Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Nghiên Cứu Vai Trò Gây Bệnh Của Vi Khuẩn Clostridium Perfringens Trong Hội Chứng Tiêu Chảy Lợn Con Tại Phú Thọ Và Biện Pháp Phòng Trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.4 MB, 98 trang )

1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

NGUYỄN NGỌC MINH TUẤN
NGHIÊN CỨU VAI TRÒ GÂY BỆNH CỦA VI KHUẨN CLOSTRIDIUM
PERFRINGENS TRONG HỘI CHỨNG TIÊU CHẢY LỢN CON TẠI PHÚ THỌ
VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ

Luận văn Thạc sĩ Khoa học Nông Nghiệp

Thái Nguyên - 2010


2

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

NGUYỄN NGỌC MINH TUẤN
NGHIÊN CỨU VAI TRÒ GÂY BỆNH CỦA VI KHUẨN CLOSTRIDIUM
PERFRINGENS TRONG HỘI CHỨNG TIÊU CHẢY LỢN CON TẠI PHÚ THỌ
VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ

Chuyên ngành: Thú y
Mã số: 60 62 50

Luận văn Thạc sĩ Khoa học Nông Nghiệp
Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. Ngô Nhật Thắng


2. PGS.TS. Cù Hữu Phú

Thái Nguyên – 2010


3

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi trực tiếp thực hiện cùng với sự
cộng tác giúp đỡ của PGS.TS. Cù Hữu Phú - Trưởng bộ môn Vi trùng - Viện Thú y Quốc
gia, T.S Ngô Nhật Thắng - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. Các số liệu, hình ảnh
và kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công
trình nào khác. Tôi xin đảm bảo rằng các thông tin, trích dẫn trong luận văn đã được chỉ
rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn

Nguyễn Ngọc Minh Tuấn


4

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên, Viện Thú Y
Quốc Gia, Trường Đại học Hùng Vương đã cho phép và tạo điều kiện giúp đỡ cho chúng
tôi hoàn thành luận văn này.
Xin bày tỏ lòng biết ơn các thầy, cô giáo: PGS. TS. Cù Hữu Phú; GS. Nguyễn Quang
Tuyên; TS. Ngô Nhật Thắng; TS. Đỗ Ngọc Thuý đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ
tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin cảm ơn Khoa sau Đại Học - Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên; Bộ
môn vi trùng - Viện Thú Y Quốc Gia, cùng toàn thể các bạn bè đồng nghiệp đã tận tình

giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Để góp phần thực hiện thành công luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ động
viên lớn của gia đình và đồng nghiệp. Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành
đối với mọi sự giúp đỡ quí báu đó.
Xin trân trọng cảm ơn !
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2010

Nguyễn Ngọc Minh Tuấn


5

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài ..............................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu...................................................................................................2
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn....................................................................................2
PHẦN I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU .................................................................................3
1.1. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước .............................................................3
1.2. Một số hiểu biết về hội chứng tiêu chảy ................................................................6
1.3. Một số hiểu biết về vi khuẩn C. perfringens .........................................................19
1.4. Một số hiểu biết về bệnh do Clostridium gây ra ở lợn ...........................................30
PHẦN II. ĐỐI TƯỢNG, NGUYÊN LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU ..................................................................................................................39
2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu .........................................................39
2.2. Nội dung nghiên cứu ..............................................................................................39
2.3. Nguyên liệu dùng trong nghiên cứu .......................................................................40
2.4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................41
PHẦN III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ............................................54
3.1. Một số đặc điểm dịch tễ hội chứng tiêu chảy ở lợn từ sơ sinh đến 60 ngày tuổi tại

Phú Thọ .........................................................................................................................54
3.2. Kết quả xác định vai trò của vi khuẩn C. perfringens trong hội chứng tiêu chảy ở
lợn từ sơ sinh đến 60 ngày tuổi .....................................................................................69
3.3. Kết quả thử nghiệm phác đồ điều trị tiêu chảy cho lợn .........................................83
PHẦN IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ............................................................................87
4.1. Kết luận ..................................................................................................................87
4.2. Đề nghị ...................................................................................................................88
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................89
PHỤ LỤC...........................................................................................................................96


6

DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng

Trang

Bảng 1.1. Một số loại độc tố chính do vi khuẩn C. perfingens sản sinh ra ........................ 29
Bảng 2.1. Trình tự các nucleotide của các mồi dùng để xác định một số loại độc tố chính
của vi khuẩn C. perfringens ............................................................................................... 49
Bảng 2.2. Các chu kỳ nhiệt của phản ứng PCR ................................................................. 49
Bảng 2.3. Tiêu chuẩn đánh giá mức độ mẫn cảm và kháng kháng sinh theo NCCLS (1999)
............................................................................................................................................ 52
Bảng 3.1. Tỷ lệ lợn tiêu chảy và chết do tiêu chảy tại một số huyện tỉnh Phú Thọ .............................54
Bảng 3.2. Tỷ lệ lợn bị tiêu chảy và chết do tiêu chảy theo phương thức chăn nuôi ……57
Bảng 3.3. Tỷ lệ lợn mắc tiêu chảy và chết do tiêu chảy theo mùa vụ … ........................... 60
Bảng 3.4. Tỷ lệ lợn tiêu chảy và chết do tiêu chảy theo lứa tuổi ....................................... 63
Bảng 3.5: Tổng hợp các triệu chứng của lợn mắc tiêu chảy ............................................ 68
Bảng 3.6. Kết quả phân lập vi khuẩn C. perfringens từ các mẫu bệnh phẩm của lợn mắc

tiêu chảy ............................................................................................................................. 70
Bảng 3.7. Kết quả đếm số lượng vi khuẩn yếm khí trong các mẫu phân lấy từ lợn bị tiêu
chảy và lợn bình thường .................................................................................................... 72
Bảng 3.8. Kết quả kiểm tra đặc điểm hình thái, tính chất nuôi cấy và một số đặc tính sinh
vật hóa học của các chủng vi khuẩn C. perfringens ......................................................... 74
Bảng 3.9: Kết quả xác định typ C của các chủng vi khuẩn C. perfringens phân lập được 76
Bảng 3.10: Kết quả xác định typ A của các chủng vi khuẩn C. perfringens phân lập được
............................................................................................................................................ 77
Bảng 3.11: Kết quả định typ của vi khuẩn C. perfringens ở lợn con từ sơ sinh đến 60 ngày
tuổi ..................................................................................................................................... 77
Bảng 3.12. Kết quả tiêm canh trùng của một số chủng C. perfringens phân lập được trên
chuột bạch .......................................................................................................................... 80
Bảng 3.13: Kết quả kiểm tra khả năng mẫn cảm với kháng sinh của các chủng vi khuẩn C.
perfringens phân lập được ................................................................................................. 82
Bảng 3.14. Tỷ lệ lợn tiêu chảy sau khi tiêm phòng bằng vacxin tại một số huyện tỉnh Phú
Thọ ..................................................................................................................................... 84


7

Bảng 3.15: Kết quả thử nghiệm phác đồ điều trị tiêu chảy lợn con ..........................................85
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 3.1. Kết quả giám định C. perfringens typ A bằng PCR .......................................... 78
Hình 3.2. Kết quả giám định C. perfringens typ C bằng PCR............................................ 79
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1: Quy trình phân lập và giám định vi khuẩn C. perfringens dựa trên quy trình của
NCCLS (1999).................................................................................................................... 44


8


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADN

: Acid Deoxyribonucleic

BHI

: Brain Heart Infusion

CFU

: Colony Forming Unit

CW

: Clostridium Welchii

Cs

: cộng sự

C. perfringens

: Clostridium perfringens

E.coli

: Escherichia coli


FAO

: Food and Agriculture Organization

NCCLS

: The National Communittee for Clinical
Laboratory Standards (Hội đồng quốc gia Hoa Kỳ
về các tiêu chuẩn lâm sàng phòng thí nghiệm)

OIE

: World organization for animal health

Sp.

