Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Xác Định Tỷ Lệ LYSINE/ ME Thích Hợp Trong Thức Ăn Hỗn Hợp Cho Lợn 5 Máu Ngoại Giai Đoạn 18 – 50 Kg Nuôi Tại Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 92 trang )

1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

HỒ THỊ BÍCH NGỌC

XÁC ĐỊNH TỶ LỆ LYSINE /ME THÍCH HỢP
TRONG THỨC ĂN HỖN HỢP CHO LỢN 5 MÁU
NGOẠI
GIAI ĐOẠN 18 – 50 KG NUÔI TẠI THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Chuyên ngành
Mã số

: Chăn nuôi
: 60.62.40

Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. Dương Mạnh Hùng
2. PGS. TS. Trần Văn Phùng

Thái Nguyên, năm 2007


2

Lời cám ơn
Hoàn thành luận văn thạc sỹ này, tôi đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ
rất tận tình và chu đáo của quý thầy cô giáo trong khoa Chăn nuôi Thú y,


Khoa Sau đại học, Phòng thí nghiệm trung tâm Trường đại học Nông Lâm
Thái Nguyên.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy giáo hướng dẫn: TS.
Dương Mạnh Hùng và PGS.TS. Trần Văn Phùng đã tận tình hướng dẫn, giúp
đỡ tôi trong quá trình triển khai các nội dung nghiên cứu cũng như đã đóng
góp nhiều ý kiến quý báu cho việc hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cám ơn:
- Ban Giám hiệu Nhà trường, Ban chủ nghiệm Khoa Chăn nuôi thú y, Khoa
Sau đại học, Phòng Thí nghiệm trung tâm đã tạo điều kiện cho tôi trong
suốt quá trình nghiên cứu.
- Các thầy cô giáo bộ môn Di truyền – Giống – Thức ăn đã tạo điều kiện
giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài
- Gia đình anh Dương Thành Cương xóm Tung –Xã Tích Lương – Thành
phố Thái Nguyên đã cung cấp địa điểm, chuồng trại và giúp đỡ tôi trong quá
trình nuôi dưỡng và chăm sóc gia súc thí nghiệm.
Cuối cùng tôi rất biết ơn các bạn bè đồng nghiệp và những người thân
trong gia đình đã động viên khích lệ, giúp đỡ tận tình về mọi mặt cho tôi
trong quá trình thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, ngày 14 tháng 11 năm 2007
Học viên
Hồ Thị Bích Ngọc


3

Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn
là trung thực, khách quan và chưa có ai công bố trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào.



4

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
ARC (Agriculture Research Council) Hội đồng nghiên cứu nông nghiệp
(Anh)
Cs

Cộng sự

Dr

Duroc

His

Histidine

Ileu

Isoleucine

KL

Khối lượng

Leu

Leucine


Lr

Landrace

Lys

Lysine

ME (Metalbolizable Energy) Năng lượng trao đổi
Met

Methionine

NRC (National Rearch Council)Hội động nghiên cứu quốc gia (Hoa Kỳ)
Phe

Phenyl

Pie

Pietrain

Pr

Protein

TA

Thức ăn


Thr

Threonine

TL

Tỷ lệ

TN

Thí nghiệm

Tryp

Tryptophan

VCK

Vật chất khô

Yr

Yorkshire


5

DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU KẾT QUẢ THÍ NGHIỆM
Bảng


Nội dung

Bảng 3.1a Sinh trưởng tích luỹ của lợn thí nghiệm có tỷ lệ

Trang
44

lysine/NLTĐ khác nhau trên nền thức ăn có tỷ lệ
protein 18%
Bảng 3.1b Sinh trưởng tích luỹ của lợn thí nghiệm có tỷ lệ

45

lysine/NLTĐ khác nhau trên nền thức ăn có tỷ lệ
protein 17%
Bảng 3.2a Sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm có tỷ lệ

47

lysine/NLTĐ khác nhau trên nền thức ăn có tỷ lệ
protein 18%
Bảng 3.2b Sinh trưởng tuyệt đối của lợn thí nghiệm có tỷ lệ

47

lysine/NLTĐ khác nhau trên nền thức ăn có tỷ lệ
protein 17%
Bảng 3.3a Sinh trưởng tương đối của lợn thí nghiệm có tỷ lệ

49


lysine/NLTĐ khác nhau trên nền thức ăn có tỷ lệ
protein 18%
Bảng 3.3b Sinh trưởng tương đối của lợn thí nghiệm có tỷ lệ

49

lysine/NLTĐ khác nhau trên nền thức ăn có tỷ lệ
protein 17%
Bảng 3.4a Tiêu thụ thức ăn/ngày của lợn thí nghiệm khi cho ăn

52

thức ăn có tỷ lệ protein 18%
Bảng 3.4b Tiêu thụ thức ăn/ngày của lợn thí nghiệm khi cho ăn

53

thức ăn có tỷ lệ protein 17%
Bảng 3.5a Tiêu tốn thức ăn và năng lượng trao đối/kg tăng khối
lượng của lợn thí nghiệm khi cho ăn thức ăn có tỷ lệ

54


6

protein 18%
Bảng 3.5b Tiêu tốn thức ăn và năng lượng trao đối/kg tăng khối


55

lượng của lợn thí nghiệm khi cho ăn thức ăn có tỷ lệ
protein 17%
Bảng 3.6a Tiêu tốn protein và lysine/kg tăng khối lượng của lợn

57

thí nghiệm khi cho ăn thức ăn có tỷ lệ protein 18%
Bảng 3.6b Tiêu tốn protein và lysine/kg tăng khối lượng của lợn

