Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

Nâng cao hiệu quả cho vay khách hàng cá nhân tại BIDV chi nhánh bắc hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.89 KB, 85 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Cho vay KHCN là sản phẩm tín dụng xuất hiện từ lâu đời trên thế giới
và hiện nay đang phát triển rất mạnh, nhất là ở các nước đang có tiềm lực về
kinh tế và cạnh tranh ngân hàng sôi động, nhưng mới phát triển 1 vài năm gần
đây ở Việt Nam. Trong xu hướng hội nhập quốc tế, các ngân hàng nước ngoài,
ngân hàng liên doanh, ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương
mại cổ phần, công ty tài chính…đang cạnh tranh mạnh mẽ các sản phẩm tín
dụng tiêu dùng, thu hút khách hàng cá nhân. Năng động nhất chính là các
NHTM cổ phần, liên tục đưa ra các sản phẩm tiện ích như: cho vay siêu tốc,
đăng ký vay qua mạng Internet, lãi suất cho vay hấp dẫn, kỳ hạn cho vay dài,
cho vay tới 80% giá trị ngôi nhà hay xe ô tô... Đồng thời các NHTM cổ phần chủ
động tiếp thị qua nhiều kênh khác nhau, thậm chí phối hợp với công đoàn, với
doanh nghiệp tổ chức giới thiệu ngay tại nơi nhân viên làm việc, cùng với đại lý
ô tô hay chủ dự án nhà ở đi làm thủ tục thay cho khách hàng...
Với số dân gần 90 triệu người của nước ta hiện nay, phần đông là dân số
trẻ, năng động, thu nhập không ngừng được cải thiện, nhu cầu tiêu dùng đang
tăng cao, nên thị trường cho vay tiêu dùng tại Việt Nam là thị trường đầy tiềm
năng sinh lợi mà các ngân hàng đang khai thác triệt để để tìm kiếm lợi nhuận.
Tuy nhiên, hiện các NHTM lớn trong hệ thống Ngân hàng tại Việt Nam nói
chung và BIDV nói riêng đang chú trọng tới việc cho vay KHDN là chủ yếu,
trong đó tập trung vào các dự án lớn, dài hạn, chưa chú trọng tới phát triển
hoạt động cho vay KHCN, doanh số cho vay rất thấp nên đây vẫn còn là thị
trường vô cùng tiềm năng.
Với cương vị là chuyên viên KHCN đang làm việc tại Ngân hàng TMCP
Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội, tôi đã có cơ hội tìm
hiểu nhiều hơn về các hoạt động, lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng, đặc biệt



2

là trong lĩnh vực cho vay đối với KHCN. Nằm trong định hướng chung của
toàn hệ thống BIDV về chú trọng phát triển hoạt động NHBL, BIDV Bắc Hà
Nội cũng đã đề ra mục tiêu đẩy mạnh hoạt động cho vay KHCN, hướng đến
là Chi nhánh đầu tầu về bán lẻ trên địa bàn phía bắc sông Hồng theo nghị
quyết và chỉ đạo của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Ban
lãnh đạo Chi nhánh đã xác định nâng cao hiệu quảhoạt động cho vay KHCN
là nhiệm vụ trọng tâm, có tính chiến lược lâu dài đảm bảo an toàn và hiệu quả
trong thời điểm hiện nay. Chính vì vậy, việc tìm ra những giải pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động tín dụng bán lẻ là vấn đề bức xúc và nhận được nhiều sự
quan tâm của Ban lãnh đạo Chi nhánh BIDV Bắc Hà Nội.
Xuất phát từ các nguyên nhân nêu trên, qua thời gian tìm hiểu và có cơ hội
tiếp cận nhu cầu vay vốn của các khách hàng cá nhân, tôi đã lựa chọn đề tài
nghiên cứu là:“Giải pháp nâng cao hiệu quảcho vay khách hàng cá nhân tại
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu về hoạt động cho vay khách hàng cá nhân tại
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội,
luận văn hướng đến những mục tiêu cụ thể sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về hoạt động và hiệu quả hoạt động cho
vay khách hàng cá nhân tại các ngân hàng thương mại.
- Đánh giá thực trạng hiệu quả hoạt động cho vay khách hàng cá nhân
tại BIDV Bắc Hà Nội.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay
khách hàng cá nhân tại BIDV Bắc Hà Nội.
1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Hiệu quảhoạt động cho vay khách

hàng cá nhân tại BIDV Bắc Hà Nội


3

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là: Luận văn nghiên cứu các vấn đề
về hiệu quả cho vay khách hàng cá nhân tại BIDV Bắc Hà Nội trong giai đoạn
từ năm 2013 đến 2015.
2. Phương pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp luận nghiên cứu: Luận văn sử dụng kết hợp giữa phương
pháp tiếp cận hệ thống lý thuyết, duy vật biện chứng, duy vật lịch sử với tìm
hiểu, nghiên cứu tài liệu về cho vay khách hàng cá nhân của BIDV Bắc Hà Nội.
Bên cạnh đó gắn lý luận với thực tiễn, gắn lý thuyết về cho vay khách hàng cá
nhân với các yếu tố ảnh hưởng, các điều kiện thực tế tại BIDV Bắc Hà Nội, từ
đó đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay KHCN tại BIDV Bắc Hà Nội.
4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
4.2.1. Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp
Dữ liệu thứ cấp là loại dữ liệu được sưu tập sẵn, đã công bố nên dễ thu
thập, tốn ít thời gian và tiền bạc trong quá trình thu thập
Các nguồn dữ liệu thứ cấp:
Dữ liệu bên trong là các dữ liệu của các bộ phận chức năng trong ngân
hàng.
Dữ liệu bên ngoài là dữ liệu từ các bộ phận chức năng ngoài ngành và
doanh nghiệp hoặc các nguồn khác trên thị trường như: số liệu của cơ quan
thống kê thành phố hoặc cả nước, số liệu của viện nghiên cứu kinh tê trung
ương và thành phố, sách tham khảo, các tạp chí định kỳ hoặc báo hàng
ngày…
Nguồn tài liệu thứ cấp của luận văn được thu thập từ:
- Nguồn bên trong: Các báo cáo tổng hợp về hoạt động cho vay đối với

khách hàng cá nhân tại BIDV Chi nhánh Bắc Hà Nội giai đoạn 2013-2015.
Các báo cáo bao gồm:


