Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

theo dõi khả năng sản xuất của gà vbt nuôi tại nông hộ gia đình thuộc chương trình 30a huyện than uyên, tỉnh lai châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.33 MB, 79 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

HOÀNG THỊ ANH

THEO DÕI KHẢ NĂNG SẢN XUẤT CỦA GÀ VBT NUÔI
TẠI NÔNG HỘ GIA ĐÌNH THUỘC CHƯƠNG TRÌNH 30A
HUYỆN THAN UYÊN, TỈNH LAI CHÂU

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP - 2015


HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

HOÀNG THỊ ANH

THEO DÕI KHẢ NĂNG SẢN XUẤT CỦA GÀ VBT NUÔI TẠI
NÔNG HỘ GIA ĐÌNH THUỘC CHƯƠNG TRÌNH 30A
HUYỆN THAN UYÊN, TỈNH LAI CHÂU

CHUYÊN NGÀNH: CHĂN NUÔI
MÃ SỐ: 60.62.01.05

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM KIM ĐĂNG

HÀ NỘI, 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực, khách quan và chưa từng
dùng để bảo vệ lấy bất kỳ học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ để thực hiện luận văn đã được cám ơn
và các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Ngày

tháng 12 năm 2015
Tác giả luận văn

Hoàng Thị Anh

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page ii


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn, tôi đã
nhận được sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo, sự giúp đỡ, động
viên của bạn bè, đồng nghiệp và gia đình.
Nhân dịp hoàn thành luận văn, cho phép tôi được bày tỏ long kính trọng
và biết ơn sâu sắc tới giáo viên hướng dẫn TS. Phạm Kim Đăng – Giảng viên
khoa Chăn nuôi – Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã tận tình hướng dẫn, dành
nhiều công sức, thời gian và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tạp và
thực hiện đề tài.
Tôi xin bày tỏ long biết ơn chân thành tới Ban Giám đốc, Ban Quản lý đào
tạo, Bộ môn Sinh lý tập tính động vật, Khoa Chăn nuôi, Học viện Nông nghiệp
Việt Nam đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, thực hiện đề tài và hoàn

thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể lãnh đạo, cán bộ viên chức phòng Nông
nghiệp & Phát triển nông thôn huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu đã giúp đỡ và
tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi và giúp đỡ tôi về mọi mặt, động viên khuyến khích tôi hoàn thành luận
văn./.

Hà nội ngày 26 tháng 12 năm 2015
Học viên

Hoàng Thị Anh

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page iii


MỤC LỤC
Lời cam đoan

ii

Lời cảm ơn

iii

Mục lục

iv


Danh mục các từ viết tắt

vi

Danh mục bảng

vii

Danh mục hình

viii

Trích yếu luận văn

ix

PHẦN 1 MỞ ĐẦU

1

1.1

Đặt vấn đề

1

1.2

Mục tiêu nghiên cứu nhằm


2

1.3

Tính mới của vấn đề nghiên cứu

3

1.4

Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiến của đề tài

3

PHẦN 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU

4

2.1

Chương trình 30A tại huyện Than Uyên

4

2.1.1

Đặc điểm địa lý tự nhiên- kinh tế - xã hội của huyện Than UyênLai Châu

4


2.1.2

Chương trình 30A tại huyện Than Uyên

5

2.2

Giới thiệu về giống gà VBT được nuôi trên địa bàn huyện Than Uyên

7

2.2.1

Giới thiệu nguồn nguyên liệu tạo ra gà VBT và gà VBT được
chương trình 30A huyện Than Uyên tiếp nhận

7

2.2.2

Giới thiệu gà lai VBT

8

2.3

Cơ sở lý luận các tính trạng số lượng về năng suất trứng ở gia cầm


9

2.3.1

Bản chất di truyền của tính trạng số lượng

9

2.3.2

Các tính trạng số lượng liên quan đến khả năng đẻ trứng ở gia cầm

12

2.4

Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước

19

2.4.1

Tình hình nghiên cứu ngoài nước

19

2.4.2

Tình hình nghiên cứu trong nước


21

PHẦN 3 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

24

3.1

Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu

24

3.1.1

Đối tượng

24

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page iv


3.1.2

Địa điểm

24

3.1.3


Thời gian

24

3.2

Nội dung nghiên cứu

24

3.2.1

Tình hình kinh tế, xã hội của tại các xã thực hiện chương trình 30A
của huyện Than Uyên

24

3.2.2

Một số chỉ tiêu của gà mái VBT giai đoạn từ 03 đến 19 tuần tuổi

24

3.2.3

Năng suất trứng của gà VBT giai đoạn 20 đến 40 tuần tuổi nuôi
bằng phương thức và khẩu phần ăn khác nhau.

3.2.4


24

Tình hình chăn nuôi gà VBT sau khi thực hiện mô hình của
Chương trình 30A tại huyện Than Uyên

24

3.3

Phương pháp nghiên cứu

24

3.3.1

Phương pháp điều tra thực địa

24

3.3.2

Phương pháp triển khai thí nghiệm theo dõi các thông số kỹ thuật

25

3.3.3

Phương pháp xác định các chỉ tiêu nghiên cứu.


