Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Thực trạng về trẻ em trong gia đình sau ly hôn tại hải phòng (nghiên cứu trường hợp tại huyện an lão, thành phố hải phòng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (658.73 KB, 70 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Hôn nhân gia đình và trẻ em gắn bó với nhau, luôn luôn đóng một vai trò quan
trọng và có ý nghĩa chiến lược trong quá trình phát triển của các quốc gia. Khi đứa
trẻ cất tiếng khóc chào đời, báo hiệu thêm một con người trên trái đất, thêm một vị
trí trên bản đồ xã hội, báo hiệu một quan hệ thiêng liêng nhất trong một giáo dục:
quan hệ “mẫu tử”. Đó cũng là kết quả ban đầu của hôn nhân, hình thành một gia
đình đầy đủ. Lúc này, “chồng - vợ và con”, là những thành viên cốt lõi của một gia
đình hai thế hệ - nói như P.H. Chambart de Lauwe rất đúng rằng: “Chồng - vợ và
con - đó là ba người, ba diễn viên, phân tích trong đó cuộc sống riêng có cả cuộc
sống của toàn xã hội” [1,34].
Đứa trẻ sinh ra, lớn lên và trưởng thành từ trong gia đình, hưởng thụ, kế thừa
và sau đó tham gia vào quá trình sáng tạo không ngừng. Quá trình trưởng thành này
cũng chính là quá trình xã hội hoá cá nhân con người, quá trình hình thành nhân
cách, tạo lập nhiều mối quan hệ tốt đẹp, ổn định, lâu bền theo các loại hình gia đình
truyền thống hoặc gia đình hiện đại trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau của sự
phát triển xã hội. Quá trình này cũng tạo lập nên nhiều mô hình, nhiều khuôn mẫu
gia đình, từ mô hình hôn nhân đến mô hình nuôi dạy con cái. Nhiều câu hỏi được
đặt ra trong các cuộc sống gia đình, từ gia đình nghèo khó đến gia đình giàu sang,
từ gia đình viên chức đến gia đình buôn bán, từ gia đình đầy đủ đến gia đình có
khuyết tật. Gia đình đã trở thành một biểu tượng văn hoá, chính trị trong nhiều quốc
gia. Năm 1992, gia đình chính thức được công nhận như một trong các thang giá trị
của xã hội Mỹ, trong đó vấn đề “thiên chức” của người mẹ đã được đề cao. Gia đình
gắn bó với xã hội thông qua nhiều mối quan hệ, hỗ trợ cho cuộc sống hàng ngày của
xã hội, từ việc tái sản sinh ra con người đến việc nuôi dưỡng, duy trì lực lượng lao
động và các công việc cơ bản khác mà xã hội và cộng đồng giao phó. Vì vậy, nếu
nảy sinh những bối cảnh khủng hoảng, ly hôn, khuôn mẫu gia đình ổn định bị suy
tàn sẽ tạo nên biết bao những vấn đề phức tạp trong cuộc sống của mỗi con người.
Do nhận thấy sự bất ổn từ hậu quả của ly hôn, cũng như những kiến thức tiếp
thu được trong quá trình học tập và nghiên cứu chuyên ngành Công tác xã hội, tôi
quyết định tiến hành nghiên cứu đề tài “Thực trạng về trẻ em trong gia đình sau ly


1


hôn tại Hải Phòng (nghiên cứu trường hợp tại huyện An Lão,
thành phố Hải Phòng)”.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này tôi đã nhận được sự hướng dẫn và giúp
đỡ tận tình của thầy giáo, thạc sĩ Nguyễn Văn Thành, giảng viên khoa Tâm lý –
Giáo dục học; sự chia sẻ, trợ giúp về mặt kiến thức và kĩ năng của các thầy cô giáo
khoa Tâm lý – Giáo dục học; sự hợp tác giúp đỡ của các cán bộ địa phương huyện
An Lão, thành phố Hải Phòng; sự giúp đỡ, cởi mở chia sẻ từ những đối tượng được
khảo sát, phỏng vấn tại huyện An Lão, thành phố Hải Phòng đã giúp tôi hoàn thành
đề tài này.
Trong đề tài này, do hạn chế về kiến thức và điều kiện của bản thân nên
không tránh khỏi những thiếu sót và sự đào sâu nghiên cứu các vấn đề được đề cập
đến trong đề tài, kính mong nhận được sự đóng góp, nhận xét từ các thầy cô.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hải Phòng, ngày 20 tháng 04 năm 2016

NGƯỜI NGHIÊN CỨU

Đỗ Thành Công

2


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................1
NGƯỜI NGHIÊN CỨU....................................................................................2
MỤC LỤC..........................................................................................................I
DANH MỤC BẢNG..........................................................................................I

DANH MỤC BIỂU ĐỒ...................................................................................V
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT.......................................................................VI
MỞ ĐẦU...........................................................................................................7
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU.............................................7
2. mục đích nghiên cứu..................................................................................8
3. Đối tượng VÀ KHÁCH THỂnghiên cứu.........................................................9
4. Giả thuyết KHOA HỌC...............................................................................9
5. Nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................................9
6. Phạm vi nghiên cứu...................................................................................10
7. phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.......................................10
THỰC TRẠNG VỀ TRẺ EM TRONG CÁC GIA ĐÌNH SAU LY HÔN TẠI
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG...........................................................................11
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRẺ EM...............................................11
TRONG CÁC GIA ĐÌNH SAU LY HÔN......................................................11
1.1. lịch sử của vấn đề nghiên cứu................................................................11
1.2. Một số khái niệm....................................................................................13
1.3. Một số lý thuyết về trẻ em trong các gia đình sau ly hôn....................15
1.4. Một số quan điểm của Đảng và nhà nước về gia đình, hôn nhân, bảo
vệ và chăm sóc, giáo dục trẻ em..................................................................24
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VỀ TRẺ EM...................................................27
TRONG CÁC GIA ĐÌNH SAU LY HÔN TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
.........................................................................................................................27
2.1. Đặc điểm kinh tế văn hoá xã hội từ khi đổi mới đến nay.....................27
2.2. Đặc điểm tình hình ly hôn trong những năm gần đây.........................27
2.3. Thực trạng của trẻ em trong các gia đình sau ly hôn...........................32
2.4. MỘT SỐGIẢI PHÁP GIẢM THIỂU ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA LY
HÔN ĐẾN SỰPHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CỦA TRẺ......................................60
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ................................................................63
1. Kết luận......................................................................................................63
2. KHUYẾN NGHỊ.........................................................................................66

TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................68
DANH MỤC BẢNG
BẢNG 2.1. SỐ VỤ LY HÔN TỪ 2010 ĐẾN 2015........................................27
i