4



Báo cáo kết quả kinh doanh của BIDV Bắc Hà Nội bao gồm:
- Thu nhập lãi suất là thu nhập từ các chứng từ có giá ngắn hạn, các
khoản đầu tư ngắn hạn, các khoản tín dụng thương mại, tín dụng tiêu dùng,
tín dụng tài sản cố định và các khoản tín dụng khác mà ngân hàng nhận được
trên từng loại tài sản cụ thể này. Tất cả thu nhập lãi suất trừ đi phần chi phí
liên quan là phần chịu thuế, với sự ngoại trừ thu nhập lãi suất của chứng
khoán miễn trừ thuế.
- Thu nhập ngoài lãi suất khác bao gồm thu nhập ròng từ bộ phận hoạt
động kinh doanh, từ cho thuê tài chính trực tiếp ...
- Chi phí lãi suất là khoản chi phí trả cho các khoản ký gửi, các khoản
vay ngắn hạn, khoản nợ dài hạn, các khoản nợ khác ... trên từng loại nợ phải
trả cụ thể. Chi phí lãi suất là loại chi phí được trừ ra khi xác định thuế thu
nhập của ngân hàng.
- Dự phòng tổn thất tín dụng là một khoản tiền trích từ thu nhập để hình
thành một khoản dự trữ bù đắp cho khoản tổn thất tín dụng có thể phát sinh.
Theo quy định dự phòng tổn thất tín dụng là một khoản chi phí ngoài lãi suất,
làm giảm lợi nhuận của ngân hàng, giảm tài sản trên bảng cân đối kế toán.. Về
quản trị, dựa trên kiến thức và sự nhận biết về chất lượng của các khoản tín
dụng có thể dự phòng ít hơn hay nhiều hơn mức qui định và tin tưởng rằng sẽ
đủ bù đắp cho các khoản tổn thất tín dụng có thể xảy ra.
- Chi phí hoạt động bao gồm khoản khấu hao tài sản cố định, chi phí thuê
văn phòng máy móc, và thuế trên máy móc thiết bị.

- Chi phí khác là loại chi phí chung cho chi phí hoạt động còn lại của
ngân hàng. Khoản này thường bao gồm các khoản chi phí như quảng cáo,
bảo hiểm, bưu phí . . .


5

- Thu nhập trước thuế là sự chênh lệch giữa tổng thu nhập hoạt động và
tổng chi phí.
- Thu nhập ròng là khoản thu nhập trước thuế trừ đi khoản thuế thu nhập
phải nộp cho ngân sách nhà nước, ngân sách địa phương của năm đó.
Báo cáo kết quả công tác cho vay khách hàng cá nhân của BIDV



Chi nhánh Bắc Hà Nội
Báo cáo kết quả công tác tín dụng là một tập hợp các số liệu liên quan
đến tình hình công tác tín dụng đối với khách hàng cá nhân của ngân hàng,
bao gồm tổng số khoản vay được phê duyệt, tổng số khoản vay triển khai
thành công, tổng số khoản vay phải điều chỉnh...
Báo cáo danh mục cho vay khách hàng cá nhân của BIDV chi



nhánh Bắc Hà Nội
Báo cáo danh mục cho vay của ngân hàng là một tập hợp các loại cho
vay thuộc sở hữu của ngân hàng, được sắp xếp theo các tiêu thức khác nhau,
được cơ cấu theo một tỷ lệ nhất định, phục vụ cho các mục đích quản trị của
ngân hàng.
Các danh mục tài liệu, hồ sơ cho vay khách hàng cá nhân




Thu thập các tài liệu liên quan đến các văn bản, tài liệu hướng dẫn chính
sách cho vay, nghiệp vụ chuyên môn, quy trình thẩm định tài chính trong hoạt
động cho vay và báo cáo tổng kết công tác phê duyệt cho vay khách hàng cá
nhân.
- Nguồn bên ngoài:các bài viết, các bài báo tổng hợp về tình hình hoạt
động cho vay đối với khách hàng cá nhân nói riêng và của BIDV chi nhánh
Bắc Hà Nội nói chung…


6

4.2.2. Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp
- Thu thập từ các bộ phận: quản trị rủi ro, phòng kiểm soát nội bộ,
Phòng tín dụng, các Phòng giao dịch nơi trực tiếp làm tín dụng như giám đốc
đơn vị, lãnh đạo mảng, trưởng nhóm…Nội dung thu thập chủ yếu là các thông
tin cá nhân, các tài liệu nghiệp vụ chuyên môn, phỏng vấn quan điểm đối với
các yếu tố phát triển hoạt động cho vay khách hàng cá nhân tại BIDV Chi
nhánh Bắc Hà Nội
- Lập bảng câu hỏi để điều tra khách hàng cá nhân.
- Quan sát, trò chuyện với nhân viên trong ngân hàng.
4.2.3. Phương pháp phân tích, so sánh
Sử dụng các phương pháp phân tích thống kê, so sánh số tuyệt đối và số
tương đối toán để phân tích, đánh giá.
- Phương pháp tổng hợp số liệu: Toàn bộ số liệu thu thập được xử lý bởi
chương trình Excel trên máy tính. Đối với những thông tin là số liệu định
lượng thì tiến hành tính toán các chỉ tiêu cần thiết như số tuyệt đối, số tương
đối, số trung bình và lập thành các bảng biểu, đồ thị.

- Phương pháp biểu thị số liệu:
+ Phương pháp Bảng thống kê
Bảng thống kê là hình thức biểu hiện các số liệu thống kê một cách có hệ
thống, logic nhằm mô tả cụ thể, rõ ràng các đặc trưng về mặt lượng của các
hiện tượng nghiên cứu. Bảng thống kê được sử dụng trong nghiên cứu này
nhằm giúp cho việc phân tích thống kê được thuận lợi, rõ ràng. Các số liệu đã
thu thập được sắp xếp khoa học trong bảng thống kê có thể giúp so sánh, đối
chiếu, phân tích theo nhiều phương pháp khác nhau nhằm đánh giá bản chất