30

3.3.4

Phương pháp xử lý số liệu

32

PHẦN 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1

33

Tình hình kinh tế, xã hội các xã thuộc chương trình 30A huyện
Than Uyên

33

4.2

Kết quả theo dõi gà VBT nuôi giai đoạn hậu bị

35

4.2.1

Tỷ lệ nuôi sống từ 4 – 19 tuần tuổi của gà VBT nuôi tại hộ gia đình

36


4.2.2

Khối lượng cơ thể của gà mái VBT từ 4 – 19 tuần tuổi nuôi tại nông hộ

38

4.2.3

Lượng thức ăn thu nhận của gà mái VBT giai đoạn từ 1 – 19 tuần tuổi

43

4.3

Kết quả theo dõi gà mái VBT nuôi giai đoạn đẻ trứng

45

4.3.1

Theo dõi gà VBT nuôi ở hai phương thức khác nhau

45

4.3.2

Theo dõi gà VBT nuôi ở 2 khẩu phần khác nhau

51


4.4

Tình hình chăn nuôi gà VBT sau khi thực hiện mô hình của
Chương trình 30A tại huyện Than Uyên

54

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

62

1

Kết luận

62

2

Kiến nghị

62

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page v


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt


Nghĩa tiếng Việt

NXB

Nhà xuất bản

TT

Tuần tuổi

NT

Ngày tuổi

LTATT

Lượng thức ăn tiêu thụ

cs

Cộng sự

TB

Trung bình



Thức ăn


PTNT

Phát triển nông thôn

SLT

Sản lượng trứng

ĐVT

Đơn vị tính

VBT

Gà lai F1

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page vi


DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1

Theo dõi tỷ lệ nuôi sống gà VBT tại các mô hình từ 3 – 19 tuần tuổi

Bảng 3.2

Bố trí thí nghiệm theo dõi sinh trưởng của gà hậu bị từ 3 đến 19


26

tuần tuổi

26

Bảng 4.1

Đặc điểm của 03 xã vùng Dự án

34

Bảng 4.2

Tỷ lệ nuôi sống của gà mái VBT tại các điểm chăn nuôi

37

Bảng 4.3a Khối lượng cơ thể của gà mái VBT nuôi tại hộ ở xã Mường Cang

39

Bảng 4.3b Khối lượng cơ thể của gà mái VBT nuôi tại hộ ở xã Mường Kim

41

Bảng 4.3c Khối lượng cơ thể của gà mái VBT nuôi tại hộ ở xã Mường Than

42


Bảng 4.4

Lượng thức ăn tiêu thụ của gà mái VBT nuôi tại các hộ gia đình

44

Bảng 4.5

Tuổi thành thục sinh dục cua gà VBT nuôi tại các phương thức

46

Bảng 4.6

Tỷ lệ đẻ và năng suất trứng của gà mái VBT nuôi ở 2 phương thức

47

Bảng 4.7

Tiêu tốn thức ăn để sản xuất 10 trứng của gà VBT khi nuôi ở
hai phương thức

Bảng 4.8
Bảng 4.9

50

Tỷ lệ đẻ, năng suất trứng, TTTA/10 trứng của gà VBT nuôi ở 2

khẩu phần ăn khác nhau

52

So sánh hiệu quả kinh tế nuôi gà VBT ở 02 khẩu phần

54

Bảng 4.10 Kết quả chăn nuôi gà VBT tại các xã của Dự án từ tháng 9 năm
2014 đến tháng 07 năm 2015 (10 tháng)
Bảng 4.11 Biểu tổng hợp số liệu chăn nuôi gà VBT của Dự án qua các năm

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

58
60

Page vii


DANH MỤC HÌNH
Hình 4.1

Tỷ lệ nuôi sống của gà VBT

38

Hình 4.2a Khối lượng cơ thể của gà mái VBT nuôi tại hộ ở xã Mường Cang 40
Hình 4.2b Khối lượng cơ thể của gà mái VBT nuôi tại hộ ở xã Mường Kim 41
Hình 4.2c


Khối lượng cơ thể của gà mái VBT nuôi tại hộ ở xã Mường Than 43

Hình 4.3a Tỷ lệ đẻ của gà VBT nuôi ở 02 phương thức

48

Hình 4.3b Biểu đồ đẻ trứng của gà VBT nuôi ở 02 phương thức

49

Hình 4.4

Biểu đồ đẻ trứng của gà VBT nuôi với 02 khẩu phần ăn khác nhau 53

Hình 4.5

Tỷ lệ đẻ của gà VBT nuôi khẩu phần ăn khác nhau

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

53

Page viii


TRÍCH YẾU LUẬN VĂN
Sử dụng gà giống VBT của Trung tâm Thực nghiệm và Bảo tồn Vật nuôi
– Viện Chăn nuôi quốc gia cung cấp cho các hộ được lựa chọn trên địa bàn
huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu. Với tổng số 12.000 gà giống 21 ngày tuổi hỗ

trợ cho 200 hộ dân. Xã Mường Than 90 hộ tham gia được cấp với 5.400 con gà
giống, xã Mường Cang 60 hộ với 3.600 con gà giống và xã Mường Kim 50 hộ
với 3.000 con gà giống. Kiểm tra và theo dõi gà nuôi tại 9 hộ đại diện ở 3 xã của
Dự án. Tổng số gà cân theo dõi là 90 con/tuần (mỗi hộ có số gà được cân xác
định hàng tuần từ 30 – 35 con). Kết quả theo dõi cho thấy sinh trưởng của gà mái
hậu bị tăng dần theo tuần tuổi, điều này cũng phù hợp với quy luật sinh trưởng và
phát triển chung của gia cầm. Khối lượng cơ thể của gà đều đạt thấp hơn so với
chuẩn từ 100 – 202 gam/con (tại tuần 6 thấp hơn so với tiêu chuẩn là 202
gam/con, tại tuần 8 thấp hơn so với tiêu chuẩn là 180 gam/con).
Phương thức nuôi nhốt cho ăn bằng thức ăn đậm đặc với ngô, cám gạo, có
tỷ lệ đẻ bình quân tính đến 40 tuần tuổi là 47,08%, năng suất trứng/mái/40 tuần
tuổi đạt 69,21 quả, mức TTTA/10 trứng là 3,29kg. Đối với gà nuôi ở phương
thức bán chăn thả tỷ lệ đẻ đạt 43,9%, năng suất trứng/mái/40 tuần tuổi đạt 64,61
quả, mức TTTA/10 trứng là 3,51kg. Cho gà VBT ăn khẩu phần gồm thức ăn đậm
đặc trộn với ngô và cám gạo cũng như ăn khẩu phần thức ăn đậm đặc trộn với
ngô và thóc tẻ gà đạt năng suất trứng tương đương nhau và dao động ở mức là
64,38 – 64, 64 quả/mái/40 tuần tuổi và mức TTTA/10 trứng dao động từ 3,46 –
3,48kg.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page ix


PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Than Uyên là huyện nghèo nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Lai Châu, có
đặc điểm về điều kiện tự nhiên, đất đai có nhiều thuận lợi cho phát triển sản xuất
nông nghiệp. Song với điểm xuất phát từ nền kinh tế thấp, cơ sở hạ tầng kém

phát triển, diện tích đất tự nhiên chủ yếu là đồi núi, dân cư phần lớn là người dân
tộc thiểu số, giao thông, hệ thống điện lưới, cơ sở vật chất còn gặp nhiều khó
khăn, thiếu thốn. Sản xuất nông nghiệp nói chung và chăn nuôi chăn nuôi gia
cầm nói riêng còn manh mún, nhỏ lẻ, phân tán. Nhận thức về kinh tế thị trường
cung - cầu của người dân còn hạn chế, nên các hộ ít đầu tư vào sản xuất chăn
nuôi gia cầm. Việc tiếp cận, nắm bắt kiến thức, kỹ thuật chăn nuôi chưa được
quan tâm thường xuyên, vì vậy hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi chưa cao. Chăn
nuôi chủ yếu là giống địa phương có năng suất thấp. Theo số liệu được phòng
Lao động và Thương binh xã hội (TBXH) huyện Than Uyên cung cấp, số hộ
nghèo trong toàn huyện năm 2009 có 3.857 hộ, năm 2014 có 2.698 hộ, chiếm tỷ
lệ từ 23,3 – 19,5% trong tổng số hộ của toàn huyện.
Xóa đói giảm nghèo là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, nhằm cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu hẹp khoảng cách về
trình độ phát triển giữa các vùng, địa bàn, và giữa các nhóm dân tộc, nhóm dân
cư. Chính phủ đã ra Nghị quyết số 30A/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 (gọi tắt là
Chương trình 30A của Chính phủ) về việc hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững
đối với 62 huyện nghèo cả nước và huyện Than Uyên là một trong 62 huyện trên,
được hưởng lợi ích từ chương trình này. Chính sách hỗ trợ được thực hiện từ
năm 2009 với các nội dung như: xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông nông thôn,
giáo dục, y tế, hỗ trợ sản xuất nông lâm ngư nghiệp. Trong đó hỗ trợ sản xuất
chăn nuôi gia cầm từ năm 2010 đến nay dưới hình thức xây dựng mô hình theo
quy mô chăn nuôi gia cầm nông hộ từng vùng kết hợp tập huấn, chuyển giao
khoa học kỹ thuật đến từng nhóm hộ gia đình nhằm thay đổi nhận thức của người
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 1


dân trong sản xuất chăn nuôi.
Để sản xuất chăn nuôi gia cầm phát triển, phát huy tốt các chính sách hỗ

trợ, từng bước chuyển dịch cơ cấu sản xuất ngành chăn nuôi nói chung, sản xuất
chăn nuôi gia cầm nói riêng theo hướng chất lượng, nâng cao hiệu quả, thực hiện
tốt được mục tiêu của Chương trình 30A. Từ tháng 10/2013 phòng Nông nghiệp
& Phát triển nông thôn (PTNT) huyện Than Uyên đã lựa chọn và nhập giống gà
VBT cho một số xã nghèo trên địa bàn huyện và hỗ trợ kĩ thuật nuôi dưỡng,
chăm sóc. Đây là giống gà mới của Trung tâm Thực nghiệm và Bảo tồn vật nuôi
- Viện Chăn Nuôi Quốc gia sản xuất và được lai tạo giữa gà trống Zolo với gà
mái Lương Phượng theo tỉ lệ lai pha máu thích hợp. Gà VBT thuộc hướng kiêm
dụng và có nhiều ưu điểm nổi trội so với gà Lương Phượng là có tính chịu nóng
tốt, thích ứng với nhiều vùng sinh thái và chăn nuôi tốt ở phương thức nuôi nhốt
cũng như bán chăn thả. Gà mái VBT trưởng thành có màu lông đồng nhất màu
vàng nâu đất đốm đen, mào đơn, mào tai trắng, da chân vàng, da thịt vàng (Vũ
Ngọc Sơn, 2010). Khối lượng cơ thể gà mái lúc 19 tuần tuổi đạt từ 1.850 đến
1.900g/con, có tuổi đẻ trứng đầu lúc 135 ngày và năng suất trứng/mái/72 tuần
tuổi đạt 180 – 185 quả. Khối lượng trứng đạt 51 - 52g/quả, màu vỏ trứng phớt
hồng tương tự trứng gà nội (Vũ Ngọc Sơn, 2010; Trần Quốc Hùng, 2012). Với
đặc điểm này gà VBT có thể kết hợp vừa nuôi lấy thịt và nuôi lấy trứng, rất phù
hợp với điều kiện sản xuất chăn nuôi tại huyện Than Uyên khi lựa chọn con
giống để cung ứng cho các hộ dân tham gia Dự án.
Xuất phát từ thực tiễn đó, để đánh giá được hiệu quả chăn nuôi gia cầm
thực hiện Chương trình 30A của huyện Than Uyên. Nghiên cứu này đã triển khai
theo dõi: “Theo dõi khả năng sản xuất của gà VTB nuôi tại nông hộ gia đình
thuộc chương trình 30A tại huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu”
1.2. Mục tiêu nghiên cứu nhằm
- Theo dõi khả năng sản xuất của đàn gà mái VBT nuôi tại các phương
thức và áp dụng khẩu phần ăn khác nhau nhằm lựa chọn được phương thức nuôi
và khẩu phần ăn thích hợp để khuyến cáo áp dụng trong sản xuất chăn nuôi gia
cầm thuộc Chương trình 30A ở huyện Than Uyên
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp


Page 2


1.3. Tính mới của vấn đề nghiên cứu
- Công trình của luận văn lần đầu tiên triển khai nghiên cứu nuôi gà VBT
tại huyện miền núi vùng cao, áp dụng các kỹ thuật tiên tiến so với cách nuôi
truyền thống của nông hộ.
1.4. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiến của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa khoa học
- Từ kết quả theo dõi gà VBT nuôi đẻ trứng tại nông hộ thuộc chương
trình 30A ở huyện Than Uyên với phương thức nuôi và áp dụng khẩu phần ăn
phù hợp sẽ tiến hành xây dựng được quy trình chăn nuôi gà VBT có hiệu quả
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đánh giá được khả năng sản xuất của đàn gà VBT trong điều kiện chăn
nuôi nông hộ tại Than Uyên để có cơ sở cho việc tiếp nhận các giống vật nuôi
phù hợp với điều kiện của vùng trong các chương trình hỗ trợ cho người nghèo.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 3


PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Chương trình 30A tại huyện Than Uyên
2.1.1. Đặc điểm địa lý tự nhiên- kinh tế - xã hội của huyện Than Uyên- Lai
Châu
2.1.1.1. Đặc điểm về điều kiện địa lý – tự nhiên.
Than Uyên là môt vùng đất lòng chảo, nằm ở phía tây dãy núi Hoàng Liên
Sơn, được hình thành 3 khu vực rõ rệt:

- Khu vực phía Đông là sườn núi phía Tây của dãy núi cao Phan Xi Păng,
có địa hình hiểm trở, độ dốc lớn.
- Khu vực phía Tây là đồi núi thấp thuộc dãy Pu San Cáp độ cao từ 6001.800m.
- Khu vực giữa: Chạy dọc theo Quốc lộ 32 từ Phúc Than đến Khoen On,
một thung lũng có cấu tạo là những đồi núi xen lẫn với những dải đồng bằng có
độ cao từ 500 – 650 m so với mặt biển.
Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện: 79.687,6 ha, trong đó:
- Diện tích đất nông nghiệp: 31.890,2 ha.
- Đất sản xuất nông nghiệp: 6.163,9 ha.
- Đất lâm nghiệp: 25.673,8 ha.
- Đất phi nông nghiệp: 3.813,3 ha.
- Đất chưa sử dụng: 43.984,0 ha.
Huyện gồm 1 thị trấn (Than Uyên) và 11 xã trực thuộc (Pha Mu, Mường
Mít, Phúc Than, Mường Than, Mường Cang, Hua Nà, Tà Hừa, Tà Mung, Mường
Kim, Ta Gia, Khoen On).
2.1.1.2. Đặc điểm về dân cư
Tính đến năm 2014, dân số của huyện là 59,78 nghìn người thuộc các dân
tộc, trong đó chủ yêu là dân tộc Thái chiếm 71,23%, dân tộc Kinh chiêm 13,62%,
dân tộc Mông 9,95%, dân tộc Dao 0,6%, dân tộc Khơ Mú 1,96%, dân tộc Tày
0,3%, còn lại là các dân tộc khác.
2.1.1.3. Đặc điểm về kinh tế - xã hội
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 4


+ Về kinh tế:
Với điều kiện tự nhiên đồi núi là chủ yếu, cơ sở vật chất: điện, đường
trường, trạm còn nhiều thiếu thốn, dân cư chủ yếu là đồng bào dân tộc, trình độ
chưa cao…Than Uyên hiện còn đang là một trong 62 huyện nghèo của cả nước,

cơ cấu kinh tế kinh tế theo GDP: Nông- lâm- ngư nghiêp 40%, công nghiệp – xây
dựng 31%, thương mại – dịch vụ 29%. Bình quân GDP (giá hiện hành) là 17,6
triệu đồng/người/ năm. Tổng sản lượng lương thực có hạt là 26000 tấn, tốc độ
tăng đàn gia súc ổn định 5,5 %. Thu ngân sách trên địa bàn 62 tỉ đồng, ngân sách
địa phương thụ hưởng là 44,2 tỉ đồng. Cho đến thời điểm này, Than Uyên đang
nhận hỗ trợ nguồn ngân sách từ Trung ương là chủ yếu về an sinh xã hội.
+Về xã hội:
Trên địa bàn huyện tất cả 12/12 xă, thị trấn đã có điện lưới quốc gia, 91%
hộ được sử dụng điện luới.
Y tế: 4 bác sĩ/ 1vạn dân, một số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế
Giáo dục: phổ cập giáo dục và chất lượng giáo dục đào tạo ở các cấp học
được nâng cao.
Tỉ lệ hộ nghèo còn cao 19,66%, tỉ lệ lao động được đào tạo tập huấn
3,18% so với tổng số lao động trên địa bàn huyện
2.1.2 Chương trình 30A tại huyện Than Uyên
Mặc dù Nghị quyết 30A được đưa ra từ năm 2008 nhưng đến năm 2009
mới triển khai Nghị định. Đến nay chương trình đã thực hiện được 5 năm.
Mục tiêu của chương trình 30A là tạo sự chuyển biến nhanh hơn về đời
sống vật chất tinh thần của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, đảm bảo đến
năm 2020 đạt ngang bằng với các huyện khác trong khu vực. Hỗ trợ phát triển
sản xuất nông nghiệp bền vững nhằm khai hác tốt thế mạnh của địa phương
hướng tới cơ bản xóa đói giảm nghèo một cách bền vững. Điều này có nghĩa là
các nội dung mà chương trình 30A đưa ra không chỉ giúp người dân miền núi
một cách tức thời mà sau đó người dân có thể tự mình vươn lên xóa đói, giảm
nghèo tiến tới làm giàu.
Mục tiêu của chương trình 30A về nội dung hỗ trợ sản xuất đã thực hiện
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 5