: species

TAE

: Tris - Acetic - EDTA

TBE

: Tris - Borat - EDTA

TGC

: Thioglycollate Medium U.S.P



9

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chăn nuôi là một ngành kinh tế quan trọng trong sản xuất Nông nghiệp, nó không
những đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho tiêu dùng hàng ngày của mọi người dân trong xã
hội mà còn là nguồn thu nhập quan trọng của hàng triệu người dân hiện nay.
Theo Tổng cục thống kê tổng đàn lợn tại thời điểm 1/10/2009 có 27.627 triệu con,
sản lượng lợn xuất chuồng ước đạt 2.931 triệu tấn. Sản lượng thịt chiếm 65% trong tổng
sản lượng thịt các loại. Tại Phú Thọ, tổng đàn lợn đến thời điểm 1/10/2009 hiện có
642.661 nghìn con, sản lượng lợn hơi xuất chuồng đạt 34.363,8 tấn. Chăn nuôi lợn đang
trở thành một nghề mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, dịch bệnh hàng năm cũng
gây không ít khó khăn cho người chăn nuôi nhất là bệnh của lợn con. Trong các bệnh của
lợn con thì Hội chứng tiêu chảy đã và đang là mối quan tâm của người chăn nuôi cũng như
của các nhà khoa học.
Trong hội chứng tiêu chảy, bên cạnh những tác động bất lợi của điều kiện ngoại
cảnh, của ký sinh trùng, sự không phù hợp của khẩu phần ăn của lợn mẹ cũng như lợn con
thì vai trò của các vi khuẩn gây bệnh đường ruột là những yếu tố đóng vai trò rất quan
trọng trong sự hình thành bệnh.
Hậu quả của bệnh là gây ra những thiệt hại không nhỏ cho các cơ sở chăn nuôi về cả
số lượng và chất lượng con giống. Thiệt hại đáng kể nhất thường gặp là ở gia súc non trong
giai đoạn bú sữa. Bệnh có thể do một hoặc nhiều loài vi khuẩn gây nên, song một trong
những bệnh gây chết nhiều gia súc non giai đoạn đầu sau khi sinh ra là bệnh viêm ruột hoại
tử (VRHT), bệnh chủ yếu là do vi khuẩn Clostridium perfringens gây ra. Những gia súc
non trong đó có lợn, khi mắc bệnh thường tiêu chảy, phân thối, lẫn chất keo nhầy, tỷ lệ
chết cao.
Theo Phan Thanh Phượng và cs (1996) [28]: Vi khuẩn Clostridium perfringens gây
viêm ruột hoại tử xuất huyết trầm trọng, cấp tính ở lợn sơ sinh, tỷ lệ chết do bệnh này gây ra
từ 50-100%, gây thiệt hại lớn cho người chăn nuôi lợn.

Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, chúng tôi nhận thấy việc nghiên cứu, xác định yếu tố
gây ra tiêu chảy do vi khuẩn Clostridium perfringens ở lợn con từ 1-60 ngày tuổi và đưa ra


10

phác đồ phòng, điều trị bệnh thích hợp tại Phú Thọ sao cho có hiệu quả kinh tế nhất nhằm
giải quyết thiệt hại cho người chăn nuôi lợn là rất cần thiết. Vì vậy, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài "Nghiên cứu vai trò gây bệnh của vi khuẩn Clostridium perfringens
trong hội chứng tiêu chảy lợn con tại Phú Thọ và biện pháp phòng trị".
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định một số đặc điểm dịch tễ hội chứng tiêu chảy ở lợn từ sơ sinh đến 60 ngày
tuổi và tình hình nhiễm khuẩn C. perfringens ở lợn nuôi tại tỉnh Phú Thọ.
- Phân lập, xác định đặc tính sinh hóa, xác định serotyp và khả năng mẫn cảm với kháng
sinh của các chủng C. perfringens ở lợn từ sơ sinh đến 60 ngày tuổi mắc bệnh tiêu chảy.
- Thử nghiệm vacxin phòng bệnh tiêu chảy và điều trị thử nghiệm lợn con bị tiêu chảy tại
Phú Thọ.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Đã xác định được vi khuẩn C. perfringens gây bệnh tiêu chảy cho lợn 1-60 ngày tuổi
ở Phú Thọ và đưa ra phác đồ điều trị có hiệu quả, giúp cho thú y cơ sở và các hộ chăn nuôi
trong phòng trị hội chứng tiêu chảy ở lợn, góp phần giảm thiệt hại và tăng thu nhập trong
chăn nuôi lợn.


11

PHẦN I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC
1.1.1. Nghiên cứu trong nước

Ở Việt Nam, bệnh viêm ruột hoại tử ở lợn do Clostridium perfringens (C. perfingens)
gây ra từ lâu đã gây nhiều thiệt hại cho chăn nuôi và cho sức khỏe cộng đồng. Các thông
báo về bệnh trên người lần đầu tiên đã được công bố vào những năm 70 của thế kỷ XX.
Ở gia súc, năm 1994, bệnh viêm ruột hoại tử đã gây chết rất nhiều hươu nai. Nguyễn
Ngọc Nhiên và cs (1996) [23] đã nghiên cứu và xác định được nguyên nhân gây bệnh này
là vi khuẩn C. perfingens. Kết quả cho thấy, C. perfingens không chỉ gây viêm ruột hoại tử
cho lợn con, gây nhiễm độc ruột huyết cho ngựa con mà còn gây viêm ruột hoại tử cho
hươu, nai ở mọi lứa tuổi. Tuy nhiên, vào thời điểm này các nhà khoa học vẫn chưa xác
định được bệnh do C. perfingens thuộc typ nào gây ra.
Nghiên cứu của Phan Thanh Phượng và cs (1996) [28] về bệnh viêm ruột tiêu chảy ở
lợn cũng đã thấy số lượng C. perfingens tăng tới hàng triệu vi khuẩn trong 1 gam phân so
với lợn khỏe mạnh.
Từ năm 1997, tại nhiều địa phương trong nước đã xuất hiện hiện tượng bê, nghé,
trâu, bò chết đột ngột với số lượng lớn. Ban đầu, bệnh này đã nhầm với bệnh tụ huyết trùng
bởi cả hai bệnh này đều gây chết đột ngột. Tuy nhiên, khi áp dụng các biện pháp phòng trị
tụ huyết trùng đối với các gia súc có triệu chứng của bệnh thì không thấy có hiệu quả. Sau
đó, các chẩn đoán trong phòng thí nghiệm đã xác định được nguyên nhân gây bệnh là vi
khuẩn C. perfingens và E. coli, trong đó, C. perfingens đóng vai trò quan trọng. Bệnh phát
ra do cơ thể suy yếu bởi các yếu tố như: bệnh ký sinh trùng đường máu, khẩu phần ăn mất
cân đối…Các yếu tố này tác động đến sự phát triển của vi khuẩn C. perfingens, khả năng sản
sinh độc tố ruột của vi khuẩn tăng lên và gây bệnh (Lê Văn Tạo (2006) [33]).
Trần Thị Hạnh (2000) [11] đã nghiên cứu vai trò của vi khuẩn E. coli và C.
perfingens trong bệnh tiêu chảy ở lợn con và đã kết luận ngoài vi khuẩn E.coli là nguyên
nhân gây bệnh chính, một tác nhân gây bệnh cũng quan trọng khác là C. perfingens typ C.
Vi khuẩn này gây viêm ruột hoại tử, xuất huyết ở lợn sơ sinh và gây ra tỷ lệ chết cao từ 50100%.