58

thí nghiệm khi cho ăn thức ăn có tỷ lệ protein 17%
Bảng 3.7a

Chi phí thức ăn/kg tăng khối lượng của lợn thí nghiệm

61

khi cho ăn thức ăn có tỷ lệ protein 18%
Bảng 3.7b

Bảng 3.8a

Bảng 3.8b

Bảng 3.9a

Bảng 3.9b


Chi phí thức ăn/kg tăng khối lượng của lợn thí nghiệm
khi cho ăn thức ăn có tỷ lệ protein 17%
Kết quả mổ khảo sát năng suất thịt lợn thí nghiệm khi
cho ăn thức ăn có tỷ lệ protein 18%
Kết quả mổ khảo sát năng suất thịt lợn thí nghiệm khi
cho ăn thức ăn có tỷ lệ protein 17%
Kết quả phân tích thành phần hoá học của thịt lợn thí
nghiệm khi cho ăn thức ăn có tỷ lệ protein 18%
Kết quả phân tích thành phần hoá học của thịt lợn thí
nghiệm khi cho ăn thức ăn có tỷ lệ protein 17%

61

63

64

68

68


7

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Sơ đồ

Nội dung


Trang

Sơ đồ 1.1 Công thức lai tạo lợn thương phẩm lai 3 giống ngoại

5

Sơ đồ 1.2 Công thức lai tạo lợn thương phẩm lai 4, 5 giống ngoại

6

Sơ đồ 1.3 Sử dụng axit amin trong cơ thể

15

Sơ đồ 1.4 Trao đổi lysine trong cơ thể

17

Sơ đồ 2.1 Bố trí thí nghiệm

38

DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ
Đồ thị

Nội dung

Trang

Đồ thị 3.1 a,b


Tương quan giữa tỷ lệ lysine/NLTĐ với sinh trưởng

51

tích luỹ của lợn thí nghiệm trên nền thức ăn có tỷ lệ
protein 18% và 17%
Đồ thị 3.2 a,b

Tương quan giữa tỷ lệ lysine/NLTĐ và tỷ lệ thịt nạc
của thịt lợn thí nghiệm khi cho ăn thức ăn có tỷ lệ
protein 18% và 17%

67


8

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Chăn nuôi lợn là một nghề truyền thống có từ lâu đời ở nước ta. Trong
thời gian qua, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành trồng trọt, đặc biệt là
sự tăng trưởng nhanh về sản xuất lương thực thực phẩm, nghề chăn nuôi lợn ở
nước ta đã phát triển khá tốt, số lượng tổng đàn và chất lượng đàn đều tăng
khá. Chăn nuôi lợn ở nước ta đã tăng trưởng khá về tổng đàn, chất lượng đàn
cũng như quy mô sản xuất, kim ngạch xuất khẩu. Năm 2001 cả nước có 21,8
triệu con nhưng đến năm 2005 có 27,43 triệu con. Sản lượng thịt lợn hơi năm
2001 là 1,51 triệu tấn, năm 2005 là 2,29 triệu tấn tăng 10,12%/năm. Cơ cấu
giống lợn hiện nay đã được cải thiện tích cực, hầu hết các giống lợn có năng
suất và chất lượng cao trên thế giới đã được nhập vào nước ta như Landrace,

Yorkshire, Pietrain, Duroc. Số lượng đàn lợn nái ngoại tăng khoảng 372 ngàn
con năm 2005. Từ năm 2001 đến 2005, bình quân mỗi năm xuất khẩu được từ
18-20 ngàn tấn/năm nhưng khối lượng xuất khẩu chưa nhiều và không ổn
định [2]. Tuy nhiên, so với yêu cầu và khả năng thì kết quả này còn quá
khiêm tốn. Sản lượng thịt xuất khẩu chiếm khoảng 1-3% tổng sản lượng thịt
lợn sản xuất trong nước. Sản phẩm thịt lợn xuất khẩu của ta từ trước đến nay
chủ yếu là thịt lợn sữa và thịt lợn choai, một số lượng nhỏ thịt lợn mảnh. Bên
cạnh giống và thị trường thì sản xuất và cung ứng thức ăn có vai trò quan
trọng đáp ứng cho từng giống và phương thức sản xuất đặc thù, vì chất lượng
thịt phụ thuộc nhiều vào thức ăn chăn nuôi (cùng một loại con giống, nhưng
chất lượng thức ăn khác nhau sẽ cho sản phẩm khác nhau). Thức ăn thường
chiếm 60 – 70% giá thành sản xuất 1 kg thịt hơi. Nhưng nguồn nguyên liệu để
chế biến thức ăn gia súc ở trong nước còn thiếu, hàng năm vẫn phải nhập
ngoại với giá cao. Đặc biệt trong thời gian gần đây giá thức ăn chăn nuôi leo
thang trong khi giá thịt lợn lại giảm. Thêm vào đó là dịch bệnh như bệnh lợn


9

tai xanh, hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản, bệnh liên cầu khuẩn ở lợn đã
làm cho chăn nuôi lợn gặp không ít khó khăn. Để nâng cao sức cạnh tranh và
mở rộng thị trường cho sản phẩm thịt lợn trong nước và xuất khẩu thì có
nhiều vấn đề đang đặt ra đòi hỏi chúng ta cần nhanh chóng giải quyết.
Trong những năm gần đây, chúng ta đã nhập nhiều giống lợn ngoại có
năng suất cao và tỷ lệ nạc cao, lai tạo giữa các giống kết hợp với những thành
công trong nghiên cứu thức ăn nhằm đảm bảo nhu cầu thịt nạc của người tiêu
dùng. Chúng ta biết rằng, thức ăn là một trong những yếu tố chính tác động
đến năng suất, phẩm chất của thịt lợn mà tác động này lại do protein, mức độ
và các tỷ lệ axit amin có trong thức ăn quyết định. Bên cạnh đó, các chất dinh
dưỡng trong khẩu phần còn có nhiều mối quan hệ mật thiết với nhau, chỉ khi

