Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Xác Định Tỷ Lệ Protein Có Bổ Sung Một Số Axit Amin Thiết Yếu Và Tỷ Lệ Axit Amin Thiết Yếu So Với Lysine Trong Thức Ăn Hỗn Hợp Cho Lợn Con Giai Đoạn Sau Cai Sữa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 92 trang )

ĐẠI HỌC TH ÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
--------------

TẠ VĂN DŨNG

NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH TỶ LỆ PROTEIN TRÊN NĂNG
LƯỢNG TRAO ĐỔI CÓ BỔ SUNG MỘT SỐ AXIT AMIN
THIẾT YẾU VÀ TỶ LỆ MỘT SỐ AXIT AMIN THIẾT YẾU
SO VỚI LYSINE TRONG THỨC ĂN HỖN HỢ P CHO
LỢN CON GIAI ĐOẠN SAU CAI SỮA

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Thái Nguyên, năm 2008


Đ ẠI H ỌC TH ÁI NGUY ÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
--------------

TẠ VĂN DŨNG

NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH TỶ LỆ PROTEIN TRÊN NĂNG
LƯỢNG TRAO ĐỔI CÓ BỔ SUNG MỘT SỐ AXIT AMIN
THIẾT YẾU VÀ TỶ LỆ MỘT SỐ AXIT AMIN THIẾT YẾU
SO VỚI LYSINE TRONG THỨC ĂN HỖN HỢ P CHO
LỢN CON GIAI ĐOẠN SAU CAI SỮA
Chuyên ngành : Chăn nuôi
Mã số : 60-62-40


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Liên
PGS.TS Trần Văn Phùng

Thái Nguyên, năm 2008


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là
trung thực và chưa từng được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này
đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn này đã được chỉ rõ
nguồn gốc.

Tác giả

Tạ Văn Dũng


3

LỜI CÁM ƠN
Tác giả luận văn xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
- TS. Nguyễn Thị Liên, PGS.TS. Trần Văn Phùng, những người hướng
dẫn khoa học trực tiếp đã đóng góp nhiều ý kiến quan trọng từ những bước
nghiên cứu ban đầu và cả trong quá trình thực hiện viết luận văn.
- Ban lãnh đạo Phòng thí nghiệm trung tâm- Trường Đại học Nông Lâm,
Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình nghiên cứu khoa
học được thuận lợi.

- Tập thể các thầy cô giáo và sinh viên Khoa Chăn nuôi Thú y, Khoa sau
đại học, Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Thái Nguyên, sinh viên thực tập
của Trường trung học Kinh tế kỹ thuật tỉnh Tuyên Quang đã trực tiếp giúp đỡ
tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu, thực hiện đề tài và đóng góp nhiều ý
kiến quý báu cho tác giả hoàn thành luận văn này.
- Cảm ơn các nhà Khoa học trong ngành, các đồng nghiệp, lãnh đạo và
cán bộ của Công ty giống vật tư nông nghiệp, Dự án RIDP, Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn tỉnh Tuyên Quang, bạn bè và người thân đã động viên giúp
đỡ tôi trong quá trình công tác và học tập.

Tác giả

Tạ Văn Dũng


4

NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Cs :

Cộng sự

ĐVT:

Đơn vị tính

ĐC:

Đối chứng


IFAD:

Quỹ phát triển Nông nghiệp Quốc tế

KL:

Khối lượng

ME:

Năng lượng trao đổi

NL:

Năng lượng

TĂ:

Thức ăn

TN:

Thí nghiệm

TTTA:

Tiêu tốn thức ăn

FAO :


Tổ chức Lương nông Thế giới


5

MỞ ĐẦU
Trong thời gian qua, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước,
ngành chăn nuôi gia súc đã có nhiều tiến bộ vượt bậc cả về số lượng lẫn chất
lượng. Giá trị sản lượng của ngành chăn nuôi tăng (giá cố định năm 1994) từ
11.651 tỷ đồng năm 1992 lên đến 21.199,7 tỷ đồng năm 2002 và đến cuối năm
2007 đạt 29.200 tỷ đồng. Cùng với sự phát triển của ngành chăn nuôi, ngành
công nghiệp sản xuất thức ăn gia súc đã có những tiến bộ đáng kể. Sản xuất thức
ăn công nghiệp tăng cả về số lượng tuyệt đối cũng như tương đối so với tổng số
thức ăn gia súc tiêu thụ. Chỉ tính riêng trong khoảng từ năm 1990 đến nay, sản
lượng thức ăn công nghiệp tăng từ 0,04 triệu tấn vào năm 1990 tăng lên 1,05
triệu tấn vào năm 1996, năm 2000 tăng lên đến 2,7 triệu tấn; đạt 3,5 triệu tấn
trong năm 2003 và đến cuối năm 2007 đạt sản lượng là 4,4 triệu tấn và có xu
hướng càng ngày càng tăng.
Có được những thành tựu đó là nhờ chính sách mở cửa của Đảng và Nhà
nước ta cùng sự cố gắng nỗ lực của các doanh nghiệp, trong đó có đóng góp
không nhỏ của các nhà khoa học về dinh dưỡng thức ăn gia súc. Trong những
năm gần đây, tình hình nghiên cứu và phát triển chăn nuôi và đặc biệt là trong
lĩnh vực thức ăn gia súc đã có nhiều tiến bộ rõ rệt. Những tiến bộ trong lĩnh vực
nghiên cứu về dinh dưỡng thức ăn gia súc đã góp phần cải thiện năng suất và
chất lượng sản phẩm chăn nuôi đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội và
hướng tới xuất khẩu. Các nghiên cứu trong lĩnh vực dinh dưỡng và thức ăn gia
súc trong những năm qua tập trung vào:
- Xác định thành phần hoá học gần đúng của các loại nguyên liệu làm
thức ăn cho gia súc, gia cầm. Xác định thành phần các axit amin cũng như các
phương pháp ước tính giá trị năng lượng tiêu hoá, trao đổi cho lợn, gà.

- Nghiên cứu xác định tỷ lệ tiêu hoá và khả năng tiêu hoá các chất dinh dưỡng.
- Nghiên cứu xác định nhu cầu các chất dinh dưỡng: năng lượng, protein,
axít amin cho các loại gia súc, gia cầm khác nhau; xác định nhu cầu các axít
amin và xem xét mối quan hệ với nhu cầu năng lượng.