BẢNG 2.2. NGHỀ NGHIỆP CỦA CÁC GIA ĐÌNH LY HÔN.....................30
BẢNG 2.3. SỐ PHỤ NỮ ĐỨNG ĐƠN LY HÔN QUA CÁC NĂM 2010 2012.................................................................................................................30
BẢNG 2.4. SỐ VỤ LY HÔN DO BẠO LỰC GIA ĐÌNH.............................31
NGOÀI BẠO LỰC, NGOẠI TÌNH CŨNG LÀ NGUYÊN NHÂN PHỔ BIẾN
DẪN ĐẾN LY HÔN. NẾU BẠO LỰC XẢY RA CHỦ YẾU DO NAM GIỚI,
THÌ NGOẠI TÌNH DO CẢ VỢ VÀ CHỒNG GÂY NÊN. TRONG
NGUYÊN NHÂN NÀY THƯỜNG CÓ NHIỀU NGUYÊN NHÂN KHÁC
XEN KẼ LẪN NHAU NHƯ VỢ CHỒNG KHÔNG HỢP NHAU, XA CÁCH
NHAU. NHƯNG CŨNG CÓ KHI CHỒNG HOẶC VỢ VỐN CÓ QUAN HỆ
KHÔNG LÀNH MẠNH NGOÀI HÔN NHÂN, THÍCH CHẠY THEO ĐUA
ĐÒI LỐI SỐNG HIỆN ĐẠI, HOẶC CÓ KHI HAI VỢ CHỒNG KHÔNG
ĐÁP ỨNG LẪN NHAU MỘT SỐ NHU CẦU CÁ NHÂN NÀO ĐÓ.
TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY, HIỆN TƯỢNG NGOÀI TÌNH CÓ
CHIỀU HƯỚNG TĂNG LÊN DẪN ĐẾN LY HÔN. THEO TÀI LIỆU
THỐNG KÊ CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO THÌ NGOẠI TÌNH
DẪN ĐẾN LY HÔN CHIẾM TỪ 5 ĐẾN 8% TRONG TỔNG SỐ VỤ LY
HÔN: BẢNG 2.5. TỶ LỆ % CÁC VỤ LY HÔN DO NGOẠI TÌNH TẠI HẢI
PHÒNG QUA CÁC NĂM:.............................................................................31
BẢNG 2.6. SỐ LƯỢNG TRẺ EM TRONG CÁC GIA ĐÌNH LY HÔN
NGÀY CÀNG TĂNG.....................................................................................32
BẢNG 2.7. NƠI Ở CỦA CÁC EM SAU KHI BỐ MẸ LY HÔN..................36
BẢNG 2.8. THÁI ĐỘ CỦA CÁC EM VỀ CUỘC SỐNG HIỆN TẠI SAU
KHI BỐ MẸ LY HÔN....................................................................................36
BẢNG 2.9. TƯƠNG QUAN GIỮA NƠI Ở CỦA CÁC EM VÀ THÁI ĐỘ

VỚI CUỘC SỐNG SAU KHI BỐ MẸ LY HÔN...........................................38
BẢNG 2.10. ĂN UỐNG CỦA CÁC EM........................................................40
BẢNG 2.11. SỨC KHỎE CỦA CÁC EM TRONG GIA ĐÌNH SAU LY
HÔN................................................................................................................42
ii


BẢNG 2.12. VIỆC HỌC TẬP CỦA CÁC EM TRONG CÁC GIA ĐÌNH
SAU LY HÔN.................................................................................................43
BẢNG 2.13. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA CÁC EM TRONG
CÁC GIA ĐÌNH SAU LY HÔN.....................................................................43
BẢNG 2.14. TƯƠNG QUAN GIỮA NGƯỜI MÀ TRẺ EM HIỆN ĐANG
SỐNG CÙNG VỚI VIỆC ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA CÁC EM
.........................................................................................................................45
BẢNG 2.15. KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI HẠNH KIỂM CỦA CÁC
EM TRONG CÁC GIA ĐÌNH SAU LY HÔN...............................................46
BẢNG 2.16. TƯƠNG QUAN GIỮA NGƯỜI MÀ TRẺ EM HIỆN ĐANG
SỐNG CÙNG VỚI VIỆC ĐÁNH GIÁ HẠNH KIỂM...................................46
BẢNG 2.17. TÂM TRẠNG CỦA CÁC EM KHI BỐ MẸ LY HÔN.............48
BẢNG 2.18. MỐI QUAN HỆ GIỮA NGƯỜI NUÔI DƯỠNG CÁC EM ĐỐI
XỬ VỚI CÁC EM SAU KHI BỐ MẸ LY HÔN............................................49
BẢNG 2.19. THỰC TRẠNG VUI CHƠI VĂN NGHỆ CỦA CÁC EM
TRONG GIA ĐÌNH SAU LY HÔN...............................................................50
BẢNG 2.20. CÁC EM THAM GIA SINH HOẠT CÂU LẠC BỘ, NHÀ VĂN
HOÁ................................................................................................................50
BẢNG 2.21. CÁC EM ĐI XEM PHIM, CA NHẠC TRONG GIA ĐÌNH SAU
LY HÔN..........................................................................................................51
BẢNG 2.22. THỰC TRẠNG VUI CHƠI, GIẢI TRÍ CỦA CÁC EM TRONG
CÁC GIA ĐÌNH SAU LY HÔN.....................................................................52
BẢNG 2.23. CÔNG VIỆC TRẺ EM TRONG CÁC GIA ĐÌNH SAU LY

HÔN................................................................................................................54
BẢNG 2.24. NGUYỆN VỌNG CỦA TRẺ EM TRONG CÁC GIA ĐÌNH LY
HÔN................................................................................................................56
BẢNG 2.25. SỰ QUAN TÂM CỦA HỘI PHỤ NỮ......................................58
BẢNG 2.26. SỰ QUAN TÂM CỦA UỶ BAN DÂN SỐ - GIA ĐÌNH VÀ
TRẺ EM..........................................................................................................58
iii


BẢNG 2.27. SỰ QUAN TÂM CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG........58
BẢNG 2.28. SỰ QUAN TÂM CỦA NHÀ TRƯỜNG...................................59
BẢNG 2.29. SỰ QUAN TÂM CỦA CÁC TỔ CHỨC KHÁC......................59

iv


danh mục biểu đồ

v


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CTXH
GS
KH
NXB
TS

UBDS
XH


Công tác xã hội
Giáo sư
Khoa học
Nhà xuất bản
Tiến sĩ
Trung ương
Ủy ban dân số
Xã hội

vi


MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Ngày nay, cùng với sự đa dạng về chính trị, kinh tế, văn hoá trên thế giới, nhiều
quan niệm khác nhau về hôn nhân, gia đình và nuôi dạy con cái cũng đã xuất hiện. Tính
bền vững của gia đình ngày càng giảm, ly hôn ngày càng tăng, tạo nên nhiều hậu quả xấu
đối với cá nhân, nhóm và cộng đồng. Ly hôn không phải là tạo nên sự tự do đơn giản của
hai vợ chồng mà là tạo nên sự nghèo khổ vật chất và tinh thần, và con cái lang thang
không nơi nương tựa, làm tan vỡ nhiều mối quan hệ xã hội.
Những năm gần đây, số lượng các vụ ly hôn ở Việt Nam tăng nhanh. Thống kê của
ngành tòa án cho thấy, nếu năm 2000 chỉ có 51.361 vụ thì năm 2005 đã tăng lên 65.929
vụ; đến năm 2010, con số này lên tới 126.325 vụ. Người vợ đứng đơn ly hôn gấp hai lần
so với người chồng. Số năm sống chung trung bình trước khi ly hôn của các cặp vợ
chồng là 9,4 năm, riêng ở các khu vực nội thành của các thành phố lớn, chỉ 8 năm.
Theo số liệu của ngành tòa án TP.HCM, hiện có khoảng 40% các cuộc kết hôn kết
thúc bằng ly hôn (tăng gấp đôi so với năm 1998). Nếu so sánh thì tỷ lệ này của nước Mỹ
là 49%, cao nhất thế giới. Ở các nước phát triển khác cũng khoảng trên 40%. Như vậy,
tuy thua kém nhiều về thu nhập nhưng Số lượng ly hôn trong các gia đình Việt Nam ở

các đô thị lớn cũng không kém các nước phát triển. 60% các vụ ly hôn ở Việt Nam có
yếu tố bạo lực gia đình và trung bình, cứ ba vụ ly hôn thì có một vụ do nguyên nhân
ngoại tình. Trên thực tế, tỷ lệ này hẳn sẽ còn cao hơn, nếu tính tới các trường hợp “khéo
chùi mép” hoặc tha thứ và hàn gắn.
Một cuộc điều tra đã chỉ ra bốn nguyên nhân chủ yếu thường dẫn đến ly hôn là mâu
thuẫn về lối sống, ngoại tình, kinh tế và bạo lực gia đình, nhưng nguyên nhân chủ yếu là
lối sống và ngoại tình. Từ xưa đến nay, đàn ông Việt hầu như không làm những việc vặt
trong nhà. Nhiều người coi đó là “thiên chức” của phụ nữ. Với lý do kiếm tiền, đàn ông
tự cho mình quyền đi suốt ngày, thậm chí cả buổi tối, dồn tất cả việc nhà và chăm con
cho vợ. Họ vẫn đòi “dạy” vợ như ông và bố họ ngày xưa. Trong khi đó, công cuộc giải
phóng phụ nữ ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành quả đáng kể. Ở các thành phố, hầu hết
phụ nữ đi làm ngoài xã hội như chồng, không ít trường hợp có địa vị xã hội và thu nhập
bằng hoặc hơn chồng. Khi việc ngoại tình hết đường chối cãi, các ông chồng hứa sửa

