém phát triển, thậm chí đôi khi lại là những hàng hóa có hại cho khỏe con
người và gây ô nhiễm môi trường. Ví dụ như khuyến khích dùng thuốc lá, thuốc trừ
sâu, nước ngọt có ga thay thế nước hoa quả tươi, chất tẩy thay thế xà phòng ...
* Những ảnh hưởng tiêu cực khác.
Trong một số các nhà đầu tư không phải không có trường hợp hoạt động tình báo,
gây rối an ninh chính trị. Thông qua nhiều thủ đoạn khác nhau theo kiểu “diễn biến
hòa bình”. Có thể nói rằng sự tấn công của các thế lực thù địch nhằm phá hoại ổn
định về chính trị của nước nhận đầu tư luôn diễn ra dưới mọi hình thức tinh vi và
xảo quyệt. Mặt khác, mục đích của các nhà đầu tư là kiếm lời, nên họ chỉ đầu tư vào
những nơi có lợi nhất. Vì vậy khi lượng vốn nước ngoài đã làm tăng thêm sự mất
cân đối giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị. Sự mất cân đối này có thể gây
ra mất ổn định về chính trị, hoặc FDI cũng có thể gây ảnh hưởng xấu về mặt xã hội.
Những mặt trái của FDI không có nghĩa là phủ nhận những lợi thế cơ bản của nó
mà chúng ta chỉ lưu ý rằng không nên quá hy vọng vào FDI và cần phải có những
chính sách, những biện pháp kiểm soát hữu hiệu để phát huy những mặt tích cực,
hạn chế những mặt tiêu cực của FDI. Bởi vì mức độ thiệt hại của FDI gây ra cho
nước chủ nhà nhiều hay ít lại phụ thuộc rất nhiều vào chính sách, năng lực, trình độ
quản lý, trình độ chuyên môn của nước nhận đầu tư.
1.2. Môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài và các nhân
tố ảnh hưởng
1.2.1. Khái niệm đầu tư và môi trường đầu tư.
Đầu tư là hành động bỏ vốn ngày hôm nay để thu lại lợi nhuận trong tương lai.
Trong quá trình đó môi trường đầu tư đóng vai trò như một chất xúc tác ban đầu
cho việc lựa chọn quyết định bỏ vốn của nhà đầu tư, vì vậy môi trường đầu tư có
một vị trí vô cùng quan trọng.
Môi trường đầu tư là tập hợp các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của doanh

nghiệp. Môi trường đầu tư bao gồm các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tự
nhiên, công nghệ. Trong đó, chính sách của Chính phủ, các yếu tố về địa lý, về quy
mô thị trường là quan trọng.
Môi trường đầu tư tốt khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, giảm thấp chi phí và
rủi ro. Một môi trường đầu tư tốt không chỉ mang lại lợi nhuận cao cho doanh
nghiệp mà còn nâng cao hiệu quả hoạt động trên phạm vi toàn xã hội
Theo nghĩa chung nhất: môi trường đầu tư là tổng hoà các yếu tố bên ngoài liên
quan đến hoạt động đầu tư.
Môi trường đầu tư hấp dẫn phải là một môi trường có hiệu quả đầu tư cao, mức độ rủi
ro thấp. Điều này lại chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố như: chính sách, cơ chế ưu đãi
đầu tư của nước chủ nhà, điều kiện phát triển về cơ sở hạ tầng kinh tế, mức độ hoàn
thiện về thể chế hành chính - pháp lý, khả năng ổn định về mặt chính trị - xã hội, độ mở
của nền kinh tế, sự phát triển của hệ thống thị trường ... Các nhân tố trên có mối quan
hệ và tác động qua lại lẫn nhau, vì vậy, để nâng cao chất lượng và hiệu quả của môi
trường đầu tư, nhất thiết phải quan tâm xử lý đồng bộ các nhân tố ảnh hưởng trên
1.2.2. Phân loại môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Có nhiều cách phân loại môi trường đầu tư, song theo nhiều nhà kinh tế, môi trường
đầu tư có thể chia ra môi trường cứng và môi trường mềm. Môi trường cứng liên
quan đến các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho sự phát triển kinh tế,
gồm: hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông (đường sá, cầu cảng hàng không, cảng
biển...), hệ thống thông tin liên lạc, năng lượng... Môi trường mềm bao gồm: hệ
thống các dịch vụ hành chính, dịch vụ pháp lý liên quan đến hoạt động đầu tư (đặc
biệt các vấn đề liên quan đến chế độ đối xử và giải quyết các tranh chấp, khiếu nại);
hệ thống các dịch vụ tài chính - ngân hàng, kế toán và kiểm toán...
Môi trường đầu tư nước ngoài có thể thay đổi và chịu sự chi phối của Chính phủ nước
tiếp nhận đầu tư, thay đổi khi nước tiếp nhận đầu tư ký kết hoặc gia nhập Hiệp định
khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương, khu vực và địa phương. Môi trường đầu
tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu được xác định theo hai cách tiếp cận sau:
- Thứ nhất, dựa vào các nhóm nhận tố chính tác động đối với hoạt động đầu tư, môi
trường đầu tư theo cách tiếp cận này bao gồm các nhóm yếu tố chính sau: khung