6

- Nghiên cứu về chế biến nguyên liệu để tăng khả năng tiêu hoá của thức
ăn, tận dụng các phụ phế phẩm để hạ giá thành thức ăn chăn nuôi cũng như loại
trừ các độc tố, kháng dinh dưỡng trong các loại thức ăn gia súc, gia cầm.
Trong chăn nuôi lợn nái sinh sản, việc nghiên cứu về dinh dưỡng và thức
ăn cho lợn con có một vai trò hết sức quan trọng, đây là một trong nhiều yếu tố
quyết định năng suất chăn nuôi lợn nái sinh sản. Chúng ta biết rằng, quá trình
sinh trưởng và phát triển của của lợn con giai đoạn sau cai sữa từ 5 - 15 kg đòi
hỏi đầy đủ về nhu cầu dinh dưỡng đặc biệt là protein. Về thực chất, nhu cầu
protein của lợn con chính là nhu cầu về các axit amin. Nếu bổ sung không đầy
đủ các axit amin thiết yếu cho lợn con về số lượng và tỷ lệ sẽ ảnh hưởng xấu đến
sinh trưởng của lợn con, lợn chậm lớn, còi cọc, ảnh hưởng đến khả năng sản
xuất của các giai đoạn tiếp theo. Mặt khác nếu trong khẩu phần ăn cho lợn con
trong giai đoạn này có đủ hoặc dư thừa lượng protein mà không đủ về số lượng
và tỷ lệ các axit amin thiết yếu sẽ dẫn đến việc đào thải protein ra môi trường,
gây lãng phí thức ăn và ảnh hưởng đến môi trường sinh sống của cả gia súc lẫn
con người.
Việc nghiên cứu xác định tỷ lệ protein trên năng lượng trao đổi có ý nghĩa
rất quan trọng, đặc biệt khi ta có bổ sung các loại axit amin tổng hợp vào khẩu
phần thức ăn cho lợn.
Ta biết rằng nhu cầu năng lượng của lợn thịt gồm hai phần là năng lượng
cho nhu cầu duy trì và năng lượng cho nhu cầu tăng trọng.
Việc tăng năng lượng trong thức ăn không có ý nghĩa nếu tỷ lệ protein

(g)/ năng lượng (Kcal) vượt quá 1/20 ( Từ Quang Hiển, 2002) [2].
Tỷ lệ protein trên năng lượng trao đổi không hợp lý dẫn đến lãng phí
protein, lợn không tiêu thụ hết, giảm hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi.
Thông thường khi tính toán nhu cầu về protein trong thức ăn cho lợn con
giai đoạn sau cai sữa có khối lượng cơ thể từ 5 - 15 kg, các cơ sở chăn nuôi trên
địa bàn tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên nói riêng và các tỉnh miền núi nói
chung thường chỉ tính đến lượng protein mà ít khi đề cập đến lượng axit amin.


7

Do đó, chưa phát huy hết khả năng sinh trưởng của lợn con và hiệu quả kinh tế
của chăn nuôi lợn nái sinh sản. Mặt khác các số liệu để áp dụng cân đối khẩu
phần dinh dưỡng cho lợn con thường là kế thừa từ việc phân tích các nguyên
liệu ở nơi khác, cho nên còn nhiều điểm chưa phù hợp.
Vì những lý do trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: " Nghiên cứu
xác định tỷ lệ protein trên năng lượng trao đổi có bổ sung một số axit amin thiết
yếu và tỷ lệ một số axit amin thiết yếu so với lysine trong thức ăn hỗn hợp cho
lợn con giai đoạn sau cai sữa”.
Với mục tiêu là:
- Xác định tỷ lệ protein trên năng lượng trao đổi có bổ sung một số axit
amin thiết yếu và tỷ lệ một số axit amin thiết yếu so với lysine trong thức ăn hỗn
hợp cho lợn con giai đoạn sau cai sữa từ 5 - 15 kg.
- Xây dựng một số công thức thức ăn cho lợn con giai đoạn sau cai sữa (5
- 15 kg) để áp dụng trong chăn nuôi lợn nái sinh sản tại tỉnh Tuyên Quang.


8

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình chăn nuôi lợn trên thế giới và ở Việt Nam :
1.1.1. Tình hình chăn nuôi lợn trên thế giới
Do nhu cầu tiêu thụ các loại thực phẩm từ lợn tăng, nên chăn nuôi lợn trên
thế giới phát triển nhanh chóng. Nhóm các nước xuất khẩu nhiều thịt lợn nhất
thế giới bao gồm các nước Đan Mạch, Canada, Ba Lan, Trung Quốc, các nước
như Nhật Bản, Nga, Hồng Kông, Hàn Quốc là những nước nhập khẩu nhiều thịt
lợn, Mỹ thuộc cả hai nhóm này.
Theo thống kê năm 1999 của Tổ chức Lương Nông thế giới (FAO), tổng
đàn lợn trên thế giới năm 1991 là 857,891 triệu con, đến năm 1998 số lượng lợn
là 957,469 triệu con, năm 2002 là 943,471 triệu con và năm 2003 là 956,016
triệu con. Trong đó đàn lợn phân bố không đồng đều giữa các châu lục: Châu á
có số lượng đầu lợn cao nhất : 577,025 triệu con, kế đến là châu Âu: 199,254
triệu con, Bắc và Trung Mỹ là 94,074 triệu con, Nam Mỹ là 59,075 triệu con,
châu Phi: 22,398 triệu con, ít nhất là châu Đại dương: 5,016 triệu con. Nước có
đàn lợn cao nhất là Trung Quốc: 485,698 triệu con.
Trong vòng 10 năm (1985-1995), tốc độ tăng đàn lợn hàng năm trên toàn
thế giới là 1,1%. Trong đó tăng nhanh chủ yếu ở các nước đang phát triển, châu
Á tăng 2,7%, Việt Nam tăng 3,5%, Trung Quốc tăng 2,7%, tuy nhiên đối với
Nhật Bản thì trong vòng 10 năm đầu lợn giảm đi mỗi năm là 0,7% (Trần Văn
Phùng và cs, 2004) [5].
Theo thống kê năm 2005 của FAO các nước phát triển chăn nuôi lợn đứng
đầu thế giới (tính theo số lượng) bao gồm Trung Quốc, Mỹ, Brazil, Ba Lan, Đan
Mạch, Việt Nam, Đức, Nga, Canada, Bỉ,...Theo số liệu năm 1997 từ Cục nghiên
cứu Nông nghiệp nước ngoài của Mỹ, các nước tiêu thụ nhiều thịt lợn
(kg/người/năm) gồm Đan Mạch, Tây Ban Nha, Hồng Kông, Đức, Hungary, Đài
Loan, Ba Lan, Thụy Điển, Pháp, Trung Quốc...(www.thuvienkhoahoc.com) [29].


