Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu phân bón của tổng công ty vật tư nông nghiệp công ty tnhh một thành viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (805.94 KB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
-------

-------

ĐỖ VĂN TÙNG

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU
PHÂN BÓN CỦA TỔNG CÔNG TY VẬT TƯ NÔNG NGHIỆP
CÔNG TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ

HÀ NỘI, NĂM 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
-------

-------

ĐỖ VĂN TÙNG


GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU
PHÂN BÓN CỦA TỔNG CÔNG TY VẬT TƯ NÔNG NGHIỆP
CÔNG TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ: 60.34.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. CHU THỊ KIM LOAN

HÀ NỘI, NĂM 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm
ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả

Đỗ Văn Tùng

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page ii


LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực hiện đề tài: "Giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu
phân bón của Tổng công ty Vật tư nông nghiệp - Công ty TNHH một thành viên" .

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến giáo viên hướng dẫn TS. Chu Thị
Kim Loan – Trưởng Bộ môn Marketing, Khoa Kế toán và Quản trị kinh doanh, Học
viện Nông nghiệp Việt Nam đã dành nhiều tâm huyết, tận tình hướng dẫn chỉ bảo
tôi trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến các giảng viên Bộ môn Marketing, Khoa Kế
toán và Quản trị kinh doanh, Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam đã tạo mọi điều kiện
giúp đỡ tôi thực hiện đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo, đồng nghiệp công tác tại Tổng
công ty Vật tư nông nghiệp - Công ty TNHH một thành viên đã tạo điều kiện giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình thu thập tài liệu cho đề tài.
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài, tôi đã nhận được nhiều sự
giúp đỡ, động viên, khích lệ rất nhiều từ phía gia đình và bạn bè. Tôi xin chân thành
cảm ơn sự giúp đỡ và ghi nhận những tình cảm quí báu đó.
Xin chân thành cảm ơn!

Tác giả

Đỗ Văn Tùng

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page iii


MỤC LỤC

Trang
Lời cam đoan

ii


Lời cảm ơn

iii

Mục lục

iv

Danh mục viết tắt

vii

Danh mục bảng

viii

Danh mục hộp

ix

1. MỞ ĐẦU

1

1.1 Tính cấp thiết của đề tài

1

1.2 Mục tiêu của đề tài


2

1.2.1 Mục tiêu chung

2

1.2.2 Mục tiêu cụ thể

2

1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

3

1.3.1 Đối tượng nghiên cứu

3

1.3.2 Phạm vi nghiên cứu

3

2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU
PHÂN BÓN

4

2.1 Cơ sở lý luận về hoạt động nhập khẩu


4

2.1.1 Khái niệm về nhập khẩu

4

2.1.2 Đặc điểm của hoạt động nhập khẩu

5

2.1.3 Phân loại nhập khẩu

5

2.1.4 Vai trò của hoạt động nhập khẩu

7

2.1.5 Nội dung hoạt động nhập khẩu

9

2.1.6 Những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu
2.2 Cơ sở thực tiễn của đề tài

17
23

2.2.1 Khái quát tình hình nhập khẩu phân bón ở Việt Nam


23

2.2.2 Nhập khẩu phân bón của một số doanh nghiệp trong nước

25

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page iv


3. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

26

3.1 Đặc điểm của Tổng công ty Vật tư Nông nghiệp – công ty TNHH một
thành viên

26

3.1.1 Khái quát quá trình hình thành phát triển của Tổng công ty Vật tư
nông nghiệp - Công ty TNHH một thành viên

26

3.1.2 Lĩnh vực hoạt động

26

3.1.3 Cơ cấu tổ chức


27

3.1.4 Tình hình lao động của tổng công ty Vật tư Nông nghiệp

29

3.1.5 Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và tài chính

32

3.2 Phương pháp nghiên cứu

35

3.2.1 Phương pháp thu thập tài liệu

35

3.2.2 Phương pháp xử lý số liệu

36

3.2.3 Các phương pháp phân tích thông tin

36

3.2.4 Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu của đề tài

37


4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

38

4.1 Thực trạng hoạt động nhập khẩu phân bón của Tổng công ty Vật tư nông
nghiệp - Công ty TNHH một thành viên

38

4.1.1 Nghiên cứu thị trường nhập khẩu

38

4.1.2 Lập phương án kinh doanh

41

4.1.3 Đàm phán ký kết hợp đồng

44

4.1.4 Tổ chức hợp đồng nhập khẩu

52

4.1.5 Kết quả hoạt động nhập khẩu phân bón của tổng công ty

56


4.2 Phân tích yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu phân bón của Tổng
công ty Vật tư nông nghiệp - Công ty TNHH một thành viên.

70

4.2.1 Những yếu tố bên ngoài doanh nghiệp

70

4.2.2 Những yếu tố bên trong doanh nghiệp

76

4.2.3 Phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức trong hoạt động
nhập khẩu phân bón của Tổng công ty Vật tư nông nghiệp - Công ty TNHH
một thành viên

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

77

Page v


4.3 Giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu phân bón của Tổng công ty Vật
tư nông nghiệp - Công ty TNHH một thành viên