7

hiện tượng nghiên cứu. Các loại bảng được sử dụng trong nghiên cứu này bao
gồm cả bảng giản đơn, bảng phân tổ và bảng kết hợp.
+ Đồ thị thống kê
Đồ thị thống kê là các hình vẽ hoặc đường nét hình học dùng để miêu tả
có tính chất quy ước các số liệu thống kê. Đồ thị thống kê được sử dụng trong
đề tài này với sự kết hợp giữa các con số với các hình vẽ và màu sắc để trình
bày một cách sinh động các đặc trưng về số lượng và xu hướng phát triển về
mặt lượng của hiện tượng. Nhờ đó, đồ thị có khả năng thu hút sự chú ý của
người đọc, giúp lĩnh hội được thông tin nhanh chóng và kiểm tra nhanh bằng
hình ảnh độ chính xác của thông tin thống kê. Căn cứ vào nội dung phản ánh,
hai loại đồ thị được sử dụng đó là: Đồ thị rời rạc, đồ thị hình cột...
- Phương pháp phân tích thông tin:
Phân tích thông tin là giai đoạn cuối cùng của quá trình nghiên cứu khoa
học, có nhiệm vụ làm rõ các đặc trưng, xu hướng phát triển của hiện tượng và
quá trình nghiên cứu dựa trên các thông tin thống kê đã được thu thập, xử lý
và tổng hợp nhằm giải đáp các câu hỏi nghiên cứu đã đặt ra. Quá trình phân
tích phải xác định cụ thể các mức độ của hiện tượng, xu hướng biến động
cũng như tính chất và mức độ chặt chẽ của các mối liên hệ giữa các hiện

tượng, để từ đó rút ra được những kết luận khoa học về bản chất cũng như
tính quy luật của hiện tượng nghiên cứu; dự báo quá trình tiếp theo của hiện
tượng trong thời gian ngắn. Trong đề tài này, các phương pháp phân tích
thống kê được sử dụng bao gồm: phương pháp phân tích dãy số theo thời
gian, phương pháp so sánh…
+ Phương pháp phân tích dãy số thời gian


8

Nghiên cứu này sử dụng các dãy số thời kỳ với khoảng cách giữa các
thời kỳ trong dãy số là 1 năm, 2 năm và 3 năm.
+ Phương pháp so sánh
So sánh là việc đối chiếu các chỉ tiêu, các hiện tượng kinh tế, xã hội đã
được lượng hoá có cùng một nội dung, tính chất tương tự nhau:
Biểu hiện bằng số: Số lần hay phần trăm.
Phương pháp so sánh gồm các dạng: So sánh qua các giai đoạn khác
nhau; So sánh các đối tượng tương tự; So sánh các yếu tố, hiện tượng cá biệt
với trung bình hoặc tiên tiến
5. Kết cấu luận văn
Chương 1. Các vấn đề cơ bản về hiệu quả cho vay khách hàng cá nhân
của ngân hàng thương mại
Chương 2. Thực trạng hiệu quả cho vay khách hàng cá nhân của Ngân
hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay khách hàng cá nhân tại
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội


9


CHƯƠNG 1
CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ CHO VAY
KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. KHÁI QUÁT VỀNGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm ngân hàng thương mại

1.1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Theo từng quan điểm của các nhà nghiên cứu kinh tế khác nhau đưa ra
nhiều khái niệm về ngân hàng thương mại:
Tại Mỹ: Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên
cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài
chính.
Tại Pháp: Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp và cơ sở nào
thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác
các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay
dịch vụ tài chính. (theo “Đạo luật ngân hàng” của Pháp - năm1941)
Tại Đan Mạch: Những nhà băng thiết yếu gồm các nghiệp vụ ký thác,
buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại và hành nghề địa ốc, các phương
tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân, đứng ra bảo
hiểm,…(theo luật ngân hàng của Đan Mạch – năm 1930)
Tại Việt Nam, theo luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín
dụng, khái niệm về ngân hàng thương mại được định nghĩa như sau: “Ngân
hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ
các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì
mục tiêu lợi nhuận”.
“Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của
Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng” và “Hoạt


10


động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội
dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và
cung ứng dịch vụ thanh toán”.
Như vậy, thực chất ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp nhưng
sản phẩm của nó là cung ứng các sản phẩm dịch vụ về tài chính, tiền tệ.Có thể
phân loại ngân hàng thương mại theo nhiều tiêu thức khác nhau, song nhìn
chung có hai loại hình ngân hàng thương mại là Ngân hàng chuyên doanh và
Ngân hàng đa năng. Ngân hàng kinh doanh đa năng thực hiện nhiều nghiệp vụ
ngân hàng, còn ngân hàng chuyên doanh chỉ tập trung làm một số ít các nghiệp
vụ ngân hàng. Ngân hàng thương mại có ba chức năng cơ bản là chức năng
trung gian tài chính, chức năng trung gian thanh toán và chức năng tạo phương
tiện thanh toán cho nền kinh tế.
1.1.1.2. Đặc điểm của ngân hàng thương mại
a. Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính
Hệ thống ngân hàng thương mại đóng vai trò trung gian quan trọng
trong nền kinh tế, nó tồn tại như một tất yếu khách quan trong quá trình phát
triển của mỗi quốc gia, ngân hàng thương mại thực hiện nhiệm vụ trung gian
tài chính thông qua một số lĩnh vực sau đây:
- Ngân hàng thương mại là trung gian về vốn: Xuất phát từ nhu cầu
trong xã hội có các cá nhân dư tiền, chưa sử dụng và có nhiều cá nhân, doanh
nhân cần thiết một lượng vốn để đầu tư sản xuất. Để kết nối hai nhu cầu này,
hệ thống ngân hàng thương mại đóng vai trò trung gian làm thỏa mãn cả hai
nhu cầu, có nghĩa bằng chức năng hoạt động của mình ngân hàng thương mại
nhận tiền gửi của người có tiền nhàn rỗi và cho vay các nhu cầu cần vay đầu
tư phát triển sản xuất. Như vậy, ngân hàng thương mại đã đóng vai trò trung
gian về vốn trong xã hội và là trung gian thúc đẩy dòng vốn từ trạng thái nhàn
rỗi sang hoạt động đầu tư phát triển.