9


Theo thông tin của Viện chăn nuôi tháng 12 năm 2007 (www.vcn.vnn.vn)
[30]: “Đàn lợn nuôi tại Trung Quốc đã tăng 3,4% so với tháng trước và số đàn
lợn sẵn sàng xuất chuồng tăng 9,9%. Năm 2007, Trung Quốc có thể nhập khẩu
100.000 tấn thịt lợn, cao gấp 4 lần so với 2006 nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước”.
Trong những năm qua ngành chăn nuôi lợn trên thế giới đã đạt được
những thành tựu trong việc tăng số lượng và nâng cao chất lượng đàn lợn.
Ngành công nghiệp chăn nuôi lợn trên thế giới là một minh chứng thành công
cho sự áp dụng khoa học kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất, mà mục đích cao cả là
nâng cao hiệu quả sản xuất và chất lượng của sản phẩm cuối cùng.
1.1.2 .Tình hình chăn nuôi lợn ở Việt Nam
Trước đây, nông dân chủ yếu nuôi lợn để tận dụng các phế phụ phẩm
nông nghiệp (cám gạo, cám ngô, khoai, sắn, rau, bèo...). Ngoài mục đích chăn
nuôi để tăng thu nhập (từ bán lợn thịt, lợn giống), nông dân còn tận dụng các
chất thải từ chăn nuôi lợn (phân, chất độn chuồng) làm nguồn phân hữu cơ chính
cho nhiều loại cây trồng. Lợi nhuận từ chăn nuôi lợn không đáng là bao chủ yếu
là lấy công làm lãi, tránh bỏ phí phụ phẩm nông nghiệp và nhiều người coi nuôi
lợn như cách "bỏ tiền tiết kiệm vào ống". Ở trung du và miền núi còn có hình
thức nuôi lợn thả rông.
Tuy vậy, trước đây ở nước ta cũng đã phát triển mô hình trại chăn nuôi
hợp tác xã, thành lập các nông trường, trong đó có các trại chăn nuôi cùng với
một số trung tâm giống ở các địa phương, cung cấp giống cho bà con nông dân.
Một số trung tâm mổ và chế biến thịt lợn đã hoạt động và nước ta đã xuất khẩu
thịt lợn sang các nước thuộc Liên Xô cũ và một số nước Đông Âu.
Từ khi có những chính sách kinh tế mới nói chung và những chính sách
trong nông nghiệp nói riêng của thời kỳ đổi mới, nền nông nghiệp của ta, trong
đó có ngành chăn nuôi đã có những thay đổi rất lớn trong tất cả các khâu từ
nghiên cứu lai tạo giống, quy trình chăn nuôi, đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
Hình thức chăn nuôi truyền thống của bà con ta vẫn còn, nhưng cũng xuất hiện
không ít các mô hình chăn nuôi hiện đại từ quy mô hộ gia đình đến các trung



10

tâm, công ty v.v. Trước sự cạnh tranh về chất lượng và giá sản phẩm ở cả thị
trường trong và ngoài nước, chăn nuôi lợn của ta đang tiếp tục đứng trước các
vấn đề cần giải quyết, như nâng cao chất lượng giống, nhập và lai tạo giống bên
cạnh bảo tồn và phát huy ưu điểm của các giống bản địa, hiện đại hóa quy trình
chăn nuôi, quy trình chế biến, đảm bảo tiêu chuẩn trong nước và quốc tế về vệ
sinh thực phẩm...(www.thuvienkhoahoc.com) [29].
Việt Nam là một trong những nước nuôi nhiều lợn. Theo số liệu thống kê
của FAO năm 1998 Việt Nam có 18,06 triệu con, đứng hàng thứ 7 trên thế giới,
sau các nước: Trung Quốc, Mỹ, Brazil, Đức, Ba Lan, Tây Ban Nha, đứng hàng
đầu các nước Đông Nam Á và đứng hàng thứ 2 ở Châu Á.
Theo niên giám thống kê của Tổng cục thống kê năm 2002 đàn lợn cả
nước có 23,169 triệu con. Trong giai đoạn từ năm 1990-2002, đàn lợn tăng bình
quân 6,84 %/năm, đàn nái tăng 2,6%, tổng sản lượng thịt hơi tăng 16,75%. Bình
quân khối lượng xuất chuồng tăng 2,75% và bình quân thịt hơi trên đầu người
tăng 8,43%.
Trong những năm gần đây, nhờ áp dụng những thành tựu khoa học kỹ
thuật vào sản xuất ngành chăn nuôi lợn đã có những bước phát triển đáng phấn
khởi. Tổng đàn lợn năm 1969 là 9,023 triệu con, trong giai đoạn 1974-1976 có
xu hướng giảm xuống, chỉ có 8,867 triệu con vào năm 1976. Trong giai đoạn từ
1979-1981 đàn lợn bắt đầu tăng lên, đạt 9,396 triệu con vào năm 1981 và tiếp
tục tăng một cách vững chắc trong các năm tiếp theo. Năm 1990 đạt 12,9 triệu
con, năm 1995 đạt 16,307 triệu con, năm 2003 đạt 24,884 triệu con và đến cuối
năm 2007 đàn lợn cả nước đạt 26,561 triệu con.
Về sản lượng thịt lợn, trong các năm qua sản lượng thịt lợn đã tăng rất
nhanh, từ 0,292 triệu tấn năm 1980 đã tăng lên 1,653 triệu tấn vào năm 2002,
1,800 tấn vào năm 2003. Khối lượng xuất chuồng từ 48 kg năm 1980 tăng lên 69

kg năm 1996. Hiện nay chăn nuôi lợn cung cấp khoảng 70% nhu cầu về thịt cho
nhu cầu trong nước (Trần Văn Phùng và cs, 2004) [5].


11

Tình hình phát triển chăn nuôi lợn ở nước ta không đồng đều giữa các địa
phương, kể cả việc phát triển số đàn lợn cũng như năng suất chăn nuôi lợn.
Vùng Đồng bằng sông Hồng có số lượng đàn lợn cao nhất, chiếm 27,34% tổng
đàn lợn trong cả nước, vùng Tây Nguyên và Đông nam bộ có số lượng đàn thấp
nhất chỉ chiếm từ 5,58-6,66%.
Về năng suất chăn nuôi cũng không đồng đều giữa các vùng sinh thái. Về
chỉ tiêu sản lượng thịt lợn hơi sản xuất ra của 1 lợn nái trong 1 năm như sau:
bình quân cả nước, 1 lợn nái 1 năm sản xuất được 478,5 kg, trong khi ở Miền
Bắc thành tích ấy là 419,7 kg, Miền đông Nam Bộ là 662,0 kg, ở Đồng bằng
sông Cửu Long là 761,7 kg; còn ở Trung du Miền núi 1 lợn nái 1 năm chỉ sản
xuất được 322,5 kg (Trần Văn Phùng và cs, 2004) [5].
Về công tác giống lợn đã tiến hành điều tra cơ bản ở từng khu vực và toàn
quốc; kết quả điều tra đã góp phần vẽ nên bức tranh hiện trạng chăn nuôi trong
toàn quốc và khu vực.
Để cải tiến giống lợn, đã tiến hành nhập các giống lợn ngoại như: lợn
Landrace từ Liên Xô (cũ) năm 1968, lợn Yorkshire từ Cu Ba năm 1981, lợn
Edel (Đông Đức) năm 1974, năm 1970 nhập lợn Landrace từ Trung Quốc, lợn
Duroc từ năm 1978…Trong các năm về sau đã tiến hành nhập các giống lợn như
Duroc, Pietrain, Landrace, Yorkshire.. từ nhiều nước khác nhau như Nhật, Bỉ,
Anh, Pháp, Canada, Mỹ… nhằm làm tươi máu các giống lợn ngoại đã có ở trong
nước và cải tạo đàn lợn nội trong nước.
Việc cải tạo đàn giống địa phương bằng việc tăng cường công tác chọn
lọc và lai tạo với các giống lợn nhập nội cao sản như: Pietrain, Landrace,
Yorkshire… đã góp phần nâng cao đáng kể năng suất chăn nuôi lợn. Các công

thức lai kinh tế giữa đực ngoại với cái nội rất có hiệu quả trong các năm qua là:
Lợn đực đại Bạch x nái Móng Cái (hoặc nái Ỉ, Thuộc Nhiêu, Ba Xuyên…),
Landrace x Móng cái, Landrace x Lang Hồng…
Ở các tỉnh phía Bắc công thức lai (Đại Bạch x Móng cái) được áp dụng
rộng rãi nhất nhờ chủ trương “Móng Cái hoá” đàn lợn nái, hiện nay đàn lợn nái


