Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

đánh giá hiệu quả môi trường và kinh tế xã hội của phương thức chăn nuôi lợn sử dụng đệm lót sinh học tại hà nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.11 MB, 83 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

BÙI HOÀNG ANH

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ MÔI TRƯỜNG VÀ KINH TẾ XÃ
HỘI CỦA PHƯƠNG THỨC CHĂN NUÔI LỢN SỬ DỤNG
ĐỆM LÓT SINH HỌC TẠI HÀ NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP - 2015


HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

BÙI HOÀNG ANH

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ MÔI TRƯỜNG VÀ KINH TẾ XÃ
HỘI CỦA PHƯƠNG THỨC CHĂN NUÔI LỢN SỬ DỤNG
ĐỆM LÓT SINH HỌC TẠI HÀ NAM

CHUYÊN NGÀNH: KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG
MÃ SỐ: 60.44.03.01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGÔ THẾ ÂN

HÀ NỘI, NĂM 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung
thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được cảm
ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn này đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2015
Tác giả

Bùi Hoàng Anh

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page i


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được thực hiện theo nội dụng của đề tài “Nghiên cứu ứng dụng
công nghệ đệm lót sinh học trong chăn nuôi lợn nông hộ” - Mã số: ĐTĐL-2014/01.
Em xin chân thành cám ơn Ban chủ nhiệm đề tài đã cho phép tôi tham gia và sử
dụng một phần số liệu để hoàn thành báo cáo của mình.
Để hoàn thành công trình nghiên cứu khoa học này, em xin trân trọng cảm
ơn PGS.TS Ngô Thế Ân – người Thầy hướng dẫn đã luôn tận tình giúp đỡ em
trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo khoa Môi trường, Học Viện
Nông Nghiệp Việt Nam đã giúp đỡ em trong toàn khóa học.
Xin trân trọng cảm ơn cán bộ, bà con nông dân trên địa bàn nghiên cứu tại Hà
Nam đã tạo điều kiện về cơ sở vật chất và giúp đỡ để chúng tôi tiến hành thí nghiệm.
Xin chân thành cảm ơn người thân, gia đình và bạn bè đã động viên, khích lệ,
giúp đỡ tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để tôi hoàn thành luận văn.