11

- Ngân hàng thương mại là trung gian về kỳ hạn vốn: Nguồn tiền nhàn
rỗi trong xã hội được ngân hàng thương mại tập hợp nhận gửi thông qua
nhiều kỳ hạn gửi (kỳ hạn gửi phụ thuộc thời gian nhàn rỗi) khác nhau. Bên
cạnh đó, nhu cầu đầu tư và thời gian vay của người vay cũng khác nhau phụ
thuộc thời gian của phương án kinh doanh và nguồn trả nợ nên để đáp ứng
được nhu cầu của khách hàng, Ngân hàng sử dụng vốn huy động không kỳ
hạn để cho vay có kỳ hạn, dùng vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung –
dài hạn. Ngân hàng thương mại đã tập hợp nhiều loại kỳ hạn của người gửi
khác nhau để thỏa mãn nhiều kỳ hạn vay của người vay khác nhau đã thể hiện
vai trò trung gian về mặt kỳ hạn của ngân hàng thương mại. Cơ chế chuyển
thời hạn như nêu trên dựa trên quy luật số lớn.
- Ngân hàng thương mại là trung gian về rủi ro: Tiền nhàn rỗi trong xã
hội gửi vào ngân hàng thương mại không kỳ hạn hay có kỳ hạn thì bất cứ lúc
nào người gửi cũng có thể đến ngân hàng để rút sử dụng và sẽ được nhận lại
tiền gốc và lãi đầy đủ (rất hiếm khi ngân hàng thương mại không thanh toán
đủ gốc và lãi). Điều đó khẳng định rủi ro của người gửi tiền vào ngân hàng là
rất thấp. Bên cạnh đó, ngân hàng thương mại đem tiền cho khách hàng vay
theo một kỳ hạn vay nhất định, người vay có thanh toán đầy đủ gốc và lãi cho
ngân hàng khi đến hạn hay không lại phụ thuộc vào khả năng trả nợ của người
đi vay (trên thực tế tồn tại một số người vay không thể thanh toán đầy đủ nợ
gốc và lãi). Trong mối quan hệ với người gửi tiền, ngân hàng đảm bảo khả
năng thanh toán đầy đủ và với người vay, ngân hàng gặp rủi ro ở một mức độ
nhất định. Như vậy, NHTM đã phát hành giấy nhận nợ có rủi ro thấp để cho
vay và đầu tư có mức độ rủi ro cao hơn. Do đó, ngân hàng thương mại đang
đóng vai trò trung gian về rủi ro.
- Ngân hàng thương mại là trung gian về thanh toán: Việc trao đổi mua
bán hàng hóa trong xã hội là một tất yếu, hoạt động mua bán hàng hóa đòi hỏi



12

phải có sự thanh toán. Khi giao thương hàng hóa ở mức độ thấp người mua,
người bán có thể trao đổi thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt. Tuy nhiên, khi
lượng hàng hóa mua bán tăng lên, việc trao đổi hàng hóa và thanh toán không
thể thực hiện trực tiếp, lúc này ngân hàng thương mại sẽ đóng vai trò làm
trung gian thanh toán thay cho các thương gia, doanh nghiệp. Các doanh
nghiệp, thương gia chỉ cần mở tài khoản tại ngân hàng thương mại và yêu cầu
ngân hàng thanh toán thay cho mình để được nhận hàng hóa (hoặc thay mặt
người bán nhận tiền khi bán hàng). Vai trò trung gian thanh toán này là vai trò
đặc thù và phát triển mạnh nhất của Ngân hàng thương mại.
- Ngân hàng thương mại là trung gian về thông tin: Ngân hàng thương
mại là nơi tiếp nhận thông tin của nền kinh tế như một hoạt động sẵn có, song
ngân hàng thương mại cũng là nơi xử lý và cung cấp các thông tin có liên
quan để phục vụ hoạt động kinh doanh, công bố và tư vấn cho khách hàng.
Tính chất tập trung hóa, chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa cao khiến
NHTM có khả năng thu thập và xử lý thông tin tốt, đây là cơ sở để NHTM tư
vấn cho Chính phủ và khách hàng.
b. Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh có điều kiện
Ngân hàng thương mại có mối liên hệ chặt chẽ với nền kinh tế, là trung
gian chuyển vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu theo nhu cầu phát triển kinh tế,
khách hàng của ngân hàng có số lượng lớn thuộc nhiều tầng lớp trong xã hội,
sản phẩm chính của ngân hàng thương mại là cung cấp các sản phẩm dịch vụ
tài chính và hoạt động đầu tư, mối liên hệ giữa các ngân hàng thương mại với
nhau và giữangân hàng thương mại với ngân hàng Trung ương là mối quan hệ
ràng buộc chặt chẽ thể hiện qua các hoạt động thanh toán, vay mượn… lẫn
nhau. Do ngân hàng thương mại giữ vai trò rất quan trọng và có mối quan hệ
chặt chẽ với hệ thống tài chính – tiền tệ quốc gia, sự có mặt của một ngân
hàng trong hệ thống ngân hàng thương mại đòi hỏi các điều kiện hoạt động cụ



13

thể về vốn, tài sản, bộ máy quản lý, trình độ điều hành, sản phẩm dịch vụ, quy
trình vận hành nghiệp vụ… Đây cũng là những điều kiện cần để ngân hàng
Trung ương cấp giấy phép hoạt động cho Ngân hàng thương mại.
c. Ngân hàng thương mại có các sản phẩm - dịch vụ đặc thù
Khác với các tổ chức kinh tế và doanh nghiệp, ngân hàng thương mại
cung cấp các sản phẩm vô hình, chủ yếu là dịch vụ tài chính như: Các sản
phẩm liên quan đến hoạt động gửi tiền, các sản phẩm liên quan đến hoạt động
sử dụng vốn (cho vay, đầu tư, góp vốn, kinh doanh chứng khoán…) và cung
cấp các dịch vụ trung gian tài chính để thu phí như thanh toán, tư vấn, thu chi
hộ, quản lý hộ …
Các nhóm sản phẩm dịch vụ tài chính của các ngân hàng thương mại có
các đặc điểm là không có bản quyền, dễ thay đổi và hay bị bắt chước. Do vậy,
chiến lược kinh doanh của các ngân hàng thương mại là không thể dị biệt hóa
sản phẩm (như sản phẩm hàng hóa thông thường) mà phải là chính sách giá
(lãi suất), chất lượng dịch vụ và kênh phân phối (hệ thống chi nhánh và các
điểm giao dịch).
Ngoài ra, ngân hàng thương mại còn xây dựng uy tín và hình ảnh của
mình trong xã hội. Đó là việc xây dựng hình ảnh tốt và uy tín cao trong xã
hội, hình ảnh và lòng tin của Ngân hàng thương mại được xây dựng và vun
đắp qua quá trình phát triển, thể hiện bằng vốn, quy mô hoạt động, mô hình tổ
chức, hiệu quả kinh doanh, kinh nghiệm điều hành, trình độ nghiệp vụ chuyên
môn... Ngân hàng nào được nhiều người dân biết đến với niềm tin cao có cơ
sở vững chắc để đảm bảo hoạt động kinh doanh ổn định và phát triển lâu dài.
Ngược lại, ngân hàng thương mại có sự tín nhiệm và lòng tin thấp sẽ không
có cơ sở vững chắc để hoạt động kinh doanh, điều này rất dễ dẫn đến sự phá
sản, đổ vỡ của Ngân hàng.