12

Móng Cái chiếm 40-45% và nái lai (Đại Bạch x Móng cái) chiếm 35-40% trong
tổng đàn lợn nái của các tỉnh phía Bắc.
Ở các tỉnh phía Nam, đàn lợn nái lai 50%, máu ngoại chiếm 60-65%, nái
nội chiếm 30% tổng đàn nái.
Hiện nay, do nhu cầu của nhân dân về thịt lợn nạc ngày càng cao, việc
nghiên cứu đưa vào chăn nuôi đại trà lợn lai có tỷ lệ máu ngoại cao hoặc giữa
các giống lợn ngoại với nhau là một việc làm cần thiết và đã đạt được những
tiến bộ đáng kể.
Trong thời gian qua, chăn nuôi lợn đã tăng tỷ lệ thịt nạc từ 33,6% ở lợn
nội lên 40,6% ở lợn lai (Miền bắc) và từ 34,5 % ở lợn nội lên 42,6% ở lợn lai
(Miền nam). Hiện nay, cả nước sản xuất khoảng 3,5 triệu lợn ngoại có tỷ lệ nạc
trung bình trên 51% chất lượng tốt, khối lượng thịt trung bình 80-95 kg, sản xuất
12 triệu lợn lai nội với lợn ngoại, khối lượng trung bình 65-85 kg, tỷ lệ nạc trung
bình 38-51% tuỳ từng công thức lai. Khoảng 6 triệu lợn nội thuần, chủ yếu nuôi
ở vùng sâu, vùng xa, khối lượng trung bình 35-55 kg/con.
Thức ăn chăn nuôi chiếm 70% chi phí giá thành sản phẩm chăn nuôi. Do
đó nghiên cứu và đầu tư công nghệ cho chế biến thức ăn chăn nuôi trong những
năm gần đây được quan tâm nhiều hơn. Tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng từ 3,8-4,0
kg giảm xuống còn 2,9-3,1 kg đối với lợn trong nghiên cứu.
Công nghiệp sản xuất và chế biến thức ăn cho lợn đã và đang phát triển
rất nhanh, là một trong những yếu tố cơ bản góp phần nâng cao năng suất chăn

nuôi lợn ở nước ta.
Tuy nhiên, trong những năm tới, ngành chăn nuôi còn rất nhiều thách
thức, đó là giá thức ăn gia súc cao, chất lượng thức ăn chưa được kiểm soát,
năng suất ngành chăn nuôi thấp, hệ thống giống vật nuôi chưa hình thành, nước
ta vẫn cơ bản không tránh khỏi tình trạng thiếu nghiêm trọng nguyên liệu làm
thức ăn dùng cho chăn nuôi, thị trường tiêu thụ vẫn còn gặp nhiều khó khăn, tình
hình dịch bệnh vẫn là mối đe doạ đối với vật nuôi, hội nhập kinh tế khu vực


13

(AFTA) và kinh tế thế giới (WTO) vừa là thuận lợi, vừa là thách thức đối với
ngành chăn nuôi.
Trong những giải pháp góp phần đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển chăn
nuôi đó là hệ thống chính sách, trong đó quan trọng nhất là chính sách liên quan
đến giống vật nuôi, chính sách đối với sản xuất, chế biến thức ăn chăn nuôi.
Trong sản xuất, chế biến thức ăn chăn nuôi, phải tạo được nguyên liệu
thức ăn với giá thành hạ. Tạo điều kiện để người sản xuất ngô lai trong nước,
nâng sản lượng từ 2,13 triệu tấn (trong đó dành cho chăn nuôi khoảng 1,2 triệu
tấn) tăng lên 5 triệu tấn cho chăn nuôi vào năm 2010. Hỗ trợ nghiên cứu dinh
dưỡng vật nuôi và khuyến nông trong áp dụng sản xuất, chế biến và sử dụng
thức ăn chăn nuôi khoa học và hợp lý (Nguyễn Đăng Vang, 2002) [13].
Trong những năm gần đây, chăn nuôi lợn ở nước ta đã tăng trưởng khá về
tổng đàn, chất lượng đàn cũng như quy mô sản xuất, kim ngạch xuất khẩu. Tuy
nhiên, so với yêu cầu và khả năng thì kết quả này còn quá khiêm tốn. Tình hình
chăn nuôi lợn ở các tỉnh cũng có sự khác biệt. Hầu hết những tỉnh có số lượng
đầu lợn cao tập trung ở phía Bắc, bởi vì các tỉnh này vừa qua đã phát triển mạnh
loại lợn sữa và lợn choai xuất khẩu.
Các tỉnh có đàn lợn lớn nhất là: Hải Dương: 0, 6 triệu con, Bắc Giang: 0,7
triệu con, Hà Tây: 0,9 triệu con, Thái Bình 0,7 triệu con, Thanh Hóa: 1,1 triệu

con, Nghệ An: 0,8 triệu con, Đồng Nai: 0,6 triệu con. Các tỉnh còn lại đều có số
lượng lợn nuôi dưới 400.000 con (www.vcn.vnn.vn) [30].
1.1.3. Tình hình chăn nuôi lợn ở Tuyên Quang
Tuyên Quang là tỉnh miền núi nằm ở phía Bắc, có diện tích: 5.868 km2,
dân số: 727.751 người. Tỉnh Tuyên Quang có quy mô diện tích ở mức trung
bình so với cả nước, bình quân diện tích tự nhiên theo đầu người là 0,87
ha/người (năm 2004). Đất đai Tuyên Quang tương đối tốt, có thể tạo ra vùng
chuyên canh chè, mía, lạc cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Diện
tích đất nông nghiệp: 70.195 ha, chiếm 11,96%, đất lâm nghiệp có rừng 445.848


14

ha, chiếm 76,16%, đất ở 5.156 ha và đất chưa sử dụng 26.765 ha
(www.tuyenquang.gov.vn) [31].
Định hướng phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2010 của tỉnh đã xác định
là: Đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, phấn đấu tốc độ tăng trưởng kinh tế
(GDP) bình quân hàng năm trên 14%. Chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo
hướng giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng ngành công
nghiệp và dịch vụ. Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế (đến năm 2010) : Công
nghiệp, xây dựng 40%; Các ngành dịch vụ 35%; Nông lâm nghiệp 25%. Đẩy
mạnh phát triển một số ngành công nghiệp có lợi thế của tỉnh, phát triển nhanh
các ngành dịch vụ, nhất là du lịch, đồng thời tiếp tục coi trọng phát triển kinh tế
nông lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, gắn với thị trường.
Khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng, lợi thế của tỉnh, mở rộng hợp tác, liên
doanh, liên kết, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển, chủ
động hội nhập kinh tế; đột phá mạnh trên các lĩnh vực quy hoạch phát triển kinh
tế-xã hội, phát triển công nghiệp, giao thông, thông tin, các chính sách khuyến
khích ưu đãi và kêu gọi đầu tư, cải cách hành chính. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn. Phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm gắn với chuyển dịch cơ cấu cây

trồng để có giá trị kinh tế cao; đổi mới công nghệ chế biến nâng cao chất lượng
sản phẩm trong nông nghiệp, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Sửa đổi,
bổ sung và hoàn thiện các cơ chế chính sách ưu đãi đầu tư, tạo môi trường thông
thoáng và thuận lợi thu hút các nguồn lực để đầu tư, phát triển kinh tế.
Phát huy hiệu quả nội lực, khuyến khích các thành phần kinh tế phát
triển. Triển khai thực hiện các dự án phát triển công nghiệp, các sản phẩm có lợi
thế cạnh tranh. Đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội. Phấn đấu đưa
Tuyên Quang trở thành một tỉnh có nền kinh tế phất triển cân đối, vững chắc theo cơ
cấu Công nghiệp-dịch vụ-nông lâm nghiệp (1www.tuyenquang.gov.vn) [32].
Đối với tỉnh Tuyên Quang có tiềm năng về phát triển chăn nuôi, với
nguồn nguyên liệu chế biến thức ăn tương đối dồi dào; trong đó chủ yếu là lúa,