đáp ứng không những đầy đủ mà còn cân đối phù hợp thì mới có thể khai thác
tối đa tiềm năng di truyền của vật nuôi. Một trong những mối quan hệ đó là
quan hệ giữa hàm lượng lysine và năng lượng trao đổi. Theo kết quả nghiên
cứu của nhiều tác giả trong và ngoài nước, tỷ lệ giữa lysine và năng lượng
trao đổi, ở mỗi giai đoạn sinh trưởng của lợn không hoàn toàn giống nhau.
Hầu hết các kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tỷ lệ lysine/ME giảm dần theo
tuổi. Theo NRC (1988), trong điều kiện cho ăn tự do, mức năng lượng trao
đổi ổn định (3265 Kcal/kg TĂ) ở các giai đoạn 10 - 20; 20 - 50; 50 - 80; 80 120 kg thì tỷ lệ lysine trong khẩu phần tương ứng là: 1,15; 0,95; 0,75 và
0,6%. Những kết quả nghiên cứu của Kaji và Cs (1987) [45] cho biết: nhu cầu
lysine cần cho 1 kg tăng khối lượng ở lợn con và lợn đang sinh trưởng là 20g
và 17,3g lysine tiêu hoá và nhu cầu này không có sự khác biệt giữa các giai
đoạn sinh trưởng. Kết quả này được các nhà dinh dưỡng gia súc Nhật Bản sử
dụng làm căn cứ để tính toán nhu cầu lysine cho lợn con và lợn sinh trưởng.
Mỗi nước, trong những điều kiện nghiên cứu và thực tiễn cụ thể đều đưa ra
những khuyến cáo không hoàn toàn giống nhau. Để góp phần làm sáng tỏ hơn


10

mối quan hệ giữa tỷ lệ lysine với ME trong khẩu phần ăn của lợn ngoại giai
đoạn sinh trưởng, trong điều kiện chăn nuôi tại Thái Nguyên, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài: "Xác định tỷ lệ Lysine/ME thích hợp trong thức ăn
hỗn hợp cho lợn 5 máu ngoại giai đoạn từ 18-50 kg nuôi tại Thái Nguyên”.
2. Mục tiêu của đề tài
Nghiên cứu ảnh hưởng của các khẩu phần thức ăn hỗn hợp có tỷ lệ
lysine/ME khác nhau đến sinh trưởng, năng suất và thành phần hoá học của
thịt từ đó xác định tỷ lệ lysine/ME phù hợp cho lợn ngoại giai đoạn 18 - 50 kg


11


CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số vấn đề liên quan đến giống lợn
Trước đây, trong chăn nuôi quảng canh người ta thường nuôi lợn
hướng mỡ, tận dụng thức ăn thừa, phế phụ phẩm nông nghiệp. Khi nhu cầu về
thịt nạc tăng thì các nhà chăn nuôi chú ý đến việc lai tạo với các giống lợn
ngoại cao sản, nuôi thuần các giống lợn ngoại siêu nạc.
Những năm gần đây, nhiều giống lợn ngoại có năng suất cao đã được
nhập nội vào Việt Nam. Đi đôi với việc sử dụng có hiệu quả các chương trình
giống tối ưu, việc nâng cao chất lượng lợn giống đã và đang được tiến hành
một cách tích cực. Đàn lợn cụ kỵ nhập nội này đã được nuôi thích nghi và sử
dụng trong nhiều năm qua và nay được làm tươi máu nhằm nâng cao năng
suất cho đàn lợn này. Lai tạo là biện pháp nhân giống nhằm nâng cao năng
suất và phẩm chất sản phẩm thông qua ưu thế lai. Hiện nay, ở nhiều nước có
chăn nuôi lợn phát triển 70 – 90% lợn nuôi thịt là lợn lai.
Tại Việt Nam hiện nay, rất nhiều chương trình lai tạo ra lợn nuôi thịt 4
- 5 giống do công ty PIC thực hiện. Với 3 dòng thuần đàn cụ kỵ là dòng L11
(giống Yorkshire chuyên hóa theo tăng khối lượng, tỷ lệ nạc). Dòng L06
(giống Landrace chuyên hóa theo khả năng sinh sản) và dòng L64 (giống
Pietran chuyên hóa theo tỷ lệ nạc cao) và 2 dòng tổng hợp là L19 và L95.
Để tạo ra lợn lai nuôi thịt có 4 và 5 giống, người ta thường cho lợn đực
giống dòng 402 lai với lợn nái CA và C22.
Lợn đực 402 được tạo ra từ việc cho lai tạo giữa lợn đực dòng L64 và
lợn nái dòng L11.
Lợn nái C22 và CA thuộc cấp giống bố mẹ được tạo ra bằng cách cho
lai giữa lợn đực L19 với lợn nái C1050 và C1230.