Cơ sở vật chất, kỹ thuật của Ngân hàng là một trong những nhân tố


14

quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển của dịch vụ Ngân hàng bán lẻ.Trang
thiết bị phải hiện đại, bắt mắt tạo cảm giác thoải mái cho khách hàng khi đến
giao dịch. Công nghệ hiện đại cho phép các NHTM tạo ra khả năng phát triển
sản phẩm mới có tính chất riêng biệt, độc đáo gắn với khả năng sáng tạo và
tạo ra thương hiệu, uy tín của sản phẩm rất cao.
Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển vượt bậc như hiện nay,
yếu tố công nghệ đã xâm nhập vào mọi ngõ ngách của đời sống. Vì vậy, cơ sở
vật chất kỹ thuật của Ngân hàng là một trong những yếu tố sống còn, đảm bảo
khả năng thích nghi, đáp ứng nhu cầu khách hàng của Ngân hàng.
Ngoài ra, công nghệ hiện đại tạo điều kiện cho các NHTM nâng cao hiệu
quả hoạt động, hiệu quả kinh doanh nhờ tăng trưởng nguồn thu dịch vụ, tiết kiệm
chi phí và hơn hết là giảm thiểu rủi ro nhờ đa dạng hóa hoạt động kinh doanh.
d. Hoạt động của Ngân hàng thương mại bị kiểm soát chặt chẽ
Như đã trình bày ở trên, mối liên hệ giữa các ngân hàng thương mại với
nhau, giữa ngân hàng thương mại với ngân hàng Trung ương và ngân hàng
thương mại với xã hội là quan hệ ràng buộc, ngân hàng thương mại có sự ảnh
hưởng lớn đến hệ thống tài chính - tiền tệ quốc gia, xã hội, doanh nghiệp và
ngân hàng Trung ương. Do đó, trong kinh doanh ngân hàng thương mại cần
phải thuân thủ các điều kiện mà ngân hàng Trung ương quy định như: tỷ lệ dự
trữ bắt buộc đảm bảo khả năng thanh khoản, hệ số an toàn vốn, tỷ lệ nợ xấu,
tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn để đầu tư dài hạn, điều kiện tín nhiệm,… Hàng
năm ngân hàng thương mại chịu sự kiểm tra, kiểm soát của các tổ chức và cơ
quan chức năng như: Ban kiểm soát của Hội đồng quản trị, cơ quan kiểm toán
độc lập, cơ quan thanh tra giám sát của Ngân hàng Trung ương…
Như vậy, hoạt động của ngân hàng thương mại chịu sự kiểm soát của

03 chủ thể: Ngân hàng tự kiểm soát; kiểm soát bởi các cơ quan quản lý nhà
nước; kiểm soát bởi hiệp hội Ngân hàng. Ngay từ khi thành lập bằng các điều


15

kiện hoạt động và trong quá trình hoạt động vẫn tiếp tục chịu sự kiểm soát
chặt chẽ của các cơ quan chức năng nhằm phòng tránh, ngăn ngừa rủi ro đổ
vỡ sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường tiền tệ, đến nền kinh tế và kiểm soát
để khuyến nghị các ngân hàng hoạt động theo đúng chuẩn mực quy định.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại

Hoạt động của các ngân hàng thương mại rất đa dạng như hoạt động huy
động vốn, hoạt động tín dụng, hoạt động đầu tư, góp vốn, hoạt động thanh toán
quốc tế, mua cổ phần, kinh doanh bất động sản, kinh doanh dịch vụ và bảo
hiểm… Trong đó các hoạt động cơ bản bao gồm:
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn
Trước hết các NHTM phải có một số vốn chủ sở hữu làm tiền đề cho
hoạt động kinh doanh của mình. Số vốn này do các chủ sở hữu ngân hàng
đóng góp, hay từ các quỹ tạo ra trong quá trình hoạt động của ngân hàng.Tuy
nhiên nguồn vốn chính của các NHTM là vốn huy động từ các tổ chức, cá
nhân trong nền kinh tế. Trước kia, các ngân hàng chủ yếu là nhận tiền gửi từ
những người gửi tiền, ngày nay do sự cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường, các
NHTM đã đưa ra rất nhiều hình thức khác để huy động vốn nhằm đảm bảo và
mở rộng hoạt động của mình.Ngân hàng tập trung được một số vốn lớn thông
qua việc cung cấp các dịch vụ như: tài khoản séc, tài khoản tiết kiệm, tài
khoản tiền gửi có kỳ hạn, chứng chỉ tiền gửi...Bên cạnh đó, khi cần vốn cho
nhu cầu thanh khoản hay đầu tư, cho vay, các NHTM có thể đi vay từ ngân
hàng trung ương, từ các NHTM khác, hay vay trên thị trường tài chính trong
nước và quốc tế. Ngoài vốn tự có, vốn huy động, vốn đi vay, nguồn vốn ngân

hàng còn bao gồm một số nguồn khác, nhưng chúng chiếm tỷ trọng nhỏ.
Huy động vốn là hoạt động mà ngân hàng phải bỏ ra chi phí như:chi phí
giao dịch, chi phí trả lãi tiền gửi và các chi phí có liên quan khác.Để bù đắp
những chi phí đó, các NHTM phải tiến hành hoạt động cho vay, đầu tư và các