15

ngô, đậu đỗ, khoai lang, sắn; hiện nay đang áp dụng các loại giống mới để nâng cao
năng suất và chất lượng sản phẩm (IFAD, 2001) [26].
Tổng đàn lợn của Tuyên Quang tăng dần qua các năm, năm 2005 tổng đàn lợn
của tỉnh là 343.011 con, năm 2006 là 390.445 con và năm 2007 là 418.106 con.
Tốc độ tăng đàn lợn của tỉnh bình quân từ năm 2005 đến năm 2007 là 10,41%.
Mô hình chăn nuôi lợn của tỉnh đang phát triển theo hướng chăn nuôi tập
trung với quy mô lớn tạo sản phẩm hàng hoá. Đã xuất hiện nhiều hộ gia đình
nuôi lợn hướng nạc.
Chăn nuôi lợn nái sinh sản tại tỉnh đã bắt đầu được quan tâm và từng bước
phát triển. Tuy nhiên, quy mô chăn nuôi còn nhỏ, qua điều tra 1.347 hộ chăn
nuôi tại 5 huyện trong tỉnh, chỉ có 477 hộ nuôi lợn nái chiếm 35,41%, trong đó
đa phần chỉ nuôi 1 con chiếm 87,21%, số hộ nuôi 2 con chiếm 12,79%.
Các chỉ tiêu về khối lượng lợn con ở các độ tuổi khác nhau còn thấp, điều
này cho thấy mức độ đầu tư về kỹ thuật và thức ăn của các hộ chăn nuôi còn hạn
chế (Trần Văn Phùng, 2005) [6].

Mô hình chăn nuôi theo kiểu tận dụng của hộ gia đình vẫn còn là chủ yếu
tại các địa phương trong tỉnh, hình thức chăn nuôi này chưa thực sự phát huy
được hiệu quả (Vũ Quốc Huy và cs, 2006 ) [3].
1.2. Cơ sở khoa học của đề tài
1.2.1. Một số vấn đề liên quan đến công tác giống lợn:
Lai tạo là một biện pháp nhân giống nhằm nâng cao năng suất chăn nuôi
và chất lượng sản phẩm thông qua tận dụng ưu thế lai.
Hiện nay, rất nhiều chương trình lai tạo, nhân giống lợn nuôi thịt. Thuật
ngữ ưu thế lai lần đầu tiên được nhà khoa học người Mỹ tên là Shull đề xuất vào
năm 1914. Theo ông, ưu thế lai là tập hợp của những hiện tượng liên quan đến
sức phát triển nhanh hơn, khả năng chống chịu bệnh tốt hơn và năng suất cao
hơn ở thế hệ đời con so với bố mẹ. Hiện nay ở nhiều nước có chăn nuôi lợn phát
triển, 70 - 90% lợn nuôi thịt là lợn lai hybrid. Tại đó, ưu thế lai được coi như là
một nguồn lực sinh học để tăng năng suất và hạ giá thành sản phẩm chăn nuôi.


16

Định hướng nghiên cứu và phát triển đàn lợn lai đến năm 2010 là phải
“chọn lọc và nhân thuần các giống lợn ngoại có năng suất và chất lượng cao
theo dòng, có đặc điểm năng suất khác nhau: Dòng có khả năng tăng trọng cao
và tỷ lệ nạc nhiều. Dòng có khả năng sinh sản tốt và chuyển hoá thức ăn hiệu
quả cao” (Nguyễn Thiện, 1998) [9].
Tại Việt Nam hiện nay, rất nhiều chương trình lai tạo ra lợn nuôi thịt có 4
- 5 máu trong đó có hệ thống nhân giống hình tháp của công ty PIC (Công ty
giống lợn Anh Quốc, hiện đã được chuyển giao cho Việt Nam). Đây là một mô
hình giống chiếm khoảng 30% thị phần sản xuất giống lợn lai hybrid của Việt
Nam. Với 3 dòng thuần đàn cụ kỵ là dòng L11 (giống Yorkshire, chuyên hóa
theo tăng khối lượng, tỷ lệ nạc), dòng L06 (giống Landrace chuyên hoá theo khả
năng sinh sản) và dòng L64 (giống Pietran chuyên hoá theo tỷ lệ nạc cao) và 2

dòng tổng hợp là L19 và L95.
Để tạo ra lợn lai nuôi thịt, người ta thường cho lợn đực giống dòng 402 lai
với lợn nái CA và C22. Lợn đực 402 được tạo ra từ việc cho lai tạo giữa lợn đực
dòng L64 và lợn nái dòng L11. Lợn nái C22 và CA thuộc cấp giống bố mẹ,
được tạo ra bằng cách cho lai giữa lợn đực L19 với lợn nái C1050 và C1230.
Lợn nái C22 có đặc điểm là toàn thân có màu trắng, bốn chân chắc khoẻ, thân
hình phát triển cân đối. Khả năng sinh sản cao, đẻ sai con (từ 10 - 12 con/ổ),
nuôi con khéo. Khi cho lai với đực 402 sẽ tạo ra lợn lai nuôi thịt có 4 máu.
Lợn nái CA có đặc điểm ngoại hình là toàn thân có màu trắng, tầm vóc
trung bình, đẻ sai con (11 - 13 con/ổ), nuôi con khéo. Khi cho lai với lợn đực
402 sẽ tạo ra con lai hybrid 5 máu để nuôi thịt. Lợn lai hybrid nuôi thịt 4 hoặc 5
máu có năng suất chăn nuôi cao, phẩm chất thịt tốt (tỷ lệ nạc cao), phù hợp với
phương thức chăn nuôi công nghiệp hiện nay, được thị trường ưa chuộng. Tuy
nhiên, để đạt được mục tiêu này, cần phải đáp ứng đầy đủ yêu cầu về dinh
dưỡng (số lượng và chất lượng thức ăn), về chăm sóc nuôi dưỡng.
Lợn Landrace xuất phát từ Đan Mạch; là một giống đã được cải tiến theo
hướng chóng thành thục, tăng trọng nhanh và tỷ lệ nạc cao. Lợn Landrace có