Hà nội, ngày 25 tháng 11 năm 2015

Tác giả luận văn

Bùi Hoàng Anh

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page ii


MỤC LỤC
Lời cam đoan

i

Lời cảm ơn

ii

Mục lục

iii

Danh mục bảng

v

Danh mục biểu đồ

vi


Danh mục chữ viết tắt

vii

Trích yếu luận văn

viii

Thesis abstract

ix

MỞ ĐẦU

1

1

Tính cấp thiết của đề tài

1

2

Mục đích nghiên cứu

3

3


Yêu cầu của đề tài

3

Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU

4

1.1 Hiện trạng phát triển chăn nuôi quy mô nông hộ tại Việt Nam

4

1.2 Chất thải chăn nuôi và các vấn đề về môi trường

5

1.2.1 Thành phần, tính chất của chất thải chăn nuôi

5

1.2.2 Ảnh hưởng của chăn nuôi đến chất lượng môi trường

8

1.3 Thực trạng xử lý chất thải trong hoạt động chăn nuôi

10

1.4 Nghiên cứu ứng dụng đệm lót sinh học trong chăn nuôi lợn


12

1.4.1 Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

12

1.4.2 Tình hình nghiên cứu trong nước

13

1.4.3 Kết quả ứng dụng đệm lót sinh học trong chăn nuôi

17

1.5 Một số thông tin về đệm lót lên men vi sinh vật sử dụng trong chăn nuôi

18

Chương 2 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

21

2.1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

21

2.2 Phạm vi nghiên cứu

21


2.3 Nội dung nghiên cứu

21

2.4 Phương pháp nghiên cứu

21

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page iii


2.4.1 Phương pháp phỏng vấn nông hộ

21

2.4.2 Phương pháp đánh giá sự tăng trọng và hiệu quả kinh tế chăn nuôi
lợn thịt

22

2.4.3 Phương pháp lấy mẫu và phân tích trong phòng thí nghiệm

24

2.4.4 Phương pháp xử lý số liệu

26


Chương 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

27

3.1 Một số thông tin về tỉnh Hà Nam

27

3.1.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Nam

27

3.1.2 Thực trạng áp dụng đệm lót sinh học trong chăn nuôi lợn tại tỉnh
Hà Nam

29

3.2 Hiệu quả môi trường của phương thức chăn nuôi lợn sử dụng đệm lót
sinh học

34

3.2.1 Sự biến đổi của chất thải trong đệm lót sinh học

34

3.2.2 Sự biến đổi nhiệt độ trong đệm lót sinh học

35


3.2.3 Sự khác biệt của một số chỉ tiêu môi trường khí giữa chuồng nuôi
bằng đệm lót sinh học và đối chứng

37

3.2.4 Chất lượng nước ngầm khu vực chăn nuôi lợn

42

3.3 Khả năng sinh trưởng của lợn và hiệu quả kinh tế chăn nuôi trên đệm
lót sinh học

45

3.3.1 Khả năng tăng trưởng của lợn nuôi trên nền đệm lót sinh học

45

3.3.2 Tiêu tốn thức ăn của đàn lợn thí nghiệm

48

3.3.3 Ước tính hiệu quả kinh tế của lợn nuôi trên đệm lót sinh học

48

3.4 Giải pháp nhằm phát triển, mở rộng mô hình chăn nuôi bằng đệm lót sinh

50


3.4.1 Thuận lợi và khó khăn trong ứng dụng mô hình đệm lót sinh học

50

3.4.2 Giải pháp phát triển ứng dụng mô hình đệm lót sinh học

51

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

53

1

Kết luận

53

2

Đề nghị

54

TÀI LIỆU THAM KHẢO

55

PHỤ LỤC
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp


Page iv


DANH MỤC BẢNG
Số bảng

Tên bảng

Trang

1.1

Số lượng đầu gia súc, gia cầm được nuôi năm 2013 và 2014 ở nước ta

4

1.2

Tổng lượng CTR hàng năm từ vật nuôi ở Việt Nam từ 2011-2013

6

1.3

Lượng phân lợn thải ra thay đổi theo lứa tuổi

7

1.4


Lượng nước tiểu của một số loại gia súc

8

1.5

Một số chỉ tiêu của nước thải chăn nuôi lợn

10

1.6

Thực trạng quản lý và xử lý chất thải chăn nuôi

11

2.1

Sơ đồ bố trí thí nghiệm

22

2.2

Các chỉ tiêu chất lượng MT nước ngầm và phương pháp phân tích

26

3.1


Giá trị sản xuất phân theo khu vực kinh tế của tỉnh Hà Nam

28

3.2

Tổng hợp kết quả sử dụng ĐLSH từ năm 2010-2014 tại tỉnh Hà Nam

31

3.3

Sự biến đổi nhiệt độ ở đệm lót qua các tháng nuôi

36

3.4

Nhiệt độ, độ ẩm và một số khí độc trong chuồng nuôi

38

3.5

Nồng độ một số thành phần hóa học và VSV của nước ngầm trong hai lô

43

3.6


Kết quả theo dõi khả năng tăng trọng và tiêu tốn thức ăn

45

3.7

Sơ bộ hạch toán hiệu quả kinh tế

49

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page v


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Số biểu đồ

Tên biểu đồ

Trang

1.1

Bản đồ hành chính tỉnh Hà Nam

27

3.1


Nồng độ khí CO2 trong chuồng nuôi qua các tháng theo dõi

40

3.2

Nồng độ NH3 trong khí chuồng nuôi qua các tháng theo dõi

42

3.3

So sánh tăng trọng giữa lô thí nghiệm và lô đối chứng

46

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page vi


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ADG

Tăng trọng trung bình gam/ngày

Bộ NN&PTNT

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn


BOD

Hàm lượng oxy hòa tan trong nước

CFU

Đơn vị khuẩn lạc

ĐC

Đối chứng

EM

Effective Microoganism

FCR

Hệ số chuyển hóa thức ăn

KK

Không khí

KH&CN

Khoa học và Công nghệ

QCVN


Quy chuẩn Việt Nam

TTTA

Tiêu tốn thức ăn

TN

Thí nghiệm

TCVN

Tiêu chuẩn Việt Nam

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

VK

Vi khuẩn

VSV

Vi sinh vật

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page vii



TRÍCH YẾU LUẬN VĂN
Nghiên cứu này nhằm đánh giá tác động của việc sử dụng đệm lót sinh học
trong chuồng nuôi lợn thịt đến một số chỉ tiêu chất lượng khí hậu chuồng nuôi và
chất lượng nước ngầm.
Kết quả nghiên cứu cho thấy: sử dụng đệm lót sinh học trong các lô thí
nghiệm đã làm giảm lượng khí độc trong không khí chuồng nuôi so với lô đối
chứng một cách rõ rệt (P<0,05). Nồng độ 3 loại khí độc: NH3, CO2, H2S trong
chuồng nuôi của lô TN (sử dụng đệm lót sinh học) đều thấp hơn so với lô ĐC (chăn
nuôi trên nền xi măng truyền thống) và thấp tiêu chuẩn cho phép (QCVN
01:79/2001/BNNPTNT):
Khi sử dụng đệm lót sinh học đã không làm thay đổi đáng kể nào về chất
lượng nước ngầm tại các nông hộ sử dụng. Hiệu quả khi sử dụng đệm lót sinh học
trong chăn nuôi lợn thịt được thể hiện qua các tác dụng sau:
- Làm tăng khả năng tăng trưởng của lợn từ 5-9%.
- Làm giảm tiêu tốn thức ăn trong khoảng 4- 5 %.
- Thu lãi hơn so với đối chứng từ 282-365 đ/con.
Cần tăng cường công tác khuyến nông hơn nữa để giúp các địa phương
phát triển mạnh mô hình này trong chăn nuôi một cách bền vững.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page viii


THESIS ABSTRACT
This study aimed to evaluate the effectiveness of the using of biological
sealings in pigsty in Hanam provice.
The study results showed that use biological sealings in the experimental

groups decreased the amount of poisonous gas in the air pigsty than control
group significantly (P <0.05). The concentration of toxic gases 3: NH3, CO2,
H2S in pigsty of experimental unit (using biological sealings) are lower than in
batches FCA (livestock traditional cement based) and allows lower standards
(QCVN 01:79/2001/BNN&PTNT).

When using biological sealings has not made any significant changes in
groundwater quality at the farm use. Efficient use of biological sealings in
pigsty is expressed through the following effects:
- Increasing the growth potential of pigs from 5-9%.
- Reducing the FCR of about 4 to 5%.
- Interest income than the control from 282-365 VND / pig.
Should promote the extension work to help local thrive using biological
sealings, sustainable farming.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page ix


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những thập kỷ gần đây, ở Việt Nam cũng như trên thế giới người ta rất
chú trọng đến việc phát triển các hệ thống chăn nuôi bền vững, sản xuất trang trại
chuyên môn hóa cao. Bên cạnh các thành tựu đạt được như mang lại năng suất, hiệu
quả cao, các hệ thống chăn nuôi này đã gây ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm
trọng, phát tán vào môi trường nhiều chất khí độc như H2S, NH3, CO2, CH4, CO…,
indole, scatole, mecaptan, phenole... kể cả các loại ký sinh trùng và vi sinh vật có
hại như Enterobacteriacea, E.coli, Salmonella, Shigella, Proteus, Klebsiella.. đó là
nguồn bệnh vô cùng nguy hiểm.