chính sách đối với hoạt động FDI, nhóm nhân tố kinh tế, nhóm nhân tố hỗ trợ kinh
doanh.
Biểu 1.1. Môi trường đầu tư – nước tiếp nhận đầu tư.
Nguồn: UNTAD, WIR 1998, trang 91
- Thứ hai, dựa vào giai đoạn hình thành và hoạt động đầu tư, môi trường đầu tư trực
tiếp nước ngoài bao gồm các nhân tố của giai đoạn: thành lập, hoạt động và giải thể
hay phá sản doanh nghiệp FDI. Môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài theo cách
tiếp cận này được quan niệm là: “Tổng thể các yếu tố, chính sách của nước tiếp
nhận đầu tư có tác động trực tiếp hay gián tiếp đến quá trình thành lập, hoạt động và
giải thể hay phá sản doanh nghiệp nước đi đầu tư”. Các yếu tố này bao gồm chính
sách của một quốc gia đối với FDI, cơ sở vật chất, trình độ lao động và tình hình an
ninh chính trị … ở nước tiếp nhận đầu tư.
Khi nhà đầu tư quyết định tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh tại nước tiếp
nhận đầu tư thì vấn đề đầu tiên họ sẽ gặp phải đó là thủ tục thành lập và cấp phép
đầu tư, xuất nhập cảnh, cư trú, đi lại, lĩnh vực đầu tư được phép hoạt động, nguồn
nhân lực …. đây được coi là “nhóm yếu tố tiếp cận thị trường đầu tư”. Sau khi
thành lập, nhà đầu tư tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh sẽ gặp phải các yếu
tố có liên quan đến thuế, xuất nhập khẩu, đất đai, lao động, ngoại hối, chuyển tiền
… đây được gọi là “nhóm yếu tố liên quan đến quá trình hoạt động”. Sau khi tiến
hành hoạt động trong một thời gian nhất định nếu nhà đầu tư không muốn tiếp tục
kinh doanh hoặc bị phá sản thì sẽ liên quan đến các yếu tố: phá sản, giải thể… đây
được coi là “nhóm yếu tố liên quan đến quá trình kết thúc hoạt động đầu tư”. Dưới
đây là Đồ thị minh họa môi trường đầu tư theo cách tiếp cận từng giai đoạn đầu tư.