84

4.3.1 Định hướng hoạt động nhập khẩu phân bón của Tổng công ty trong

thời gian tới

84

4.3.2 Các giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu phân bón của công ty

85

5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

89

5.1. Kết luận

89

5.2 Kiến nghị

90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

92

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page vi


DANH MỤC VIẾT TẮT

CBCNV

: Cán bộ công nhân viên

CP

: Chính phủ

CHXHCNVN

: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam

DNNN

: Doanh nghiệp nhà nước

PTNT

: Phát triển nông thôn

SXKD

: Sản xuất kinh doanh

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

VTNN


: Vật tư nông nghiệp

LĐBQ

: Lao động bình quân

TNBQ

: Thu nhập bình quân

QTL

: Quỹ tiền lương

NK

: Nhập khẩu

XK

: Xuất khẩu

DT

: Doanh thu

BQ

: Bình Quân


DN

: Doanh nghiệp

SL

: Sản lượng

NN-PTNT

: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

NSNN

: Ngân sách nhà nước

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page vii


DANH MỤC BẢNG
Số bảng

Tên bảng

Trang

2.1


Nhập khẩu phân bón của Việt Nam theo chủng loại năm 2014

23

2.2

Top 10 thị trường Việt Nam nhập khẩu phân bón có lượng lớn nhất
năm 2014

3.1

24

Tổng hợp nhân lực theo trình độ chuyên môn của Tổng công ty qua 3
năm 2012- 2014

30

3.2

Cơ cấu tuổi lao động của công ty mẹ qua 3 năm 2012-2014

32

3.3

Sản lượng sản phẩm kinh doanh của Tổng công ty năm 2012-2014

33


3.4

Kết quả hoạt động kinh doanh của Tổng công ty năm 2012-2014

34

4.1

Các khách hàng xuất khẩu phân bón chủ yếu cho công ty

40

4.2

Thống kê các loại hợp đồng qua các phương tiện đàm phán qua 3 năm
2012-2014

4.3

45

Lượng phân bón nhập khẩu của công ty được vận chuyển bởi các đơn
vị vận tải

4.4

55

Lượng phân bón nhập khẩu theo đầu mối nhập khẩu của doanh nghiệp
qua 3 năm 2012-2014


4.5

57

Kim ngạch nhập khẩu theo đầu mối nhập khẩu của doanh nghiệp qua
3 năm 2012-2014

59

4.6

Kết quả nhập khẩu phân bón từ năm 2012 đến năm 2014

60

4.7

Lượng phân bón nhập khẩu của công ty theo thị trường qua 3 năm
2012-2014

4.8

62

Kim ngạch nhập khẩu phân bón của công ty theo thị trường qua 3 năm
2012-2014

64


4.9

Kết quả tiêu thụ phân bón phân bón của công ty 2012 - 2014

65

4.10

Kết quả tiêu thụ phân bón theo số lượng của doanh nghiệp qua 3 năm
2012-2014

4.11

67

Kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu phân bón của
công ty Vật tư Nông nghiệp qua 3 năm 2012-2014

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

69

Page viii


DANH MỤC HỘP
Số hộp

Tên hộp


Trang

4.1

Phương án kinh doanh nhập khẩu sản phẩm SA

4.2

Minh họa hợp đồng nhập khẩu phân bón với 1 công ty ở Trung Quốc
năm 2014

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

43
48

Page ix


1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra
mục tiêu chiến lược về CNH-HĐH đất nước là: Từ nay (1996) đến năm 2020 phấn
đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Vì vậy trong cơ cấu kinh
tế, công nghiệp và dịch vụ sẽ chiếm tỷ trọng lớn trong GNP và trong lao động xã
hội. Mặc dù vậy sản xuất nông nghiệp vẫn có một vị trí hết sức quan trọng trong
nhiều năm nữa (Văn kiện Đại hội Đảng VIII).
Việt Nam với trên 70% dân số sống bằng nghề nông (Tin, 2015) - vì vậy nhu
cầu phân bón cho nông nghiệp của rất lớn - bình quân mỗi năm 8-9 triệu tấn. Diện
tích tự nhiên cả nước là 33,1 triệu ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp 26,4 triệu

ha, đất phi nông nghiệp là 3,8 triệu ha, đất chưa sử dụng là 2,9 triệu ha (Niên giám
thống kê, 2013). Trong đất sản xuất nông nghiệp, đất trồng cây hàng năm chiếm tỷ
lệ lớn - 6,4 triệu ha (19,4% diện tích tự nhiên), trong đó đáng chú ý là đất trồng lúa 4,1 triệu ha, tương đương với 12,4% diện tích tự nhiên. Ngoài ra, đất trồng cây lâu
năm là 3,8 triệu ha, bao gồm các cây công nghiệp chính như cao su (955,6 nghìn
ha), cà phê (635 nghìn ha), hồ tiêu (67,9 nghìn ha), phần còn lại là ca cao, điều và
cây lâu năm khác (Niên giám thống kê, 2013).
Các cây trồng sử dụng nhiều phân bón có thể kể đến là lúa nước (chiếm
khoảng 65% nhu cầu phân bón), ngô (9%), các cây ngắn ngày - mía, lạc, đậu nành,
bông, rau củ…- (6%), phần còn lại là các loại cây dài ngày - cao su, cà phê, chè,
tiêu, điều, cây ăn quả - chiếm 20% (Tin, 2015).
Từ năm 2012, do có thêm nhiều nhà máy mới và mở rộng quy mô sản xuất
cũ, Việt nam đã dư thừa phân NPK, phân lân, và urê nhưng sản xuất phân DAP
mới đáp ứng được khoảng 30-35% nhu cầu (Tin, 2015). Tuy vậy, phân bón SA và
Kali vẫn hoàn toàn phụ thuộc vào nhập khẩu, chủ yếu do không có nguồn nguyên
liệu đầu vào để sản xuất (Tin, 2015). Thêm vào đó, theo đánh giá của FAV, công
nghệ sản xuất phân bón hóa học ở nước ta hiện nay đều là những công nghệ được
hình thành từ thập kỷ 60 của thế giới cộng với việc thiếu đầu tư đổi mới nên hầu
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 1