7


chữa nhưng chỉ ít lâu sau lại đâu vào đấy và người vợ không tha thứ nữa, họ nộp đơn ra
tòa.
Theo truyền thống, đa số phụ nữ châu Á yêu và tôn trọng người bạn đời. Nhưng,
lịch sử đã sang trang, ngày nay họ không còn sống sau tấm mạng che mặt và tự bằng lòng
với sự phụ thuộc vào chồng. Theo tính toán của nhà xã hội học Ikeuchi, trung bình sức
chịu đựng hôn nhân bất hạnh của người phụ nữ châu Á ngày nay vào khoảng chín năm
trước khi ly hôn.
Một số nghiên cứu đã được công bố, cho rằng ly hôn đã làm thất vọng mọi người,
đã làm xấu đi thực sự các điều kiện sinh hoạt kinh tế và văn hoá và đời sống tinh thần,
làm tan vỡ nhiều mối quan hệ truyền thống tốt đẹp. Chính R. Arons đã cho rằng “ly hôn
là cuộc khủng hoảng của sự biến đổi gia đình gây ra những thay đổi trong hệ thống gia
đình”(3).
Trong hoàn cảnh của xã hội Việt Nam, cùng với sự tăng lên của các gia đình ly hôn,

nhất là ở các đô thị, số lượng trẻ em trong các gia đình ly hôn cũng tăng lên và rơi vào
hoàn cảnh cực kỳ khó khăn. Trong số tỷ lệ 65% - 70% gia đình ly hôn, có tới hàng nghìn
trẻ em chưa đến tuổi trưởng thành đã sống trong hoàn cảnh không có cha, hoặc không có
mẹ, hoặc không có cả cha lẫn mẹ, phải sống với ông, bà, chú, bác nội ngoại, dì ghẻ hoặc
bố dượng. Nhiều em rơi vào hoàn cảnh lang thang đường phố để kiếm sống, lao động
sớm, hoặc rơi vào tình trạng nghiện hút, bị lạm dụng tình dục, mất mát những quan hệ
thiêng liêng như mẹ con, quan hệ huyết thống trong một gia đình truyền thống.
Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu về gia đình và trẻ em trong hoàn cảnh khó
khăn. Một số nghiên cứu về ảnh hưởng của gia đình ly hôn đến trẻ em đã được công bố
trên thế giới, mặc dù còn nhiều quan điểm và ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, ở Việt Nam,
những nghiên cứu trong vấn đề này chưa được chú ý. Vì vậy, dựa trên thực tiễn xã hội, đề
tài “Thực trạng về trẻ em trong các gia đình sau ly hôn tại thành phố Hải Phòng” sẽ góp
phần nhỏ bé trong việc mô tả thực trạng cuộc sống của trẻ em trong các gia đình rơi vào
hoàn cảnh ly hôn và vai trò của công tác xã hội trong lĩnh vực này.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
• Đánh giá thực trạng trẻ em trong các gia đình sau ly hôn.
• Đưa ra những biện pháp cần thiết để hỗ trợ trẻ em trong các gia đình sau ly hôn.
(3)

Ahrons, Constance R. (1980) “Divorce: A. Crisis of family trausitrin and change”. Family Relations, 29 October,
533-540 (trích lại từ Tương của gia đình - bản dịch - NXB CTQG, 2002).

8


3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng về trẻ em trong các gia đình sau ly hôn tại thành phố Hải Phòng.
3.2. Khách thể nghiên cứu
• Trẻ em trong các gia đình sau ly hôn.

• Người nuôi dưỡng trẻ em trong các gia đình sau ly hôn.
• Cán bộ địa phương.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
- Gia đình ly hôn tất yếu dẫn đến sự thay đổi cơ cấu gia đình, quan hệ gia đình và
tạo nên sự khủng hoảng toàn diện đến đời sống trẻ em, hạn chế nhiều mặt trong quá trình
hình thành và phát triển nhân cách của các em.
- Gia đình ly hôn ngày càng tăng làm cho trẻ em trong các gia đình ly hôn ngày
càng tăng và trở thành vấn đề xã hội.
- Nếu có các biện pháp can thiệp kịp thời đối với trẻ em trong các gia đình sau ly
hôn thì sẽ góp phần đảm bảo sự phát triển nhân cách tích cực cho các em ngược lại nếu
không có sự quan tâm can thiệp kịp thời thì các em sẽ sa vào tệ nạn xã hội và trở thành
gánh nặng cho xã hội.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
5.1. Nghiên cứu các lý thuyết về gia đình, hôn nhân và ly hôn, trẻ em trong các gia đình
sau ly hôn
5.2. Tìm hiểu về gia đình, về hôn nhân, về vai trò, chức năng của gia đình
5.3. Khảo sát và thu thập thông tin, phân tích tình hình ly hôn hiện nay
- Các hoàn cảnh ly hôn và các loại gia đình ly hôn
- Hậu quả sau ly hôn:
+ Cơ cấu xã hội gia đình thay đổi.
+ Quan hệ gia đình thay đổi.
- Thực trạng đời sống của trẻ em trong các gia đình ly hôn.
- Cơ cấu xã hội trẻ em trong các gia đình sau ly hôn:
+ Quan hệ về kinh tế
+ Quan hệ cha con, mẹ con, ông bà
+ Quan hệ các thành viên trong gia đình, họ hàng của các em

9



+ Quan hệ bạn bè, học đường, cộng đồng.
+ Xu hướng tư tưởng, tình cảm của các em.
+ Những thay đổi trong hành vi giao tiếp
+ Xu hướng hình thành nhân cách của các em.
- Một số vấn đề về giải pháp và chính sách xã hội.
5.4. Đánh giá thực trạng và đưa ra những biện pháp cần thiết
6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
6.1. Không gian
- Đề tài nghiên cứu và lấy số liệu từ các báo cáo của các cơ quan chức năng đã công
bố.
- Nghiên cứu và lấy số liệu thực tế trên địa bàn huyện An Lão, thành phố Hải Phòng
6.2. Thời gian
- Thực hiện nghiên cứu đề tài từ ngày 15 tháng 01 năm 2016 đến ngày 1 tháng 04
năm 2016.
- Số liệu nghiên cứu từ các tài liệu được lấy từ năm 2010 đến năm 2015.
7. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Cơ sở phương pháp luận
Trẻ em trong các gia đình sau ly hôn là một hiện tượng xã hội phức tạp liên quan
đến nhiều yếu tố, thành phần xã hội và điều kiện kinh tế - văn hoá - xã hội của một xã hội
cụ thể. Vì vậy, để nghiên cứu vấn đề này có hiệu quả, tác giả đã vận dụng một trong các
quan điểm của triết học Mác-Lênin làm cơ sở phương pháp luận khoa học cho đề tài, đó
chính là quan điểm toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển. Quan điểm này được rút ra từ
hai nguyên lý phổ biến của triết học Mác - Lênin, đó là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
và nguyên lý về sự phát triển của các sự vật, hiện tượng. Phương pháp luận này đòi hỏi
khi xem xét thực trạng trẻ em trong các gia đình sau ly hôn, cần đặt các em trong các
hoàn cảnh cụ thể khác nhau thuộc các gia đình khác nhau, các giai đoạn phát triển khác
nhau của xã hội. Phương pháp luận này cũng đòi hỏi khi nhìn nhận bối cảnh của các em
cần nhìn nhận theo quan điểm phát triển, không nên nhìn nhận theo “số phận” theo bức
tranh “bi quan, tuyệt vọng” tách rời sự phát triển chung của xã hội và của mỗi cá nhân.