12

Trần Thị Hạnh và Đặng Xuân Bình (2004) [12] khi nghiên cứu nguyên nhân gây tiêu

chảy ở lợn con cũng khẳng định một trong những nguyên nhân gây bệnh quan trọng là C.
perfingens typ C. Từ các kết quả thu được, các tác giả đã nghiên cứu và chế tạo thử nghiệm
thành công chế phẩm sinh học: C. perfingens - toxoid, EBC để phòng và trị bệnh. Các chế
phẩm này đưa vào sử dụng thử nghiệm không những cho kết quả tốt trong phòng và trị
bệnh cho lợn mà còn có tác dụng kích thích tăng trọng và giảm tiêu tốn thức ăn.
Theo thông báo của Nguyễn Thị Nội và cs (1989) [22], Lê Minh Chí (1996) [3] thì
trong một vài thập kỷ qua hội chứng tiêu chảy ở Việt Nam là một vấn đề thời sự, lợn ở rất
nhiều địa phương bị bệnh và gây thiệt hại khá nghiêm trọng. Theo các kết quả nghiên cứu
của Hồ Văn Nam và cs (1997) [19], Hoàng Văn Tuấn, Lê Văn Tạo (1998) [42], cho thấy tỷ
lệ mắc bệnh đường tiêu hóa ở lợn rất cao, nhất là viêm ruột ỉa chảy.
Theo các tác giả: Đào Trọng Đạt, Phan Thanh Phượng và cs (1996) [9], Hồ Văn Nam
và cs (1995) [20], cho dù bất cứ nguyên nhân nào dẫn đến tiêu chảy, thì hậu quả của nó
cũng gây ra viêm nhiễm tổn thương thực thể đường tiêu hóa và cuối cùng là quá trình
nhiễm trùng.
Hồ Văn Nam và cs (1997) [19] nhấn mạnh rằng vi khuẩn đường ruột có vai trò không
thể thiếu được trong hội chứng tiêu chảy. Nguyễn Thị Nội và cộng sự (1989) [22], sau khi
điều tra tình hình nhiễm vi khuẩn đường ruột tại một số cơ sở chăn nuôi lợn, kết luận:
Nguyên nhân gây tiêu chảy chủ yếu ở một số cơ sở chăn nuôi lợn là: E.coli, Salmonella,
Streptococus, bên cạnh đó còn thường xuyên phân lập được Klebsiella, Proteus và
Pseudomonas. Đào Trọng Đạt, Phan Thanh Phượng, Lê Ngọc Mỹ, Huỳnh Văn Kháng
(1996) [9] cho biết: Đứng đầu trong số các mầm bệnh vi khuẩn đường ruột gây tiêu chảy là
E.coli. Cũng theo tác giả, vi khuẩn yếm khí C. perfingens gây bệnh khi có điều kiện thuận
lợi sẽ trở thành vai trò chính.
1.1.2. Nghiên cứu ngoài nước
Vi khuẩn C. perfingens được phân lập lần đầu tiên vào năm 1892. Kể từ đó đến nay
đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về vi khuẩn này (Nguyễn Như Thanh và cs, (1997)
[35]).
Năm 1931, bằng phương pháp trung hòa kháng độc tố với độc tố thu được từ môi
trường nuôi cấy vi khuẩn, Wilsdon đã phân loại được 4 typ C. perfingens gây bệnh là A,B,
C, D. Năm 1943, cũng bằng phương pháp trên Bosworth đã phát hiện thêm typ E.

(Hatheway, (1990) [56]).


13

Trong quá trình nghiên cứu, chiết tách các loại độc tố, Hogh (1974) [58] đã phát hiện
thấy: ngoài độc tố β -toxin có hàm lượng cao nhất trong chất chứa ở ruột, còn có một vài
loài độc tố khác như: α- toxin (Lecitinase), κ- toxin (Collagenase), µ- toxin
(Hyaluronidase) và δ- toxin. Con vật chết trong các ca bệnh viêm ruột hoại tử do C.
perfingens typ C chính là do vai trò tác động của các độc tố, mà chủ yếu là do độc tố gây
ra.
Ngoài ra, vi khuẩn C. perfringens còn là một trong những nguyên nhân gây ngộ độc
thức ăn, tiêu chảy và viêm ruột hoại tử ở trẻ em và nhiều loại động vật, đặc biệt là ở gia súc
non (Roeder và cs, (1987) [64]).
Năm 1989, nhiều công trình nghiên cứu ở Anh, Pháp, Mỹ đã công bố thành công
trong việc giải trình tự gen mã hóa độc tố alpha (α). Năm 1996, Songer [67] đã dùng
phương pháp PCR và ELISA để xác định các loại độc tố của vi khuẩn C. perfingens
(Songer J.G (1996) [67]). Đến năm 1997, người ta đã dùng phương pháp multiplex PCR để
xác định các typ khác của vi khuẩn C. perfingens (Choi và cs, (2003) [52]).
Đến nay, phương pháp PCR nói chung và multiplex PCR nói riêng đã được sử dụng rộng rãi
ở khắp nơi trên thế giới trong chẩn đoán và định typ C. perfingens.
Trong các typ vi khuẩn C. perfingens gây bệnh, thì typ C có sự phân bố rộng, và khả
năng gây bệnh cho người cũng như động vật cao hơn cả so với những typ khác. Viêm ruột
hoại tử ở những động vật non do vi khuẩn C. perfingens bởi typ C được tìm ra ở Anh và
Hungari từ năm 1955, sau đó vi khuẩn này được nghiên cứu và tìm ra ở nhiều quốc gia
khác trên thế giới như: Mỹ, Đan Mạch, Liên Xô, Hà Lan, Canada, Nhật Bản cũng như hầu
khắp các quốc gia trên thế giới (Taylor và cs, (1986) [68]).
Với khả năng hình thành giáp mô, nên ngoài kháng nguyên thân, vi khuẩn C.
perfingens còn có cả kháng nguyên giáp mô. Vi khuẩn còn có khả năng sản sinh ra nhiều
loại độc tố và các enzym khác nhau. Trong mỗi chủng của vi khuẩn này, với những đặc

điểm riêng biệt giữa chúng lại có thể sản sinh ra một vài loại độc tố hoặc enzym khác nhau,
gây ra quá trình bệnh phong phú và thể loại và phức tạp trong bệnh lý do độc tính gây ra
(Roeder và cs, (1987) [64]).
1.2. MỘT SỐ HIỂU BIẾT VỀ HỘI CHỨNG TIÊU CHẢY
1.2.1. Khái niệm chung về hội chứng tiêu chảy