hết đều đã lạc hậu (FAV, Tin, 215). Xét trên phương diện toàn cầu, Việt Nam
chiếm 3% nguồn cung phân bón thế giới và 6% nhu cầu phân bón thế giới trong
năm 2013 (Tin, 2015).
Tổng công ty Vật tư Nông nghiệp – Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên (sau đây gọi tắt là công ty VTNN) là doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, trực
thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT). Tổng công ty hoạt
động kinh doanh trong lĩnh vực nhập khẩu phân bón nên chịu ảnh hưởng trực tiếp
từ những biến động cung-cầu, giá cả, tỷ giả hối đoái và sự cạnh tranh của thị trường

phân bón thế giới và nội địa; đồng thời công ty VTNN cũng chịu ảnh hưởng từ
những chính sách mới và những thay đổi chính sách của nhà nước đối với hoạt động
xuất - nhập khẩu phân bón. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu hoạt động nhập
khẩu phân bón - hoạt động được xem là chủ chốt - nhằm giúp công ty có những
chiến lược nhập khẩu trong bài toán kinh doanh mang tính thời sự cao. Xuất phát từ
lý do nêu trên, tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Giải pháp hoàn thiện hoạt động
nhập khẩu phân bón của Tổng công ty Vật tư Nông nghiệp – Công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên”.
1.2. Mục tiêu của đề tài
1.2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động nhập khẩu phân bón của Tổng
công ty Vật tư Nông nghiệp – Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên để đề
xuất các giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu phân bón của công ty trong thời
gian tới.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động nhập khẩu
phân bón của doanh nghiệp.
- Phân tích thực trạng hoạt động nhập khẩu phân bón của Tổng công ty Vật
tư Nông nghiệp – Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu phân bón của Tổng công
ty Vật tư Nông nghiệp – Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 2


1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Các hoạt động kinh doanh nhập khẩu phân bón của Tổng công ty Vật tư

nông nghiệp - Công ty TNHH một thành viên
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động nhập khẩu phân
bón và các giải pháp hoàn thiện hoạt động kinh doanh nhập khẩu phân bón của Tổng
công ty Vật tư nông nghiệp - Công ty TNHH một thành viên
Thời gian nghiên cứu: Số liệu thứ cấp được thu thập trong khoảng thời gian
từ năm 2012 – 2014.
Không gian nghiên cứu: Không gian nghiên cứu được tiến hành ở Tổng công
ty Vật tư nông nghiệp - Công ty TNHH một thành viên.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 3


2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU
PHÂN BÓN
2.1. Cơ sở lý luận về hoạt động nhập khẩu
2.1.1. Khái niệm về nhập khẩu
Nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế, là quá
trình trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia dựa trên nguyên tắc trao đổi ngang giá lấy
tiền tệ là môi giới; nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là một hệ thống
các quan hệ buôn bán trong một nền kinh tế có cả tổ chức bên trong và bên ngoài
(Nguyễn Cảnh Hiệp, 2013)
Nếu xét trên phạm vi hẹp thì tại Điều 2 Thông tư số 04/TM-ĐT ngày
30/7/1993 của Bộ Thương mại định nghĩa: “Kinh doanh nhập khẩu thiết bị là toàn
bộ quá trình giao dịch, ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán thiết bị và dịch vụ có
liên quan đến thiết bị trong quan hệ bạn hàng với nước ngoài”. (Công văn của bộ
thương mại số 3230/TM-ĐT ngày 1 tháng 4 năm 1994 về việc cấp quyền kinh
doanh nhập khẩu thiết bị toàn bộ).

Như vậy thực chất kinh doanh nhập khẩu là nhập khẩu hàng hóa từ các tổ
chức kinh tế và các công ty nước ngoài, sau đó tiến hành tiêu thụ hàng hoá, vật tư ở
thị trường nội địa hoặc tái xuất với mục tiêu lợi nhuận và nối liền sản xuất giữa các
quốc gia với nhau.
Mục tiêu hoạt động kinh doanh nhập khẩu là sử dụng có hiệu quả nguồn
ngoại tệ để nhập khẩu vật tư; thiết bị kỹ thuật và dịch vụ phục vụ cho quá trình tái
sản xuất mở rộng; nâng cao năng suất lao động, tăng giá trị ngày công và giải quyết
sự khan hiếm hàng hoá, vật tư trên thị trường nội địa.
Mặt khác, kinh doanh nhập khẩu đảm bảo sự phát triển ổn định của các
ngành kinh tế mũi nhọn của mỗi nước mà khả năng sản xuất trong nước chưa đảm
bảo đầy đủ về vật tư; thiết bị kỹ thuật đồng thời đáp ứng nhu cầu phát triển; khai
thác triệt để lợi thế so sánh của quốc gia, góp phần thực hiện chuyên môn hoá trong
phân công lao động quốc tế, kết hợp hài hoà và có hiệu quả giữa nhập khẩu và cải
thiện cán cân thanh toán quốc tế.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 4