10


Cùng với việc vận dụng phương pháp luận nói trên, đề tài cũng đã vận dụng lý
thuyết về gia đình và hệ thống (system), cấu trúc chức năng (function - structuralism) và
lý thuyết vai trò để phân tích đề tài đề tài.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Phân tích một số tài liệu về gia đình, về quyền trẻ em, về ly hôn và một số tài liệu
thuộc về trị liệu gia đình và các em thuộc các gia đình ly hôn.
Đề tài đã sử dụng một số tài liệu thống kê, tài liệu xét xử của một số toà án, một số
báo cáo của Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, một số tài liệu của Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội.
Đề tài cũng sử dụng một số tài liệu trong một số tạp chí “Khoa học về phụ nữ” từ
năm 2010 đến năm 2015.
7.2.2. Phương pháp điều tra Anket
Tác giả sử dụng bảng hỏi làm công cụ chính để thu thập thông tin, từ đó xử lí và thu
được những số liệu cần thiết trong việc đánh giá thực trạng về trẻ em trong các gia đình
sau ly hôn. Đối tượng trả lời bảng hỏi là trẻ em trong các gia đình sau ly hôn, những
người nuôi dưỡng các em và cán bộ địa phương.
7.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Phương pháp này sẽ phỏng vấn một số em thuộc một số gia đình ly hôn, một số cha
mẹ, người thân có liên quan đến các em thuộc gia đình ly hôn, một số cán bộ địa phương,
cộng đồng hiểu sâu về vấn đề này.

THỰC TRẠNG VỀ TRẺ EM TRONG CÁC GIA ĐÌNH SAU LY HÔN TẠI
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRẺ EM
TRONG CÁC GIA ĐÌNH SAU LY HÔN
1.1. LỊCH SỬ CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Gia đình, ly hôn, trẻ em nói chung, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn nói riêng đã được
nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu với nhiều góc độ khác nhau: xã hội học, dân tộc
học, sử học, nhân chủng học, luật học…

11


Goode, William J. trong “Force and Violence in the Family” “Sức mạnh và bạo lực
trong gia đình” (1971) đã đưa ra một số chuẩn mực để xác định gia đình dựa trên các mối
quan hệ bên trong gia đình.
A.G. Kharchep trong “Hôn nhân và gia đình” cũng đã coi “gia đình là một hệ thống
cụ thể lịch sử của các quan hệ qua lại giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái”.
Bà E.K. Vaixilieva và bà N.A. Maliarova đã nghiên cứu và đề cập nhiều đến lối
sống gia đình. Các nhà nghiên cứu đã đề cập đến lối sống gia đình cho phép hiểu được
mối tương quan của sự hoạt động của các thành viên trong gia đình, lối sống gia đình
cũng gắn liền với lối sống cá nhân với tư cách là thành viên gia đình.
Khi nói về gia đình Mỹ trong sự quá độ, Tamara K. Hareven đã đề cập nhiều vấn
đề. Tamara cho rằng, trong suốt lịch sử nước Mỹ, gia đình được xem như điểm then chốt
của trật tự xã hội và cơ sở để kiểm soát sự ổn định. Tamara đã đề cập đến tính đa dạng
văn hoá và tộc người của gia đình Mỹ. Sự đa dạng này là sự liên tục của lịch sử và sự
hiểu biết những biến đổi lịch sử tạo nên những quan điểm khác nhau về đời sống gia
đình. Tamara cũng cho rằng gia đình Mỹ trải qua những thay đổi quan trọng, thể hiện sự
tan vỡ của gia đình. Sự tăng tỷ lệ ly dị là những triệu chứng phá vỡ gia đình. Đó là do
chưa chú ý đến hôn nhân và đời sống gia đình.
Với góc độ tiếp cận khác, một số nhà xã hội học Trung Quốc như Phan Doãn
Khang và Lâm Nam đã đề cập đến các mối quan hệ gia đình ảnh hưởng đến xã hội Trung
Quốc: Lôi Mộng Đức, Phất Vư cho rằng “Tam giác thực sự trong kết cấu xã hội là con
cái và bố mẹ của họ kết hợp nên từ những tình cảm chung”. Sự chi phối của bố mẹ đối
với hôn nhân của con cái rất chặt chẽ. Trong xã hội phong kiến Trung Quốc, bố mẹ
không những chỉ sắp đặt hôn nhân cho con cái mà còn sắp đặt sự ly hôn cho con cái.

Ngày nay, Trung Quốc đã chủ trương hôn nhân lấy tình yêu làm cơ sở, nhưng phần lớn
các gia đình Trung Quốc đều là các gia đình kiểu nghĩa vụ: nghĩa vụ thứ nhất, tình yêu
thứ hai.
Đề cập đến sự thay đổi về gia đình ở Thụy Điển, Divia Popemo đã đưa ra nhiều
cách tính khác nhau về sự tan vỡ của gia đình và cho rằng: tỷ lệ người ly hôn trên tổng số
người của một lứa tuổi.
Trong quá trình nghiên cứu về gia đình, trẻ em ở Việt Nam đã xuất hiện nhiều công
trình có giá trị. GS.TSKH. Hồ Ngọc Đại, nhà tâm lý học đưa ra “Tam giác gia đình,

12


những nghiên cứu về gia đình Việt Nam” (Nxb KHXH, Hải Phòng, 1996), Hoàng Thiệu
Khang với công trình “Gia đình là tế bào xã hội, những nghiên cứu về gia đình Việt
Nam” (Nxb KHXH, Hải Phòng, 1996). Cố GS. Trần Đình Hượu “Gia đình và giáo dục
gia đình”. TS. Vũ Tuấn Huy “Những khía cạnh của sự biến đổi gia đình”, C. Hirschman
và Vũ Mạnh Lợi “Gia đình và cơ cấu hộ gia đình Việt Nam”, Thạc sĩ Nguyễn Thị Oanh
với “Gia đình nhìn từ góc độ xã hội học” (1996), Đỗ Thị Bình, Lê Ngọc Văn, Nguyễn
Linh Khiếu với “Gia đình Việt Nam và người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá” (Nxb KHXH, 2002). TS. Trần Thị Kim Xuyến “Gia đình và những
vấn đề về gia đình hiện đại” của ThS Nguyễn Thị Oanh; “Gia đình nhìn từ góc độ xã hội
học”. TS. Vũ Quang Hà (biên dịch); “Tương lai của gia đình”, Nguyễn Thanh Tâm “Ly
hôn” (nghiên cứu trường hợp Hà Nội), PGS.TS. Đặng Cảnh Khanh “Gia đình, trẻ em và
sự kế thừa các giá trị truyền thống”, PGS.TS. Mai Quỳnh Nam với “Gia đình trong tấm
gương xã hội học” (Nxb KHXH, 2002). “Tham vấn trẻ em” (tài liệu dịch), “Phòng
chống buôn bán và mại dâm trẻ em” (Vũ Ngọc Bình), “Trẻ em đường phố, trẻ em lao
động” (Fudith Emen), “Lao động trẻ em”…
Qua các công trình của các tác giả trên đây, đã đề cập khá toàn diện, các khía cạnh
về gia đình. Những công trình trên đã giúp cho sự kế thừa hết sức quý báu trong việc
nghiên cứu đề tài.