17

màu lông trắng tuyền; mình dài, tai to cúp về phía trước, bụng thon. Lợn đực
trưởng thành nặng 300-320 kg, con cái nặng 220-250 kg. Lợn nuôi thịt 6 tháng
đạt 100 kg, tỷ lệ nạc 56%. Việt Nam nhập lợn Landrace từ Cu Ba năm 1970.
Những năm 1975-1986 nhập lợn Landrace từ Bỉ và Nhật. Ở Việt Nam lợn
Landrace dùng để lai kinh tế và nuôi thuần nhằm thực hiện nạc hoá đàn lợn. Sử
dụng công thức lai 1/2 máu Landrace, 1/4 máu lợn Đại bạch, 1/4 máu lợn Móng
cái, con lai có thể đạt 100 kg lúc 6 tháng tuổi, đạt tỷ lệ nạc 46-48% thịt xẻ
( Nguyễn Thiện và cs, 1998) [9].
Một trong những kết quả nổi bật về nghiên cứu chăn nuôi gia súc trong

20 năm (1985-2005) đã đánh giá kết quả về công tác giống “Nhập nội và thích
nghi các dòng lợn mới thuộc các giống Landrace, Yorkshire, Duroc, Pietrain để
làm tươi máu các dòng lợn cũ và để lai kinh tế” (Nguyễn Văn Thiện, 2005) [10].
Nghiên cứu về giá trị di truyền và kiểu hình của một số tính trạng sản xuất
trên giống lợn Landrace có nguồn gốc nhập nội khác nhau, cho thấy nguồn
giống nhập từ Đan Mạch có kết quả tốt nhất về khả năng sinh sản, khả năng nuôi
con và khả năng sinh trưởng; tiếp theo là giống nhập từ Mỹ, Úc (Nguyễn Hữu
Tỉnh và cs, 2006) [28].
1.2.2. Đặc điểm sinh lý tiêu hoá của lợn con:
Để đạt được mục đích chăn nuôi lợn con đạt khối lượng cai sữa cao, lợn
sinh trưởng phát triển nhanh, bên cạnh việc chăm sóc tốt, chúng ta cần hiểu rõ
các đặc điểm của lợn con giai đoạn theo mẹ, đặc biệt là đặc điểm của cơ quan
tiêu hoá lợn con để từ đó bố trí khẩu phần thức ăn phù hợp.
Đặc điểm cơ quan tiêu hoá của lợn con giai đoạn theo mẹ phát triển nhanh
về cấu tạo và hoàn thiện dần về chức năng: Dung tích của dạ dày lợn con lúc 10
ngày tuổi tăng gấp 3 lần lúc sơ sinh, lúc 20 ngày tuổi tăng gấp 8 lần lúc 60 ngày
tuổi tăng gấp 60 lần (dung tích lúc sơ sinh khoảng 0,03 lít).
Dung tích ruột non của lợn con lúc 10 ngày tuổi gấp 3 lần lúc sơ sinh, lúc
20 ngày tuổi gấp 6 lần và lúc 60 ngày tuổi gấp 50 lần. Dung tích ruột già của lợn


18

con lúc 10 ngày tuổi gấp 1,5 lần lúc sơ sinh, lúc 20 ngày tuổi gấp 2,5 lần và lúc
60 ngày tuổi gấp 60 lần.
Chức năng tiêu hoá của một số men ở lợn con mới sơ sinh chưa có hoạt
lực cao, trong giai đoạn theo mẹ, chức năng tiêu hoá của men tiêu hoá được
hoàn thiện.
- Men pepsin: Lợn con dưới một tháng tuổi, men pepsin trong dạ dày lợn
con chưa có khả năng tiêu hoá protein của thức ăn, vì lúc này trong dịch vị dạ

dày lợn không có HCl tự do, lượng axit tiết ra rất ít và nhanh chóng liên kết với
dịch nhầy của dạ dày, gây ra hiện tượng thiếu axit hay còn gọi là
"Hypoclohydric". Đây là một đặc điểm quan trọng trong tiêu hoá dạ dày ở lợn
con. Khi có HCl tự do sẽ kích hoạt men pepsinogen và men này mới có khả
năng tiêu hoá.Vì thiếu HCl tự do nên dịch vị không có tính sát trùng, vi sinh vật
xâm nhập vào dạ dày dễ sinh sôi nẩy nở và phát triển gây ra các bệnh về đường
tiêu hoá ở lợn con.
Chúng ta có thể kích thích tế bào vách dạ dày lợn con tiết ra HCl tự do
sớm hơn bằng cách bổ sung thức ăn sớm cho lợn con. Nếu tập cho lợn con ăn
sớm vào lúc 5-7 ngày tuổi thì HCl tự do có thể được tiết ra từ ngày tuổi thứ 14.
- Men amylaza và maltaza:
Hai men này có trong nước bọt và trong dịch tụy lợn con từ lúc mới đẻ,
nhưng dưới 3 tuần tuổi hoạt tính còn thấp, do đó khả năng tiêu hoá tinh bột của
lợn con còn kém, chỉ tiêu hoá được 50 % lượng tinh bột ăn vào. Đối với tinh bột
sống, lợn con tiêu hoá càng kém. Sau 3 tuần tuổi, men amylaza và maltaza mới
có hoạt tính mạnh, nên khả năng tiêu hoá tinh bột của lợn con tốt hơn.
- Men saccaraza:
Đối với lợn con dưới 2 tuần tuổi men saccaraza hoạt tính còn thấp, nếu
cho lợn con ăn đường mía vào giai đoạn này thì rất dễ bị ỉa chảy. Nếu có bổ
sung đường nên bổ sung loại đường 6 cacbon như glucose, fructose.


19

- Men trypsin:
Là men tiêu hoá protein của thức ăn, ở thai lợn lúc 2 tháng tuổi, trong chất
tiết đã có men trypsin, thai càng lớn, họat tính của men trypsin càng cao. Khi lợn
con mới đẻ ra, men trypsin của dịch tuỵ là rất cao để bù đắp lại khả năng tiêu
hoá kém của men pepsin dạ dày.
- Men catepsin:

Là men tiêu hoá protein trong sữa. Đối với lợn con ở 3 tuần tuổi đầu, men
catepsin có hoạt tính mạnh, sau đó hoạt tính giảm dần.
- Men lactaza:
Có tác dụng tiêu hoá đường lactoza trong sữa. Men này có hoạt tính mạnh
ngay từ khi lợn con mới đẻ ra và tăng cao nhất ở tuần tuổi thứ 2, sau đó hoạt tính
của men này giảm dần.
- Men lipaza và chymosin:
Hai men này có hoạt tính mạnh trong 3 tuần đầu và sau đó sau đó hoạt
tính giảm dần.
Vì thiếu HCl tự do nên vi sinh vật có điều kiện phát triển gây bệnh đường
dạ dày, ruột non lợn con, men pepsin không hoạt động hoặc hoạt động kém. Tác
dụng tiêu hoá lúc này chủ yếu là men chymosin. Men này tăng dần lên từ lúc lợn
mới sinh đến lúc 1 tháng tuổi và sau đó thì giảm xuống. Bù vào đó men pepsin lúc
này đã có khả năng hoạt động và được tiết ra tăng dần (Từ Quang Hiển và cs,
2002) [2].
Lợn con dưới 30 ngày tuổi HCl ở dạng tự do hầu như chưa có vì lúc này
lượng axit tiết ra rất ít và nhanh chóng liên kết với dịch nhầy của dạ dày
(Nguyễn Thiện và cs, 2005) [10].
Lợn con mới đẻ trong cơ thể gần như chưa có kháng thể. Lượng kháng thể
tăng rất nhanh sau khi lợn con được bú sữa đầu của lợn mẹ. Trong sữa đầu của
lợn nái có hàm lượng protein rất cao (Trần Văn Phùng và cs, 2004) [6].
Thông thường lợn con sau cai sữa thường rất hay bị tổn thương nhung
mao ở thành ruột non do ảnh hưởng của thức ăn, khi đó sẽ giảm khả năng sản