12

Khi cho lai giữa lợn đực dòng 402 với lợn nái CA sẽ tạo ra con lai
hybrid 5 giống để nuôi thịt. Lợn lai hybrid nuôi thịt 4 hoặc 5 giống có năng
suất cao, phẩm chất tốt (tỷ lệ nạc cao), phù hợp với phương thức nuôi công
nghiệp hiện nay, được thị trường ưa chuộng.
* Đối với giống lợn ngoại, hiện nay đang phổ biến 3 công thức lai sau:
- Lợn lai 3 máu gồm các giống: Yorkshire – Landrace - Duroc, loại này phổ
biến ở các tỉnh phía Bắc (Đồng bằng Sông Hồng, Đông Bắc, Bắc Trung Bộ).
+ Công thức lai tạo lợn thương phẩm lai 3 giống ngoại
ông bà:
Lr, Yr

Yr, Lr

LrYr,
YrLr

Dr

YrLrDr
LrYrDr

Sơ đồ 1.1: Công thức lai tạo lợn thương phẩm lai 3 giống ngoại
- Lợn lai 4 máu gồm các giống: Yorkshire – Landrace – Duroc –
Pietrain, loại này phổ biến ở các tỉnh phía Nam, đặc biệt là Đông Nam Bộ và
Đồng bằng sông Cửu Long.
- Lợn lai 5 máu gồm các dòng: L95 - L11 - L06 - L19 - L64. Trại giống
cụ kỵ Tam Điệp, Ninh Bình của Viện Chăn nuôi, loại này phổ biến ở một số

tỉnh Đồng bằng sông Hồng (Ninh Bình, Thái Bình, Hưng Yên, ...).
+ Công thức lai tạo lợn thương phẩm lai 4, 5 giống ngoại


13

L19
Duroc

L06

L95

Lr

Meishan

L19

GP
1230

E,M

CA
c

L11

L64


Yr

Pie

GPT
1050

L64

C22
z

5 máu

Pietran

4 máu

Sơ đồ 1.2: Công thức lai tạo lợn thương phẩm lai 4, 5 giống ngoại
1.1.2. Dinh dưỡng axit amin ở lợn
Mặc dù protein có chứa 20 loại axit amin chính, nhưng không phải tất cả
số đó đều là thành phần thiết yếu của khẩu phần. Một số axit amin có thể tổng
hợp được từ nguồn gốc cacbon và các nhóm amin chuyển hoá từ các axit amin
khác dư thừa so với nhu cầu. Những axit amin được tổng hợp theo kiểu này gọi
là axit amin không thiết yếu. Mặc dù cả hai loại axit amin này đều cần thiết cho
hoạt động sinh lý và trao đổi, các khẩu phần thông dụng của lợn đều chứa đủ
lượng các axit amin không thiết yếu hay các nhóm axit amin để tổng hợp nên
chúng. Điều này cũng đúng cả với các khẩu phần có lượng protein thấp và phải
bổ sung bằng các axit amin kết tinh (Brudboil và Souther, 1994 [6]. Như vậy,

phần quan trọng trong dinh dưỡng cho lợn là các axit amin thiết yếu.


14

Một vài axit amin không rõ ràng thuộc loại thiết yếu hay không thiết
yếu. Ví dụ như: arginine thường được coi là một axit amin thiết yếu. Cơ thể
lợn có thể tự tổng hợp được arginine và sự tổng hợp arginine từ glutamin có
thể thấy ở tế bào thành ruột non trong khoảng 1 giờ trước lúc đẻ (Wu và
Knable, 1995) [6]. Tuy nhiên, sự tổng hợp này không đáp ứng đủ nhu cầu
dinh dưỡng trong giai đoạn phát triển đầu tiên của lợn (Souther) [6]. Vì vậy,
trong khẩu phần của lợn vỗ béo cần cung cấp arginine.
Hạt ngũ cốc như ngô, lúa mỳ, cám là thành phần chủ yếu của khẩu
phần ăn của lợn, và cung cấp từ 30 – 60% tổng nhu cầu axit amin. Nhưng
cũng cần phải có nguồn protein khác như khô đỗ tương để bảo đảm cung cấp
đủ và cân bằng các axit amin thiết yếu. Cũng có thể cung cấp axit amin tinh
thể để tăng cường lượng ăn vào các axit amin đặc trưng trong thức ăn. Lượng
protein cần thiết để cung cấp đủ với lượng axit amin thiết yếu ăn vào sẽ phụ
thuộc vào loại thức ăn sẽ được sử dụng. Loại thức ăn chứa những protein
chứa các axit amin với lượng thích ứng nhu cầu của lợn hay thức ăn hỗn hợp
trong đó sự thiếu hụt axit amin ở loại thức ăn này sẽ được bổ sung ở loại thức
ăn khác, sẽ đáp ứng đủ nhu cầu về axit amin thiết yếu mặc dù mức protein
khẩu phần thấp hơn so với loại thức ăn có một loại axit amin ít thích hợp.
Điều này rất quan trọng đối với mục đích giảm tối thiểu lượng nitrogen đào
thải. Một phương pháp khác làm giảm lượng protein khẩu phần, nhờ đó làm
giảm lượng nitrogen đào thải, là việc bổ sung một lượng chính xác các axit
amin tinh thể. Nhu cầu axit amin của lợn choai – lợn vỗ béo trong khẩu phần
sẽ tăng khi năng lượng trong khẩu phần tăng
Khi khẩu phần thức ăn mất cân bằng các chất dinh dưỡng thì sẽ gây
hoạt động căng thẳng của hệ tiêu hóa, từ đó giảm sự tiêu hoá, hấp thu các chất

dinh dưỡng. Khẩu phần thiếu protein sẽ làm tăng hoạt động của cơ quan tiêu
hóa, làm thải nhiều nitơ theo dịch tiêu hóa để tạo nên nhũ chấp có tỷ lệ thành