14

Tiêu chảy là biểu hiện lâm sàng của quá trình bệnh lý đặc thù về đường tiêu hoá.
Biểu hiện lâm sàng này tuỳ theo đặc điểm, tính chất diễn biến, mức độ tuổi mắc bệnh, tuỳ
theo yếu tố được coi là nguyên nhân chính mà nó được gọi theo nhiều tên bệnh khác nhau
như: Bệnh xảy ra đối với gia súc non theo mẹ gọi là bệnh lợn con phân trắng còn ở gia súc
sau cai sữa là chứng khó tiêu, chứng rối loạn tiêu hoá…
Với bất cứ cách gọi như thế nào thì tiêu chảy luôn là triệu chứng phổ biến trong các
dạng bệnh của đường tiêu hoá, xảy ra mọi lúc mọi nơi và đặc biệt là gia súc non với biểu
hiện triệu chứng là ỉa chảy, mất nước và chất điện giải, suy kiệt có thể dẫn đến trụy tim mạch
(Radostits.O. M và cs (1994) [65]).
Tiêu chảy ở gia súc là một hiện tượng bệnh lý phức tạp gây ra bởi sự tác động tổng
hợp của nhiều yếu tố. Một trong những nguyên nhân quan trọng là sự tác động của ngoại
cảnh bất lợi, gây ra các stress cho cơ thể, mặt khác trong các khâu chăm sóc nuôi dưỡng
gia súc, chuồng trại không vệ sinh thường xuyên sạch sẽ, thức ăn nước uống bị nhiễm
khuẩn… cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các vi sinh vật gây bệnh xâm nhập vào vật chủ,
đặc biệt là các vi sinh vật gây bệnh đường tiêu hoá dẫn tới sự nhiễm khuẩn và dễ xảy ra
loạn khuẩn đường ruột. Đây là một trong những nguyên nhân đóng vai trò quan trọng trong
hội chứng tiêu chảy ở lợn. Bệnh lý xuất hiện thường là thể cấp tính hoặc mãn tính, tuỳ
thuộc vào tính chất và nguyên nhân bệnh tác động. Đặc điểm của sự rối loạn về tiêu hoá
thường gây tiêu chảy nhiều lần trong ngày, trong phân có nhiều nước so với bình thường
do tăng tiết dịch ruột (Blackwell, (1989) [50]).
1.2.2. Một số nguyên nhân gây tiêu chảy ở lợn

Tiêu chảy là một hiện tượng bệnh lý có liên quan đến nhiều yếu tố, có yếu tố là
nguyên nhân nguyên phát, có yếu tố là nguyên nhân thứ phát. Vì vậy, việc phân biệt giữa
các nguyên nhân gây tiêu chảy là rất khó khăn (Phạm Ngọc Thạch, (1996) [36]). Bằng rất
nhiều công trình nghiên cứu, các nhà khoa học đã đưa ra những nguyên nhân chính gây hội
chứng tiêu chảy ở lợn như sau:
1.2.2.1 Ảnh hưởng của môi trường, khí hậu
Môi trường ngoại cảnh là yếu tố quan trọng ảnh huởng đến sức đề kháng của cơ thể gia
súc. Khi có sự thay đổi các yếu tố như nhiệt độ, độ ẩm, mưa, nắng, điều kiện chuồng nuôi đều
ảnh hưởng đến sức khoẻ của lợn, đặc biệt là lợn con theo mẹ, do cấu tạo và chức năng sinh lý


15

chưa ổn định và hoàn thiện, khi gặp các yếu tố bất lợi dễ bị stress dẫn đến nhiều bệnh trong đó có
tiêu chảy.
Trong các yếu tố khí hậu thì nhiệt độ lạnh và ẩm độ của gia súc bị nhiễm lạnh kéo dài
sẽ làm giảm phản ứng miễn dịch, giảm tác dụng thực bào, làm cho gia súc dễ bị nhiễm khuẩn
gây bệnh (Hồ Văn Nam và cs (1997) [20]).
Khẩu phần ăn cho vật nuôi không thích hợp, trạng thái thức ăn không tốt, thức ăn
kém chất lượng như mốc, thối, nhiễm các tạp chất, các vi sinh vật có hại dễ dẫn đến rối
loạn tiêu hoá kèm theo viêm ruột, ỉa chảy ở gia súc (Trịnh Văn Thịnh, (1985a) [40]).
Khi gặp điều kiện ngoại cảnh không thuận lợi, thay đổi đột ngột về thức ăn,
vitamin, protein, thời tiết, vận chuyển… làm giảm sức đề kháng của con vật thì các vi
khuẩn thường trực sẽ tăng độc tố và gây bệnh (Bùi Quý Huy, (2003) [13]).
Như vậy nguyên nhân môi trường ngoại cảnh gây bệnh tiê u chảy không mang tính
đặc hiệu mà mang tính tổng hợp. Lạnh và ẩm gây rối loạn hệ thống điều hoà trao đổi nhiệt
của cơ thể, dẫn đến rối loạn trao đổi chất các mầm bệnh có thời cơ tăng cường độc lực và
gây bệnh.
1.2.2.2. Nguyên nhân do vi sinh vật
Vi sinh vật bao gồm các loại virus, vi khuẩn và nấm mốc. Chúng vừa là nguyên nhân

nguyên phát, cũng vừa là nguyên nhân thứ phát gây tiêu chảy.
* Tiêu chảy do vi khuẩn
Trong đường tiêu hoá của gia súc có hệ vi khuẩn gọi là hệ vi khuẩn đường ruột được
chia thành 2 loại: Các vi khuẩn có lợi có tác dụng lên men phân giải các chất dinh dưỡng,
giúp cho quá trình tiêu hoá được thuận lợi và vi khuẩn có hại khi gặp điều kiện thuận lợi
thì gây bệnh.
Vi khuẩn đường ruột là họ vi khuẩn cộng sinh thường trực trong đường ruột. Các vi
khuẩn này, muốn từ vi khuẩn cộng sinh trở thành vi khuẩn gây bệnh phải có 3 điều kiện
(Jones, 1980, dẫn theo Lê Văn Tạo, (1997) [32]):
- Trên cơ thể vật chủ có cấu trúc giúp cho vi khuẩn thực hiện được chức năng bám
dính.


16

- Vi khuẩn có khả năng sản sinh các yếu tố gây bệnh, đặc biệt là sản sinh độc tố,
trong đó quan trọng là độc tố đường ruột Enterotoxin có khả năng xâm nhập vào lớp tế bào
biểu mô của niêm mạc ruột, từ đó phát triển nhân lên.
Một số vi khuẩn đường ruột là E.coli, Samonella sp, Shigella, C. perfingens... luôn là
những nguyên nhân gây nên sự rối loạn về tiêu hoá, viêm ruột và tiêu chảy ở người cùng
nhiều loài động vật. Đào Trọng Đạt và cộng sự (1996) [8] cho biết: Chiếm tỷ lệ cao nhất
trong số các vi khuẩn đường ruột gây tiêu chảy là E.coli (45,6%). Cũng theo tác giả này, vi
khuẩn yếm khí C. perfingens gây bệnh khi có điều kiện thuận lợi và khi nó trở thành vai trò
chính. Hồ Văn Nam và cộng sự (1997) [19], Archie. H (2000) [44] nhấn mạnh: Vi khuẩn
đường ruột có vai trò không thể thiếu được trong hội chứng tiêu chảy.
Vũ Bình Minh, Cù Hữu Phú (1999) [18] khi nghiên cứu về E. coli và Salmonella ở
lợn tiêu chảy cho biết tỷ lệ phát hiện E. coli độc trong phân là 80-90% số mẫu xét nghiệm.
Theo Phan Thanh Phượng và cs (1996) [28], vi khuẩn yếm khí C. perfingens là một
trong những tác nhân gây bệnh quan trọng trong hội chứng tiêu chảy của lợn ở lứa tuổi từ
1-120 ngày tuổi. Ở lợn con theo mẹ, tỷ lệ mắc bệnh do vi khuẩn này gây ra có thể đến