2.1.2. Đặc điểm của hoạt động nhập khẩu
Hoạt động nhập khẩu là hoạt động phức tạp so với hoạt động kinh doanh
trong nước. Hoạt động nhập khẩu có những đặc điểm sau: Trước hết, hoạt động
nhập khẩu chịu sự điều chỉnh của nhiều nguồn luật như điều ước quốc tế và Ngoại
thương, luật quốc gia của các nước hữu quan, tập quán thương mại quốc tế. Các
phương thức giao dịch mua bán trên thị trường quốc tế rất phong phú như giao dịch
thông thường giao dịch qua trung gian, giao dịch tại hội chợ triển lãm. Các phương
thức thanh toán rất đa dạng, ví dụ như nhờ thu, hàng đổi hàng, L/C.... Ngoài ra, tiền
tệ dùng trong thanh toán thường là ngoại tệ mạnh có sức chuyển đổi cao như USD,
bảng Anh.... Thêm vào đó, điều kiện cơ sở giao hàng có nhiều hình thức nhưng phổ

biến là nhập khẩu theo điều kiện CIF, FOB...
Kinh doanh nhập khẩu là kinh doanh trên phạm vi quốc tế nên địa bàn rộng,
thủ tục phức tạp, thời gian thực hiện lâu. Kinh doanh nhập khẩu phụ thuộc vào kiến
thức kinh doanh, trình độ quản lý, trình độ nghiệp vụ Ngoại thương, sự nhanh nhạy
nắm bắt thông tin của doanh nghiệp. Trong hoạt động nhập khẩu có thể xảy ra
những rủi ro thuộc về hàng hoá. Để đề phòng rủi ro, các doanh nghiệp có thể mua
bảo hiểm tương ứng.
Như vậy, hoạt động nhập khẩu là cơ hội để các doanh nghiệp có quốc tịch
khác nhau hợp tác lâu dài. Thương mại quốc tế có ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ
kinh tế - chính trị của các nước xuất khẩu, góp phần phát triển kinh tế đối ngoại.
2.1.3. Phân loại nhập khẩu
2.1.3.1. Nhập khẩu trực tiếp
Theo cách thức này, bên mua và bên bán trực tiếp giao dịch với nhau. Hoạt
động chủ yếu là doanh nghiệp trong nước nhập khẩu hàng hoá, vật tư ở thị trường
nước ngoài đem về tiêu thụ ở thị trường trong nước. Để tiến tới ký kết hợp đồng
kinh doanh nhập khẩu, doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ nhu cầu nhập khẩu vật tư,
thiết bị trên thị trường nội địa, tính toán đầy đủ các chi phí đảm bảo kinh doanh
nhập khẩu có hiệu quả, đàm phán kỹ lưỡng về các điều kiện giao dịch với bên xuất
khẩu, thực hiện theo hành lang pháp lý quốc gia cũng như thông lệ quốc tế.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 5


Theo hình thức nhập khẩu này, bên nhập khẩu phải nghiên cứu thị trường,
tìm kiếm đối tác, ký kết hợp đồng và thực hiện theo đúng hợp đồng, phải tự bỏ vốn,
chịu mọi rủi ro và chi phí giao dịch, nghiên cứu, giao nhận, kho bãi cùng các chi phí
có liên quan đến tiêu thụ hàng hóa, thuế nhập khẩu...
2.1.3.2. Nhập khẩu uỷ thác

Theo quyết định số 1172/TM/XNK ngày 22/9/1994 của Bộ trưởng Bộ
Thương Mại về việc ban hành” Quy chế XNK uỷ thác giữa các pháp nhân trong
nước” (quyết định ban hành quy chế xuất nhập khẩu ủy thác giữa các pháp nhân
trong nước của bộ thương mại ký ngày 22/9/2015) được định nghĩa như sau: “ Nhập
khẩu uỷ thác là hoạt động dịch vụ thương mại dưới hình thức nhận làm dịch vụ
nhập khẩu. Hoạt động này được làm trên cơ sở hợp đồng uỷ thác giữa các doanh
nghiệp phù hợp với những quy định của pháp lệnh hợp đồng kinh tế„.
Như vậy, hợp đồng uỷ thác nhập khẩu được hình thành giữa các doanh
nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng, có nhu cầu nhập khẩu một loại vật tư, thiết
bị nào đó nhưng không được phép nhập khẩu trực tiếp hoặc gặp khó khăn trong việc
tìm kiếm bạn hàng. Trong trường hợp đó, doanh nghiệp thực hiện thủ tục uỷ thác
nhập khẩu cho doanh nghiệp có chức năng thương mại quốc tế tiến hành nhập khẩu
theo yêu cầu. Bên nhận uỷ thác phải cung cấp cho bên uỷ thác các thông tin về thị
trường, giá cả, khách hàng, những điều kiện có liên quan đến đơn hàng uỷ thác
thương lượng đàm phán và ký kết hợp đồng uỷ thác. Bên nhận uỷ thác phải tiến
hành làm các thủ tục nhập khẩu và được hưởng phần thù lao gọi là phí uỷ thác.
Theo hình thức nhập khẩu ủy thác, doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ nhập
khẩu uỷ thác không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch, không phải tìm kiếm thị
trường tiêu thụ hàng nhập, giá trị hàng nhập chỉ được tính vào kim ngạch XNK
không được tính vào doanh thu. Khi nhận uỷ thác, doanh nghiệp nhận ủy thác phải
làm hai hợp đồng: Một hợp đồng mua bán hàng hoá, vật tư với nước ngoài và một
hợp đồng uỷ thác nhập khẩu với bên uỷ thác ở trong nước.
2.1.3.3. Buôn bán đối lưu
Buôn bán đối lưu trong thương mại quốc tế là một phương thức giao dịch
trao đổi hàng hoá trong đó nhập khẩu kết hợp chặt chẽ với xuất khẩu, người bán