1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.2.1. Trẻ em
Trẻ em cũng là đối tượng được nhiều khoa học nghiên cứu và có nhiều định nghĩa
khác nhau, nhất là trong tâm lý học, giáo dục học, công tác xã hội và xã hội học. Trong
tâm lý học, khái niệm “trẻ em” được dùng chỉ giai đoạn đầu của sự phát triển tâm lý nhân cách con người. Trong xã hội học, “trẻ em” được xem xét như một nhóm xã hội
thuộc về một độ tuổi nhất định trong giai đoạn đầu của sự phát triển nhân cách có vị trí
xã hội, vai trò xã hội khác với người lớn. Trẻ em là đối tượng được xã hội chăm sóc, bảo
vệ, nuôi dưỡng, tạo điều kiện cho sự trưởng thành và cũng là đối tượng quan trọng nhất
của công tác xã hội.
Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc có quan điểm khác nhau trong việc xác định tuổi của trẻ
em. Một số tổ chức quốc tế như Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc, Tổ chức Lao động quốc
tế, Tổ chức Giáo dục văn hoá và khoa học quốc tế… xác định trẻ em là những người dưới

13


15 tuổi. Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1990 quy định trẻ em có nghĩa là người
dưới 18 tuổi trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm
hơn. Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em của nước ta quy định “trẻ em là công
dân Việt Nam dưới 16 tuổi”.
Như vậy, các nhà khoa học, các tổ chức xã hội, các tổ chức quốc tế, mặc dù với
phương pháp tiếp cận khác nhau đã đưa ra quan niệm khác nhau về trẻ em nhưng cũng đã
dựa trên một số tiêu chí chung để làm căn cứ định nghĩa về trẻ em, đó chính là tuổi đời
của các em. Mỗi giai đoạn khác nhau của trẻ em đều có sự thay đổi về nhân cách, nhưng
tất cả các giai đoạn đều rất cần đến bố mẹ để chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.
* Trẻ em trong các gia đình sau ly hôn: đó là những trẻ em từ lúc sinh ra cho đến
khi lớn lên đều ở với bố mẹ trong gia đình mở rộng hoặc gia đình hạt nhân, được nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục toàn diện về nhân cách, nay do bố mẹ được toà án công nhận
cho ly hôn, không được sống chung với bố và mẹ nữa. Những trẻ em này ở trong các
hoàn cảnh sau đây:

- Tiếp tục ở với mẹ nhưng không còn bố sống bên cạnh như cũ.
- Tiếp tục ở với bố nhưng không còn mẹ sống bên cạnh như cũ.
- ở với bố dượng hoặc mẹ kế.
- Những trẻ sống với ông, bà hoặc người thân trong họ tộc.
- Những trẻ không còn nơi nương tựa, phải đi lang thang đường phố, ở các nhà tình
thương, mái ấm…
1.2.2. Gia đình
Khi nói về lý thuyết về gia đình, khái niệm gia đình đã được đề cập đến. Ở đây, tác
giả chỉ nêu khái niệm gia đình như một khái niệm công cụ để giải thích và đo lường phần
thực nghiệm.
Giữa các ngành khoa học, các nhà khoa học khác nhau cũng có nhiều quan điểm
khác nhau về gia đình. Có quan niệm cho gia đình là “tế bào xã hội”, gia đình là “thiết
chế xã hội”, "là “nhóm xã hội”, là “tổ chức cơ bản của xã hội”…
Trong tác phẩm “Cấu trúc xã hội” (1949) G.P. Murdock cho “Gia đình là một nhóm
xã hội có đặc trưng là cùng cư trú, hợp tác và tái sản xuất kinh tế (người lớn và của cả hai
giới), và ít nhất trong đó có quan hệ tình dục với nhau, được xã hội tán thành, một hoặc
nhiều con cái (do họ đẻ ra hoặc do họ nhận con nuôi).

14


Theo Từ điển Xã hội học do nhà xuất bản Pháp Larousse ấn hành năm 1973 định
nghĩa về gia đình như sau: “là nhóm người gắn bó với nhau bằng các mối liên hệ hôn
nhân, huyết thống hay là sự nhận con nuôi. Có sự tác động qua lại giữa chồng và vợ, giữa
bố và mẹ, giữa cha mẹ và con cái…”, giữa anh chị em và họ hàng xa hơn.
Theo Luật Hôn nhân và Gia đình nước ta cho rằng gia đình là tập hợp những người
gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát
sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của luật này.
Gia đình ly hôn - Gia đình được xem xét trong đề tài này là các gia đình đã ly hôn
(bao gàm cả gia đình hạt nhân, gia đình mở rộng…), có nghĩa là các gia đình đã được

Toà án quyết định cho ly hôn.
1.2.3. Hôn nhân
Nói đến hôn nhân là nói đến kết hôn và ly hôn. Kết hôn là sự xác lập một quan hệ
vợ chồng giữa nam và nữ. Theo Điểm 1, Điều 3, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014
thì hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn.
Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2014 đã nêu rõ: “Hôn nhân tự nguyện,
tiến bộ, hôn nhân một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của cha mẹ
và con cái; bảo vệ bà mẹ và trẻ em”.
Khi tình yêu giữa vợ và chồng không còn nữa thì tất yếu dẫn đến ly hôn. Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 2014 cũng quy định ly hôn chỉ được công nhận bằng một bản án
có hiệu lực của Toà án nhân dân.
Mặc dù quá trình hôn nhân diễn ra nhiều xung đột và dẫn đến khủng hoảng nhưng
không phải dẫn ngay đến ly hôn. Ly hôn là một quá trình phức tạp, liên quan đến nhiều
mặt của cuộc sống gia đình: vợ chồng, con cái, cơ cấu gia đình tan vỡ, quan hệ gia đình
mất mát. Đặc biệt ly hôn để lại hậu quả nặng nề cho đời sống của con cái, thế hệ tương
lai của cả gia đình và xã hội.
1.3. MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ TRẺ EM TRONG CÁC GIA ĐÌNH SAU LY
HÔN
1.3.1. Lý thuyết cấu trúc - chức năng - một trong những lý thuyết cơ bản nghiên cứu về
gia đình - hôn nhân - ly hôn và trẻ em
Các nhà công tác xã hội sử dụng lý thuyết cấu trúc - chức năng nhiều hơn các lý
thuyết khác khi nghiên cứu về gia đình và hôn nhân. Trong đề tài này chỉ sử dụng lý

15


thuyết cấu trúc - chức năng để phân tích khả năng của gia đình trong việc thực hiện chức
năng giáo dục - xã hội hoá của gia đình, trong việc phân tích mối quan hệ các thành viên
trong gia đình và quan hệ giữa gia đình với xã hội. Vậy lý thuyết cấu trúc - chức năng là
gì?