Biểu 1.2: Minh họa môi trường đầu tư trực tiếp tại nước tiếp nhận đầu tư
Nguồn: UNTAD, WIR 1998, tr 91.
1.2.3. Môi trường đầu tư của nước chủ nhà
1.2.3.1.Tình hình chính trị
Ổn định chính trị là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với sự thu hút đầu tư nước
ngoài bởi nó đảm bảo việc thực hiện các cam kết của chính phủ trong các vấn đề sở
hữu vốn đầu tư, hoạch định các chính sách ưu tiên, định hướng phát triển đầu tư của
một nước, ổn định chính trị sẽ tạo ra sự ổn định về kinh tế xã hội và giảm bớt độ rủi
ro cho các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư nước ngoài.
Tình hình chính trị không ổn định sẽ dẫn tới việc bất ổn định về chính sách và
đường lối phát triển không nhất quán. Chính phủ đương thời cam kết không quốc
hữu hoá tài sản, vốn của người nước ngoài nhưng chính phủ mới chưa chắc đã
thống nhất với quan điểm này và tiến hành những thay đổi khiến quyền sở hữu vốn
của người nước ngoài bị đe doạ. Hiện tượng này đã từng xảy ra ở một số nước Châu
Phi, châu Á và châu Mỹ như ChiLe , Philippines …
Hoặc như ở một số nước, khi chính phủ mới lên lãnh đạo sẽ thay đổi định hướng
đầu tư của nước chủ nhà (thay đổi lĩnh vực khuyến khích, ưu tiên, thay đổi chiến
lược xuất nhập khẩu…) khiến các nhà đầu tư ở trong tình trạng rút lui không được
mà tiến hành tiếp cũng không xong và phải chấp nhận thua lỗ.
1.2.3.2. Môi trường luật pháp
Quá trình đầu tư liên quan đến rất nhiều lĩnh vực hoạt động trong một thời gian dài,
nên một môi trường pháp lý ổn định và có hiệu lực là một yếu tố quan trọng để
quản lý và thực hiện đầu tư một cách có hiệu quả. Môi trường này bao gồm các
chính sách, qui định, luật cần thiết đảm bảo sự nhất quán, không mâu thuẫn, chồng
chéo nhau và có tính hiệu lực cao.
- Chính sách thuế: bao gồm các nội dung liên quan đến các loại thuế, mức thuế, thời
gian miễn giảm thuế, thời gian khấu hao và các điều kiện ưu đãi khác.
- Chính sách lệ phí: qui định về các khoản tiền phải nôp như phí dịch vụ cấp giấy
phép, dịch vụ cơ sở hạ tầng (điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc, thuê đất…).

Chính sách 2 giá ở Việt Nam đã làm các nhà ĐTNN bất bình.
- Chính sách quản lý ngoại hối: bao gồm các qui định về viêc mở tài khoản ngoại tệ,
tỷ giá hối đoái, chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. Đối với nhiều nước, việc mở tài
khoản ngoại tệ cho doanh nghiệp có vốn ĐTNN phải được sự cho phép của cơ quan
quản lý ngoại tệ của nước này để nhằm kiểm soát được dòng ngoại tệ ra vào.
- Quản lý hoạt động ĐTNN.
Trong quá trình hình thành và triển khai dự án đầu tư, chủ đầu tư phải chịu sự quản
lý của các cơ quan có thầm quyền đại diện cho nước chủ nhà từ
- Các chính sách và qui định khác:
Chính sách về công nghệ (các qui định về công nghệ).
Chính sách về bảo vệ môi trường.
Chính sách về lao động tiên lương…
1.2.3.3. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Đó là những yếu tố tự nhiên như khí hậu, tài nguyên, dân số, khoảng cách… liên
quan đến việc lựa chọn lĩnh vực để đầu tư và khả năng sinh lời của dự án. Khí hậu
nhiệt đới gió mùa thường ảnh hưởng không tốt đến tuổi thọ của máy móc thiết bị có
nguồn gốc từ phương Tây. Nguồn nguyên vật liệu đầu vào phong phú sẽ thu hút các
nhà đầu tư, giảm chi phí và giá thành. Dân cư đông sẽ là nguồn cung cấp sức lao
động dồi dào và là thị trường tiềm năng để tiêu thụ hàng hoá.
1.2.3.4. Trình độ phát triển kinh tế
Trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia ảnh hưởng rất nhiều đến việc thu hút
và hiệu quả sử dụng vốn ĐTNN, đặc biệt là FDI. Trình độ phát triển kinh tế được
thể hiện qua các nội dung sau:
- Mức độ phát triển về quản lý kinh tế vĩ mô, chất lượng cung cấp dịch vụ phục vụ
cho hoạt động sản xuất kinh doanh, mức độ cạnh trang của thị trường trong nước.
- Mức độ phát triển về quản lý kinh tế vĩ môi thấp dẫn tới các hiện tượng lạm phát
cao, nợ nước ngoài nhiều, tham nhũng, thủ tục hành chính rườm rà, tăng trưởng
kinh tế thấp… là nguyên nhân tiềm ẩn gây nên khủng hoảng.
- Chất luợng dịch vụ cơ sở hạ tầng kém ảnh hưởng trực tiếp tới sự vận hành các
hoạt động sản xuất và kinh doanh cũng như đời sống của các nhà đầu tư nước