20

xuất men tiêu hoá của lợn con, giảm khả năng tiêu hoá và hấp thụ thức ăn. Thức
ăn không được tiêu hoá chuyển xuống ruột non, làm tăng sự phát triển của vi
sinh vật có hại và tăng khả năng bùng phát vi khuẩn E.coli. Biểu hiện bên ngoài

của hiện tượng này là lợn con gầy, sút cân, lông da nhợt nhạt, sinh trưởng giảm.
Do vậy thức ăn bổ sung cho lợn con phải đáp ứng được khả năng tiêu hoá của
chúng.
Nhiều loại vi khuẩn đường ruột đã sinh ra các chất kháng sinh ức chế sự
phát triển của vi khuẩn gây ra bệnh như: vi khuẩn phó thương hàn, vi khuẩn sinh
thối rữa; ở lợn con mới sinh, hệ vi sinh vật đường ruột chưa phát triển, chưa đầy
đủ số lượng vi khuẩn có lợi, cho nên chưa tạo được sự cân bằng về hệ vi sinh vật
trong đường tiêu hoá của lợn con, tạo điều kiện cho các vi khuẩn gây bệnh như
E.coli phát triển mạnh nên lợn con bị rối loạn tiêu hoá.
Hoàng Thị Phi Phượng và cs (2004) [7] đã tiến hành nghiên cứu trên đàn
lợn nuôi thịt 7 tuần tuổi, gây nhiễm E.coli, Salmonella vào thức ăn kết quả cho
thấy “ Thức ăn nhiễm E.coli, Salmonella làm giảm khả năng tăng trọng của lợn,
giảm hiệu quả chuyển hoá thức ăn, gây biến đổi bệnh tích đại thể và vi thể ở các
khí quan nội tạng, làm tăng một số chỉ tiêu sinh lý, sinh hoá máu ở lợn thí
nghiệm” .
1.2.3. Nhu cầu về năng lượng của lợn:
Năng lượng được sinh ra khi một phần tử hữu cơ bị oxy hoá. Năng lượng
có thể được giải phóng dưới dạng nhiệt hoặc giữ lại dưới dạng liên kết năng
lượng bậc cao để sử dụng trong quá trình trao đổi chất sau đó của cơ thể.
Năng lượng trao đổi là năng lượng tiêu hoá trừ đi năng lượng mất ở dạng
khí và nước tiểu. Sự mất năng lượng dưới dạng khí (khí sinh ra trong bộ máy
tiêu hoá lợn) thường bằng khoảng 0,1 đến 3,0% năng lượng tiêu hoá DE
(Nobelett và cs, 1989b; Shi và Noblett, 1993). Lượng năng lượng này thường
không được tính đến vì nó quá nhỏ và khó đo lường. Trong phần lớn khẩu phần
sử dụng ở Bắc Mỹ, năng lượng trao đổi chiếm khoảng 94-97%, trung bình là
96% năng lượng tiêu hoá DE (Farrell, 1979).


21


Đôi khi người ta cũng hiệu chỉnh năng lượng trao đổi nhằm xác định
lượng nitrogen thu đuợc hay mất đi từ cơ thể (Mem, Morgan và cs, 1975). Năng
lượng trao đổi được hiệu chỉnh cho mức cân bằng nitrogen vì năng lượng tích
luỹ trong protein không để được phục hồi hoàn toàn nếu các axit amin được
phân giải trở lại (cho năng lượng). Sự hiệu chỉnh để cân bằng nitrogen này có
thể áp dụng ở lợn đã trưởng thành, nhưng không thích hợp ở lợn choai đang tích
luỹ một lượng nitrogen tương đối lớn. Vì vậy hiệu chỉnh này là không cần thiết
(Farrell, 1979) hoặc chỉ thực hiện khi quá trình tích luỹ nitrogen dương, không đổi.
Yếu tố hiệu chỉnh có thể có được nhờ sự thể hiện bằng giá trị năng lượng
thô của nước tiểu trong một gam nitrogen của nước tiểu. Đối với lợn áp dụng hệ
số 6,77 kcal ( Diggs và cs, 1959), áp dụng hệ số 9,17 kcal năng lượng trao đổi
ME/ gam của nitrogen để hiệu chỉnh cho mỗi gam nitrogen sai số so với mức
nitrogen cân bằng. Sự hiệu chỉnh này được cộng thêm với năng lượng trao đổi ở
lợn có mức cân bằng nitrogen âm và được khấu trừ khi lợn có mức cân bằng
nitrogen dương (Morgan và cs, 1975).
Nếu protein ở dạng kém chất lượng hay quá dư thừa thì năng lượng trao
đổi sẽ giảm vì các axit amin không được sử dụng cho quá trình tổng hợp protein,
protein sẽ bị dị hoá và được cơ thể sử dụng như nguồn năng lượng, còn nitrogen
sẽ bị đào thải dưới dạng urê. Vì vậy, nếu lượng urê trong nước tiểu tăng thì năng
lượng mất theo nước tiểu cũng tăng, làm cho hiệu quả sử dụng năng lượng của
khẩu phần giảm.
Nhu cầu năng lượng trao đổi để duy trì bao gồm cả năng lượng cần thiết
cho các chức năng của cơ thể và những hoạt động thiết yếu. Những nhu cầu này
thường được biểu thị trên cơ sở khối lượng trao đổi của cơ thể, khối lượng này
quy ước là khối lượng cơ thể luỹ thừa với số mũ 0,75 (BW 0,75). Các số luỹ thừa
khác được đề nghị là 0,67 (Heusner, 1982), 0,60 (Noblet và cs, 1989b). Các mức
tính toán nhu cầu về năng lượng duy trì/kg BW
kcal/ngày.