Bên cạnh đó, ngành chăn nuôi còn góp phần làm cạn kiệt nguồn đất rừng và
đất canh tác, huy động tới 70% diện tích đất giành cho nông nghiệp hoặc 30% diện
tích bề mặt của hành tinh. Các nhà khoa học ước tính trên phạm vi toàn cầu, có 4
nguồn phát thải khí nhà kính lớn nhất: sử dụng năng lượng hóa thạch, sản xuất công
nghiệp, chăn nuôi công nghiệp và điện lạnh; trong đó, chăn nuôi sinh ra 18% tổng
số khí nhà kính của thế giới (trong khi đó ngành giao thông chỉ là 13,5%); 65% tổng
lượng NO, 37% tổng lượng CH4 ; 64% tổng lượng NH3. Từ đó, người ta xác định
chăn nuôi là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến sự nóng lên của trái
đất do hiệu ứng nhà kính- nguyên nhân của sự biến đổi khí hậu toàn cầu. Trong 3
loại khí chủ yếu gây hiệu ứng nhà kính, làm tăng nhiệt độ trái đất thì có tới 2 loại
khí chủ yếu được sinh ra từ chăn nuôi và sử dụng phân bón hữu cơ, đó là CH4 và
NO2. Tác dụng gây hiệu ứng khí nhà kính của CH4 và NO2 tương ứng gấp 25 và
296 lần so với khí CO2 sinh ra từ việc đốt các nhiên liệu hóa thạch. Theo Klooster
(1996), lượng amoniac (NH3) phát xạ từ chăn nuôi vào khí quyển khoảng 45 Tg
N/năm (1Tg = 1012 g), nhiều hơn bất kỳ từ nguồn nào khác. Để sản xuất 1.000 kg
thịt lợn thì sinh ra 84 kg nước tiểu, 39 kg phân, 11 kg TS (chất rắn tổng số), 3,1 kg
BOD5 … chưa kể ô nhiễm từ nước tắm và rửa chuồng… Như vậy, không chỉ gây
hiệu ứng nhà kính, biến đổi khí hậu toàn cầu, ngành chăn nuôi còn gây ô nhiễm môi
trường sinh thái, môi trường sống, ô nhiễm không khí, mạch nước ngầm và là
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 1


nguồn phát sinh dịch bệnh nguy hiểm cho động vật và con người, qua đó gián tiếp
gây tổn thất kinh tế đáng kể do phải tăng chi phí để xử lý chất thải.
Ở nước ta, do nhu cầu về thực phẩm ngày càng tăng của toàn xã hội, nhất là
trong điều kiện mức sống của người dân tăng mạnh, ngành chăn nuôi cũng tăng
trưởng rất nhanh. Theo báo cáo của Cục Chăn nuôi (CCN) - Bộ Nông nghiệp và
PTNT ( 2014), vào thời điểm cuối năm 2014, nước ta nuôi khoảng 2,5 triệu con trâu,

5,2 triệu con bò; 26,7 triệu con lợn và 317,7 triệu gia cầm.
Với số lượng vật nuôi như trên, cũng theo ước tính của CCN, chúng sẽ thải
ra khoảng 85 triệu tấn phân. Hiện nay, chất thải chăn nuôi được xử lý bằng 3 biện
pháp chủ yếu: ủ làm phân chuồng; công nghệ khí sinh học (biogas) và xử lý bằng
các đệm lót sinh học… Trong đó , việc ứng dụng đệm lót sinh học trong chăn
nuôi tuy mới mẻ nhưng đã phát triển tương đối nhanh. Theo kết quả khảo sát của
Cục Chăn nuôi (2014), tính đến tháng 11 năm 2013, cả nước có 40/63 tỉnh/TP có
mô hình áp dụng đệm lót sinh học trong chăn nuôi, với 752 trang trại và 61.449 hộ
gia đình với tổng diện tích là 5,47 triệu m2 đệm lót sinh học, trong đó có 691 trang
trại gà (91,89% trang trại), 57.755 hộ gia đinh (94,04% hộ gia đình) với 5.400.378
m2 chuồng nuôi, chiếm 98,72% diện tích sử dụng đệm lót sinh học; 28 trang trại
chăn nuôi lợn, 3.658 hộ với tổng diện tích 69.961 m2 đệm lót (1,3% diện tích).
Ngoài ra trên cả nước có 9 trang trại và 10 hộ chăn nuôi vịt với tổng diện tích
3100 m2 chuồng nuôi, 2 trang trại và 25 hộ chăn nuôi chim cút áp dụng đệm lót
sinh học, bước đầu cho kết quả khả quan.
Về mặt kinh tế, đây là một công nghệ đưa lại hiệu quả cao nhờ tiết kiệm
được 80% nước dùng (chỉ dùng nước cho uống và phun giữ ẩm), tiết kiệm được
60% sức lao động chăn nuôi (không phải tắm cho gia súc, không phải rửa chuồng
và dọn phân), tiết kiệm được khoảng 10% thức ăn (nhờ lợn ăn được nguồn vi sinh
vật sinh ra trong đệm lót). Lượng thức ăn bổ sung này không những cung cấp thêm
protein chất lượng cao về dinh dưỡng cho lợn, nó còn là một nguồn probiotic có tác
dụng kích thích tiêu hóa và kích thích vi sinh vật có lợi trong đường ruột phát triển,
giảm thiểu được chi phí thuốc thú y (do lợn ít khi bị bệnh và chết). Theo tính toán,
mỗi con lợn thịt chăn nuôi theo công nghệ này ở Trung Quốc tiết kiệm được khoảng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 2


450.000 VNĐ. Đó là chưa tính đến khả năng bán được các sản phẩm chăn nuôi sinh

thái với giá cao hơn bình thường, do vậy việc áp dụng công nghệ chăn nuôi sinh
thái này là hết sức có ý nghĩa.
Trước khi áp dụng rộng rãi hơn phương thức này, việc kiểm chứng những
lợi ích về môi trường và quả kinh tế trong điều kiện Việt Nam là cần thiết, vì thế,
chúng tôi tiến hành đề tài: “Đánh giá hiệu quả môi trường và kinh tế xã hội của
phương thức chăn nuôi lợn sử dụng đệm lót sinh học tại Hà Nam”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá hiệu quả môi trường và kinh tế xã hội của mô hình chăn nuôi lợn
sử dụng đệm lót sinh học trên địa bàn tỉnh Hà Nam, nhằm đánh giá khả năng mở
rộng phát triển mô hình.
3. Yêu cầu của đề tài
- Xác định được ảnh hưởng của phương thức chăn nuôi lợn trên nền đệm lót
sinh học tới môi trường;
- Xác định được hiệu quả kinh tế của mô hình chăn nuôi lợn trên nền đệm lót
sinh học;
- Đánh giá được những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức trong việc
mở rộng mô hình chăn nuôi bằng đệm lót sinh học trên các địa bàn có điều kiện
tương đồng.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 3


Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Hiện trạng phát triển chăn nuôi quy mô nông hộ tại Việt Nam
Ngành Chăn nuôi hiện đóng góp 27% vào tổng thu nhập của ngành Nông
nghiệp, trong đó có phần đóng góp rất quan trọng của chăn nuôi nông hộ, hiện bộ
phận này cung cấp đến 70% sản lượng thực phẩm ngành chăn nuôi cho gần 90 triệu

người dân nước ta. Sối đầu vật nuôi của nước ta gần đây được thể hiện qua bảng sau.
Bảng 1.1. Số lượng đầu gia súc, gia cầm được nuôi năm 2013 và 2014 ở nước ta
Đơn vị tính 1/10/2013 1/10/2014 Tăng giảm

% so
2014/2013

Tổng số trâu

Con

2,559,539 2,511,909

Tổng số bò

Con

5,156,727 5,234,298

77,571 101.50

Tổng số lợn

Con

26,264,408 26,761,577

497,168 101.89

Tổng số gia cầm


1000 con

SL trứng

1000 quả

317,696

-47,630

98.14

327,696

10,000 103.15

7,661,901 8,198,175

536,274 107.00

(Nguồn: Cục Chăn nuôi, 2014)
Theo báo cáo của Sở NN & PTNT các tỉnh, ở nước ta hiện nay chăn nuôi
nông hộ vẫn chiếm chủ yếu về số đầu gia súc cũng như lượng thịt hơi cung cấp cho
thị trường. Hiện số lượng lợn được chăn nuôi theo phương thức nông hộ nhỏ lẻ
chiếm tới 65% tổng đàn lợn, cung cấp hơn 1/2 sản lượng thịt lợn cho cả nước, số
lượng hộ chăn nuôi dưới 20 con vẫn còn chiếm khoảng 60%. Đàn trâu bò thì gần
như 100% được nuôi tại nông hộ.
Với đặc điểm quy mô nhỏ lẻ, phân tán, người chăn nuôi thiếu kiến thức chăn
nuôi tiên tiến, nguy cơ dịch bệnh cao, dịch vụ thú y kém, giá thức ăn cao và không

ổn định, phụ thuộc vào các nhà cung cấp, thiếu các tổ chức hoạt động tập thể, thiếu
vốn cộng thêm sự biến động của giá cả đầu ra đã làm cho các hộ chăn nuôi vẫn phải
đối mặt với nhiều thách thức và rủi ro rất cao.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 4


Một vài năm trở lại đây, do diễn biến tình hình dịch bệnh phức tạp, giá đầu
vào cao, đầu ra không ổn định, thiếu vốn nên nhiều người chăn nuôi nhỏ bỏ chuồng
làm cho tỷ lệ chăn nuôi nhỏ lẻ giảm từ mức 70 - 75% xuống còn 50 - 55%. Nhưng
tính trung bình, tỷ lệ các hộ chăn nuôi theo phương thức nông hộ vẫn dẫn đầu cả về
số lượng đầu gia súc và tổng sản lượng thịt (Trần Bá Nhân, 2013).
Theo tác giả Nguyễn Đăng Vang (Hội chăn nuôi), sở dĩ chăn nuôi nông hộ
luôn chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu chăn nuôi vì nó tận dụng được nguồn phụ phẩm
nông nghiệp, đất đai, công lao động nhàn rỗi và nguồn vốn tự có nên không thể phủ
nhận vai trò vô cùng to lớn của phương thức chăn nuôi này (Đình Tú và Thạch Bình,
2011). Bên cạnh việc đề xuất các chính sách hỗ trợ cho chăn nuôi phát triển ổn định
hơn, chúng ta cần hỗ trợ cho họ một số biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả
chăn nuôi và giảm ô nhiễm môi trường, đó là một trong những định hướng quan
trọng của ngành chăn nuôi trong thời gian qua.
1.2. Chất thải chăn nuôi và các vấn đề về môi trường
1.2.1. Thành phần, tính chất của chất thải chăn nuôi
Chăn nuôi được xác định là một trong những ngành thải ra môi trường chất
thải lớn nhất, đó là sự hỗn tạp các chất thải ở dạng rắn, lỏng hoặc khí … (Bùi Hữu
Đoàn, 2011). Theo tính toán của FAO, ngành chăn nuôi của thế giới phát thải tới
18% tổng số khí nhà kính quy đổi theo CO2. Trong đó, khoảng 65% lượng NO,
37% lượng CH4 và 64% lượng NH3. Đây là những chất phát thải chính gây hiệu ứng
nhà kính. Dự báo trong các năm tới lượng khí thải từ chăn nuôi sẽ tiếp tục gia tăng

do sự phát triển của ngành chăn nuôi tiếp tục tăng. Vì vâỵ, việc hạn chế tác động
xấu của chất thải vật nuôi đến môi trường là mối quan tâm của raats nhiều quốc gia,
trong đó có nước ta.
Tại Việt Nam, hiện trạng ô nhiễm do chăn nuôi gây ra đang ngày một gia
tăng. Theo ước tính, khối lượng chất thải rắn (chỉ tính riêng lượng phân của vật nuôi)
của mội số vật nuôi chính thải ra trong năm 2011 là 83,67 triệu tấn, năm 2012 là
81,89 triệu tấn và 75,9 triệu tấn năm 2013 nhưng chỉ khoảng 40% số chất thải này
được xử lý, còn lại được xả thẳng ra môi trường.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 5


1.2.1.1. Chất thải rắn
Chất thải rắn là hỗn hợp các chất vô cơ, hữu cơ, vi sinh vật, trứng ký sinh
trùng có thể gây bệnh cho người và gia súc khác, gồm phân, thức ăn thừa của vật
nuôi, vật liệu lót chuồng, xác súc vật chết… Chất thải rắn có độ ẩm từ 56-83% tùy
theo phân của các loài gia súc gia cầm khác nhau và có tỷ lệ NPK cao (Trương
Thanh Cảnh, 2010).
Tổng lượng phân thải rắn phát sinh từ vật nuôi qua một số năm được ước
tính như trong Bảng 1.2.
Bảng 1.2. Tổng lượng CTR hàng năm từ vật nuôi ở Việt Nam từ 2011-2013
Loại gia súc
Trâu (ngàn con)
Chất thải rắn BQ/năm
(ngàn tấn)
Bò (ngàn con)
Chất thải rắn BQ/năm
(ngàn tấn)