Lý thuyết cấu trúc chức năng, Niklas Luhman đã gọi lý thuyết này là một biến thể
của lý thuyết hệ thống xã hội học. Vì vậy nghiên cứu lý thuyết chức năng không nên tách
rời với lý thuyết hệ thống.
T. Parsons đã khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa cấu trúc và chức năng, trong
đó cấu trúc giữ vai trò quyết định. Sự thay đổi về mặt chức năng sẽ làm hoàn thiện cấu
trúc của nó. Cấu trúc xã hội đảm bảo tính cân bằng cho xã hội về mặt chức năng.
Còn theo R. Merton: các chức năng xã hội có tính thống nhất thể hiện ở cấp độ xã
hội và cá nhân.
Trong lý thuyết cấu trúc chức năng, xã hội được nhìn như một hệ thống hoàn chỉnh
của các quan hệ qua lại của các bộ phận, mỗi bộ phận lại liên quan với bộ phận khác.
Thuyết cấu trúc - chức năng cho thấy những hành vi cá nhân luôn luôn nằm trong
cấu trúc nhất định, mặc dù cá nhân luôn có sự lựa chọn những ứng sử trong một tình
huống cụ thể. Ví dụ: trong khi xem xét quan hệ kinh tế và gia đình, chúng ta thấy phụ nữ
không lao động dường như có liên quan đến hôn nhân không hạnh phúc nhiều hơn so với
những phụ nữ có việc làm bởi vì họ hoàn toàn lệ thuộc vào kinh tế của người chồng.
Lý thuyết cấu trúc chức năng như là một trong những lý thuyết chủ đạo xem xét các
chức năng của gia đình, trong đó có chức năng giáo dục - xã hội hoá của gia đình. Tất
nhiên, các chức năng của gia đình không thể tách rời nhau mà nằm trong một cấu trúc
thống nhất.
Gia đình có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành nhân cách đứa trẻ. Đây là
môi trường cơ bản, chính thức đầu tiên của xã hội hoá cá nhân. Với chức năng của mình,
gia đình là công cụ truyền lại cho con cháu các giá trị văn hoá truyền thống và văn hoá
hiện đại, đặc biệt là các giá trị xã hội, đạo đức… Đối với những người chưa trưởng thành,
chưa đến tuổi đi học thì đạo đức, lối sống, nhân cách đã chịu sự chi phối nhiều nhất của
quá trình xã hội của gia đình.

16


Không những thế, sự giáo dục - xã hội hoá của gia đình còn truyền lại, khắc sâu vào

các cá nhân của thế hệ tiếp theo những tinh hoa của văn hoá của các thế hệ trước, tạo nên
sự nối tiếp giữa các thế hệ trong sự phát triển.
Theo A.G. Chavezew: “Gia đình không chỉ uỷ nhiệm mà còn tạo ra những giá trị
tinh thần như tình yêu vợ chồng, tình yêu bố mẹ, sự kính trọng của con cái đối với bố mẹ,
tình đoàn kết gia đình, những giá trị được tạo ra này cũng tham gia vào quá trình xã hội
hoá vào các nội dung được hậu thế tiếp thu”.
Trong gia đình Việt Nam, nông thôn cũng như đô thị, quan hệ giữa gia đình truyền
thống và gia đình hiện đại có ảnh hưởng lớn đến việc giáo dục các thế hệ. Chính vì vậy,
thế hệ trẻ vẫn chịu ảnh hưởng của các giá trị truyền thống. Từ khi còn sống chung với gia
đình truyền thống đến khi tách ra sống riêng với gia đình hạt nhân, con cái vẫn có trách
nhiệm chăm sóc bố mẹ và mọi người trong gia đình, họ hàng, coi đó như là chức năng
của mình.
Trong gia đình, tuỳ theo vị trí của các thành viên (ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em),
mỗi người có vị trí và vai trò của mình nhưng đều có trách nhiệm thực hiện chức năng
giáo dục - xã hội hoá của gia đình. Ông bà nội ngoại giáo dục các cháu rất quan trọng
(46,2% người được hỏi), truyền thụ cho các cháu cái hay, cái đẹp của văn hoá truyền
thống. Cha mẹ và các thành viên khác, với trình độ văn hoá, nghề nghiệp, công tác xã hội
khác nhau cũng tham gia giáo dục - xã hội hoá trẻ em theo các phương thức khác nhau.
Trình độ học vấn và văn hoá của cha mẹ có liên quan mật thiết tới việc học tập của con
cái. Trong khi công nhân tham gia vào việc học tập của con cái có 18,9% thì ở trí thức
lên tới 42% (điều tra xã hội học ở Hải Phòng).
Mặt khác, giáo dục - xã hội hoá còn được thể hiện cụ thể trong việc giáo dục đạo
đức, giáo dục giới tính, định hướng nghề nghiệp, giáo dục pháp luật, giáo dục lao động.
Đặc biệt, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường và giao lưu văn hoá quốc tế với nhiều
phương tiện hiện đại, con cái trong gia đình cần được giáo dục, hướng dẫn chọn lọc
những tinh hoa, phát triển nhân cách đúng hướng. Điều quan trọng là việc gia đình phối
hợp với học đường, với cộng đồng, với xã hội thực hiện chức năng giáo dục - xã hội hoá
có kết quả, để cho thế hệ trẻ từ trong gia đình đến xã hội nhận thức đúng vàhọc đóng các
vai trò của mình để gia nhập vào xã hội một cách chủ động và sáng tạo.


17


Gia đình không tách rời khỏi xã hội, nó gắn bó với các quan hệ xã hội liên quan với
các chức năng của chính nó. Lý thuyết cấu trúc chức năng đã tạo cơ sở cho sự phân tích,
sự biến đổi cơ cấu và chức năng gia đình gắn liền với biến đổi cơ cấu xã hội. Mặt khác lý
thuyết này cũng cho phép phân tích mối quan hệ giữa gia đình và hôn nhân, giữa cha mẹ
và con cái, giữa đời sống kinh tế và đời sống văn hoá, tinh thần. Gia đình, cộng đồng và
các thiết chế xã hội luôn luôn tương tác trong một cơ cấu thích hợp. Lý thuyết này cũng
chỉ ra cha mẹ ly hôn và trẻ em trong các gia đình ly hôn không tách rời nhau mà nằm
trong một cơ cấu phức tạp. Vì vậy khi giải quyết một vấn đề nào liên quan đến hôn nhân,
ly hôn đều phải đặt trong một cơ cấu tương ứng.
1.3.2. Lý thuyết gia đình học
Từ nhiều thế kỷ, có thể hàng nghìn năm, nhiều ngành khoa học đã quan tâm nghiên
cứu gia đình, từ triết học đến văn học, sử học, nhân chủng học, tâm lý học, luật học, xã
hội học, công tác xã hội, gia đình học…
H.T. Christensen (1965) cũng cho rằng, thời kỳ nghiên cứu gia đình có hệ thống
nhất cũng chỉ mới bắt đầu từ giữa thế kỷ thứ 19. Ngoài thời kỳ tiền nghiên cứu về gia
đình, ông phân biệt ra 3 giai đoạn phát triển của các công trình nghiên cứu về gia đình:
giai đoạn thứ nhất ở vào khoảng giữa thế kỷ 19, giai đoạn thứ hai vào nửa đầu thế kỷ 20
và giai đoạn thứ ba kéo dài cho đến ngày nay.
Theo F. Ăngghen, việc nghiên cứu lịch sử gia đình bắt đầu từ 1861, tức là từ khi
cuốn “Mẫu quyền” của Bachofen ra đời (T.31 - MAT2 - T.6).
Morgan (Moocgan) là người được Mác và Ăngghen đánh giá cao trong nghiên cứu
lịch sử tiến hoá nhân loại và nghiên cứu về gia đình.
Ngay từ thế kỷ thứ XIX, Moocgan, qua cuốn “Xã hội Cổ đại”, ông cho rằng: “Gia
đình là một yếu tố năng động, nó không bao giờ đứng nguyên ở một chỗ, khi xã hội phát
triển từ một trình độ thấp lên một trình độ cao, thì gia đình cũng tiến từ một hình thức
thấp lên một hình thức cao”[3,15].
Gia đình và quá trình phát triển của nó gắn liền với quá trình phát triển xã hội.

Chính Moocgan đã đặt vấn đề gia đình gắn liền với các giai đoạn tiến hoá của xã hội.
Moocgan đã phân lịch sử nhân loại làm 3 thời đại: mông muội, dã man và văn minh.
Theo Moocgan, lúc đầu là chế độ quần hôn, gia đình huyết tộc.