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 6



đồng thời là người mua và ngược lại. Lượng hàng hoá dịch vụ trao đổi có giá trị
tương đương. Giao dịch đối lưu dựa trên bốn nguyên tắc cân bằng: Cân bằng về mặt
hàng, cân bằng về giá cả, cân bằng về cùng một điều kiện giao hàng và cân bằng về
tổng giá trị hàng hoá trao đổi.
Hình thức buôn bán đối lưu có lợi cho doanh nghiệp ở chỗ là cùng một hợp
đồng ta có thể tiến hành đồng thời hoạt động xuất và nhập khẩu. Đối với hình thức
này thì lượng hàng giao đi và lượng hàng nhận về có giá trị tương đương nhau.
Doanh nghiệp xuất khẩu được tính vào cả kim ngạch xuất nhập khẩu, doanh thu trên
hàng hoá nhập và hàng xuất.
2.1.3.4. Nhập khẩu tái xuất
Mỗi nước có một định nghĩa riêng về tái xuất, nhưng đều thống nhất một quan
điểm về tái xuất là xuất khẩu trở ra nước ngoài những hàng hoá trước đây được nhập
khẩu, chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Có nghĩa là tiến hành nhập khẩu không phải
để tiêu thụ trong nước mà để xuất sang một nước thứ ba nhằm thu lợi nhuận. Giao dịch
tái xuất bao gồm nhập khẩu và xuất khẩu với mục đích thu về một lượng ngoại tệ lớn
hơn vốn bỏ ra ban đầu. Giao dịch này luôn thu hút ba nước: Nước xuất khẩu, nước tái
xuất và nước nhập khẩu.
Theo hình thức này, doanh nghiệp tái xuất phải tính toán toàn bộ chi phí
nhập hàng và xuất hàng sao cho thu hút được lượng ngoại tệ lớn hơn chi phí ban
đầu bỏ ra. Đồng thời, doanh nghiệp tái xuất phải tiến hành hai loại hợp đồng: Một
hợp đồng nhập khẩu và một hợp đồng xuất khẩu nhưng không phải nộp thuế XNK.
Doanh nghiệp tái xuất được tính kim ngạch trên cả hàng tái xuất và hàng nhập,
doanh số tính trên giá trị hàng hoá tái xuất do đó vẫn chịu thuế. Hàng hoá không
nhất thiết phải chuyển về nước tái xuất mà có thể chuyển thẳng từ nước xuất khẩu
đến nước nhập khẩu theo hình thức chuyển khẩu, nhưng tiền phải do người tái xuất
trả cho người nhập khẩu và thu từ người nhập khẩu (Nguyễn cảnh Hiệp, 2013).
2.1.4. Vai trò của hoạt động nhập khẩu
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu là một trong hai bộ phận cấu thành nên
nghiệp vụ ngoại thương. Biểu hiện là việc mua hàng hoá và dịch vụ từ nước ngoài

về phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước hoặc nhằm tái sản xuất với mục đích thu
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 7


lợi nhuận. Nhập khẩu thể hiện mối tương quan gắn bó chặt chẽ với nhau giữa các
nền kinh tế của các quốc gia với nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên mỗi một thời kỳ
đều có đặc điểm riêng, chiến lược phát triển kinh tế riêng vì vậy mà vai trò, nhiệm
vụ của hoạt động kinh doanh nhập khẩu cũng được điều chỉnh cho phù hợp với mục
tiêu nhà nước đề ra. Trên thực tế, một khi nền kinh tế quốc gia đã hoà nhập vào nền
kinh tế thế giới thì vai trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu ngày càng trở nên
quan trọng. Điều đó được thể hiện cụ thể như sau.
Thứ nhất, nhập khẩu mở rộng khả năng tiêu dùng trong nước, cho phép tiêu
dùng một lượng hàng hoá nhiều hơn khả năng sản xuất trong nước, đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng ngày càng cao cũng như thị hiếu của người tiêu dùng, làm tăng mức sống
người dân, tăng thu nhập quốc dân. Thứ hai, nhập khẩu tạo sự chuyển giao công
nghệ, do đó có thể tái xuất mở rộng hàng hoá có hiệu quả, tiết kiệm thời gian và chi
phí, tạo ra sự đồng đều về phát triển trong nước. Thứ ba, nhập khẩu tạo ra sự cạnh
tranh tích cực giữa hàng nội và hàng nhập khẩu tức là tạo ra động lực cho các nhà
sản xuất trong nước không ngừng vươn lên, tạo đà cho xã hội ngày càng phát triển.
Do đó, nhập khẩu xoá bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ triệt để cơ chế tự cung tự cấp
của nền kinh tế đóng. Thứ tư, nhập khẩu giải quyết được các nhu cầu đặc biệt như
hàng hoá khan hiếm, hàng hoá cao cấp, công nghệ hiện đại mà trong nước không
thể sản xuất được hay khó khăn trong quá trình sản xuất vì nguồn lực khan hiếm.
Chính vì vậy, nhập khẩu góp phần khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh của một
quốc gia, tham gia sâu rộng và sự trao đổi quốc tế và sự phân công lao động quốc tế
trên cơ sở chuyên môn hoá sản xuất, gắn thị trường trong nước với thị trường thế
giới, từng bước hoà nhập nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới phù hợp với
trình độ phát triển của nền kinh tế.

Tuy nhiên, để phát huy được hết vai trò và nhiệm vụ của hoạt động nhập
khẩu còn tuỳ thuộc và quan điểm, đường lối lãnh đạo của mỗi nước. Với nước ta,
trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nhà nước quản lý kinh tế đối ngoại tập trung
bằng mệnh lệnh, nghị định của chính phủ... làm cho hoạt động nhập khẩu mất đi
tính linh hoạt và không đúng với bản chất của nó. Từ sau Đại hội VI, nhà nước đã
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 8


đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đối ngoại phù hợp với nền kinh tế thị trường thì hoạt
động nhập khẩu đang dần khởi sắc và đi vào quỹ đạo của nó. Tuy chỉ qua một thời
gian ngắn mà hoạt động nhập khẩu đã phát huy được vai trò lớn của nó, thực sự đã
tạo cho thị trường trong nước trở nên sôi động, đa dạng và phong phú về hàng hoá,
vật tư; tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế. Nền kinh tế nước ta đang chuyển mình hoà nhập với nền kinh tế khu vực và
thế giới. (Nguyễn cảnh Hiệp, 2013).
2.1.5. Nội dung hoạt động nhập khẩu
2.1.5.1. Nghiên cứu thị trường
a, Nghiên cứu thị trường trong nước
Nghiên cứu thị trường nhập khẩu là cả một quá trình tìm kiếm khách hàng và
có hệ thống cùng với việc phát triển tổng hợp các thông tin cần thiết để giải quyết
vấn đề Marketing. Bởi vậy, nghiên cứu thị trường ngày càng đóng vai trò quan
trọng để giúp các nhà kinh doanh đạt hiệu quả cao trong hoạt động nhập khẩu. Mục
đích của hoạt động nghiên cứu thị trường trong nước là phải xác định được vấn đề
cơ bản của hoạt động kinh doanh, bao gồm bán cái gì, cho ai, ở đâu, và với số lượng
bao nhiêu.
Theo đó, các nhà nhập khẩu nhất thiết phải tiến hành công tác nghiên cứu thị
trường bao gồm 5 nội dung cụ thể sau: (i) nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu, (ii) nghiên
cứu dung lượng thị trường, (iii) lựa chọn bạn hàng, (iv) nghiên cứu giá cả hàng hoá

trong nhập khẩu, và (v) nghiên cứu đối thủ cạnh tranh.
* Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu
Mục đích của nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu là để tiến hành nhập khẩu
đúng chủng loại mà thị trường trong nước cần kinh doanh có hiệu quả, đạt được
mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp. Việc nhận biết mặt hàng nhập khẩu trước hết
căn cứ vào nghiên cứu sản xuất và tiêu dùng trong nước về số lượng, chất lượng,
tính thời vụ, thị hiếu cũng như tập quán tiêu dùng của từng vùng, từng lĩnh vực sản
xuất. Từ đó tiến hành xem xét các khía cạnh của hàng hoá cần nhập khẩu như công
dụng, đặc tính, quy cách, phẩm chất, mẫu mã, giá cả, điều kiện mua bán và các dịch
vụ kèm theo...
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 9


*Nghiên cứu dung lượng thị trường
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên một phạm
vi thị trường nhất định trong một thời gian nhất định, thường là một năm. Nghiên
cứu dung lượng thị trường phải xác định nhu cầu thật của khách hàng và khả năng
cung cấp của nhà sản xuất. Nghiên cứu dung lượng của thị trường nhằm hiểu rõ hơn
về quy luật vận động của thị trường.
* Lựa chọn bạn hàng, khách hàng
Trong thương mại quốc tế, bạn hàng hay khách hàng là những người hoặc
những tổ chức có quan hệ với ta nhằm thực hiện các quan hệ hợp đồng mua bán
hàng hoá hay dịch vụ, các hoạt động hợp tác kinh tế hay khoa học kỹ thuật liên
quan đến việc cung cấp hàng hoá.
Chọn thương nhân để giao dịch: Thường chọn những người xuất nhập khẩu
trực tiếp. Chúng ta cần quan tâm đến quan điểm kinh doanh của thương nhân đó,
lĩnh vực kinh doanh của họ, vốn, cơ sở vật chất, uy tín và mối quan hệ trong kinh
doanh của họ.

Doanh nghiệp cần xác định rõ khách hàng truyền thống, khách hàng tiềm
năng, tiến hành phân đoạn thị trường khách hàng chính xác. Kết quả nghiên cứu
khách hàng sẽ giúp cho doanh nghiệp lập kế hoạch tiêu thụ, quảng cáo, tiếp thị phù
hợp với từng đối tượng khách hàng, đặc biệt là các hoạt động chăm sóc khách hàng
trước và sau bán hàng.
* Nghiên cứu giá cả hàng hoá trong nhập khẩu.
Giá cả luôn gắn liền với thị trường và là một yếu tố cấu thành thị trường,
nghiên cứu giá cả thị trường là một bộ phận của nghiên cứu thị trường, nó bao gồm
các công việc sau: Nghiên cứu mức giá từng mặt hàng tại từng thời điểm trên thị
trường, xu hướng biến động và các nhân tố ảnh hưởng.
Giá quốc tế có tính chất đại diện đối với một loại hàng hoá nhất định trên thị
trường thế giới và là giá của những giao dịch thông thường, không kèm theo một điều
kiện đặc biệt nào và thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 10


* Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh
Việc chỉ hiểu khách hàng thôi chưa đủ, các công ty còn phải hiểu rằng sự
phát triển của công ty còn tuỳ thuộc vào việc vật lộn chia sẻ thị trường với các đối
thủ cạnh tranh.
Hiểu biết các đối thủ của mình là một điều quan trọng để hoạch định kế
hoạch Marketing có hiệu quả. Công ty cần phải trả lời 5 câu hỏi: (i) ai là đối thủ; (ii)
chiến lược của họ là gì?; (iii) mục tiêu của họ là gì?; (iv) điểm mạnh và điểm yếu
của đối thủ là gì?; (iv) phản ứng việc thông tin hỗ trợ công ty như thế nào để hình
thành chiếc lược Marketing?
b, Nghiên cứu thị trường nước ngoài
Hoạt động nghiên cứu thị trường nhập khẩu bao gồm: Nghiên cứu mức cung,