nhiều danh mục trên nhiều lĩnh vực khác nhau: hỗ trợ con giống, cây giống, hỗ
trợ khuyến nông - khuyến lâm - khuyến ngư, hỗ trợ xây dựng chuồng trại, tập
huấn cho cán bộ làm công tác khuyến nông, khuyến lâm, tập huấn nghiệp vụ 30A
cho các trưởng thôn bản.. Nhưng nội dung hỗ trợ sản xuất, khuyến nông - khuyến
lâm - khuyến ngư được chú trọng quan tâm và đầu tư dàn đều cho cả giai đoạn.
Hỗ trợ sản xuất bao gồm chương trình sẽ hỗ trợ giống cây trồng, giống vật
nuôi, phân bón, tập huấn về kỹ thuật trồng trọt, nuôi dưỡng, chăm sóc, phòng
chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm... ở các hộ nghèo.
Các giống cây trồng vật nuôi được xem xét để phù hợp với điều kiện tự
nhiên, khí hậu, kinh tế, xã hội của địa phương: lợn lai 3/4 máu nội, trâu bò, gà
lông màu, vịt, cá...
Sau khi kết thúc mỗi mô hình, cơ quan chuyên môn có trách nhiệm sẽ tiến
hành tổng kết, nếu mô hình có hiệu quả thì tiến hành vận động người dân tiếp tục
triển khai mô hình và nhân ra với diện rộng.
Việc thực hiện tiếp nhận nguồn vốn để hỗ trợ sản xuất cho các hộ dân
được UBND huyện giao cho phòng Nông nghiệp & PTNT huyện Than Uyên trực
tiếp quản lý điều hành như sau:
+ Phòng Nông nghiệp và PTNT phối hợp cùng phòng Lao động TBXH,
phòng Dân tộc tiến hành khảo sát các hộ thuộc diện hộ nghèo chưa từng hưởng
hỗ trợ khác trong hai năm liền kề từ các chương trình hỗ trợ trước đó (134, 135,
tái định cư...)
+ Kết hợp cùng Trạm Khuyến nông lên kế hoạch lựa chọn giống vật nuôi,
cây trồng phù hợp với điều kiện sản xuất, vùng đất thâm canh tại địa phương
trong mức ngân sách hỗ trợ đã được phê duyệt theo quy định.
+ Kết hợp với UBND các xã cấp phát vật tư cho các hộ đạt tiêu chuẩn, trợ
giúp về kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng chống dịch bệnh cho đàn gia súc,
gia cầm.
+ Tổng kết lại nội dung đã thực hiện: kết quả đã đạt được, thuận lợi, khó khăn.
những đề xuất, kiến nghị sau thực hiện mô hình.


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 6


2.2. Giới thiệu về giống gà VBT được nuôi trên địa bàn huyện Than Uyên
2.2.1. Giới thiệu nguồn nguyên liệu tạo ra gà VBT và gà VBT được chương
trình 30A huyện Than Uyên tiếp nhận
Gà VBT là gà lai F1 được tạo ra từ kết quả lai tạo giữa 2 nguồn nguyên
liệu là gà Zolo với gà Lương Phượng. Giới thiệu nguồn nguyên liệu như sau:
a) Đặc điểm ngoại hình, khả năng sinh trường và sinh sản của gà Zolo
Gà Zolo là giống gà hướng trứng thịt, được nhập vào Viện Chăn nuôi
từ tháng 5/2007. Đây là giống gà lông màu có chất lượng thịt, trứng thơm
ngon. Qua theo dõi tại Trung tâm Thực nghiệm và Bảo tồn vật nuôi: Gà Zolo lúc
01 ngày tuổi có lông màu vàng pha nâu đen, có sọc đen to ở giữa lưng, hai bên là
sọc kép đen nhỏ, màu sắc chân; mỏ trắng hồng. Ở gà trưởng thành thì gà mái có
lông màu nâu đất, cườm cổ vàng đốm đen, mào tích đơn đỏ to vừa phải, gà trống
lông màu đen đỏ, phía dưới lườn bụng lông màu đen, mào tích đơn đỏ to, cườm
cổ vàng, lông đuôi cong xanh đen. Cả gà trống và gà mái có da chân vàng, mỏ
vàng, mào tai trắng đồng nhất (Vũ Ngọc Sơn và Phạm Công Thiếu. 2010).
Giống gà Zolo là giống gà có sức sống tốt, tỷ lệ nuôi sống cao qua các giai
đoạn nuôi, giai đoạn gà con (0 - 9 tuần tuổi) đạt từ 96,42 - 97,80%, giai đoạn gà
dò (10 - 19 tuần tuổi) đạt từ 98,42 - 98,78%. Khối lượng cơ thể ở 19 tuần tuổi thì
gà trống đạt từ 1557,2 - 1565,0g/con, gà mái từ 1374,8 - 1400,0 (g). Lượng thức
ăn tiêu thụ từ 0-19 tuần tuổi trung bình gà trống 7884 g/con; gà mái 7583,75
g/con (Vũ Ngọc Sơn và Phạm Công Thiếu, 2000).
So với gà Lương Phượng và một số giống gà lông màu khác thì gà Zolo
có khả năng sinh sản cao hơn. Theo dõi nhận thấy, tuổi đẻ trứng đầu của gà Zolo
là khá sớm (146 ngày tuổi), tuổi đẻ đạt 5% là 159 ngày tuổi, tuổi đẻ đạt 30% là