ngoài, khiến tăng chi phí sản xuất, chất lượng sản phẩm không cao .
- Chất lượng các dịch vụ khác như cung ứng lao động, tài chính cũng là yếu tố rất
cần thiết để tu hút các nhà ĐTNN.
- Tính cạnh tranh của nước chủ nhà cao sẽ giảm được rào cản đối với ĐTNN, các
nhà đầu tư có thể lựa chọn lĩnh vự đầu tư để phát huy lợi thế so sánh của mình.
1.2.3.5. Đặc điểm phát triển kinh tế xã hội
Các yếu tố về ngôn ngữ, tôn giáo, phong tục tập quán, thị hiếu thẩm mĩ, hệ thống
giáo dục , đạo đức… cũng có tác động không nhỏ tới việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư.
Sự bất đồng về ngôn ngữ và văn hoá trong một số trường hợp đã mang lại những
hậu quả không lường trong kinh doanh.Thẩm mĩ dân tộc của nước chủ nhà là một
yếu tố quan trọng để chủ ĐTNN chọn các hình thức quảng cáo và bao bì sản phẩm.
Một ngân hàng của Anh thiết kế màu xanh lá cây trong biểu tượng của mình, nhưng
khi đặt chi nhánh hoạt động tại Singapore đã phải thay đổi màu bởi ở nước này màu
xanh lá cây bị coi là màu tang tóc. Tương tự, người dân Trung Quốc đặc biệt có
cảm tình với màu đỏ nên khi quảng cáo sản phẩm, các nhà ĐTNN cũng tăng thêm
lượng màu này.
Trình độ phát triển giáo dục đào tạo sẽ quyết định chất lựơng đội ngũ lao động. Mặc
dù sau khi tuyển dụng lao động thì đại đa số các doanh nghiệp FDI phải đào tạo lại,
nhưng sự khác biệt quá lớn trong quan điểm cũng như nội dung đao tạo ở nước
nhận đầu tư và nhu cầu của doanh nghiệp sẽ làm hạn chế hiệu quả đầu tư và làm
nản lòng những nhà đầu tư có nhu cầu sử dụng nhiều lao động.
1.2.4. Môi trường ở nước chủ đầu tư
1.2.4.1. Thay đổi chính sách kinh tế vĩ mô
Những chính sách như tài chính – tiền tệ, xuất nhập khẩu và quản lý ngoại hối của
nước đầu tư ảnh hưởng rất lớn đến luồng đầu tư trực tiếp của nước này sang các
nước khác.
Sự thay đổi các chính sách tài chính-tiền tệ tác động mạnh đến lãi suất, làm tăng
hoặc giảm khả năng tạo lợi nhuận của các nhà đầu tư. Thay đổi chính sách tiền tệ sẽ
làm ảnh hưởng đến lạm phát, lạm phát cao có nghĩa là đồng nội tệ mất giá khiến
hoạt động đầu tư ra nước ngoài giảm bởi để mua được cùng một lượng dịch vụ đầu