0,75


là mức từ 92 đến 160


22

Nhu cầu năng lượng để tăng trưởng ước tính năng lượng tiêu tốn cho tích
luỹ protein dao động từ 6,8-14,0 Mcal ME/kg, trung bình là 10,6 Mcal/kg, năng
lượng cho tích luỹ mỡ thường từ 9,5 đến 16,3 McalME/kg (Tess và cs, 1984).
Mặc dù năng lượng tiêu tốn cho tích luỹ nạc và mỡ tương đối gần ngang nhau
(Wenk và cs, 1980) nhưng trong 1kg thịt nạc chỉ chứa 20-23% protein, trong khi
đó 1kg thịt béo có tới 80-95% mỡ, vì vậy, năng lượng dùng cho tích luỹ thịt nạc
ít hơn nhiều so với tích luỹ thịt mỡ (Hội đồng hạt cốc Hoa kỳ, 2000) [14].
Nhu cầu năng lượng của lợn thịt gồm 2 phần là năng lượng cho nhu cầu
duy trì và năng lượng cho nhu cầu tăng trọng, đối với lợn nái chửa thì nhu cầu
năng lượng còn bao gồm năng lượng cho việc phát triển của thai và tổ chức
ngoài thai, năng lượng tăng trọng của lợn mẹ và năng lượng duy trì của lợn mẹ.
Đối với lợn con sau cai sữa, nhu cầu năng lượng chủ yếu là năng lượng
cho nhu cầu duy trì và năng lượng cho nhu cầu tăng trọng.
Lợn con bú sữa và sau cai sữa có khả năng tăng trọng và tích luỹ chất hữu
cơ rất cao nên cũng đòi hỏi chất dinh dưỡng cao. Đáp ứng nhu cầu này đòi hỏi
phải cung cấp đầy đủ năng lượng cho lợn con.
Xác định nhu cầu cho tăng trọng căn cứ vào lượng protein và tích luỹ mỡ
trong cơ thể lợn.
1.2.4. Nhu cầu về protein của lợn
1.2.4.1. Khái niệm và cấu tạo protein:
Protein là khái niệm bao gồm protit và các hợp chất chứa nitơ phi protit.
Protit là một phần cơ bản của protein; trong protein thực vật nó chiếm 60-90%
còn trong một số sản phẩm động vật nó chiếm tới 100%, vì thế có thể coi khái
niệm protein và protit là đồng nhất. Phân tử protit được xây dựng nên bởi các

axit amin khác nhau và cách sắp xếp các axit amin khác nhau sẽ tạo nên các
protit khác nhau. Axit amin là đơn vị cấu trúc cơ bản của protit (Từ Quang Hiển
và cs, 2002) [2].
Mỗi phân tử protein được cấu tạo từ các axit amin, là một chuỗi các phân
tử nhỏ hơn xâu lại với nhau. Mỗi loại protein có thành phần các axit amin nhất


23

định xâu chuỗi theo một trình tự cũng nhất định, tạo nên tính đặc thù cho loại
protein đó.
Protein của thức ăn được cấu tạo từ các axit amin; lượng axit amin trong
khẩu phần có liên quan chặt chẽ đến lượng protein trong thức ăn. Vì vậy, việc
quan tâm đến lượng protein có trong thức ăn là rất quan trọng, đặc biệt trong
trường hợp chỉ sử dụng thức ăn tự nhiên mà không bổ sung các loại axit amin
tổng hợp.
1.2.4.2. Nhu cầu axit amin và protein của lợn:
Trong hóa học, một amino acid hay axit amin là một phân tử chứa cả
nhóm amin và cacboxyl. Trong hóa sinh, thuật ngữ này còn để chỉ alpha amino
acids: những axit amin mà trong đó nhóm amin và cacboxyl gắn vào cùng một
carbon, nên gọi là α–carbon ( ) [33].
Axit amin được tạo thành do thủy phân protein dưới tác dụng của các
enzym, axit hoặc kiềm. Quyết định đặc tính của các axit amin là nhóm amin
(NH2) và nhóm cacboxyl (- COOH).
Khi tách các hợp chất sinh học, người ta thu được hơn 100 axit amin,
trong đó có khoảng 20 -22 axit amin quan trọng trong dinh dưỡng. Các axit amin
tìm thấy trong tự nhiên hầu hết ở dạng L, ở dạng này cơ thể sử dụng tốt, một số
axit amin ở dạng D. Trong công nghiệp người ta đã tổng hợp được hỗn hợp axit
amin dạng D và dạng L.
Trong 20 axit amin thường gặp trong tự nhiên, mỗi một axit amin có tầm

quan trọng khác nhau. Có những axit amin không nhất thiết phải có trong khẩu
phần, nếu thiếu axit amin đó cơ thể có thể tổng hợp được từ những chất khác.
Đó là các axit amin có thể thay thế, ngược lại có những axit amin không thể thay
thế được, chúng nhất thiết phải có sẵn trong thức ăn người ta gọi chúng là các
axit amin không thể thay thế, gồm: lysine, methionine, tryptophan, leucine,
isoleucine, threonine, phenyllalanine, valine, histidine.
Vai trò sinh học của các axit amin được xác định ở chỗ chúng có trong tất
cả các protein quan trọng của cơ thể động vật, nhưng cơ thể không tự tổng hợp


24

được, và không thay thế chúng bằng những axit amin khác; vì vậy chúng được
gọi là axit amin không thể thay thế. Các axit amin này cần được đưa vào cơ thể
động vật từ thức ăn với số lượng theo nhu cầu tương ứng. Thiếu một trong các
axit amin không thay thế trong khẩu phần thức ăn có ảnh hưởng xấu tới trạng
thái của động vật: đối với con vật non sẽ chậm lớn, phát triển kém, con vật
trưởng thành sẽ giảm thể trọng, kém ăn, dễ bị mắc bệnh. Bởi vì, khi thiếu axit
amin cơ thể không thể tổng hợp được protein tế bào, máu và bạch cầu, mà trong
thành phần của các hợp chất này cần phải có những axit amin đó; dẫn đến việc
tổng hợp các enzyme cũng sẽ chậm lại, khi thiếu các enzyme việc trao đổi chất
sẽ không thực hiện được.Do đó, nếu thiếu axit amin không thay thế làm ảnh
hưởng đến hoạt động sống của động vật.
Quá trình tích luỹ protein bị ảnh hưởng bởi sự thiếu hụt của axit amin
trong khẩu phần, thức ăn của lợn chủ yếu là các loại ngũ cốc nên thường nghèo
protein và không cân đối dinh dưỡng đặc biệt các axit amin. Đối với sinh trưởng
và phát triển của lợn, các loại thức ăn trên thường kém cả về số lượng và tỷ lệ
các axit amin.
- Lysine là một axit amin không thể thay thế quan trọng nhất đối với tất
cả các động vật. Trong các khẩu phần thức ăn nói chung có nguồn gốc thực vật

đều thiếu lysine. Chất này ảnh hưởng tới trạng thái của hệ thần kinh, tới hàm
lượng kali ở trong mô, đến sự định hình của mô xương, đến sự tạo thành axit
nucleic. Khi thiếu lysine con vật ăn không ngon miệng, tăng trọng kém, kiệt sức,
phá vỡ sự tái tạo các cơ quan chức năng của cơ thể, khô da, nếu thêm 0,2 % L lysine vào khẩu phần ăn là hạt ngũ cốc và khô đậu tương sẽ làm cho lợn ăn tốt
hơn, tăng trọng nhanh. Lợn rất cần lysine, nhu cầu lysine của lợn tùy thuộc vào
độ tuổi, đối với lợn cai sữa nhu cầu này chỉ còn khoảng hơn một nửa so với lợn
2 tuần tuổi.
- Tryptophan là axit amin thường thiếu trong khẩu phần thức ăn của lợn.
Thiếu tryptophan và nhất là trường hợp thiếu kéo dài thì lợn sẽ giảm thể trọng,
tiêu hóa kém, tăng tuyến giáp trạng, bị đục thủy tinh thể, teo buồng trứng và tinh


×