16

hoạt động trung gian khác và đem lại thu nhập cho ngân hàng.
1.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn
* Hoạt động ngân quỹ: Là việc ngân hàng thương mại dự trữ tiền mặt
tại quỹ của ngân hàng để đảm bảo khả năng thanh toán. Các ngân hàng
thương mại phải dự trữ tiền mặt hàng ngày để đảm bảo thanh toán đột xuất,
thanh toán trong ngày và dự kiến thanh toán ngày hôm sau.
* Cho vay các loại: Là hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại,
cho vay là quá trình ngân hàng thương mại xem xét thẩm định phương án
kinh doanh, dự án đầu tư của khách hàng với các điều kiện cho vay cụ thể để
quyết định cho khách hàng vay một khoản tiền thực hiện phương án kinh
doanh theo nguyên tắc vay có thời hạn, có mục đích và hoàn trả cả gốc và lãi.
* Hoạt động góp vốn: Là hoạt động ngân hàng thương mại đem vốn
góp với chủ đầu tư để thực hiện một dự án hay một phương án kinh doanh
nhưng không tham gia quản lý, điều hành, kinh doanh cùng chủ đầu tư.
* Hoạt động đầu tư: Là hoạt động ngân hàng thương mại đem vốn đầu
tư vào một dự án hay một phương án kinh doanh và có tham gia quản lý, điều
hành và kinh doanh cùng chủ đầu tư.
1.1.2.3. Hoạt động cung cấp các dịch vụ tài chính khác
Mặc dù mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất của ngân hàng là lợi
nhuận nhưng ngân hàng thương mại vẫn cần có sự an toàn, tránh được các rủi
ro trong hoạt động kinh doanh của mình. Do vậy, ngoài các nghiệp vụ chính
là tín dụng, ngân quỹ, đầu tư tài chính, các ngân hàng thương mại hiện đại

ngày nay ngày càng quan tâm đến việc phát triển các dịch vụ mới, đáp ứng tối
đa nhu cầu của khách hàng, qua đó ngân hàng tìm kiếm lợi nhuận với mức rủi
ro thấp nhất. Các dịch vụ khác mà ngân hàng cung cấp vô cùng phong phú,
gồm có:
*Dịch vụ thanh toán: Đây là nghiệp vụ mang tính dịch vụ đơn thuần mà


17

không cần sử dụng đến nguồn vốn của ngân hàng, thêm vào đó nó còn tạo ra
một nguồn vốn tương đối lớn cho ngân hàng thông qua quá trình thanh toán.
Ngân hàng thương mại có thể thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước
thông qua các phương tiện thanh toán như: séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi,
thẻ…hoặc thanh toán quốc tế dưới các hình thức như: chuyển tiền, nhờ thu,
L/C…Thông qua các dịch vụ thanh toán, ngân hàng thương mại không những
thu được các khoản phí mà còn tăng sức cạnh tranh của mình đối với các đối thủ.
*Dịch vụ bảo hiểm: Bao gồm trong đây có các loại hình như:bảo hiểm
kinh doanh, bảo hiểm nhà ở và đồ dùng…Khi xác định cung cấp loại hình
dịch vụ này, ngân hàng thương mại cũng xác định sẽ phải cạnh tranh gay gắt
với các đối thủ chuyên doanh về bảo hiểm. Tuy nhiên, các ngân hàng thương
mại vẫn cung cấp dịch vụ này vì mục đích đa dạng hoá danh mục sản phẩm
cũng như tăng thêm thu nhập cho bản thân mình.
*Dịch vụ bảo lãnh: Cũng như bảo hiểm, bảo lãnh là một nghiệp vụ
ngoại bảng của ngân hàng thương mại. Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng
văn bản của ngân hàng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh)
về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh)
khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam
kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho ngân
hàng số tiền đã được trả nợ thay. Qua dịch vụ này, ngân hàng có thể khẳng
định uy tín của mình với các khách hàng và đồng thời ngân hàng cũng thu

được phí bảo lãnh, góp một phần vào thu nhập cho ngân hàng.
* Nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối và kinh doanh vàngtrên thị trường
trong nước và thị trường Quốc tế khi ngân hàng nhà nước cho phép: Ngân
hàng thương mại có thể kinh doanh giao ngay (spots), giao dịch ngoại hối kỳ
hạn (forwards), hoặc giao dịch hoán đổi (swaps), giao dịch quyền chọn
(options). Trong xu thế mở cửa giao lưu với quốc tế, để trở thành các ngân


18

hàng thương mại phát triển đa năng thì nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối ngày
càng trở nên quan trọng đối với các Ngân hàng thương mại. Bởi nó không chỉ
đem lại lợi nhuận trực tiếp do tỷ giá thay đổi theo chiều hướng có lợi cho
Ngân hàng thương mại mà còn hỗ trợ để mở rộng các nghiệp vụ khác.
*Dịch vụ uỷ thác: Nghiệp vụ này đã được các ngân hàng thương mại
trên thế giới quan tâm từ rất sớm, bao gồm: uỷ thác cho cá nhân và uỷ thác
cho doanh nghiệp. Uỷ thác cho cá nhân gồm: quản lý thanh lý tài sản theo di
chúc, giám hộ và bảo quản tài sản, quản lý điều hành tài sản theo hợp đồng
với nội dung là chuyển nhượng tài sản từ người uỷ thác sang cho người chịu
thác để người này nắm giữ và điều hành tài sản vì lợi ích của người uỷ thác.
Uỷ thác cho doanh nghiệp gồm: quản lý quỹ hưu trí, uỷ thác làm đại lý cho
các tổ chức…
Nhìn chung, nghiệp vụ uỷ thác mang lại cho ngân hàng những khoản
thu nhập đáng kể và quan hệ tốt đẹp với những khách hàng có doanh số hoạt
động lớn.
*Dịch vụ tư vấn: Là loại dịch vụ được thực hiện trên cơ sở hợp đồng ký
kết và cung cấp cho bên được tư vấn những trợ giúp của những nhân viên
được đào tạo về chuyên môn một cách khách quan độc lập.
Hơn bất cứ một doanh nghiệp nào, ngân hàng thương mại là một doanh
nghiệp mà hoạt động kinh doanh luôn chứa đựng rủi ro tiềm ẩn cao bởi đối

tượng kinh doanh của ngân hàng thương mại là tiền tệ và nguồn vốn chủ yếu
của ngân hàng là do đi vay dưới nhiều hình thức. Chính vì vậy trong hoạt
động của mình,ngân hàng là một doanh nghiệp có quan hệ với rất nhiều khách
hàng, lưu giữ nhiều thông tin của các tổ chức kinh tế, hơn nữa, ngân hàng còn
có các nhân viên đầy kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Điều này
giúp cho các chuyên gia của ngân hàng có thể đưa ra các lời khuyên tối ưu
cho các khách hàng, giúp cho họ giải quyết các vấn đề trong kinh doanh của