15

phần nhất định. Sự thải nitơ tăng lên này có liên quan đến sự tăng cao tương
đối lượng nitơ trao đổi theo phân, kết quả làm cho lợn bị thiếu protein.
Sự tổng hợp protein đòi hỏi sự có mặt của khoảng 20 axit amin khác
nhau. Trong số đó, có khoảng 10 axit amin được gọi là những axit amin thiết
yếu phải được cung cấp qua thức ăn vì bản thân gia súc không thể tự tổng hợp
được hoặc tổng hợp được với lượng rất thấp so với nhu cầu của chúng. Nếu
thiếu một trong 10 axit amin đó thì gia súc, kém ăn, chậm lớn, tỷ lệ sử dụng
thức ăn giảm. Ngược lại, nếu thừa một loại axit amin thiết yếu nào đó trong
khẩu phần so với nhu cầu sẽ làm giảm khả năng sản xuất của lợn đặc biệt khi
hàm lượng nitơ trong khẩu phần thấp.
Khi mức protein trong khẩu phần thấp, nhu cầu protein cho việc hình
thành các tế bào mô cơ không được đáp ứng thì tăng trọng bị sẽ giảm và một
phần lớn năng lượng sẽ được sử dụng để tích lũy mỡ nên lợn có tỷ lệ mỡ cao
hơn và hiệu quả chuyển hóa thức ăn thấp. Trích dẫn theo Phuc B.H.N (1994)
[52], khẩu phần có quá nhiều protein đối với lợn là có hại, lợn chậm lớn, khả
năng sử dụng thức ăn bị giảm rõ rệt.
Lợn chỉ có thể đạt được khả năng sản xuất cao khi khẩu phần cân bằng
dinh dưỡng hoàn hảo. Khẩu phần có giá trị dinh dưỡng hoàn hảo là khẩu phần
có chứa đầy đủ, cân đối và hoà hợp các yếu tố dinh dưỡng như năng lượng,
protein, axit amin, lipit, gluxit, vitamin, khoáng. Vì vậy, đối với mỗi nước,
mỗi vùng, tùy theo giống lợn và điều kiện thức ăn mà phân tích, tính toán
phối hợp khẩu phần để tạo ra lượng sản phẩm tối đa với chất lượng cao và giá
thành hạ (Trần Cừ và Nguyễn Khắc Khôi, 1985) [1].
Muốn làm được điều đó trước hết cần phải xác định chính xác giá trị

dinh dưỡng của từng loại thức ăn và mức protein thích hợp trong khẩu phần
cho từng đối tượng lợn khác nhau. Các phương pháp xác định tỷ lệ tiêu hóa
qua phân, qua ruột non, cân bằng nitơ giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan và


16

đánh giá một cách chính xác giá trị dinh dưỡng của từng loại thức ăn, trong
đó đặc biệt chú trọng đến thức ăn giàu đạm.
* Phương thức chế biến thức ăn
Chế biến thức ăn làm tăng giá trị dinh dưỡng của một số loại thức ăn
trong chăn nuôi gia súc. Các phương pháp chế biến thức ăn thường dùng là
nghiền, xử lý nhiệt, ủ, tạo viên. Tùy theo loại thức ăn, đối tượng gia súc mà có
phương pháp chế biến thức ăn thích hợp để làm tăng khả năng ăn vào cũng
như tăng tỷ lệ tiêu hóa của chúng.
Xử lý nhiệt đối với thức ăn hạt, đặc biệt là hạt họ đậu loại bỏ được các
chất kháng dinh dưỡng, nhờ đó làm tăng tỷ lệ tiêu hóa và giá trị sinh vật học
của protein thức ăn (Vũ Duy Giảng và Cs), 1999 [4].
Ngoài các yếu tố nêu trên, trong chăn nuôi lợn người ta còn chú ý một
số yếu tố ảnh hưởng khác như cách cho lợn ăn, phòng và trị được bệnh tiêu
hóa. Chế độ vệ sinh chuồng trại, thức ăn, nước uống; không sử dụng thức ăn
kém chất lượng, định kỳ tẩy giun, tiêu độc chuồng trại là những biện pháp
hữu hiệu nhằm nâng cao sức khỏe cho con vật, tạo điều kiện tốt cho lợn ăn
nhiều, chóng lớn.
Động vật không thể hấp thu trực tiếp protein mà phải qua quá trình tiêu
hóa để biến đổi thành axit amin. Từ các axit amin, cơ thể xây dựng thành các
protein trong mô và các chất hoạt động sinh lý khác. Dinh dưỡng axit amin
không chỉ quan tâm đến số lượng protein mà phải chú ý đến chất lượng
protein của thức ăn thông qua thành phần các axit amin không thay thế và
thay thế, cũng như tỷ lệ giữa chúng với nhau. Chất lượng protein càng cao thì

thành phần axit amin càng gần với thành phần axit amin của protein cơ thể
nhận nó. Trong dinh dưỡng axit amin, quan trọng phải xác định nhu cầu của
động vật, quá trình tiêu hóa và mức độ tiêu hóa của các chất này, xây dựng