18


Từ gia đình huyết tộc phát triển ra gia đình Punaluan. Ông cho rằng, gia đình
Punaluan hình thành do sự cấm tính giao giữa chị em và anh em. Loại gia đình này thích
ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thời đại mông muội, khi người ta sử
dụng những công cụ bằng đá thô sơ, phổ biến dùng lửa và ăn cá.
Thay cho gia đình Punaluan là gia đình đối ngẫu: ở đây, người đàn ông sống với
một người đàn bà nhưng vẫn có quyền lấy nhiều vợ và ngoại tình, còn người đàn bà thì
phải triệt để trung thành với chồng.
Chế độ một vợ một chồng là một trong những dấu hiệu của buổi đầu của thời đại
văn minh. Gia đình này có quan hệ vợ chồng chặt chẽ hơn nhiều.
Theo Ăngghen, “trong tất cả các hình thức gia đình mà chúng ta đã biết, chế độ một
vợ, một chồng là chế độ duy nhất trong đó tình yêu nam nữ hiện đại có phát triển được”.
Ăngghen đã khẳng định luận điểm của Moocgan và cho rằng: “Sự phát triển hơn
nữa của gia đình một vợ một chồng là một bước tiến đến gần sự hoàn toàn bình đẳng về
quyền lợi giữa nam nữ”[3,56].
Là sản vật của một chế độ xã hội nhất định, hình thức của gia đình sẽ phản ánh
trạng thái phát triển của chế độ xã hội đó. Ăngghen cho rằng: “trong tương lai xa xôi sau
này, gia đình một vợ một chồng sẽ không có thể đáp ứng được những yêu cầu của xã hội,
thì cũng không thể nào dự đoán trước được là gia đình tiếp theo sau đó sẽ có tính chất
như thế nào”[3,66].
Có thể nói rằng, Ăngghen đã nêu lên một cách toàn diện vấn đề gia đình gắn liền
với sự phát triển xã hội. Trong tác phẩm “Tình cảnh của giai cấp công nhân ở Anh”
(1845), Ăngghen đã viết những bài đầu tiên về xã hội học gia đình.
Một số các nhà xã hội học tiền bối cũng quan tâm đến vấn đề gia đình và đưa ra

nhiều quan điểm lý thuyết khác nhau về vấn đề này. Nhà xã hội học Pháp (August
Comte) (1798-1857), nhà triết học thực chứng và là nhà sáng lập môn xã hội học đã cho
rằng quan niệm gia đình là tổ chức xã hội cơ bản và sự hợp tác trong lao động của các
thành viên là rất quan trọng. Ông cho rằng gia đình mang tính lịch sử và là công cụ xã hội
hoá cá nhân, chuẩn bị cho họ bước vào cuộc sống trong xã hội. Ông phân biệt hai mối
quan hệ cơ bản trong gia đình là mối quan hệ giới và quan hệ giữa các thế hệ. Đó là mối
quan hệ vợ chồng và mối quan hệ cha mẹ và con cái.

19


Trong nửa cuối thế kỷ thứ XIX xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu nhân chủng
học tự nhiên và nhân chủng học xã hội theo khuynh hướng tiến hoá tự nhiên liên quan
đến gia đình (H.Spencer, J.Bachofen, J.Morgan…). Trong đó, L.H. Morgan (1818 1881) đã đóng vai trò quan trọng.
Khi đề cập đến vấn đề vị thế xã hội của gia đình, Leplay, nhà xã hội học người Pháp
đã đưa ra nhiều ý kiến về địa vị gia đình, phương pháp duy trì gia đình, ngân sách, gia
đình, các giai đoạn quan trọng nhất của gia đình. Ông cho rằng môi trường địa lý có ý
nghĩa quan trọng đến các hình thái của đời sống gia đình.
Trong tác phẩm “Nhập môn xã hội học gia đình” do E. Durkheim viết và xuất bản năm
1888, Durkheim đã trình bày khá sâu sắc và toàn diện về xã hội học gia đình.
Sau này, trong lĩnh vực lý thuyết về gia đình, nhiều nhà xã hội học đã đề cập đến
nhiều khía cạnh khác nhau về gia đình, nhất là xã hội học gia đình và công tác xã hội với
gia đình. Các lý thuyết này chú ý nhiều đến mối quan hệ của gia đình đối với cấu trúc xã
hội, biến đổi chức năng gia đình, những vấn đề liên quan đến gia đình như tiền hôn nhân,
hôn nhân, vấn đề giáo dục trẻ em về đời sống gia đình.
Khi xem xét gia đình là một nhóm xã hội, “gia đình là một nhóm xã hội gồm hai hay
nhiều người gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống (hoặc nhận con
nuôi), vừa nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng tư của họ, vừa nhằm thoả mãn những nhu cầu
của xã hội và tái sản xuất dân cư cả nghĩa thể xác và tinh thần”.
Khi xem xét gia đình như một thiết chế xã hội, người ta cho rằng cần tập trung vào

các vai trò đã được quy định trong gia đình gắn liền với sự phát triển nhu cầu của xã hội,
nhu cầu xã hội trong quan hệ hôn nhân gia đình, chức năng xã hội của gia đình, các
chuẩn mực và giá trị trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Các chuẩn mực này dựa trên
quy định pháp lý về ly hôn: tính chất của thủ tục ly hôn, quyền lợi và nghĩa vụ của các
cặp vợ chồng đã ly hôn đối với việc chăm sóc con cái, sở hữu tài sản sau ly hôn. Chuẩn
mực của hôn nhân gia đình thay đổi đối với thời gian và chu kỳ sống khác nhau của gia
đình.
Lý thuyết về gia đình cũng đòi hỏi việc tiếp cận gia đình như “một nhóm xã hội”
gắn liền với cơ cấu của gia đình như cơ cấu thành viên trong gia đình: gia đình đầy đủ,
gia đình không đầy đủ, gia đình hạt nhân và gia đình mở rộng, gia đình thuần nhất và gia
đình không thuần nhất, quan hệ các thế hệ trong gia đình: quan hệ vợ chồng, quan hệ cha

20


mẹ - con cái, quan hệ ông bà - cha mẹ - con cái, quan hệ anh chị em, quan hệ họ hàng
thân tộc.
Với các cách tiếp cận khác nhau của các ngành khoa học, gia đình đã được giải
thích và định nghĩa khác nhau. Theo H.T. Christensen, có 4 cách tiếp cận khi nghiên cứu
gia đình như:
- Những nghiên cứu về tổ chức gia đình.
- Những nghiên cứu về cấu trúc chức năng.
- Những nghiên cứu về tác động qua lại trong gia đình.
- Những nghiên cứu về sự phát triển gia đình.
Sự chuyển biến của gia đình, dù dưới hình thức nào đi nữa, đều là kết quả của sự
tương tác giữa các thành viên bên trong gia đình và tương tác giữa gia đình và cơ cấu xã
hội. Chính vì vậy, sự tác động của môi trường, của kinh tế - chính trị - văn hoá, của quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế đã dẫn đến biến đổi cấu trúc, chức năng
của gia đình.
Gia đình là sản phẩm của lịch sử xã hội, phản ánh nền kinh tế - văn hoá - chính trị,

phong tục tập quán, thói quen, tâm lý, tình cảm, lối sống của một xã hội, của một dân tộc
và một thời đại lịch sử nhất định.
Công nghiệp hoá đã làm cho cấu trúc của gia đình thay đổi, xuất hiện nhiều loại gia
đình khác với gia đình truyền thống. Nền văn minh công nghiệp đem lại cho gia đình
phương thức hoạt động, nuôi dạy con cái, lối sống mới tác động tích cực đến tàn dư của
chế độ gia trưởng trong gia đình.
Cùng với các lý thuyết về gia đình, một số luận điểm về hôn nhân, về ly hôn đã nảy
sinh trong quá trình nghiên cứu về gia đình.
“Hôn nhân là một dạng liên kết khác giới được tập quán và luật pháp công nhận, có
giá trị lâu dài. Dù tất cả sự khác biệt văn hoá thì hôn nhân bất cứ ở đây, dù có sự khác
biệt về mức độ trách nhiệm vẫn được công nhận là thể chế xã hội để đảm bảo sự kế tục
hợp pháp, thường được xã hội bảo vệ ở mức độ nhiều hay ít chịu sự điều tiết của xã hội,
lý giải sự tiếp tục thừa kế và đòi hỏi sự tương trợ và hợp tác lẫn nhau của cả đôi
bên”[4,70].
Do thực tiễn xã hội của sự khủng hoảng trong hôn nhân, tỷ lệ ly hôn cao nên một số
người cho rằng thiết chế hôn nhân sẽ suy vong dần và ly hôn đã trở thành sự kiện xã hội