tư ở nước ngoài thì các nhà đầu tư phải tốn nhiều tiền bản tệ hơn và ngược lại. Ảnh
hưởng của chính sách XNK của nước đầu tư đến dòng vốn đầu tư ra nước ngoài
được thể hiện ở chỗ: các ưu đãi khuyến khích xuất khẩu trong các hiệp định thương
mại sẽ khiến cho hàng hoá và dịch vụ của nước đầu tư có cơ hội thuận lợi thâm
nhập thị trường nước khác, do đó động cơ đầu tư ra nước ngoài để vượt qua rào cản
thương mại sẽ giảm mạnh. Đối với nhập khẩu cũng vậy, nếu nước đâu tư hạ mức
rào cản đối với hang hoá từ nước ngoài nhất là từ các nước ĐPT thì các nhà đầu tư
trong nước sẽ có nhiều cơ hội tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài nhằm khai
thác triệt để lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế, tìm kiếm nguồn
nguyên liệu mới để sản xuất hang hoá và nhập khẩu lại vào nước mình.
1.2.4.2. Các hoạt động thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài
Các hiệp định đầu tư song phương, đa biên, hiệp định tránh đánh thuế 2 lần, hỗ trợ
tài chính, bảo hiểm đầu tư, và các chính sách đối ngoại của nước đầu tư có tác động
mạnh tới luồng vốn đầu tư ra nước ngoài của quốc gia này.
Việc kí kết các hiệp định đầu tư với nước ngoài là cơ sở pháp lý quan trọng hàng
đầu để đảm bảo tin tưởng cho các nhà đầu tư khi đầu tư ở nước ngoài. Hiệp định
đầu tư song phương được kí giữa nước đầu tư với nước nhận đầu tư, còn hiệp định
đa biên được kí giữa các nước trong cùng một nhóm.
Cùng với các hiệp định trên, hiệp định tránh đánh thuế 2 lần với nước đầu tư với
nước ngoài cũng tạo sức hấp dẫn cho các nhà đầu tư bởi họ chỉ chịu một lần thuế ở
nước nhận đầu tư mà thôi.
Mặt khác, việc nước đầu tư áp dụng chính sách bảo hiểm vốn đầu tư cũng là yếu tố
tác động mạnh đến luồng đầu tư ra nước ngoài. Năm 1992, chính phủ Nhật Bản
tuyên bố bảo hiểm đầu tư cho các nhà đầu tư Nhật Bản vào Việt Nam đã khiến dòng
đầu tư của Nhật vào Việt Nam tăng mạnh.
1.2.4.3. Tiềm lực kinh tế, khoa học công nghệ và các chính sách xã hội
Một nước chỉ có thể đầu tư ra nước ngoài khi tiềm lực kinh tế đủ mạnh, lượng tích
luỹ lớn nên lượng vốn cần cho đầu tư trong nước dư thừa. Như vây, mức độ tích luỹ
của nền kinh tế có vai trò làm tăng hoặc giảm áp lực đẩy dòng vốn đầu tư ra nước
ngoài.