Lợn (ngàn con)
Chất thải rắn BQ/năm
(ngàn tấn)
Gia cầm (ngàn con)
Chất thải rắn BQ/năm
(ngàn tấn)
Ngựa (ngàn con)
Chất thải rắn BQ/năm
(ngàn tấn)
Dê, cừu (ngàn con)
Chất thải rắn BQ/năm
(ngàn tấn)
Hươu, nai (ngàn con)
Chất thải rắn BQ/năm
(ngàn tấn)
Tổng chất thải rắn
(triệu tấn/năm)

Lương phân thải
bình quân

Năm 2011

Năm 2012

15 (kg/con/ngày)

2.712,03

2.658,01


2.559,54

14.848,34

14.552,59

14.013,48

5.436,56

5.309,56

5.156,73

19.843,44

19.379,89

18.822,06

24.688,59

24.356,48

26.261,41

19.750,87

19.485,19


19.170,83

322.568,90

310.745,00

314.755,00

23.547,53

22.684,40

22.977,12

88,07

83,76

79,01

128,58

122,29

115,35

1.197,20

1.343,63


1.345,42

655,47

735,64

736,62

50,99

59,574

60,33

46,53

54,36

55,05

83,76

81,89

75,90

10 (kg/con/ngày)

2 (kg/con/ngày)


0,2 (kg/con/ngày)

4 (kg/con/ngày)

1,5 (kg/con/ngày)

2,5 (kg/con/ngày)

Năm 2013

Nguồn: Bùi Hữu Đoàn, 2011
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 6


- Phân gia súc:
Lượng phân gia súc thải ra trong một ngày đêm phụ thuộc vào giống, loại,
tuổi, khẩu phần ăn, trọng lượng gia súc và phương thức chăn nuôi.
Theo Vũ Đình Tôn và cộng sự, 2010, lợn ở các lứa tuổi khác nhau thì thải ra
lượng phân khác nhau (Bảng 1.3).
Bảng 1.3. Lượng phân lợn thải ra thay đổi theo lứa tuổi
STT

Loại lợn

Mức thức ăn tiêu thụ

Lượng phân thải


(kg/con/ngày)

(kg/con/ngày)

1

Cai sữa – 15 kg

0,42

0,25

2

15 – 30 ( kg)

0,75

0,47

3

30 – 60 ( kg)

1,64

0,8

4


60 – xuất chuồng

2,3

1,07

5

Nái chửa kỳ I và chờ phối

1,86

0,8

6

Nái chửa kỳ II

1,86

0,88

7

Nái nuôi con

3,7

1,62

Nguồn: Vũ Đình Tôn và cs, 2010

1.2.1.2. Chất thải lỏng
Nước thải chăn nuôi là hỗn hợp bao gồm cả nước tiểu, nước tắm gia súc, rửa
chuồng. Nước thải chăn nuôi còn có thể chứa một phần hay toàn bộ lượng phân
được gia súc, gia cầm thải ra (Bùi Hữu Đoàn, 2012).
Nước thải là dạng chất thải chiếm khối lượng lớn nhất trong chăn nuôi. Theo
khảo sát của Trương Thanh Cảnh và các cs (2006), khảo sát trên gần 1000 trại chăn
nuôi heo quy mô vừa và nhỏ ở một số tỉnh phía nam cho thấy, hầu hết các cơ sở
chăn nuôi đều sử dụng một khối lượng lớn nước cho gia súc. Cứ 1kg chất thải do
lợn thải ra được pha thêm với 20- 49 kg nước. Việc sử dụng nước tắm cho gia súc
hay rửa chuồng làm tăng lượng nước thải đáng kể, gây khó khăn cho việc thu gom,
xử lý sau này.
Lượng nước tiểu phát sinh phụ thuộc vào loại vật nuôi, khẩu phần ăn của
chúng. Bảng 1.4 dưới đây thể hiện lượng nước tiểu của một số loại gia súc.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 7


Bảng 1.4. Lượng nước tiểu của một số loại gia súc
Loại gia súc

Lượng nước tiểu ( lít/ ngày)

Trâu, bò

10,0 – 15,0


Lợn < 10 kg

0,3 – 0,7

Lợn 15-45 kg

0,7 – 2,0

Lợn 45-100 kg

2,0 – 4,0
Nguồn: Hill D.T; Toller D. H (1982)

Thành phần của nước thải rất phong phú, chúng bao gồm các chất rắn ở dạng
lơ lửng, các chất hòa tan hữu cơ hay vô cơ, trong đó nhiều nhất là các hợp chất chứa
nitơ và photpho. Nước thải chăn nuôi còn chứa rất nhiều vi sinh vật, ký sinh trùng,
nấm, nấm men và các yếu tố gây bệnh sinh học khác. Do ở dạng lỏng và giàu chất
hữu cơ nên khả năng bị phân hủy vi sinh vật rất cao. Chúng có thể tạo ra các sản
phẩm có khả năng gây ô nhiễm cho cả môi trường đất, nước và không khí.
1.2.1.3. Khí thải
Chăn nuôi là một ngành sản xuất tạo ra nhiều loại khí thải nhất, điển hình là
các khí CO2, CH4, NH3, NO2, N2O, NO, H2S, indol, schatol mecaptan… và hàng
loạt các khí gây mùi khác. Hầu hết các khí thải chăn nuôi có thể gây độc cho gia súc
cho con người và môi trường (Vũ Chí Cương, 2010).
Khí thải chăn nuôi phát sinh từ 3 nguồn chính:
- Khí thải từ hệ thống chuồng trại chăn nuôi
Lượng phát thải các khí ô nhiễm từ chuồng nuôi phụ thuộc một số yếu tố:
loại hình chăn nuôi (ví dụ chăn nuôi lợn sinh sản, lợn thịt hay bò sữa, bò cày kéo,
gia cầm, thủy cầm…) trình độ quản lý, cách thu gom (thu phân rắn chung hay tách
khỏi chất thải lỏng) và dự trữ phân (mương dẫn, hầm chứa chất thải…), mức độ

thông gió của hệ thống chuồng nuôi (chuồng kín hay mở).…
Khí ô nhiễm phát thải từ hệ thống lưu trữ chất thải chăn nuôi. Tùy thuộc vào
loại hình bể chứa, hệ thống thu gom, xử lý… (hố có nền xi măng hay hố đào dưới
đất). Bể chứa bằng xi măng kín thường hạn chế phát thải khí ô nhiễm (Nguy ô
nhiễm phát thải t.
1.2.2. Ảnh hưởng của chăn nuôi đến chất lượng môi trường
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 8