177 ngày tuổi, tuổi đẻ đỉnh cao là 207 ngày tuổi. So sánh với gà Ai Cập hướng
trứng (Phùng Đức Tiến và cs., 2004) có tuổi đẻ 5% là 148,6 ngày tuổi và đạt đỉnh
cao ở 210 ngày tuổi thì tuổi thành thục sinh dục của hai giống gà này là tương
đương.. Gà Zolo có tỷ lệ đẻ bình quân/72 tuần tuổi từ 49,91- 50,17%, tương ứng
đạt 181,7 - 182,62% quả/mái/72 tuần tuổi, TTTĂ/10 trứng thấp dao động từ 2,19
- 2,2 kg. Tỷ lệ phôi đạt cao 93,56%, tỷ lệ nở gà loại 1/tổng trứng ấp 81,03%.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 7


Như vậy, giống gà Zolo là nguồn gen qúy, cần khai thác phát triển cũng
như thử nghiệm một số tổ hợp lai để tạo con lai phục vụ sản xuất.
b) Đặc điểm ngoại hình, khả năng sinh trưởng và sinh sản của gà Lương
Phượng
Gà Lương Phượng là giống gà thịt lông màu do Xí nghiệp gia cầm thành
phố Nam Ninh (Quảng Tây, Trung Quốc) lai tạo thành công sau hơn 10 năm
nghiên cứu sử dụng gà trống địa phương lai với gà dòng mái nhập từ nước ngoài
(Nguyễn Duy Hoan, 1998).
Gà Lương phượng đã được nhập vào nuôi tại Việt Nam từ năm 1998 và
hiện nay là gà giống gốc đang được nuôi giữ giống tại Trung tâm nghiên cứu gia
cầm Thụy Phương và một số đơn vị khác của Viện Chăn nuôi và được tách thành
03 dòng thuần là dòng LV1, LV2, LV3
Gà Lương Phượng, gà mái có màu lông vàng tuyền, vàng đốm hoa, đen
đốm hoa; mào, tích có màu đỏ. Gà trống có mào đơn, ngực nở, lưng thẳng, lông
đuôi vươn cong,chân cao vừa phải. Gà mái đầu nhỏ, thân hình chắc, mỏ, chân và
da màu vàng. Gà Lương Phượng nuôi thịt 10 tuần tuổi gà trống đạt 1.934 gam, gà
mái 1.585 gam; 12 tuần tuổi gà trống đạt 2.616 gam, gà mái 2.096 gam, tiêu tốn
thức ăn cho 1kg tăng trọng 2,28 – 2,74 kg, chất lượng thịt thơm và mềm (Đào
Văn Khanh, 2001). Theo Nguyễn Huy Đạt và cs (2000), tuổi đẻ quả trứng đầu

tiên của gà Lương Phương là 143 – 147 ngày tuổi. Tỷ lệ đẻ đạt 5% lúc 149 – 152
ngày tuổi, tỉ lệ đẻ trứng trung bình từ 46,23 – 54,05%, năng suất trứng/mái/72
tuần tuổi (155 - 160 quả), tiêu tốn thức ăn/10 trứng cao từ 2,7 – 2,8kg , tỷ lệ ấp
nở của trứng đạt đạt 80 - 81%. Nhìn chung gà Lương Phượng có màu lông đa
dạng và gần giống với các giống gà nội, gà khá dễ nuôi, tính thích nghi cao chịu
đựng tốt với khí hậu nóng ẩm. Tuy nhiên gà Lương phượng có yếu điểm là chỉ
thích hợp với phương thức nuôi nhốt trong chuồng, có nhu cầu dinh dưỡng cao,
gà chịu nóng kém do có lớp mỡ dưới da nhiều. So với các giống gà nội, gà
Lương Phượng có khả năng sinh trưởng, sinh sản tốt hơn.
2.2.2. Giới thiệu gà lai VBT
Nhằm kết hợp các đặc điểm tốt của gà Zolo với gà Lương phượng để lai tạo
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 8


ra con lai phục vụ sản xuất. Trung tâm Thực nghiệm và Bảo tồn vật nuôi đã tiến
hành cho lai giữa gà trống Zolo với gà mái Lương Phượng. Tổ hợp lai này chỉ sử
dụng gà mái làm mái nền nuôi sinh sản, gà trống sử dụng nuôi thương phẩm. Khi
trưởng thành gà mái VBT chủ yếu có lông màu vàng nâu, đốm đen (74,48 đến
88,27%), vàng đốm đen (9,66- 24,14%) và vàng nâu đỏ (1,38- 2,07%), mào cờ,
mào tích đỏ tươi, mào tai trắng, da, chân, mỏ của gà đều có màu vàng.
Theo công bố của Viện Chăn nuôi, gà có tỷ lệ nuôi sống cao, giai đoạn gà
con (0-6 tuần tuổi) là 95,83%, giai đoạn hậu bị (7- 20 tuần tuổi ) đạt 96,97 % .
Khi 12 tuần tuổi, tỷ lệ nuôi sống đạt 97,33%. Khối lượng cơ thể 63 ngày tuổi 950
– 1000g/con, và khối lượng cơ thể tại 19 tuần tuổi gà mái đạt 1800 – 1850 g/con.
Tuối đẻ đạt tỷ lệ 5% ở 155 - 160 ngày, năng suất trứng/ mái /72 tuần tuổi đạt 180
– 190 quả, tiêu tốn thức ăn/10 trứng là 2,4 – 2,5 kg, khối lượng trứng từ 51 - 52
g/quả. Trứng có vỏ màu trắng bóng phớt hồng, tỉ lệ lXng đỏ đạt 28,5 – 29%.Tỷ lệ
nở gà loại 1/ trứng ấp đạt 82,09%, số gà con loại 1/ mái mẹ đạt 78,56 con (Trần