Trình độ khoa học công nghệ thông qua các công việc nghiên cứu và phát triển (R
& D) luôn là một lợi thế cho nước đầu tư. Một nước có khả năng nghiên cứu và
phát triển cao thường là nước tạo ra công nghệ nguồn và quyết định giá cả công
nghệ trên thị trường. Các công nghệ nguồn tạo ra lợi thế cạnh tranh độc quyền và
cần sản xuất với qui mô lớn, đây chính là yếu tố quyết định các TNCs đầu tư ra
nước ngoài. Những nước đầu tư ra nước ngoài lớn cũng thường là những nước
chiếm tỉ trọng cung cấp công nghệ cao trên thế giới
1.2.5. Môi trường đầu tư quốc tế
1.2.5.1.Xu hướng đối thoại giữa các nước
Xu hướng đối thoại chính trị được hiểu là việc giải quyết xung đột giữa các nước
được thực hiện bằng đàm phán, là yếu tố quan trọng, tác động tích cực tới luồng
đầu tư trên thế giới.
1.2.5.2. Liên kết khu vực
Sự tạo ra các khối thị trường chung tạo ra sự thuận lợi cho các TNCs chuyển địa
điểm sản xuất và phân phối giữa các nước thành viên của khối, nhờ đó thúc đẩy
dòng đầu tư… Tuy nhiên khối thị trường chung này không đưa ra những chinh sách
trực tiếp đối với đầu tư nước ngoài đặc biệt là FDI, song thông qua các chính sách
tự do hoá thương mại đã xoá bỏ rào cản giữa các nước.
Việc liên kết khu vực tạo sự phát triển ổn định cho các nước thành viên, đồng thời
buộc các nước cam kết những chính sách tự do hoá đầu tư, tạo môi trường đầu tư
thuận lợi nhằm thu hút đầu tư nước ngoài
1.2.5.3. Tăng trưởng nhanh của các TNCs
Phần lớn hoạt động ĐTNN được thực hiện do các TNCs nên tốc độ tăng trưởng của
các TNCs ảnh hưởng đến động thái của dòng FDI. TNCs bao gồm công ty mẹ và
các công ty con ở các nước trên thế giới. Công ty mẹ là công ty kiểm soát toàn bộ
tài sản của minh tại nước sở hữu. Có 3 dạng công ty con: Dạng thứ nhất là công ty
phụ thuộc – hơn 50% tài sản do chủ đầu tư ở công ty mẹ nắm quyền sở hữu, họ có
quyền chỉ định hoặc bãi nhiệm các thành viên bộ máy tổ chức và điều hành của
công ty con. Dạng thứ hai là công ty liên kết, chủ đầu tư của công ty mẹ chỉ nắm
một tỷ lệ nhỏ tài sản và có quyền hạn ít hơn so với dạng thứ nhất. Dạng công ty con

thứ ba là dạng công ty con hoạt động với 100% tài sản thuộc sở hữu của công ty
mẹ, trường hợp này công ty mẹ có toàn quyền đối với công ty con.
Làn sóng sáp nhập công ty đã hình thành các công ty khổng lồ có mặt trên khắp các
châu lục, chiếm thị phần quan trọng trên thị trường thế giới, hoạt đông trên nhiều
lĩnh vực hơn, tổ chức có hiệu quả hơn và được vi tính hoá cao độ hơn. Các chuyên
gia kinh tế phương Tây cho rằng việc sáp nhập các công ty có tác dụng tích cực
trong việc phát triển kinh doanh theo qui luật thị trường, đưa nhanh tiến bộ khoa
học công nghệ vào thực tiễn, hạn chế các rủi ro kinh doanh. Làn sóng sáp nhập gia
tăng góp phần làm cho đầu tư nước ngoài đạt kỉ lục.
1.2.5.4. Tốc độ toàn cầu hoá
Nếu liên minh kinh tế nhấn mạnh đến các hiệp định kinh tế giữa các nước thì toàn
cầu hoá nhấn mạnh quá trình đan xen kiên kết giữa các công ty trên phạm vi toàn
cầu để hình thành mạng lưới sản xuất quốc tế. Tốc độ của quá trình toàn cầu hoá
thúc đẩy xu hướng tự do hoá FDI, tạo thuận lợi cho các TNCs mở rộng đầu tư.
Trong thập kỉ gần đây, FDI đã khẳng định vai trò của mình đối với những nước
ĐPT, thúc đẩy nhiều nước ban hành và sửa đổi luật ĐTNN, đến năm 1997 có
khoảng 143 nước có luật ĐTNN, riêng năm 1997 có 17 nước ban hành luật mới và
75 nước điều chỉnh luật cũ để tăng mức hấp dẫn FDI.
Toàn cầu hoá thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn quốc tế, giảm bớt các ngăn
cản lưu chuyển vốn, nhanh chóng và hiện đại trong nghiệp vụ giao dịch, đa dạng
hoá các hình thức đầu tư và cung cấp tín hiệu đầy đủ kịp thời cho các nhà đầu tư.