19

mình một cách có hiêu quả nhất.
Dịch vụ tư vấn không chỉ giúp cho ngân hàng thu được các khoản phí
mà còn nâng cao hình ảnh của ngân hàng trong mắt khách hàng. Ngoài các
dịch vụ trên, ngân hàng thương mại còn cung cấp các sản phẩm dịch vụ khác
như: quản lý ngân quỹ, cho thuê két…
Nói tóm lại, các ngân hàng thương mại hiện nay, ngoài việc thực hiện
các nghiệp vụ truyền thống còn thực hiện đa dạng hoá các nghiệp vụ khác
bằng cách đầu tư vào các thiết bị kỹ thuật, ứng dụng công nghệ thông tin vào
việc cung ứng các sản phẩm dịch vụ cho khách hàng sao cho có thể trở thành
ngân hàng đa năng hiện đại, đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng để từ đó
thu về các khoản lợi nhuận.
Ngày nay, với sự tiến bộ của công nghệ thông tin, danh mục các dịch
vụ của ngân hàng tăng lên nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách
hàng và phí thu được từ việc cung cấp dịch vụ ngày càng chiếm tỷ lệ cao
trong lợi nhuận của ngân hàng.
Như vậy, hoạt động ngân hàng thương mại có vai trò rất quan trọng
trong nền kinh tế, nó điều hòa linh hoạt dòng vốn trong nền kinh tế, thực hiện
trung gian tài chính, trung gian thanh toán và các hoạt động này là nhân tố
tích cực tạo động lực cho phát triển kinh tế.

1.2. HOẠT ĐỘNG CHO VAY KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Khái quát về hoạt động cho vay khách hàng cá nhân của ngân
hàng thương mại

1.2.1.1. Các khái niệm cho vay khách hàng cá nhân


Khách hàng cá nhân:Khách hàng cá nhân của ngân hàng thương mại là cá
nhân có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách
nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật; có mục đích sử dụng vốn vay hợp


20

pháp, có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết; có phương
án kinh doanh, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định
của pháp luật; thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của
Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.


Cho vay khách hàng cá nhân: Nếu phân loại hoạt động cho vay theo đối
tượng khách hàng thì hoạt động này bao gồm cho vay doanh nghiệp, cho vay
các tổ chức tài chính và cho vay khách hàng cá nhân như đã trình bày ở trên.
Do đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động cho vay KHCN của NHTM
nên ta sẽ xem xét về hoạt động này. Cho vay KHCN là một hình thức tài trợ
của ngân hàng cho các khách hàng là cá nhân: “Đó là quan hệ kinh tế mà
trong đó ngân hàng chuyển cho các cá nhân quyền sử dụng một khoản tiền
với những điều kiện nhất định được thoả thuận trong hợp đồng nhằm phục vụ
mục đích của khách hàng.”

1.2.1.2. Đặc điểm cho vay khách hàng cá nhân của ngân hàng thương mại
Cho vay KHCN của ngân hàng nhằm tài trợ cho các nhu cầu tiêu dùng
của cá nhân và hộ gia đình. Khác với cho vay kinh doanh, ở đây người vay sử
dụng tiền vay vào mục đích không sinh lời, nguồn trả nợ độc lập so với sử
dụng tiền vay, vì vậy cho vay KHCN có những đặc điểm như sau:



Các sản phẩm cho vay KHCN rất phong phú vì khách hàng vay vốn rất đa
dạng và mục đích sử dụng vốn linh hoạt
Như đã nói ở trên, do đối tượng của cho vay KHCN hướng đến là tất cả
người dân có thu nhập trong xã hội, mà tùy theo hoàn cảnh, thu nhập, và
mong muốn của mỗi người mà mục đích vay vốn của họ là hoàn toàn khác
nhau. Những khách hàng là cá nhân, có thu nhập cao trong xã hội thì nhu cầu
tiêu dùng của họ khác hoàn toàn với những cá nhân có thu nhập thấp, trung
bình. Hoặc tùy vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi người, có người có những nhu
cầu về nhà ở, về những vật dụng xa xỉ, về những phương tiện đi lại có giá trị


21

cao như ô tô, xe máy… nhưng cũng có những người vay với mục đích đi du
học hoặc để trang trải các nhu cầu chi tiêu cho y tế… Chính vì vậy sản phẩm
cho vay KHCN cũng phải đa dạng và phong phú, nhằm đáp ứng tối đa nhu
cầu tiêu dùng của mọi người dân, mọi tầng lớp trong xã hội.


Giá trị mỗi món vay nhỏ nhưng khối lượng các món vay lớn
Tùy thuộc vào mục đích sử dụng và thu nhập hàng tháng của khách
hàng mà giá trị các khoản vay thường khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm

chung là giá trị các khoản vay này thường rất nhỏ so với các khoản vay cho
hoạt động sản xuất kinh doanh do đây là khoản vay phục vụ cho mục đích
tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình, thêm vào đó, giá trị của hàng hóa tiêu
dùng thường không quá lớn hoặc khách hàng vay vốn đã có sự tích lũy từ
trước đối với những nhu cầu của mình…
Trong điều kiện hiện nay, khi xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu tiêu
dùng của người dân cũng theo đó đi lên, người tiêu dùng sẽ vay nhiều hơn để
đáp ứng nhu cầu của bản thân, gia đình do không phải ai cũng có khả năng chi
trả cho nhưng nhu cầu tiêu dùng của mình bằng nguồn thu nhập trong thời
điểm hiện tại. Điều này dẫn đến số lượng khách hàng có nhu cầu vay vốn là
rất đông khiến tổng quy mô cho vay KHCN trở nên rất lớn.



Cho vay KHCN thường có rủi ro cao hơn các khoản cho vay trong lĩnh vực
hoạt động sản xuất kinh doanh
Do nguồn trả nợ của cho vay KHCN độc lập với khoản vay, chủ yếu là
từ thu nhập của người đi vay, mà nguồn thu nhập này có thể thay đổi nhanh
chóng tùy theo tình trạng công việc, tình hình kinh tế chung hay tình hình sức
khỏe của họ... Thêm vào đó, việc thẩm định và quyết định cho vay đối với
một khoản cho vay KHCN cũng thường gặp khó khăn do vấn đề thông tin
không đầy đủ hoặc thiếu tính chính xác. Các thông tin cá nhân đưa ra thường
không rõ ràng và minh bạch như các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, việc


22

thẩm định xác minh cũng gặp nhiều khó khăn… Ngày nay, để hạn chế bớt rủi
ro, trong hầu hết các khoản cho vay KHCN ngân hàng đều đòi hỏi phải có
đảm bảo bằng tài sản.