100% và tỷ lệ chết lên đến 60%. Lượng vi khuẩn C. perfingens chứa trong 1g phân lợn ở
lứa tuổi 1-60 ngày tuổi dao động từ 106 ÷ 1010/0,2 ml CFU (Colonial forming unit); số mẫu
có lượng vi khuẩn cao (108, 109, 1010) chiếm tỷ lệ 37-45%. Ở lợn từ 60-120 ngày tuổi bị
tiêu chảy, số lượng vi khuẩn trong 1g phân (ở mức 108, 109) chiếm tỷ lệ 27,14% - 35,71%.
* Tiêu chảy do virus
Ngoài nguyên nhân gây bệnh tiêu chảy cho lợn do vi khuẩn còn có nguyên nhân do
virus. Đã có nhiều công trình nghiên cứu khẳng định vai trò của một số virus như:
Rotavirus, Enterovirus, Transmissible Gastroenteritis (TGE) là những nguyên nhân chủ
yếu gây viêm dạ dày- ruột và gây triệu chứng tiêu chảy đặc trưng ở lợn. Các virus này tác
động gây viêm ruột và gây rối loạn quá trình tiêu hoá, hấp thu của lợn và cuối cùng dẫn
đến triệu chứng tiêu chảy.
Theo tài liệu của Bergeland (1986) [49] trong số những mầm bệnh thường gặp ở lợn
trước và sau cai sữa bị mắc tiêu chảy có rất nhiều loại virus: 20,9% lợn bệnh phân lập được
Rotavirus; 11,2% có virus viêm dạ dày- ruột truyền nhiễm; 2% có Enterovirus; 0,7% có
Parvovirus.
* Tiêu chảy do nấm mốc


17

Thức ăn khi chế biến hoặc bảo quản không đúng kỹ thuật dễ bị nấm mốc. Một số loài như:
Aspergillus, Penicillin, Fusarium...có khả năng sản sinh nhiều độc tố, nhưng quan trọng nhất là
nhóm độc tố Aflatoxin (Aflatoxin B2, G1, G2, M1).
Độc tố Aflatoxin gây độc cho người và gia súc, gây bệnh nguy hiểm nhất cho người
là ung thư gan, huỷ hoại gan, độc cho thận, sinh dục và thần kinh. Aflatoxin gây độc cho
nhiều loài gia súc, gia cầm, mẫm cảm nhất là vịt, gà, lợn. Lợn thường bỏ ăn, thiếu máu,
vàng da, ỉa chảy ra máu. Nếu trong khẩu phần có 500-700 µg Aflatoxin/kg thức ăn sẽ
làm cho lợn con chậm lớn, còi cọc, giảm sức đề kháng với các bệnh truyền nhiễm khác
(Lê Thị Tài, (1997) [34]).
1.2.2.3. Nguyên nhân do Ký sinh trùng

Có nhiều loại ký sinh trùng gây bệnh tiêu chảy ở lợn như: Cầu trùng (Eimeria,
isospora suis), Crytosporidium, Ascaris suum, Trichuris suis... hoặc một số loài giun tròn
khác thuộc lớp Nematoda ...
Bệnh doisopora suis, Crytosporidium thường tập trung vào giai đoạn lợn con từ 5 25 ngày tuổi, còn ở lợn trên 2 tháng tuổi do cơ thể đã tạo được miễn dịch đối với bệnh cầu
trùng, nên lợn chỉ mang mầm bệnh mà ít khi xuất hiện triệu chứng tiêu chảy (Nguyễn Như
Pho, (2003) [29]).
Cầu trùng và một số loại giun tròn (giun đũa, giun tóc, giun lươn) là một trong những
nguyên nhân gây tiêu chảy ở lợn sau cai sữa nuôi trong c ác hộ gia đình tại Thái Nguyên
(Nguyễn Thị Kim Lan và cs, (2006a) [15]). Đặc điểm chủ yếu của tiêu chảy do ký sinh
trùng là con vật mắc bệnh bị tiêu chảy nhưng không liên tục, có sự xen kẽ giữa tiêu chảy
và bình thường, cơ thể thiếu máu, da nhợt nhạt, gia súc kém ăn, thể trạng sa sút.
Như vậy có thể thấy, có rất nhiều nguyên nhân gây tiêu chảy, nhưng theo một số
chuyên gia nghiên cứu về bệnh tiêu chảy ở lợn như Nguyễn Thị Nội (1985) [21], Lê Văn
Tạo (1997) [31], Hồ văn Nam (1997) [19] thì cho dù nguyên nhân nào gây tiêu chảy cho
lợn đi nữa, cuối cùng cũng là quá trình nhiễm khuẩn, vi khuẩn kế phát viêm ruột, tiêu chảy
nặng thêm, có thể dẫn đến chết hoặc viêm ruột tiêu chảy mãn tính.
1.2.3. Bệnh lý lâm sàng của hội chứng tiêu chảy
1.2.3.1. Cơ chế sinh bệnh


18

Cơ chế sinh bệnh của hội chứng tiêu chảy là quá trình rối loạn chức phận bộ máy tiêu
hoá và nhiễm khuẩn. Hai quá trình này có thể diễn ra đồng thời, hoặc cũng có thể quá trình
này trước, quá trình kia sau và ngược lại song không thể phân biệt rõ được từng quá trình.
Theo Phạm Ngọc Thạch (1996) [36], khi thiếu mật thì có tới 60% mỡ không tiêu hoá
được gây ra chứng đầy bụng khó tiêu và ỉa chảy, hoặc việc giảm hấp thu cũng dẫn đến ỉa
chảy.
Trịnh Văn Thịnh (1985b) [41] cho rằng: Do một tác nhân bất lợi nào đó, trạng thái
cân bằng của khu hệ vi khuẩn đường ruột bị phá vỡ tất cả hoặc chỉ một loài nào đó sinh sản

quá nhiều sẽ gây hiện tượng loạn khuẩn, gây ra sự biến động ở nhóm vi khuẩn đường ruột,
cũng như ở nhóm vi khuẩn vãng lai, các vi khuẩn gây bệnh có cơ hội tăng mạnh cả về số
lượng và độc lực, các vi khuẩn có lợi cho quá trình tiêu hoá do không cạnh tranh nổi nên
giảm đi, cuối cùng loạn khuẩn xảy ra, hấp thu bị rối loạn gây tiêu chảy.
1.2.3.2. Bệnh lý, lâm sàng của hội chứng tiêu chảy
Bệnh lý, lâm sàng của hội chứng tiêu chảy ở gia súc đó là sự biến đổi về tổ chức, tình
trạng mất nước và điện giải, trạng thái trúng độc của cơ thể bệnh.
Khi nghiên cứu về tiêu chảy ở lợn do vi khuẩn E. coli, Nguyễn Như Pho (2003) [29]
cho rằng, ruột chỉ xung huyết, không thấy xuất huyết, không có vết loét hoặc hoại tử như
trong bệnh phó thương hàn. Sự mất nước kéo theo mất các chất điện giải, trong đó đặc biệt
-

là các ion: HCO-3, K+, Na+, Cl … đồng thời, khi gia súc bị rối loạn tiêu hoá thì cũng làm
cản trở đến khả năng tái hấp thu nước ở gia súc ỉa chảy, nếu lượng dịch mất di trong đường
ruột vượt quá lượng dịch đưa vào khi ăn uống, thận sẽ cố gắng bù lại bằng cách cô đặc
nước tiểu để giảm lượng nước thải ra. Nếu thận không bù được mức dịch thể trong tổ chức
bị giảm và máu bị đặc lại.
Hiện tượng này gọi là mất nước và triệu chứng lâm sàng là yếu, bỏ ăn, thân nhiệt hạ
thấp và có thể truỵ tim, mắt bị hõm sâu, nhìn lờ đờ, da khô khi véo da lên nếp da chậm trở
lại vị trí cũ (Archie. H, (2000) [44]). Lợn bị tiêu chảy gầy sút nhanh, da nhăn, tính đàn hồi
kém; nếu tiêu chảy lâu ngày lợn gày nhô xương sống, da thô, lông dựng ngược. Mặt khác
khi cơ thể mất nước và chất điện giải kéo theo sự biến đổi hàng loạt các bệnh lý khác nhau.
Hiện tượng trúng độc xảy ra do thức ăn lên men phân giải sinh độc tố, hệ vi khuẩn
đường ruột sinh sôi, sản sinh ra nhiều độc tố. Các độc tố đó cùng với các sản phẩm của
viêm, tổ chức phân huỷ ngấm vào máu tác động vào gan làm chức năng gan rối loạn, gia