1.3. Ảnh hưởng của môi trường đầu tư trực tiếp nước
ngoài đến FDI.
Đồng vốn bao giờ cũng biết tìm đến nơi có điều kiện sinh lời cao và ổn định, vì vậy
để thu hút ĐTNN, Chính phủ các nước luôn tìm các tạo môi trường thuận lợi cho
ĐTNN. Đó là việc ban hành các luật lệ, chính sách, chế độ liên quan đến hoạt động
ĐTNN, tạo ra sự phát triển ổn định của nền kinh tế, ổn định chính trị xã hội và xây
dựng một hệ thống cơ sở hạ tầng của nền kinh tế.
1.3.1. Ổn định môi trường vĩ mô

Sự ổn định của môi trường vĩ mô là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi
đầu tư. Đối với vốn nước ngoài, điều này càng có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ
hết. Để thu hút được vốn FDI, nền kinh tế nội địa phải là nơi an toàn cho sự vận
động của tiền vốn đầu tư, sau đó là nơi có năng lực sinh lợi cao hơn những nơi
khác. Sự an toàn của dòng vốn đòi hỏi môi trường vĩ mô ổn định, không gặp phải
những rủi ro do các yếu tố chính trị xã hội gây ra.
Một nền kinh tế ổn định vững chắc nhưng không phải và không thể là sự ổn định
bất động, tức là sự ổn định hàm chứa trong đó khả năng trì trệ kéo dài và dẫn tới
khủng hoảng. Một sự ổn định được coi là vững chắc nhưng bất động chỉ có thể là sự
ổn định ngắn hạn.
Tạo ra và duy trì triển vọng tăng trưởng nhanh, lâu bền là một cộng việc đòi hỏi có
sự nỗ lực rất lớn của chính phủ trong việc điều hành kinh tế vĩ mô. Việc tạo lập môi
trường kinh tế vĩ mô ổn định cũng yêu cầu phải giải quyết vẫn đề chống lam phát và
ổn định tiền tệ.
1.3.2. Tạo môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
Môi trường pháp lý đối với hoạt động ĐTNN bao gồm toàn bộ các văn bản pháp
qui có liên quan đến hoạt động đầu tư này, từ hiến pháp cơ bản đến các đạo luật cụ
thể. Điều mà các nhà đầu tư quan tâm trong nội dung của các đạo luật là: Thứ nhất,
có sự đảm bảo pháp lý đối với quyền sở hữu tài sản tư nhân và môi trường cạnh
tranh lành mạnh. Hai là, qui chế pháp lý của việc phân chia lợi nhuận, quyền hồi
hương lợi nhuận đối với các hình thức vận động cụ thể của vốn nước ngoài tại nước
sở tại. Ba là, các qui định về thu thuế, mức thuế các loại, giá và thời hạn thuê đất.
Nếu như các qui định về mặt pháp lý đảm bảo an toàn về vốn của nhà đầu tư không
bị quốc hữu hóa khi hoạt động đầu tư đó không phương hại đến an ninh quốc gia,
đảm bảo mức lợi nhuận cao và việc di chuyển lợi nhuận về nước dễ dàng thì khả
năng hấp dẫn và thu hút vốn ĐTNN càng cao.
1.3.3. Hệ thống kết cấu xây dựng cơ sở hạ tầng
Một trong những trở ngại lớn đối với quá trình đầu tư kinh doanh ở Việt Nam trong
những năm qua là sự nghèo nàn lạc hậu của hệ thống kết cấu cơ sở hạ tầng. Hiện
tượng này đã tồn tại từ rất lâu, do hậu quả của một nền kinh tế kém phát triển trong

thời kì bao cấp, đến nay tình trạng này ngày cành trở nên gay gắt khi nền kinh tế
đang bước vào một thời kì phát triển mới với những kết quả tích cực trong việc gia
tăng sản xuất trong nước và mở rộng quan hệ kinh tế ra nước ngoài.
Kết cấu hạ tầng có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, trong
đó đáng kể là ảnh hưởng đến tốc độ chu chuyển đồng vốn. Đây là vấn đề quan tâm
hàng đầu của các nhà đầu tư trước khi ra quyết định đầu tư. Hệ thống cơ sở hạ tầng
bao gồm cả mạng lưới giao thông, hệ thống thông tin liên lạc và các cơ sở dich vụ
tài chính ngân hàng. Trình độ của các nhân tố này cũng phản ánh trình độ phát triển
kinh tế của một quốc gia, nó tạo ra bộ mặt của đất nước và môi trường cho hoạt
động đầu tư.











CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUÁ
TRÌNH CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNG
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
TẠI VIỆT NAM.
2.1. Quá trình cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Việt Nam
2.1.1. Trước khi Việt Nam gia nhập WTO.
2.1.1.1. Cơ chế, chính sách.
Việt Nam được coi là quốc gia ổn định, an toàn nhất trên thế giới. Đây đựoc coi là

yếu tố đầu tiên tác động đến thu hút ĐTNN. Các nhà đầu tư tin rằng sự ổn định về
chính trị đồng thời sẽ tạo ra sự ổn định về kinh tế xã hội và giảm bớt sự rủi ro cho
họ. Theo báo cáo phát triển thế giới 2005 của ngân hàng thế giới, khảo sát hơn
30000 doanh nghiệp tại 53 nước đang phát triển, ông Martin Rama – chuyên gia
kinh tế trưởng của WB đánh giá môi trường Việt Nam đang rất tốt trong đó có sự
tác động dáng kể của hệ thống luật pháp. Cùng với các nước châu Phi, Việt Nam
được coi là điển hình về cải cách thủ tục pháp lý - một trong những vấn đề cơ bản
để cải thiện môi trường đầu tư trong những năm qua. Môi trường luật pháp này bao
gồm các chính sách, quy định cần thiết đảm bảo sự nhất quán, không mâu thuẫn,
chồng chéo nhau và có tính hiệu lực cao.
- Chính sách sở hữu: với mục đính chính là kiểm soát các hoạt động của các nhà
đầu tư, Việt Nam có quy định các nhà đầu tư nước ngoài phải góp vốn không ít hơn
30%. Hai đạo luật cơ bản trong hoạy động đầu tư là luật Doanh nghiệp và luật Đầu
tư nước ngoài dược Quốc hội thông qua cuối 2005 đã thiết lập mặt bằng chung cho
nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trước đây, nhà đầu tư nước ngoài chỉ được thành
lập cty TNHH, theo luật mới, họ có thể được mở rộng hình thức đầu tư. Chính phủ
Việt Nam cũng cam kết không tịch thu quốc hữu hoá đối với tài sản của các nhà đầu
tư. Trong trường hợp bắt buộc, đảm bảo an ninh quốc phòng, họ sẽ đươc bồi thường
theo quy định. Thêm vào đó, Việt Nam có những bước tiến lớn về bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ sau khi gia nhập công ước Burn.
- Chính sách thuế: chính phủ có quy định rõ ràng về từng loại thuế (thuế đất đai,
thuế thu nhập doang nghiệp, thuế thu nhập cá nhân,..), xây dựng danh mục đầu tư,
ưu đãi đầu tư, miễn giảm thuế trong một số lĩnh vực, có chính sách chuyển lỗ vào
năm sau, hoàn thuế do tái đầu tư cho doanh nghiệp.
- Chính sách lệ phí:quy định về các khoản tiền phải nộp như phí dịch vụ cấp giấy
phép, dịch vụ cơ sở hạ tầng (điện nước,giao thông,thông tin liên lạc, thuê đất...)
Chính sách 2 giá từng làm nhà đầu tư nước ngoài bất bình cũng đã được bãi bỏ, đối
xử bình đẳng đối với mọi nhà đầu tư.
2.1.1.2. Vị trí địa lý và cơ sở hạ tầng.
Đây là những yếu tố tự nhiên như khí hậu, tài nguyên, dân số, khoảng cách.. liên

quan đến việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư và khả năng sinh lời của dự án. Việt Nam
nằm ở trung tâm, có khả năng kết nối với những nước có nền công nghiệp cao như:
Nhật Bản, ĐàiLoan, Singapo, Malaixia... Một trong những điểm thu hút sự đầu tư
vào Việt Nam là những đường bay thẳng tới các địa điểm ở châu Á, châu Âu, châu
Mỹ. Việc không qua trạm chung chuyển ở châu Á mang lại lợi ích lớn cho khách

×