17

được định mức thức ăn sao cho phù hợp với nhu cầu dinh dưỡng, đảm bảo
cho vật nuôi tăng trọng nhanh, chi phí thức ăn thấp và hiệu quả kinh tế cao.
1.1.2.1. Axit amin giới hạn
Axit amin giới hạn là các axit amin thiết yếu có mặt trong thức ăn hoặc
khẩu phần với hàm lượng thấp hơn so với nhu cầu cơ thể động vật. Điều đó
có nghĩa là trong khẩu phần có những axit amin thiết yếu bị thiếu làm giảm
hiệu quả sử dụng protein, những axit amin thiết yếu đó được gọi là các axit
amin giới hạn. Mức độ giới hạn của mỗi axit amin không phải do số lượng nó
ít hay nhiều so với các axit amin khác mà là do ít hay nhiều so với nhu cầu
của cơ thể gia súc.
Axit amin mà thiếu nhiều nhất so với nhu cầu được gọi là axit amin
giới hạn thứ nhất, axit amin tiếp theo đó là axit amin giới hạn thứ hai...
Công thức tính axit amin giới hạn:
Lượng một loại axit amin trong khẩu phần
P (%) =

x 100
Nhu cầu loại axit amin đó của gia súc

Các axit amin giới hạn một, hai, ba trong một số thức ăn phổ biến cho
lợn và gà được trình bày ở bảng 2.1
Bảng 1.1: Axit amin giới hạn một, hai, ba axit amin trong một số
nguyên liệu thức ăn phổ biến ở lợn và gà (Lê Đức Ngoan, 2002) [9].

Lợn

Thức ăn



Một

Hai

Ba

Một

Hai

Ba

Ngô

Lys

Thr

AAS*

Lys

Arg


Ile

Lúa gạo

Lys

AAS*

Thr

Lys

AAS*

Thr

Cám gạo

Lys

AAS*

Thr

Lys

AAS*

Ile



18

Khô dầu lạc

Lys

AAS*

Thr

Lys

AAS*

Thr

Khô đỗ tương

AAS*

Thr

Lys

AAS*

Thr

Val


Bột cá

Trp

Thr

AAS*

AAS*

Arg

Thr

Bột máu

Ile

AAS*

Thr

Ile

AAS*

Thr

Bột thịt xương


Trp

AAS*

Ile

AAS*

Trp

Ile

Thr

AAS*

AAS*: Axitn amin có lưu huỳnh ( Met + Cys)
Để đảm bảo sự cân đối của axit amin trong khẩu phần trước hết phải bổ
sung axit amin giới hạn thứ nhất đến mức nhu cầu của gia súc, sau đó bổ sung
các axit amin giới hạn tiếp theo. Việc sung axit amin giới hạn thứ hai trong
khi khẩu phần vẫn đang thiếu hụt axit amin giới hạn thứ nhất sẽ hạn chế kết
quả của việc bổ sung. Sau khi bổ sung axit amin giới hạn thứ nhất, tiếp tục bổ
sung axit amin giới hạn thứ hai sẽ cho kết quả cao hơn so với khi chỉ bổ sung
axit amin giới hạn thứ nhất.
1.1.2.2. Protein lý tưởng và tỷ lệ các axit amin trong khẩu phần ăn
Khái niệm protein lý tưởng bắt nguồn từ một giả thiết cho rằng: liệu có
một vài protein hoặc một hỗn hợp protein cung cấp các axit amin theo một tỷ
lệ chính xác đúng như đòi hỏi của gia súc ở trạng thái sinh lý và sức sản xuất
nhất định. Loại protein hay hỗn hợp protein nào đạt được yêu cầu này được

gọi là protein lý tưởng. Một đặc điểm nổi bật của việc ước tính nhu cầu
protein của lợn theo hướng này là quan tâm đến khả năng cân bằng lý tưởng
các axit amin. Sự cân bằng này có thể đem lại hiệu quả sử dụng protein khẩu
phần cao nhất và hiệu quả đó được đo bằng giá trị sinh vật học hoặc những
chỉ số liên quan. Theo phương pháp này, việc tính toán nhu cầu axit amin của


19

lợn dựa trên cơ sở lấy mức lysine làm chuẩn theo đó tính toán tỷ lệ các axit
amin khác (kể các axit amin thay thế và không thay thế).
Xác định tỷ lệ các axit amin là khái niệm cơ bản được nghiên cứu gần
đây, ở đó người ta có thể xác định được tỷ lệ các axit amin thiết yếu cân đối
tương ứng với nhu cầu của động vật, làm cho khẩu phần thỏa mãn tốt nhất.
Khẩu phần tỷ lệ tối ưu đó gọi là "protein lý tưởng".
"Protein lý tưởng" được ăn vào và tiêu hóa, sản phẩm của quá trình
phân giải một phần dùng cho duy trì, một phần dùng cho tích lũy protein hay
dùng cho tổng hợp sữa. Đó là 3 xu hướng chính trong quá trình hấp thu và
chuyển hóa axit amin từ khẩu phần thức ăn.
Quá trình tích lũy protein bị ảnh hưởng bởi sự thiếu hụt của các axit
amin trong khẩu phần. Khi cân bằng tối ưu axit amin (protein lý tưởng), tất cả
các axit amin đều đạt tới hạn tới ngưỡng như nhau. Protein lý tưởng cung cấp
chính xác số lượng axit amin theo nhu cầu của gia súc. Chúng ta biết rằng,
protein của khẩu phần chỉ có thể được sử dụng cho tích lũy nitơ nếu như các
axit amin của nó được hấp thụ trước khi chuyển đến phần cuối của hồi tràng.
Cole và Cs (1980) cho rằng với các giống lợn khác nhau, tính biệt, khối lượng
cơ thể hoặc sinh trưởng khác nhau thì có nhu cầu về khối lượng protein khác
nhau nhưng về mặt chất lượng (thành phần của các axit amin) của protein đó
không khác nhau.
Nếu protein của khẩu phần thiếu một hoặc nhiều axit amin thiết yếu thì

quá trình tích lũy protein chỉ được cải thiện khi bổ sung thêm các axit amin
này. Còn nếu protein của khẩu phần thiếu các axit amin không thiết yếu thì quá
trình tích lũy protein sẽ được cải thiện bằng bởi việc bổ sung bất kỳ axit amin
nào. Do đó, chúng ta có thể hiểu protein lý tưởng là loại protein sẽ không được
cải thiện bằng việc bổ sung thêm bất kỳ axit amin nào. Và chỉ khi bổ sung đồng
thời tất cả các axit amin thì quá trình tích lũy protein mới được cải thiện.