19

súc bị trúng độc, đồng thời tác động cản trở quá trình tiêu hoá tiếp tục, quá trình gây tiêu

chảy nặng hơn, tăng nguy cơ nhiễm độc máu và gây tử vong (Nguyễn Quang Tính, (2009),
[39]).
1.2.3.3. Hậu quả của hội chứng tiêu chảy
Hậu quả trực tiếp và nặng nề của hiện tượng tiêu chảy là sự mất nước và mất các chất
điện giải của cơ thể, kéo theo hàng loạt các biến đổi bệnh lý (Lê Minh Chí, (1995) [2]).
Hiện tượng mất nước rất nghiêm trọng và có thể gây chết nếu không được điều chỉnh. Gia
súc non dự trữ dịch thể tương đối thấp nên đặc biệt mẫn cảm với sự mất nước. Vì vậy,
trong điều trị tiêu chảy luôn luôn phải đặt vấn đề điều trị mất nước lên hàng đầu (Archie. H
(2000) [44]).
Lợn bị tiêu chảy giảm khả năng tiêu hoá, chuyển hoá và hấp thụ các chất dinh dưỡng
nên lợn gày còm, chậm tăng trọng, dễ dàng mắc các bệnh khác (Phạm Sỹ Lăng và cs,
(2002) [17]).
Ở lợn, hiện tượng tiêu chảy thường có quá trình nhiễm khuẩn. Khi tiêu chảy do
nhiễm khuẩn, các triệu chứng trầm trọng hơn và hậu quả để lại nặng nề hơn, có thể kế phát
nhiều bệnh khác, gây thiệt hại cho ngành chăn nuôi. Như vậy, với mỗi một nguyên nhân
gây bệnh khác nhau để lại những hậu quả khác nhau (Cù Hữu Phú và cs, (1999), [30]).
1.2.3.4. Một số đặc điểm dịch tễ của hội chứng tiêu chảy
Hội chứng tiêu chảy ở gia súc do nhiều nguyên nhân gây ra. Chính vì vậy, sự xuất
hiện của bệnh phụ thuộc vào sự xuất hiện các nguyên nhân và sự tương tác giữa nguyên
nhân với cơ thể gia súc. Các yếu tố như tuổi gia súc, mùa vụ, thức ăn, chuồng trại, điều
kiện chăm sóc, nuôi dưỡng... đều có ảnh hưởng đến hội chứng tiêu chảy ở gia súc.
Ở lợn, hội chứng tiêu chảy có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi. Archie. H (2000) [44] cho
rằng khi bệnh tiêu chảy xảy ra, thường gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi. Bệnh thường
xuất hiện ở 3 giai đoạn phát triển của lợn:
- Giai đoạn sơ sinh (1-4 ngày tuổi)
- Giai đoạn lợn con theo mẹ (5-21 ngày tuổi)
- Giai đoan lợn sau cai sữa (>21 ngày tuổi)
Tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy trong một số cơ sở chăn nuôi lợn phụ thuộc vào điều kiện
chăm sóc, vệ sinh thú y, còn tỷ lệ chết, mức độ trầm trọng của bệnh ở một đàn phụ thuộc
vào giai đoạn mắc bệnh (Đoàn Kim Dung, (2003) [7], Hoàng Văn Tuấn và cs, (1998)

[42]).


20

Khi nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ hội chứng tiêu chảy ở lợn từ sau cai sữa của các
hộ chăn nuôi gia đình tại Thái Nguyên, Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2006b) [16] cho rằng, bệnh
chịu ảnh hưởng rõ rệt của lứa tuổi mắc bệnh, mùa vụ trong năm, các loại thức ăn, nền chuồng và
tình trạng vệ sinh thú y.
Về độ tuổi mắc bệnh, tỷ lệ lợn tiêu chảy giảm theo tuổi, cao nhất ở giai đoạn sau cai
sữa đến 2 tháng (13,9%), sau đó giảm dần và chỉ còn 5,55% ở lợn trên 6 tháng tuổi
(Nguyễn Thị Kim Lan và cs, (2006b) [16]).
Về mùa vụ, bệnh tiêu chảy ở lợn con theo mẹ xảy ra quanh năm, nhưng cao nhất là
tháng 5-8 (Hoàng Văn Tuấn và cs, (1998) [42]). Trong năm, lợn nuôi ở mùa xuân và mùa
hè mắc tiêu chảy cao hơn (13,67-14,75%) so với 2 mùa còn lại (9,18-9,68%) (Nguyễn Thị
Kim Lan và cs, (2006b) [16]).
Về thức ăn, lợn nuôi thức ăn tổng hợp dạng viên, không qua chế biến, mắc tiêu chảy
với tỷ lệ 8,96%. Tỷ lệ này tăng lên khi cho thức ăn truyền thống mang tính tận dụng và ăn
rau sống (16,1%) (Nguyễn Thị Kim Lan và cs, (2006b) [16]).
Điều kiện chuồng trại vệ sinh cũng có ảnh hưởng khá rõ rệt đến tỷ lệ mắc tiêu chảy ở
lợn. Lợn nuôi trong nền lát gạch có tỷ lệ tiêu chảy là 9,49%, tăng lên ở chuồng có nền láng
xi măng (12,64%) và cao nhất ở chuồng nền đất nện (20,37%). Lợn được nuôi ở điều kiện
vệ sinh thú y tốt tỷ lệ tiêu chảy là 8%, thấp hơn rõ rệt so với nuôi trong điều kiện vệ sinh
thú y kém (20,35%) (Nguyễn Thị Kim Lan và cs, (2006b) [16]).
Ngoài các vấn đề nêu trên, hội chứng tiêu chảy còn bị ảnh hưởng bởi các tác nhân
gây bệnh do virus, vi khuẩn... Các tác giả đều cho rằng, khi lợn mắc tiêu chảy do các tác
nhân vi sinh vật, thường làm tăng tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ chết.
1.2.4. Biện pháp phòng và điều trị tiêu chảy lợn con
1.2.4.1. Biện pháp phòng bệnh
Phòng bệnh là biện pháp chủ động không để bệnh xảy ra. Các biện pháp phòng bệnh

đều xoay quanh các vấn đề về môi trường, vật chủ và mầm bệnh.
Cho đến nay, đã có rất nhiều thông báo các kết quả nghiên cứu của các tác giả trong
và ngoài nước, về việc phòng và trị hội chứng tiêu chảy. Bởi vì hội chứng tiêu chảy được
gây ra từ rất nhiều các nguyên nhân phức tạp khác nhau, mà do đó cũng đã có rất nhiều các
biện pháp, giải pháp khác nhau, nhằm một mục đích chung là hạn chế thấp nhất những
thiệt hại.
* Phòng bệnh bằng nuôi dưỡng, quản lý