Ảnh hưởng đến môi trường không khí
Trong chăn nuôi lợn, ô nhiễm không khí đang là một vấn đề rất nghiêm trọng.
Một số hộ chăn nuôi lợn ở nông thôn sống ở gần chợ, trường học, hoặc xen lẫn các
khu dân cư, mùi hôi từ phân và nước thải của lợn đã gây ảnh hưởng rất lớn đến cộng
đồng xung quanh. Mùi thối gây ảnh hưởng xấu tới cơ thể con người . Khi con người
hít phải sẽ thấy rất khó chịu, nhức đầu, tim đập mạnh, không muốn ăn (Phùng Đức
Tiến và cs, 2009).. Những chất khí độc như H2S, NH3, CO2, CH4, CO… khi con người

hít vào ở nồng độ cao hoặc nồng độ thấp nhưng thường xuyên sẽ ảnh hưởng đến hệ
hô hấp, hệ tuần hoàn, hệ tiêu hóa và hệ thần kinh. Lâu ngày sẽ làm tê liệt hệ thống
khứu giác. Thần kinh thường xuyên bị mùi hôi thối kích thích sẽ bị tổn thương làm
ảnh hưởng đến chức năng hưng phấn và ức chế vỏ đại não (Bùi Xuân An, 2004).
Như vậy, vấn đề ô nhiễm môi trường không khí trong chăn nuôi là một vấn
đề lớn, nhưng trong thực tế, vấn đề này chưa được quan tâm đúng mức. Hầu hết ở
các cơ sở chăn nuôi đều không có biện pháp xử lý môi trường không khí do gặp
nhiều khó khăn và tốn kém. Chỉ một số cơ sở lớn thì có hệ thống thông gió để giảm
mùi song cũng chỉ giảm mùi trong môi trường trại chăn nuôi, còn lượng khí thải vẫn
thoát ra ngoài gây ô nhiễm không khí. Một số trang trại lớn đã dùng chế phẩm EM
để hạn chế mùi. Cách này rất hiệu quả nhưng tiếc là số lượng cơ sở thực hiện rất ít

(Nguyễn Xuân Nguyên và cs, 2004). Nếu không có biện pháp xử lý ô nhiễm môi
trường không khí do chăn nuôi thì mùi hôi thối, ruồi, muỗi và các loại sinh vật gây
bệnh truyền nhiễm khác sẽ phát sinh ngày càng nhiều và ảnh hưởng đến sức khỏe
con người, gây nguy cơ bùng phát dịch bệnh đối với cả người và động vật (Đào Lệ
Hằng, 2009).
Ảnh hưởng đến môi trường nước
Chăn nuôi thải ra nước thải có chứa nhiều mầm bệnh nguy hiểm. Theo
nghiên cứu của nhiều tác giả, (Nguyễn Quang Khải, 2006) trong phân và nước thải,
vi trùng gây bệnh đóng dấu Erysipelothrix insidiosa có thể tồn tại 92 ngày, Brucella
74 – 108 ngày, Samonella 6 – 7 tháng, virus lở mồm long móng trong nước thải là
100 – 120 ngày (Nguyễn Quang Khải, 2006). Riêng các loại vi trùng nha bào
Bacillus antharacis có thể tồn tại đến 10 năm, Bacillus tetani có thể tồn tại 3 – 4
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 9


năm. Trứng giun sán với các loại điển hình như Fasciola hepatica, Fasciola gigantica,
Fasciola buski, Ascarisum, Oesphagostomum sp, Trichocephalus dentatus có thể phát triển
đến giai đoạn gây nhiễm sau 6 – 8 ngày và tồn tại 5 – 6 tháng. Các vi trùng tồn tại lâu trong
nước ở vùng nhiệt đới là Samonella typhi và Samonellaparatyphi, E. Coli, Shigella,
Vibrio comma, gây bệnh dịch tả. Một số loại vi khuẩn có nguồn gốc từ nước thải
chăn nuôi có thể tồn tại trong động vật nhuyễn thể thuỷ sinh, có thể gây bệnh cho
con người khi ăn sống các loại sò, ốc hay các thức ăn nấu chưa được chín kĩ
Branscheid W và cs, 1987)
Bảng 1.5 Một số chỉ tiêu của nước thải chăn nuôi lợn
Chỉ tiêu

Đơn vị


Nồng độ

Độ màu

Pt - Co

350 –870

Độ đục

mg/l

420 – 550

BOD5

mg/l

3500 – 9800

COD

mg/l

5000 – 12000

SS

mg/l


680 –1200

Ptổng

mg/l

36 – 72

Ntổng

mg/l

220 – 460

Dầu mỡ

mg/l

5 – 58

Nguồn: Trương Thanh Cảnh và ctv, 1997, 1998
1.3. Thực trạng xử lý chất thải trong hoạt động chăn nuôi
Theo kết quả thống kê năm 2010, cả nước có khoảng 8.500.000 hộ có
chuồng trại chăn nuôi quy mô hộ gia đình; khoảng 18.000 trang trại chăn nuôi tập
trung. Các trang trại chăn nuôi tập trung quy mô lớn phần lớn có hệ thống xử lý chất
thải với các loại công nghệ khác nhau, nhưng hiệu quả xử lý chưa triệt để. Chăn
nuôi hộ gia đình mới có khoảng 70% tương ứng với khoảng 5.950.000 hộ có
chuồng trại chăn nuôi, trong đó mới có khoảng 8,7% hộ chăn nuôi có công trình khí
sinh học (hầm Biogas). Tỷ lệ hộ gia đình có chuồng trại chăn nuôi hợp vệ sinh cũng
chỉ chiếm khoảng 10%. Còn khoảng 23% số hộ chăn nuôi không xử lý chất thải vật

nuôi và chỉ có 0,6% số hộ có cam kết bảo vệ môi trường. Số trang trại chăn nuôi có
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 10


hệ thống xử lý chất thải bằng biogas khoảng 67%. Trong đó chỉ có khoảng 2,8% có
đánh gía tác động môi trường, 13,8% trang trại có cam kế bảo vệ môi trường và chỉ
có 1,6% số trang trại không áp dụng biện pháp xử lý chất thải vật nuôi (Andre’
Lamouche, 2006).