20

Để đánh giá chất lượng protein của khẩu phần người ta thường đánh
giá trên các mặt như sau: protein của thức ăn có chất lượng tốt hơn khi lợn
có tốc độ sinh trưởng nhanh, hệ số chuyển hóa thức ăn thấp hơn, tỷ lệ tích
lũy thịt nạc cao hơn, tỷ lệ thịt nạc/mỡ cao hơn, tích lũy nitơ cao hơn, quá
trình tổng hợp ure thấp hơn, nồng độ ure trong máu thấp hơn, tỷ lệ oxy hóa
axit amin thấp hơn…
Protein của khẩu phần là yếu tố duy nhất tác động đến tích lũy protein
và khi protein của khẩu phần là yếu tố duy nhất giới hạn quá trình tích lũy
protein cơ thể thì tích lũy nitơ được xác định bởi nồng độ của axit amin giới
hạn thứ nhất trong protein này.
Chúng ta có thể bổ sung thêm các axit amin cho đến khi không có axit
amin nào bị thiếu hụt trong protein đó hoặc lấy bớt đi các axit amin thừa để
tất cả các axit amin đều cùng ở mức tới hạn như nhau.
Trong protein lý tưởng, tỷ lệ các axit amin dựa trên mối quan hệ với
lượng protein trong khẩu phần, ở đây lysine được tính là 100%.
Đối với lợn sinh trưởng tỷ lệ này như sau: (Theo ARC 1981 [24],
Wang, Fuller 1989 [61], Cole 1992[38], Chung 1992) [36].
Lysine

:


100

Threonine

:

65

Methionine + Cystine

:

55

Trytophan

:

19

Arginine

:

42

Isoleucine

:


50

Leucine

:

100

Histidine

:

33

Phenylalanine + Tyrosine

:

100

Valine

:

70


21


Trong đó, cystine có thể chiếm tới 50% nhu cầu của các axit amin có chứa
lưu huỳnh và tyrosine có chứa 50% nhu cầu axit amin có chứa mạch vòng.
Methionine và phenylalanine có thể chuyển đổi thành cystine và tyrosine với
100% hoạt động. Việc chuyển đổi này theo tỷ lệ 1,2 methionine = 1 cystine.
Arginine là axit amin thiết yếu chỉ với gia súc non khi đang có cường
độ sinh trưởng mạnh, còn khi gia súc đã trưởng thành trong cơ thể có thể tự
tổng hợp đủ nhu cầu.
Tỷ lệ lý tưởng về các axit amin kể trên phù hợp với tất cả các loại lợn
sinh trưởng không tính đến di truyền, tính biệt và khối lượng.
Theo NRC (1998) [51], tỷ lệ lý tưởng của các axit amin đối với
lysine cho duy trì, tích lũy protein, tổng hợp sữa và mô cơ thể lợn được
trình bày ở bảng 2.2
Bảng 1.2. Tỷ lệ lý tưởng (%) các axit amin đối với Lysine cho duy trì, tích
lũy protein, tổng hợp sữa và mô cơ thể lợn (NRC, 1998)
Axit amin

Duy trì

Tích lũy Protein

Tổng hợp sữa

Mô cơ thể

Lysine

100

100


100

100

Arginine

- 200

48

66

105

Histidine

32

32

40

45

Isoleucine

75

54


55

50

Leucine

70

102

115

109

Methionine

28

27

26

27

123

55

45


45

50

60

55

60

Methionine
Cystine
Phenylalanine

+


22

Phenylalanine +

121

93

112

103

Threonine


151

60

58

58

Tryptophan

26

18

18

10

Valine

67

68

85

69

Tyrosine


Theo Lenis và Cs (1999) [46] nhu cầu về tỷ lệ giữa axit amin thiết yếu
với axit amin không thiết yếu là 50 : 50, tỷ lệ này càng quan trọng hơn đối với
các khẩu phần có mức protein thấp. Có thể tăng tỷ lệ giữa axit amin thiết yếu
và không thiết yếu lên 70 : 30 mà không làm giảm khả năng sử dụng nitơ ở
lợn và các axit amin thiết yếu bị khử amin được sử dụng có hiệu quả cho sự
tổng hợp các axit amin không thiết yếu.
* Trao đổi axit amin trong cơ thể
Các axit amin khi tiêu hoá và hấp thu sẽ được sử dụng theo các hướng
thể hiện ở sơ đồ:
Axit amin vào máu và tế bào

Tổng
hợp
protein

Tổng hợp
các chất đặc
biệt, chất có
hoạt tính
sinh học
(hormone,
enzim)