21

Theo các tác giả Quin P.J (1994) [63], Sử An Ninh (1995) [26]: Biện pháp phòng tiêu
chảy trước hết là hạn chế, loại trừ các yếu tố Stress sẽ mang lại hiệu quả tích cực. Khắc
phục những bất lợi về thời tiết, khí hậu (giữ bầu tiểu khí hậu chuồng nuôi ấm áp trong mùa
Đông, thoáng mát về mùa Hè, tránh gió lạnh, hạn chế độ ẩm...) để tránh rối loạn tiêu hóa,
giữ ổn định trạng thái cân bằng giữa cơ thể và môi trường. Kết hợp giữ vệ sinh chuồng
nuôi, hạn chế khí độc do phân rác trong chuồng sản sinh ra, loại trừ mầm bệnh trong chất
thải. Đào Trọng Đạt và cs (1996) [9] đề xuất: Cần giữ ấm cho lợn con mới đẻ trong mùa
Đông, dọn phân rác chất thải trong chuồng đem ủ sinh vật học, định kỳ tẩy uế tiêu độc
chuồng trại dụng cụ chăn nuôi.
Thực hiện chăm sóc nuôi dưỡng chu đáo (Bakhin A.G (1956) [47]) yêu cầu: Phải
đảm bảo chế độ khẩu phần ăn hợp lý cho nái mẹ trong thời kỳ mang thai và nuôi con, cho
lợn con bú sữa đầu kịp thời và đầy đủ, nên cho lợn con tập ăn thêm và cần hết sức chú ý
cân đối các thành phần dinh dưỡng, các chất khoáng đa vi lượng trong khẩu phần ăn.
* Một số chế phẩm sinh học phòng tiêu chảy ở lợn con dưới hai tháng tuổi
Những kết quả nghiên cứu về hóa sinh dinh dưỡng động vật của Đái Duy Ban (1980)
[1] cho thấy: Lợn con giai đoạn bú sữa và sau cai sữa thường có biểu hiện thiếu máu do
thiếu sắt, do đó lợn con thường rối loạn tiêu hóa và trao đổi chất, từ đó giảm khả năng
miễn dịch và bị tiêu chảy. Để khắc phục vấn đề này, Đỗ Ngọc Thúy (2007) [37] đã tiêm
Dextran Fe để bổ sung sắt cho lợn con phòng suy dinh dưỡng và các bệnh đường ruột.

Nghiên cứu về miễn dịch học, Bergeland M.E (1986) [49] nhấn mạnh rằng: Khi cơ
thể gia súc non bị lạnh và kéo dài sẽ làm giảm phản ứng miễn dịch, giảm số lượng bạch
cầu và tác dụng thực bào, do đó gia súc dễ bị vi khuẩn gây bệnh tấn công.
Việc phòng bệnh tiêu chảy cho lợn con theo hướng nâng cao sức đề kháng cơ thể,
bằng cách hoàn thiện quy trình nuôi dưỡng chăm sóc và bổ sung cho chúng một lượng γglobulin miễn dịch, tức là đưa thêm một lượng kháng thể thụ động vào trong cơ thể của
chúng, đã được nhiều tác giả nghiên cứu, Lê Xuân Cương và cs (1986) [5], đã chiết xuất
thành công chế phẩm γ-globulin từ huyết thanh ngựa chửa để điều trị dự phòng lợn con
tiêu chảy.
Cũng trên cơ sở nghiên cứu theo chiều hướng, căn cứ vào các nguyên nhân và quá
trình diễn biến của bệnh, đặc biệt tập trung vào quá trình nhiễm khuẩn bội nhiễm, các tác
giả đã đưa ra hàng loạt các giải pháp gồm nhiều sinh phẩm và thuốc khác nhau trong mục
đích phòng chống bệnh tiêu chảy.


22

Nguyễn Thị Nội (1985) [21], nghiên cứu sử dụng vaccine E.coli tiêm phòng cho nái
chửa, đã dựa vào kết quả xác định tần xuất của các Serotyp O trong số chủng E.coli gây
bệnh phân lập được, từ đó chọn một số Serotyp có tần xuất xuất hiện cao nhất để chế
vaccine, tiêm phòng cho nái chửa trước khi đẻ 4-6 tuần. Kết quả đã bảo hộ 30-40% so với
đối chứng. Để nâng cao khả năng phòng bệnh chủ động cho lợn con bằng vaccine, Nguyễn
Thị Nội (1985) [21] đã dùng các chủng vi khuẩn E.coli, Salmonella, Streptococus phân lập
được từ lợn con tiêu chảy để chế vaccine Salsco, sử dụng cho lợn con 2-5 tháng tuổi. Kết
quả bảo hộ tốt, giảm tỷ lệ mắc bệnh từ 30-50%, giảm tỷ lệ chết 10-20%.
Lê Văn Tạo (1997) [32] đã chế tạo thành công vaccine E.coli vô hoạt từ các chủng
gây bệnh tiêu lợn con, có mang các yếu tố (Enterotoxin, Hly, ColV, K88, R), sử dụng cho
lợn con uống. Kết quả giảm tỷ lệ mắc bệnh từ 46% xuống còn 11%, giảm tỷ lệ chết từ 9%
còn 2,2%.
Theo các tác giả Kohler.B (1998) [61], Taylor D.J (1986) [68], Bergeland M.E
(1986) [49], Đào Trọng Đạt, Phan Thanh Phượng và cs (1996) [9]: việc sử dụng chế phẩm

sinh học để phòng bệnh VRHT do C. perfringens gây ra là hết sức cần thiết để bảo vệ lợn
con ngay từ những ngày đầu. Bởi vì, đối với bệnh do vi khuẩn C. perfringens gây ra thì
dùng các thuốc hóa học để điều trị không có hiệu quả, đặc biệt khi triệu chứng lâm sàng đã
biểu hiện rõ ràng thì việc điều trị càng không có ý nghĩa. Các tác giả cho rằng: Sử dụng
giải độc tố yếm khí chế từ chủng C. perfringens phân lập được trong bệnh phẩm của lợn
con mắc bệnh, tiêm cho nái chửa 2 lần vào giai đoạn chửa cuối. Giải độc này có tác dụng
bảo vệ lợn con ngay từ đầu, trong thời gian theo mẹ và cả khi đã cai sữa.
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Nhiên, Trần Thị Hạnh và cs (1996) [23] cho
thấy: Sử dụng giải độc tố yếm khí để phòng bệnh VRHT cho hươu nai rất an toàn, ổn định
và có khả năng bảo hộ tốt.
1.2.4.2. Biện pháp điều trị
* Điều trị bằng kháng sinh và hóa dược
Cũng như vi khuẩn E. coli, vi khuẩn C. perfingens cũng kháng với nhiều loại kháng
sinh mà nguyên nhân là do trong quá trình chăn nuôi, trong điều trị bệnh còn có nhiều