Quốc Hùng, 2012).
Trong khuôn khổ chương trình 30A – xóa đói giảm nghèo, Phòng Nông
nghiệp và PTNT huyện Than Uyên đã sử dụng gà giống VBT của Trung tâm
Thực nghiệm và Bảo tồn vật nuôi về cung cấp cho các hộ được lựa chọn trên địa
bàn huyện. Với tổng số 12.000 gà giống 21 ngày tuổi hỗ trợ cho 200 hộ dân. Xã
Mường Than 90 hộ tham gia được cấp với 5.400 con gà giống, xã Mường Cang
60 hộ với 3.600 con gà giống và xã Mường Kim 50 hộ với 3.000 con gà giống.
2.3. Cơ sở lý luận các tính trạng số lượng về năng suất trứng ở gia cầm
2.3.1. Bản chất di truyền của tính trạng số lượng
Theo Nguyễn Văn Thiện (1995), các tính trạng sản xuất là các tính trạng số
lượng như khối lượng cơ thể, kích thước các chiều đo, năng suất trứng, khối
lượng trứng. Cơ sở di truyền của các tính trạng số lượng là do các gen nằm trên
nhiễm sắc thể quy định. Các tính trạng số lượng là những tính trạng mà ở đó sự
sai khác nhau giữa các cá thể là sai sự sai khác nhau về mức độ hơn là sự sai
khác nhau vè chủng loại và sự sai khác này chính là nguồn vật liệu cung cấp cho
chọn lọc tự nhiên cũng như chọn lọc nhân tạo. Khi nghiên cứu các tính trạng về
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 9


năng suất của gia cầm được nuôi trong điều kiện cụ thể, thực chất là nghiên cứu
các đặc điểm di truyền số lượng và ảnh hưởng của những tác động môi trường
lên các tính trạng đó.
Tính trạng số lượng còn được gọi là tính trạng đo lường, vì sự nghiên cứu
của chúng phụ thuộc vào sự đo lường như mức độ tăng trọng, kích thước các
chiều đo, khối lượng trứng khi cân được, sản lượng trứng khi đong đếm
được.....Bộ phận di truyền có liên quan đến tính trạng số lượng được coi là di
truyền học số lượng. Di truyền học số lượng vẫn lấy các quy luật di truyền của
Mendel làm cơ sở, nhưng do đặc điểm riêng của tính trạng số lượng so với tính

trạng chất lượng trong đối tượng nghiên cứu của di truyền Mendel về 02 phương
diện đó là: thứ nhất là các đối tượng nghiên cứu không thể dừng lại ở mức độ cá
thể mà phảỉ được mở rộng tới mức độ quần thể bao gồm các nhóm cá thể khác
nhau, thứ hai là sự sai khác giữa các cá thể không chỉ là sự phân loại mà nó đòi
hỏi phải có sự đo lường cụ thể các cá thể.
Nghiên cứu đặc điểm di truyền học của tính trạng số lượng, bên cạnh việc
vận dụng các quy luật di truyền của Mendel còn phải sử dụng các khái niệm toán
thống kê xác xuất để phân tích các giá trị di truyền.
Giá trị đo lường được của tính trạng số lượng trên một cá thể được gọi là
giá trị kiểu hình(phenotyphic value) của cá thể đó. Các giá trị có liên quan đến
kiểu gen là giá trị kiểu gen(genotyphic value) và giá trị có liên quan đến môi
trường là sai lệch môi trường(environmental evitation). Như vậy có nghĩa là kiểu
gen quy định một giá trị nào đó của cá thể và môi trường gây ra một sự sai lệch
với giá trị kiểu gen theo hướng này hoặc hướng khác. Quan hệ trên có thể biểu
thị như sau:
P=G+E
Trong đó: P là giá trị kiểu hình
G là giá trị kiểu gen
E là sai lệch môi trường
Nếu trung bình sai lệch môi trường của một quần thể bằng 0 thì trung bình
giá trị kiểu hình bằng trung bình của giá trị kiểu gen.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 10