giá cả, bạn hàng, và môi trường kinh doanh và chính trị của quốc gia mà doanh
nghiệp định nhập khẩu.
Trước hết, nghiên cứu mức cung của thị trường là việc xác định khối lượng
cung ứng của phân bón trên thị trường thế giới, xu hướng biến động trong sản xuất
của phân bón mà doanh nghiệp định kinh doanh, các nước nào có lợi thế trong sản
xuất phân bón này, nhãn hiệu phân bón có uy tín và được ưa chuộng trên thị trường.
Thứ hai, giá cả phân bón trên thị trường thế giới phản ánh quan hệ cung cầu
phân bón trên thị trường. Giá cả được xác định là giá cả quốc tế, phải là giá của
những giao địch thương mại thông thường không kèm theo một điều kiện đặc biệt
nào và thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi được. Các doanh nghiệp khi tham
gia vào kinh doanh thương mại quốc tế nói chung và kinh doanh nhập khẩu nói
riêng cần phải cố định mức độ tác động của các nhân tố khác tới giá, từ đó lựa chọn
một mức giá nhập khẩu phù hợp nhất. Nhìn chung, khi nghiên cứu giá cả quốc tế
cần tập trung vào một số vấn đề : (i) Giá hàng định nhập trên thị trường thế giới,
thường được chọn giá ở trung tâm giao dịch truyền thống, ở những nước sản xuất
chủ yếu hay ở những hãng sản xuất tập trung. Thông qua các trung tâm giao dịch,
doanh nghiệp xác định cho mình một mức giá tối ưu; (ii) Nghiên cứu tỷ suất ngoại
tệ nhập khẩu mục tiêu và tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu dự tính của các kế hoạch nhập
khẩu. Tỷ suất ngoại tệ đối với hàng nhập khẩu là số lượng bản tệ có thể thu về được
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 11


khi doanh nghiệp bỏ ra một đồng ngoại tệ để nhập khẩu. Doanh nghiệp tiến hành
lựa chọn kế hoạch nhập khẩu hoặc giá nhập khẩu nào có khả năng đạt được mục
tiêu lợi nhuận đã đặt ra.
Thứ ba, nghiên cứu và lựa chọn bạn hàng nhập khẩu cần phải xác định xem
có bao nhiêu đối tác có thể cung ứng được lượng phân bón mà doanh nghiệp yêu
cầu, giá cả như thế nào, các điều kiện thanh toán ra sao, khối lượng cung ứng là bao

nhiêu, có những điều kiện ưu đãi cũng như ràng buộc như thế nào, có thể cung ứng
vào lúc nào. Các yếu tố này không chỉ ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp
trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu mà còn ảnh hưởng tới tính liên tục và ổn
định của quá trình kinh doanh.
Thứ tư, nghiên cứu môi trường chính trị, luật pháp, tập quán buôn bán và hệ
thống tài chính tiền tệ của quốc gia mà doanh nghiệp định nhập khẩu.
2.1.5.2. Lập phương án kinh doanh
Lập phương án kinh doanh là nội dung tiếp ngay sau quá trình nghiên cứu thị
trường. Nội dung của một phương án bao gồm các nội dung: (i) đánh giá tình hình
thị trường và thương nhân; (ii) lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương
thức kinh doanh; đề ra những mục tiêu về số lượng, giá cả, thị trường, tiêu thụ...);
(iii) đưa ra biện pháp thức hiện phương án; và (iv) sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế
của hoạt động kinh doanh.
2.1.5.3. Giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng
a. Giao dịch
Về mặt lý luận, có một số hình thức giao dịch chính, cụ thể như sau.
Giao dịch trực tiếp: Giao dịch trực tiếp trong kinh doanh thương mại quốc tế
là giao dịch mà người mua (hoặc bán) thoả thuận, bàn bạc trực tiếp (hoặc thông qua
thư từ, điện tín...) với người bán (người mua) về hàng hoá, giá cả, giao dịch, phương
thức thanh toán. Trong phương thức thanh toán này hai bên tiếp cận thị trường hỏi
giá, báo giá, chào hàng và đi đến chấp thuận giá cả của hàng hoá đó để đi đến ký kết
hợp đồng nhập khẩu hàng hoá.
Giao dịch qua trung gian: Giao dịch qua trung gian trong kinh doanh thương
mại quốc tế là giao dịch mà người mua (hoặc người bán) quy định về điều kiện
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 12


trong giao dịch mua bán về hàng hoá, giá cả, điều kiện giao dịch, phương thức

thanh toán... phải qua một người thứ ba là người trung gian buôn bán (chủ yếu là
các cửa hàng đại lý, các tổ chức môi giới). Việc sử dụng đại lý và môi giới có nhiều
ưu điểm, ví dụ như người trung gian hiểu rõ về tình hình thị trường, luật pháp, tập
quán địa phương, giảm được chi phí vận chuyển, hình thành được đại lý buôn bán
tiêu thụ rộng, tạo điều kiện cho việc chiếm lĩnh thị trường mới. Tuy nhiên giao dịch
này cũng có những nhược điểm như là mất liên hệ trực tiếp với khách hàng, thị
trường buôn bán, lợi nhuận bị chia sẻ.
Giao dịch tại hội chợ triển lãm: Hội chợ là thị trường hoạt động định kỳ tổ
chức vào một thời gian nhất định. Tại đó người bán trưng bày hàng hoá của mình và
tiếp xúc với người mua để ký kết hợp đồng mua bán.
Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá: Sở giao dịch hàng hoá là thị trường đặc
biệt, tại đó thông qua người môi giới do sở giao dịch chỉ định người mua và người
bán mua bán hàng hoá có khối lượng lớn có phẩm chất đồng loại và có thể thay thế
nhau. Các loại giao dịch ở sở giao dịch là: Giao dịch ngay, giao dịch kỳ hạn, nghiệp
vụ tự bảo hiểm...
b, Đàm phán
Đàm phán thương mại là quá trình trao đổi ý kiến của các chủ thể trong một
quan hệ kinh doanh nhằm đi tới thống nhất các điều kiện, cách xử lý những vấn đề
nảy sinh trong quan hệ buôn bán. Nội dung của các cuộc đàm phán thương mại
gồm: Tên hàng, phẩm chất, số lượng, bao bì, đóng gói, giao hàng, giá cả, thanh
toán, bảo hiểm, bảo hành...
Để tiến tới ký kết hợp đồng mua bán với nhau người xuất khẩu và nhập và
người nhập khẩu thì phải qua 1 quá trình giao dịch gồm các bước sau.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 13