23

thiếu sót về kỹ thuật như: dùng không đúng liều lượng, không đủ thời gian... và khả năng
di truyền tính kháng thuốc giữa vi khuẩn với nhau.
Sử dụng Neomycin, Trimethoprim và Sulfamethoxazol để điều trị có kết quả tốt
(Eisenstein và cs, (1980) [53]). Có rất nhiều loại kháng sinh sử dụng điều trị bệnh hiệu quả
như Ampicillin, Cefalothin, Gentamicin, Neomycin... ngoài ra một số chế phẩm như
Sulfamid cũng được sử dụng để điều trị (Đào Trọng Đạt và cs, (1996) [9]).
Theo Becht (1986) [48], tác giả khuyến cáo nên sử dụng phối hợp Ampicillin,
Trimethoprim và Sulfamethoxazol hoặc Cefalothin và Gentamicin, Amikacin và
Arpamycin.
* Điều trị triệu chứng
Lợn con bị tiêu chảy thường dẫn đến tình trạng mất nước nặng nề và có biểu hiện rối
loạn các chất điện giải. Do đó, kết hợp với điều trị bằng thuốc, rất cần thiết phải kịp thời bổ

xung nước và các chất điện giải cho lợn con, đồng thời nên trợ tim cho lợn con bằng
Cafein 20%, tăng cường các Vitamine và đặc biệt là Vitamine nhóm B.
* Khôi phục hệ vi sinh vật đường ruột
Thực hiện khôi phục và ổn định trạng thái cân bằng của hệ vi sinh vật đường ruột sẽ có
ảnh hưởng to lớn trong công tác điều trị cũng như hạn chế hội chứng tiêu chảy ở lợn con. Cho
đến nay, đã có ý nghĩa khoa học và thực tiễn hết sức lớn lao trong công tác phòng và trị bệnh
do E.coli, C. perfringens gây ra.
Năm 1967, tác giả Smith H.W và cs [66] đã chế Complex Subtilis Ultraleure (từ
chủng Saccharomyces boulardi) để khống chế bệnh phân trắng lợn con. Vũ Văn Ngữ, Lê
Kim Thao (2005) [25], đã sử dụng chế phẩm Subcolac cho lợn con uống khi bị tiêu chảy
có kết quả tốt.
Theo một số tài liệu nước ngoài, việc sử dụng loại chế phẩm như thế này trong điều trị bệnh
tiêu chảy lợn con là khá phổ biến. Pháp đã dùng chế phẩm Coliphylus được chế từ E.coli và
Lactobacillus; Biolactyl chế từ Bacillus accidophilus, Streptococus lactis và Bacillus vulgarisus. Nhật
sử dụng chế phẩm Biofemin chế từ Streptococcus faecalis, Lactobacillus accidophilus và Bacillus
subtilis.
Nguyễn Thị Nội (1985) [21] đã nghiên cứu chế tạo thành công Biolactyl dạng đông
khô để khống chế tiêu chảy ở lợn con.


24

Đỗ Trung Cứ, Trần Thị Hạnh, Nguyễn Quang Tuyên (2000) [4] khi sử dụng chế phẩm
Biosubtyl để khống chế tiêu chảy cho lợn con trước và sau khi cai sữa, đã cho kết quả lợn con
mắc bệnh tiêu chảy giảm, khả năng tăng trọng tốt.
1.3. MỘT SỐ HIỂU BIẾT VỀ VI KHUẨN C. PERFINGENS
1.3.1. Lịch sử
Clostridium là trực khuẩn yếm khí, có nha bào phân bố rộng rãi trong thiên nhiên như
ở đất, phân, nước bẩn, trong đường ruột người và động vật. Có một số loài gây bệnh chỉ
phân bố ở những vùng địa lý nhất định. Giống vi khuẩn này có tới trên 83 loài, phần lớn

không gây bệnh, chỉ có khoảng 14 loài gây bệnh cho người và gia súc nhỏ (Niilo và
Chalmers, (1978) [62]; Hatheway, (1990) [56]).
Năm 1994, Radostits O.M và cs [65] đã phân lập được Clostridium septicum từ máu
bò bị bệnh và đã xác định được vi khuẩn là tác nhân chính gây bệnh thủy thũng ác tình hay
bệnh hoại thư sinh hơi của gia súc.
Năm 1884, Carle [51] đã mô tả bệnh uốn ván xảy ra điển hình ở thỏ. Cùng năm đó,
tác giả đã chứng minh được bệnh là do một loài vi khuẩn có nha bào ở đầu. Năm 1997,
Kitasato [59] đã phân lập được trực khuẩn gây bệnh, tìm ra độc tố và đã gây bệnh thực
nghiệm thành công. Năm 1994, Radostis O.M [65] đã nghiên cứu và tạo ra giải độc tố
phòng bệnh bằng cách dùng focmalin làm vô hoạt độc tố.
Arleans và Thomas đã phát hiện ra vi khuẩn Clostridium chauvoei gây bệnh ung khí
thán (Nguyễn Vĩnh Phước, (1974) [24]; Timoney và cs, (1994) [69]; Nguyễn Như Thanh
và cs, (1997) [35]).
Năm 1897, Van Ecmengein đã phát hiện ra Clostridium botulinum ở thịt giăm bông
và trong ruột già người chết vì ngộ độc, sau dó Konstansov đã phân lập được trực khuẩn
này ở cá. Clostridium histokyticum được Vainbec và Xeganh phân lập năm 1916. Đây là
trực khuẩn làm tan tổ chức, gây bệnh huyết niệu cho bò (Timoney và cs, 1994 [69]). Vào
năm 1959, lần đầu tiên Peckham đã cho biết Clostridium colinum là vi khuẩn gram dương,
yếm khí và sinh nha bào gây viêm ruột non ở chim cút. Các loài khác của giống
Clostridium cũng đều được phát hiện ở thế kỷ IX (Hatheway, 1990 [56]).
Dựa theo tác động của độc tố, người ta chia Clostridium gây bệnh thành 4 nhóm:


25

- Nhóm gây trúng độc do độc tố thần kinh: Clostridium tetani gây bệnh uốn ván.
Clostridium botulinum gây ngộ độc thịt. Hai loài này sản sinh độc tố có độc lực cao nhưng
không có khả năng xâm nhập và nhân lên trong tổ chức và mô bào sống.
- Nhóm gây thối nát, hoại thư sinh hơi, viêm bắp thịt và phủ tạng gồm: Clostridium chauvoei
gây bệnh ung khí thán ở trâu, bò; Clostridium septicum, Clostridium perfringens, Clostridium

oedematiens, Clostridium heamolyticum, Clostridium sporogens gây hoại thư sinh hơi ở người và
động vật. Độc tố của các loài này ít độc hơn độc tố thần kinh nhưng chúng có khả năng xâm
nhập và lan rộng trong cơ thể vật chủ.
- Nhóm sản sinh độc tố ruột trong máu: Độc tố được sản sinh trong ruột và hấp thu
vào máu gây trúng độc toàn thân. C. perfingens cũng thuộc nhóm này và chúng được phân
ra các typ A, B, C, D và E.
- Nhóm gây bệnh đường ruột và có khả năng sản sinh sản sinh khánh sinh
Clostridium diffcile và Clostrium spiroform.
1.3.2. Đặc điểm hình thái và tính chất nhuộm màu của vi khuẩn
- Vi khuẩn C. perfingens là vi khuẩn gram dương, yếm khí, không di động, kích
thước từ 0,8-1,5 µm x 3-8 µm. Vi khuẩn không có lông, không di động, hình thành giáp mô
trong cơ thể động vật, hình thành nha bào trong môi trường trung tính hay kiềm tính. Nha
bào to hơn thân vi khuẩn, có hình ovan cân xứng hay lệch tâm. Trong thực tế, ít khi quan
sát được nha bào.
- Trên môi trường thạch máu bò hay cừu 7%, sau 24 giờ nuôi cấy trong điều kiện
yếm khí, vi khuẩn phát triển hình thành những khuẩn lạc rõ ràng, có đường kính 3-5 mm,
màu xám trong, gây dung huyết hoàn toàn.
- Trong canh trùng non, C. perfingens bắt màu Gram dương, nhưng trong canh trùng
già vi khuẩn có thể thoái hình, hình cong sợi dài và một số có thể bắt màu Gram âm.
1.3.3. Đặc tính nuôi cấy, sinh vật hóa học
* Đặc tính nuôi cấy


×