Hiện nay ở nước ta, phần lớn chất thải chăn nuôi được sử dụng làm phân bón,
việc xử lý chất thải chăn nuôi có sự khác nhau theo quy mô chăn nuôi. Với qui mô
chăn nuôi trang trại thì việc xử lý chất thải chăn nuôi được coi trọng hơn, còn tại
các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ gắn liền với sản xuất nông nghiệp, chất thải chăn nuôi chủ
yếu được trực tiếp bón cho cây trồng, làm thức ăn cho cá... Vì vậy, việc xử lý và
quản lý chất thải vật nuôi ở nước ta gặp nhiều khó khăn (Attar. A.J; J.T. Brake (1988),
Những năm qua, chất thải vật nuôi trong nông hộ được xử lý bằng các biện
pháp chủ yếu: trực tiếp xả ra kênh mương và ao, hồ; ủ làm phân bón; xử lý bằng
công nghệ khí sinh học (biogas). Bên cạnh đó, còn có một số phương pháp khác: xử
lý bằng sinh vật thủy sinh (cây muỗng nước, bèo lục bình..), hồ sinh học, ủ phân
truyền thống và công nghệ compost… (Nguyễn Quang Khải, 2006).
Bảng 1.6. Thực trạng quản lý và xử lý chất thải chăn nuôi
Chăn nuôi trang trại
Quản lý và xử lý chất

Số lượng

thải vật nuôi


mẫu điều

Chăn nuôi nông hộ
Số lượng

Tỷ lệ %

tra

mẫu điều
tra

Tỷ
lệ %

Có đánh giá tác động môi trường

1.047

2,8

Có cam kết BVMT

5.098

13,8

36.599

0,6


24.729

66,9

506.988

8,7

11.626

31,5

4.009.883

68,3

602

1,6

1.357.292

23,1

Có xử lý chất thải bằng công
nghệ Biogas
Có xử lý chất thải truyền thống
(ủ, bán, nuôi cá, tưới cây)
Chất thải vật nuôi không xử lý


Nguồn: Báo cáo CCN: công tác BVMT trong chăn nuôi của 55 tỉnh/thành phố,
2009.
Do nhiều nguyên nhân khiến công tác bảo vệ môi trường trong hoạt động
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 11


chăn nuôi vẫn còn nhiều mặt tiêu cực, tình trạng gây ô nhiễm môi trường của một
số cơ sở chăn nuôi lớn và chăn nuôi trong khu dân cư vẫn chưa được khắc phục triệt
để và có chiều hướng gia tăng (Barnett J. và cs, 2001).
Theo báo cáo lực lượng Cảnh sát PCTP về môi trường, từ năm 2010 đến nay
đã phát hiện và xử lý 288 vụ vi phạm pháp luật về môi trường trong lĩnh vực chăn
nuôi tập trung, sản xuất thức ăn chăn nuôi; xử phạt 6,167 tỉ đồng. Các vi phạm về
bảo vệ môi trường chủ yếu trong lĩnh vực này là: xả nước thải, khí thải vượt tiêu
chuẩn, quản lý chất thải nguy hại không đúng quy định, vi phạm về hồ sơ thủ tục
môi trường và thực hiện không đúng, đầy đủ các nội dung cam kết trong báo cáo
bảo cáo đánh giá tác động môi trường, cam kết BVMT.
1.4.Nghiên cứu ứng dụng đệm lót sinh học trong chăn nuôi lợn
1.4.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Mô hình chăn nuôi lợn sử dụng đệm lót sinh học hoặc đệm lót lên men
(fermentation bed) là một loại hình chăn nuôi được tìm thấy tương đối phổ biến ở
Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc (Ekkel E.D và cs, 2003),. Nhiều công trình
nghiên cứu xung quanh đối tượng này đều chỉ ra những ưu điểm và hạn chế của mô
hình chăn nuôi trên đệm lót lên men (Bicudo J.R và cs, 2000). Ưu điểm chính của
mô hình này bao gồm:
- Giảm ô nhiễm môi trường (giảm mùi, nước thải, v.v.)
- Tiết kiệm nhân lực (không phải vệ sinh chuồng trại)
- Tiết kiệm nước (không phải rửa chuồng)

Những hạn chế chủ yếu của mô hình này là:
- Cần đầu tư xây dựng hệ thống chuồng trại đồng bộ (đệm, hệ thống máng ăn,
nước uống v.v.)
- Khó vệ sinh, khử trùng chuồng trại khi bị mắc dịch
- Vật liệu đệm lót (mùn cưa, vỏ trấu v.v.) tạo bụi, có thể gây các bệnh về hô
hấp cho vật nuôi
- Sinh nhiệt cao, gây nóng về mùa hè.
Như vậy, ưu điểm nổi trội nhất của đệm lên men là về hiệu quả môi trường.
Feng Xiaoyan đã kết luận rằng mô hình chăn nuôi sử dụng đệm lót sinh học làm
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 12