* Hỏi giá (Inquiry)

Đây có thể coi là lời thỉnh cầu bước vào giao dịch. Nhưng xét về phương
diện thương mại thì đây là việc người mua đề nghị người bán cho mình biết giá cả
và các điều kiện để mua hàng
Nội dung của một hỏi giá có thể gồm: Tên hàng, quy cách, phẩm chất, số
lượng, thời gian giao hàng mong muốn. Giá cả mà người mua hàng có thể trả cho
mặt hàng đó thường được người mua giữ kín, nhưng để tránh mất thời gian hỏi đi
hỏi lại, người mua nêu rõ những điều kiện mà mình mong muốn để làm cơ sở cho
việc quy định giá: loại tiền, thể thức thanh toán, điều kiện cơ sở giao hàng.
* Chào hàng (Offer)
Đây là lời đề nghị ký kết hợp đồng như vậy phát giá có thể do người bán
hoặc người mua đưa ra. Nhưng trong buôn bán khi phát giá chào hàng, là việc
người xuất khẩu thể hiện rõ ý định bán hàng của mình.
Trong chào hàng ta nêu rõ: Tên hàng, quy cách, phẩm chất, giá cả số lượng,
điều kiện cơ sở giao hàng, thời hạn mua hàng, điều kiện thanh toán bao bì ký mã
hiệu, thể thức giao nhận… Trong trường hợp hai bên đã có quan hệ mua bán với
nhau hoặc điều kiện chung giao hàng điều chỉnh thì giá chào hàng có khi chỉ nêu
những nội dung cần thiết cho lần giao dịch đó như tên hàng. Những điều kiện còn
lại sẽ áp dụng những hợp đồng đã ký trước đó hoặc theo điều kiện chung giao hàng
giữa hai bên.
* Đặt hàng (Oder)
Đây là lời đề nghị ký kết hợp đồng xuất phát từ phía người mua được đưa ra
dưới hình thức đặt hàng. Trong đặt hàng người mua nêu cụ thể về hàng hoá định
mua và tất cả những nội dung cần thiết cho việc ký kết hợp đồng.
Thực tế người ta chỉ đặt hàng với các khách hàng có quan hệ thường xuyên.
Bởi vậy, ta thường gặp những đặt hàng chỉ nêu: Tên hàng, quy cách, phẩm chất, số
lượng, thời hạn giao hàng và một vài điều kiện riêng biệt đối với lần đặt hàng đó.
Về những điều kiện khác, hai bên áp dụng điều kiện chung về thoả thuận với nhau
hoặc theo những điều kiện của hợp đồng ký kết trong lần trước.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế


Page 14


* Hoàn giá (Counter-offer).
Khi nhân được chào hàng (hoặc đặt hàng) không chấp nhận hoàn toàn chào
hàng (đặt hàng) đó mà đưa ra một đề nghị mới thì đề nghị mới này là hoàn giá, chào
hàng trước coi như huỷ bỏ trong thực tế, một lần giao dịch thường trải qua nhiều lần
hoàn giá mới đi đến kết thúc.
* Chấp nhận giá (Acceptance)
Chấp nhận là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện của chào hàng (hoặc
đặt hàng) mà phía bên kia đưa ra khi đó hợp đồng được thành lập. Một chấp thuận
có hiệu lực về mặt pháp luật, cần phải đảm bảo những điều kiện dưới đây.
- Phải được chính người nhận giá chấp nhận
- Phải đồng ý hoàn toàn về điều kiện với mọi nội dung của chào hàng.
- Chấp nhận phải được truyền đạt đến người phát ea đề nghị.
* Xác nhận (Confirmation)
Hai bên mua bán sau khi đã thống nhất thoả thuận với nhau về các điều kiện
giao dịch, có khi cẩn thận ghi lại mọi điều đã thoả thuận gửi cho bên kia. Đó là văn
kiện xác nhận. Văn kiện do bên bán gửi thường gọi là nhận bán hàng do bên mua
gửi và giấy xác nhận mua hàng. Xác nhận thường được lập thành 2 bản, bên xác
nhận ký trước rồi gửi cho bên kia. Bên kia ký xong giữ lại một bản rồi gửi trả lại
một bản.
c, Ký kết hợp đồng nhập khẩu
Một hợp đồng kinh tế ngoại thương là sự thoả thuận giữa những đương sự có
quốc tịch khác nhau trong đó một bên bán (bên xuất khẩu) là một tài sản nhất định
gọi là hàng hoá. Bên mua có trách nhiệm trả tiền và nhập hàng. Hình thức hợp đồng
bằng văn bản là một hình thức bắt buộc đối với các đơn vị XNK ở nước ta. Các điều
khoản trong hợp đồng do bên mua và bên bán thoả thuận chi tiết, mặc dù trước đó
đã có đơn đặt hàng và chào hàng, nhưng vẫn phải thiết lập văn bản hợp đồng làm cơ

sở pháp lý cụ thể cho các hoạt động trao đổi hàng hoá từ quốc gia này sang quốc gia
khác, và làm căn cứ cho việc xác định lỗi khi có tranh chấp xảy ra.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 15


×