Oxi hoá
khử amin

Chuyển hoá
thành sản
phẩm trao

đổi gluxit và
lipit

Sơ đồ 1.3 : Sử dụng axit amin trong cơ thể

Thải axit
tự do
theo
nước
tiểu và
phân


23

Axit amin từ ống tiêu hoá đi vào máu, hệ bạch huyết và cùng với các
axit amin tổng hợp trong gan, trong các cơ quan và các mô khác nhau vận
chuyển đi khắp cơ thể. Cơ thể động vật sử dụng các axit amin này để tổng
hợp protein của các tế bào vừa mới hình thành trong quá trình sinh trưởng và
phát triền, thay thế cho tế bào đã chết, tổng hợp protein huyết tương, tổng hợp
các enzim, một số hormone; một lượng lớn axit amin đáng kể cũng được
chuyển hoá để giải phóng năng lượng.
Trong ống tiêu hoá, axit amin được hấp thu qua thành ruột vào máu
được vận chuyển tới các mô có khả năng tổng hợp protein mạnh mẽ. Các
axit amin được máu phân phát đi khắp các cơ quan và các mô khác nhau, sẽ
khuếch tán qua các mao quản của mô bào vào trong dịch gian bào và được
sử dụng để xây dựng nên các protein đặc trưng của các mô. Có sự cân bằng
giữa lượng protein trong máu với hàm lượng các axit amin trong mô. Trong
mô, quá trình tổng hợp và phân giải protein diễn ra liên tục, rất mạnh mẽ,
đặc biệt là gia súc non.

Buraczewska và Cs (1980) [29], qua quá trình nghiên cứu đã đưa ra kết
luận tỷ lệ hấp thu các axit amin thiết yếu ở phần trên của ruột lợn theo thứ tự
là Lys, Met, His, Phe, Leu, Tryp, Ileu, Thr.
Các xêto axit được tạo thành trong quá trình khử amin: một phần sử
dụng vào tổng hợp các axit amin, phần lớn bị khử cacboxyl tạo thành axit
béo, các axit béo này tiếp tục bị phân giải để cho sản phẩm cuối cùng là H2O
và CO2. Một số ít xêto axit có thể biến thành gluxit hoặc xêtonic. Sự trao đổi
protein, gluxit, lipit có quan hệ mật thiết với nhau. Các sản phẩm trung gian
của sự phân giải gluxit có thể biến thành axit amin, từ một số axit amin có thể
tổng hợp nên axit béo và ngược lại.
Lysine là một axit amin không thay thế quan trọng nhất đối với cơ
thể động vật. Trong phân tử lysine có hai nhóm amin (- NH2) và một nhóm


24

axit (- COOH). Khác với axit amin khác, lysine rất trơ trong quá trình trao
đổi chất, nhóm α – amin của nó rất ít tham gia phản ứng chuyển hoá với α
– Xetoglutaric.
Khi phân giải lysine bị khử amin hoá và sau hàng loạt những biến đổi
của nó, axit glutaric sẽ được tạo thành. Axit glutaric vừa hình thành dễ dàng
tham gia vào quá trình trao đổi chất, giai đoạn đầu của phản ứng sẽ tạo thành
các dẫn xuất của Coenzim A.
Trao đổi Lysine trong cơ thể gia súc
Lysine
Chuyển hoá amin
Axit ỏ xêto. ε aminocapric
H2O
Axit 3,4,5,6 Tetrahidropiridin 2 – Cacboxylic
+2H+

Axit pipecolic
- 2H+
Axit 2,3,4,5 - Tetrahidropiridin2 – Cacboxylic
+ H2O
Xemialdehit của α – Aminoadipic
+ H2O
- 2H+
Axit α – Aminoadipic
NH3

+ O2-

Axit α – Xetoadipic
+ H2O

- 2H+
- CO2


25

Axit glutaric
Sơ đồ 1.4.: Trao đổi lysine trong cơ thể
Axit amin không được dự trữ hoặc không được cơ thể sử dụng sẽ bị
biến đổi. Sự phân giải các axit amin thường bắt đầu bằng quá trình khử amin
hoá, kết quả tạo thành amoniac và axit hữu cơ. Amoniac là chất độc, nếu
trong máu và mô tích luỹ lượng lớn sẽ gây nguy hiểm. Cơ thể động vật có hai
hướng giải độc amoniac là tạo thành amit và ure.
1.1.3. Cân bằng axit amin
Cân bằng axit amin là sự cân đối axit amin giữa các axit amin, đặc biệt

là các axit amin không thay thế trong khẩu phần sao cho phù hợp với nhu cầu
cơ thể động vật nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng protein một cách tối ưu.
Giữa các axit amin trong thức ăn, ống tiêu hóa, các tổ chức luôn có cân
bằng động. Nếu axit amin dư thừa không dự trữ được trong tế bào sẽ bị sử
dụng chuyển hóa thành các chất hoặc làm nguồn cung cấp năng lượng như
gluxit dẫn đến hiệu quả sử dụng thức ăn kém.
Cân bằng axit amin có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì sự thiếu hụt hoặc
vắng một axit amin không thay thế bất kỳ nào trong khẩu phần đều ảnh hưởng
xấu đến việc sử dụng các axit amin khác cho quá trình sinh tổng hợp protein.
1.1.3.1.Sự thiếu hụt và dư thừa axit amin ở lợn
Trong thực tế chăn nuôi, chúng ta thường gặp các khẩu phần không cân
đối về thành phần axit amin và tỷ lệ giữa chúng với nhau, sự không cân đối
này thể hiện ở các mức khác nhau do thiếu hụt hoặc thừa hoặc đồng thời thiếu
hoặc thừa một hay một vài axit amin hoặc sự đối kháng giữa chúng và sự có
mặt không đồng thời trong khẩu phần.
Ở một số trường hợp, trong khẩu phần ăn, việc thừa hay thiếu axit amin
trong giới hạn nào đó thì cũng đồng nghĩa với việc thiếu hụt hay dư thừa
protein. Thiếu hụt hay dư thừa ở đây không chỉ bó hẹp là thừa hay thiếu tất cả


×