giảm khí thải NH3 rất hiệu quả (Vincent Porphyre, Nguyen Que Coi (2006),.
Liên quan đến hạn chế về vấn đề sinh nhiệt trong mùa hè, nhiều nghiên cứu
cũng đã được tiến hành để tìm các giải pháp có hiệu quả như lắp đặt hệ thống thông
gió, làm mái che v.v. Một công trình nghiên cứu tại Trung Quốc rất có ý nghĩa đã
chỉ ra rằng thành phần lớp đệm cũng là yếu tố quyết định rất lớn đến hiện tượng
sinh nhiệt (Charest M.H. và cs, 2004),. Thông qua một loạt thí nghiệm, nhóm tác
giả kết luận rằng vật liệu thừa trong nuôi trồng nấm cũng có thể sử dụng làm đệm
sinh học. Với thành phần 20% vật liệu thừa trong sản xuất nấm, 25% mùn cưa và
50% vỏ trấu, đệm sinh học tạo ra lượng nhiệt cao hơn hẳn loại đệm với chỉ 50%
mùn cưa và 50% vỏ trấu (Viện sinh học nhiệt đới, 2005),
Về mặt kỹ thuật, tại Nhật bản chế phẩm EM (effective microorganisms) do
GS. Teruo Higa – Trường Đại học Ryukius, Okinawa, Nhật Bản nghiên cứu và ứng
dụng thành công vào sản xuất nong nghiệp từ những năm 1980. Tuy nhiên, gần đây
chế phẩm này mới được ứng dụng để làm đệm lót sinh học cho chăn nuôi nói chung
và chăn nuôi lợn nói riêng. Quy trình ứng dụng chung tương đồng ở các nước là sử
dụng môi trường lên men được làm từ các vật liệu có hàm lượng xenluloza cao để

cho hệ vi sinh vật hoạt động hiệu quả thông qua quá trình phân hủy chất hữu cơ.
Thành phần, số lượng và chất lượng các chủng vi sinh vật có sự khác biệt tùy thuộc
và từng nước, từng sản phẩm và đối tượng vật nuôi (Beattie V.E. và cs, 1995),
Tuy nhiên, cho đến nay, các nghiên cứu có tính hệ thống làm minh chứng về
hiệu quả môi trường kinh tế xã hội của đệm lót sinh học là rất hiếm gặp. Có thể nói
rằng, gần như không thể tìm được các ấn phẩm nào bằng tiếng Anh trong các tạp
chí khoa học quốc tế về tác động tổng hợp của các chỉ tiêu môi trường đất, nước,
không khí và các hiệu quả kinh tế xã hội do đệm lót sinh học tạo ra.
1.4.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Chăn nuôi lợn hiện nay ở nước ra đã và đang phát triển mạnh cả về số lượng
trang trại, quy mô đầu lợn, chất lượng con giống và phương thức chăn nuôi. Theo
kết quả thống kê của Cục chăn nuôi năm 2010, cả nước có khoảng 8.500.000 hộ có
chuồng trại chăn nuôi quy mô hộ gia định; khoảng 18.000 trang trại chăn nuôi tập
trung. Đa số các trang trại và chuồng nuôi nằm trong khu vực dân cư nên mức độ ô
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 13


nhiễm khá cao. Mức độ ô nhiễm môi trường tại các cơ sở chăn nuôi tập trung và các
địa phương có chăn nuôi lợn phát triển là rất trầm trọng. Thực tế nhiều nơi các chất
thải rắn, chất thải lỏng và đặc biệt là nước thải từ bể khí sinh học đều được người
chăn nuôi cho chảy thẳng ra cống rãnh, ao hồ, sông suối. Nguồn ô nhiễm từ hoạt
động chăn nuôi chủ yếu là từ phân thải, nước tiểu và nước rửa chuồng từ các
chuồng nuôi. Đặt trưng cơ bản của nước thải chăn nuôi là có hàm lượng chất rắn lơ
lửng (SS), chất hữu cơ (thể hiện bởi COD và BOD5), các hợp chất nito (NH4 – N và
N – Tổng) rất cao (Hoàng Đức Liên, Tống Ngọc Tuấn, 2000). Trên thực tế phân
thải của các loại vật nuôi thường được trộn lẫn cùng với nước tiểu và nước rửa
chuồng trại. Do đó, nồng độ các hợp chất nito (Tổng Nito Kjendhal) nằm trong
khoảng 1.500 – 15.200 mg/L, của phôt pho là từ 70 – 1.750 mg/L (A. Muder, 2003;

M. Maurer, 2003). Với nồng độ các chất ô nhiễm cao nên phân thải và nước thải
chăn nuôi là một nguồn ô nhiễm nghiêm trọng nếu không được quản lý và xử lý
triệt để (Nguyễn Thị Hoa Lý, 1994).
Theo kết quả nghiên cứu của Phạm Nhật Lệ, Trịnh Quang Tuyên (1997;
2000; 2001); Nguyễn Đức Lượng và cs, 2003); Dương Nguyên Khang (2009), nồng
độ khí độc tại chuồng lợn công nghiệp: NH3: 0,94 mg/m3; H2S: 0,38 mg/m3; CO:
6,7 mg/m3, NO2: 0,25 mg/m3; SO2: 0,45 mg/m3 so với TCVN 5938-95; 5937-95
thì nồng độ này còn cao hơn mức cho phép từ 2 – 3 lần. Kết quả xác định độ nhiễm
khuẩn của không khí chuồng lợn công nghiệp cho thấy tổng số VSV và nấm mốc ở
không khí khu vực chuồng nuôi lợn nuôi công nghiệp cao hơn 5,7 lần so với quy
định của EU (1991). Nước thải chăn nuôi đã qua xử lý bằng hệ thống biogas cho
thấy không còn trứng giun sán nhưng hàm lượng E.coli còn ở mức độ cao
(0,65x103) (Nguyễn Quang Khải, 2002).
Kết quả điều tra thực trạng ô nhiễm môi trường và xử lý chất thải chăn nuôi
lợn của Viện chăn nuôi (2009) ở 3 vùng sinh thái có tỷ trọng chăn nuôi phát triển
cao là Đồng bằng Sông Hồng (Hưng Yên, Nam Định), Đông Nam Bộ (Bình Dương,
Đồng Nai) và Đồng bằng sông Cửu Long (Long An, Cần Thơ) cho kết quả các chỉ
tiêu phân tích đều cao hơn mức cho phép. Đặc biệt các chỉ tiêu về sinh vật cao gấp
nhiều lần cho phép. Đặc biệt các chỉ tiêu về sinh vật cao gấp nhiều lần cho phép.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 14


×