Các khoản cho vay KHCN thường có lãi suất cao
Điều này xuất phát từ việc các khoản cho vay KHCN có chi phí và rủi
ro cao nhất trong các loại cho vay của ngân hàng. Cho vay KHCN thường
nhạy cảm theo chu kỳ, khi nền kinh tế phát triển, người dân có thu nhập cao,
nhu cầu về tiêu dùng của họ cũng tăng lên do họ thấy lạc quan về tương lai,
ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào suy thoái đại bộ phận dân cư đều có xu
hướng thắt chặt tiêu dùng, tiết kiệm nhiều hơn chi tiêu. Mặt khác, người tiêu
dùng thường ít nhạy cảm với lãi suất, họ quan tâm đến khoản tiền phải trả
hàng tháng hơn là mức lãi suất ghi trong hợp đồng.



Thời hạn cho vay KHCN khá đa dạng, cả ngắn, trung và dài hạn
Thời hạn cho vay KHCN còn tùy thuộc vào mục đích vay vốn, giá trị
mỗi khoản vay, thu nhập hàng tháng của khách hàng và thỏa thuận giữa khách
hàng và ngân hàng trong hợp đồng tín dụng. Nếu khách hàng vay vốn với
mục đích phục vụ nhu cầu mua bất động sản, ô tô… thì giá trị các khoản vay
thường lớn, thời hạn trả nợ thường dài, ngược lại nếu là các khoản vay nhỏ
hơn như mua xe máy, du học… thì thời hạn trả nợ thường ngắn hơn.
1.2.1.3. Các hình thức cho vay khách hàng cá nhân của ngân hàng
thương mại



Căn cứ vào phương thức hoàn trả: Căn cứ vào tiêu chí này, cho vay KHCN
được chia ra làm hai loại là cho vay KHCN trả góp và cho vay KHCN phi trả
góp.
- Cho vay KHCN trả góp

Là loại cho vay KHCN trong đó người đi vay phải trả cho ngân hàng
(bao gồm cả tiền gốc và lãi) làm nhiều lần, theo từng kỳ hạn nhất định trong


23

thời hạn cho vay. Hình thức này thường áp dụng đối với những khoản vay lớn
và thời hạn cho vay dài. Ví dụ: vay để mua nhà, bất động sản, mua ô tô… Với
loại cho vay này, thông thường có ba phương pháp trả góp phổ biến:


Phương pháp lãi gộp: gốc và lãi được tính gộp và chia đều cho các kỳ hạn trả
nợ.



Phương pháp lãi đơn: vốn gốc được thanh toán đều nhau giữa các kỳ hạn, còn
tiền lãi được tính theo số dư nợ còn lại.



Phương pháp hiện giá: số tiền thanh toán mỗi kỳ hạn (bao gồm cả gốc và lãi)
bằng nhau.
- Cho vay KHCN phi trả góp
Là loại cho vay KHCN mà trong đó khách hàng chỉ thanh toán cho
ngân hàng một lần khi đến hạn.



Căn cứ vào nguồn gốc của khoản vay

- Cho vay KHCN trực tiếp
Là hình thức khách hàng trực tiếp vay tiền từ ngân hàng để phục vụ cho
mục đích tiêu dùng của mình.



Cho vay trả theo định kỳ: Là phương thức trong đó khách hàng vay và trả trực tiếp
với ngân hàng với mức trả và thời hạn trả được quy định khi cho vay. Với hình
thức này, tiền vay có thể được cấp bằng tiền mặt hoặc chuyển thẳng vào tài khoản
cá nhân của khách hàng, đồng thời ghi Nợ tài khoản cho vay.



Thấu chi: Là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi
vượt trên số tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong
khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.



Thẻ tín dụng: Là nghiệp vụ tín dụng, trong đó ngân hàng phát hành thẻ cho
những khách hàng có tài khoản ở ngân hàng, có đủ điều kiện được cấp thẻ và ấn
định mức giới hạn tín dụng tối đa mà người đó có thể được phép sử dụng.
- Cho vay KHCN gián tiếp


24

Hiện nay, phần lớn các hoạt động cho vay của ngân hàng là cho vay
trực tiếp, nhưng bên cạnh đó, các ngân hàng cũng phát triển một số hình thức
cho vay gián tiếp như:



Hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian:
Ngân hàng
Trung gian: tổ, đội, hội, nhóm.
Khách hàng (thường là nông dân, người buôn bán nhỏ).

(4)
(3)
(2)
(1)

Sơ đồ 1.1. Hình thức cho vay KHCN gián tiếp
(1)

Phân tích tín dụng trước khi cho vay

(2)

Ngân hàng phát tiền vay trực tiếp cho khách hàng

(3)

Các tổ chức trung gian thu nợ hộ cho ngân hàng

(4)

Các tổ chức trung gian hoàn trả tiền cho ngân hàng

Ngân hàng cho vay qua các tổ chức trung gian như các Hội nông dân, Hội

phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Hội thanh niên, sinh viên… Các hội này thường có
mục đích hoạt động với các thành viên khác nhau nhưng chủ yếu đều tập trung
vào các mục đích xã hội như giúp người dân xóa đói giảm nghèo, các khoản vay
trợ cấp để phát triển kinh tế, giúp người nông dân làm giàu…


25

Ngân hàng
Người vay
Người bán lẻ
(3)
(1)
(2)


Hình thức cho vay thông qua người bán lẻ:

Sơ đồ 1.2. Hình thức cho vay KHCN qua người bán lẻ
(1)
(2)
(3)

Ngân hàng ký hợp đồng tín dụng với người vay (khách hàng)
Người vay mua hàng (nguyên liệu cho sản xuất, nuôi trồng, thiết bị….)
Người bán tập trung các hoá đơn bán hàng gửi lên ngân hàng đề nghị thanh
toán. Sau đó ngân hàng thu nợ của khách hàng.
Cho vay bằng hình thức này sẽ hạn chế việc người vay sử dụng tiền vay
sai mục đích.Tuy nhiên nên thường xuyên kiểm tra, giám sát, tránh trường
hợp các nhà bán lẻ có thể lợi dụng để bán hàng kém chất lượng với giá đắt

cho người vay vốn.



Căn cứ vào mục đích vay
- Cho vay KHCN cư trú:Cho vay tiêu dùng cư trú là các khoản vay nhằm
mục đích phục vụ nhu cầu xây dựng, mua sắm hoặc cải tạo nhà ở của cá nhân, hộ
gia đình. Đặc điểm của khoản vay này là thời gian dài và quy mô tương đối lớn.
- Cho vay KHCN không cư trú: Đây là khoản cho vay tiêu dùng phục


×