21


phổ biến. Các nhà xã hội học đã nêu ra rất nhiều tác động của ly hôn đối với cả đôi lứa và
con cái. Các ảnh hưởng này bao gồm: các nguy cơ chán nản, tuyệt vọng, tuyệt mệnh.
Chính Emile Durkheim, một trong số nhà xã hội học tiền bối nước Pháp, qua tác phẩm
nổi tiếng “Sự tự sát” đã chỉ ra rằng, nam giới chịu tác động về mặt xã hội và sự cô độc
hơn phụ nữ rất nhiều”. Nhưng phụ nữ lại chịu cảnh sa sút nặng nề về nhiều mặt.
R. Aron đã chỉ ra rằng “ly hôn là cuộc khủng hoảng của sự biến đổi gia đình gây ra
những thay đổi trong hệ thống gia đình”. Sự ly hôn của gia đình diễn ra trong những bối
cảnh khác nhau nhưng thường xuất phát từ nhiều xung đột và trải qua một quá trình phức
tạp đầy mâu thuẫn.
Ăngghen đã nói rằng: “Nếu chỉ riêng hôn nhân dựa trên cơ sở tình yêu mới là hợp

đạo đức thì cũng chỉ riêng hôn nhân trong đó tình yêu được duy trì mới là hợp đạo đức
mà thôi. Nhưng sự thôi thúc của tình yêu cá nhân giữa nam nữ thì lại tuỳ từng người mà
lâu dài rất khác nhau, nhất là đối với đàn ông, và nếu tình yêu đã hoàn toàn phai nhạt
hoặc bị một tình yêu say đắm mới át đi thì ly hôn sẽ là điều hay cho cả đôi bên cũng như
cho xã hội. Chỉ cần tránh cho người ta khỏi sa chân vô ích vào những vũng bùn kiện tụng
để ly hôn mà thôi”[3,45].
Ăngghen nói tiếp: “… Điều này sẽ được giải quyết khi một thế hệ mới sẽ lớn lên:
một thế hệ đàn ông không bao giờ phải dùng tiền hoặc dùng những phương tiện quyền
lực xã hội khác để mua sự hiến thân của người đàn bà, và một thế hệ đàn bà không bao
giờ phải hiến mình cho đàn ông vì một lý do nào khác ngoài tình yêu chân chính, hoặc
phải từ chối không dám hiến mình cho người yêu vì sợ những hậu quả kinh tế của sự hiến
thân đó”[3,55].
Ăngghen cũng vạch rõ ràng, trong điều kiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, hôn
nhân bao giờ cũng là hôn nhân có tính toán đối với người chủ sở hữu.
1.3.3. Một số quan điểm và lý thuyết về trẻ em
Erik Erikson (1902 - 1994), khi còn nhỏ thuộc gia đình có cha mẹ ly hôn, không
còn tiếp xúc với cha mình nữa, lang thang nhập cư vào Mỹ và rơi vào cuộc “khủng hoảng
bản sắc”, sau này trở thành nhà phân tâm học nổi tiếng. Ông đã phê phán lý thuyết của S.
Freud vì Freud đã không đánh giá sự tác động của xã hội đến sự phát triển nhân cách.
Erikson đã xem xã hội là một sức mạnh định hướng cho sự phát triển của cái “tôi”.

22


Thuyết Xã hội - Tâm lý của Erikson đã mô tả sự phát triển nhân cách qua suốt cả
cuộc đời của con người. Ông phân chia đời người ra làm 8 giai đoạn. Mỗi giai đoạn đều
diễn ra những sự chuyển hoá trong các mối quan hệ xã hội. Sự chuyển hoá liên quan đến
việc giải quyết quan hệ giữa nhu cầu, lợi ích, giá trị giữa xã hội và cá nhân.
Trẻ em liên quan đến 5 giai đoạn đầu:
- Giai đoạn 1 - Sơ sinh (0 - 1,5 tuổi): cần phát triển cảm giác - chỉ có người mẹ mới

đáp ứng được nhu cầu này. Nếu đứa trẻ, vì nguyên nhân nào đó, không được đáp ứng nhu
cầu thích hợp với mình dẫn đến hình thanh cảm giác mất tin tưởng, rơi vào tình trạng sợ
hãi, rối loạn đáng thương vì không có mẹ bên cạnh ấp ủ, chăm sóc.
- Giai đoạn 2 - Nhà trẻ (1,5 - 3 tuổi): đứa trẻ tập đi, tập tự định hướng cho mình.
Nhiệm vụ của gia đình và nhà trẻ là hình thành sự tự chủ cho trẻ (hoặc mức độ cảm giác).
Có thể xuất hiện những nguyên nhân làm cho trẻ trì trệ.
- Giai đoạn 3 - Mẫu giáo (từ 3 - 6 tuổi): hình thành năng lực của đứa trẻ và tránh
khỏi tội lỗi do nhiều lý do gây nên. Vai trò của cha mẹ rất quan trọng trong giai đoạn này.
- Giai đoạn 4 - Đi học (từ 6 - đến tuổi dậy thì): hình thành sự chăm chỉ, cần cù, kỹ
xảo hành động của trẻ.
- Giai đoạn 5 - Vị thành niên (từ dậy thì đến 20 tuổi): diễn ra cuộc “cách mạng sinh
lý”. Trẻ đi tìm bản sắc riêng của mình.
- Giai đoạn 6 - người lớn trẻ tuổi (gần 20 đến 40 tuổi): tìm kiếm cái bản sắc sẵn
sàng phát triển với sự gắn bó với người khác. Tình yêu nam nữ xuất hiện…[5,43].
Tính chất khoa học của lý thuyết E. Erikson là đã trình bày quá trình phát triển nhân
cách của trẻ gắn liền với sự chuyển hoá trong các mối quan hệ xã hội trong suốt cuộc đời.
Trong đó, mối quan hệ quan trọng nhất là mẹ - con (giai đoạn từ 0 đến 1,5 tuổi), mỗi
quan hệ cha mẹ - con cái (giai đoạn từ 1,5 tuổi đến 3 tuổi), mối quan hệ cha mẹ, gia đình
và con cái (giai đoạn từ 3 đến 6 tuổi). Khi bắt đầu đến trường và trưởng thành sau này thì
mối quan hệ nhà trường, hàng xóm, cộng đồng là rất quan trọng (từ 6 tuổi đến tuổi dậy
thì) và từ đó đến gần 20 tuổi, con người của lứa tuổi này hình thành các nhóm bạn bè,
nhiều cá tính và lúng túng về vai trò xã hội, muốn khẳng định mình để duy trì được lòng
tự trọng.
Theo TS. Banaag Cornelio (thuộc Tổ chức Quốc tế về Dịch vụ gia đình và Cộng
đồng), cho rằng: trong phần lớn các xã hội, gia đình là môi trường đầu tiên của trẻ em từ

23



×