Giá trị kiểu gen của tính trạng số lượng do nhiều gen có hiệu ứng nhỏ
(minor gene) cấu tạo thành, đó là các gen mà hiệu ứng riêng biệt của từng gen thì
rất nhỏ nhưng tập hợp nhiểu gen lại thì sẽ có ảnh hưởng rõ rệt tới tính trạng nghiên
cứu và hiện tượng này gọi là hiện tượng đa gen (polygene). Môi trường có ảnh

hưởng rất lớn đến tính trạng số lượng, trong khi với tính trạng chất lượng thì rất ít
chịu ảnh hưởng của môi trường. Tác động của môi trường bao gồm có nhiệt độ, độ
ẩm, thức ăn, bệnh tật, nước uống, ánh sáng.....lên tính trạng số lượng rất lớn chúng
có thể làm kìm hãm hoặc phát huy, làm thay đổi các giá trị của tính trạng
Giá trị kiểu gen (G) hoạt động theo 3 phương thức: cộng gộp, trội và át gen.
Người ta đã biểu thị kiểu di truyền (G) bằng công thức sau: G = A+ D + I ;
Trong đó :
G: là giá trị kiểu gen ( genotypic value )
A: là giá trị cộng gộp ( additive value )
D: là giá trị sai lệch trội (dominance deviation value)
I : là giá trị sai lệch tương tác (Interaction deviation value)
Ngoài ra các tính trạng số lượng còn chịu ảnh hưởng nhiều của môi trường
(E – Evironmental)) và có 2 loại môi trường chính :
- Sai lệch môi trường chung (Eg): là sai lệch do các yếu tố môi trường tác
động lên toàn bộ các cá thể trong nhóm vật nuôi, loại yếu tố này có tính chất
thường xuyên như: thức ăn, khí hậu...
- Sai lệch môi trường riêng (Es): là sai lệch do các yếu tố môi trường tác
động riêng rẽ lên từng cá thể trong nhóm vật nuôi, hoặc ở giai đoạn nhất định
trong cuộc đời con vật. Loại này có tính chất không thường xuyên. Nếu bỏ qua
mối tương tác giữa di truyền và ngoại cảnh thì quan hệ của kiểu hình (P), kiểu
gen (G) và môi trường (E) của một cá thể được xác định bởi kiểu gen có từ hai
locut trở lên có giá trị là:
P=G+E
Trong đó : G = A + D + I ; E = Eg + Es ;
P = A + D + I + Eg + Es.
Từ công thức trên cho thấy các giống gia cầm cũng như các sinh vật khác,
con cái đều nhận được từ bố mẹ một số gen quy định tính trạng số lượng nào đó.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 11



Tính trạng đó được xem như nhận từ bố mẹ một khả năng di truyền song khả
năng đó có phát huy được hay không còn phụ thuộc và môi trường sống như chế
độ chăm sóc, nuôi dưỡng, quản lý... Theo Dicker Son (1952) nhấn mạnh rằng
tương tác giữa kiểu di truyền và môi trường là rất quan trọng đối với nghành
chăn nuôi gia cầm. Do đó việc chọn lọc nâng cao năng suất một tính trạng nào đó
hoặc lai tạo ra một giống mới, việc nghiên cứu di truyền các tính trạng số lượng
là vấn đề hết sức cần thiết.
2.3.2. Các tính trạng số lượng liên quan đến khả năng đẻ trứng ở gia cầm
2.3.2.1. Cơ sở khoa học của năng suất trứng ở gia cầm
Các nhà phôi thai học cho rằng trứng gia cầm nói chung và trứng gà nói
riêng là một tế bào sinh sản khổng lồ gồm lòng đỏ, lòng trắng, màng vỏ và vỏ.
Buồng trứng có chức năng tạo thành lòng đỏ, còn các thành phần khác như lòng
trắng, màng vỏ và vỏ do ống trứng tạo nên. Nhiều công trình nghiên cứu đã
khẳng định ở gà mái, trong quá trình phát triển phôi 2 bên phải, trái của gà mái
đều có buồng trứng, nhưng sau khi nở thì buồng trứng bên phải tiêu biến, chỉ còn
lại buồng trứng bên trái (Vương Đống, 1968 ).
Số lượng tế bào trứng theo một số tác giả có khác nhau: Pearl và
Schoppe (1921) đếm được 1.906 trứng bằng mắt thường và 12.000 trứng bằng
kính hiển vi. Theo Jull (1939 – 1948) thì cho rằng ở gà mái thời kỳ đẻ trứng
có thể đếm được 3.600 trứng, trong khi đó Hutt (1978) đã đếm và cho biết số
lượng tế bào trứng của gà mái có thể lên tới hàng triệu tế bào (dẫn theo Lê Thị
Nga, 2005).
Trong thời gian phát triển, lúc đầu các tế bào trứng được bao bọc bởi một
tầng tế bào, không có liên kết gì với biểu bì phát sinh. Tầng tế bào này phát triển
trở thành nhiều tầng, sự tạo thêm sẽ tiến tới bề mặt buồng trứng, cấu tạo này gọi
là follicun, bên trong follicun có một khoang hở chứa đầy một chất dịch. Bề
ngoài follicun trông giống như một cái túi.
Trong thời kì đẻ trứng nhiều, follicun trở nên chín dần làm thay đổi hình

dạng buồng trứng trông giống như một “chùm nho”. Sau thời kì đẻ trứng, buồng
trứng trở lại hình dạng ban đầu, các follicun chín vỡ ra, tế bào trứng chín ra ngoài
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 12


cùng với dịch follicun và rơi vào phễu ống dẫn trứng, sự rụng trứng đầu tiên báo
hiệu sự thành thục sinh dục.
Theo Melekhin and Niagridin (1989) (dẫn theo Ngô Giản Luyện, 1994)
cho rằng, hầu hết vật chất lòng đỏ trứng gà được tạo thành trước khi đẻ trứng 9
-10 ngày. Tốc độ sinh trưởng của lòng đỏ từ 1 - 3 ngày đầu rất chậm, khi đường
kính của lòng đỏ đạt tới 6mm, bắt đầu thời kì sinh trưởng cực nhanh, đường
kính có thể tăng 4 mm trong 24 giờ, cho tới khi đạt đường kính tối đa là 40 mm.
Tốc độ sinh trưởng của lòng đỏ không tương quan với cường độ đẻ trứng. Quá
trình hình thành trứng và rụng trứng là một quá trình sinh lý phức tạp, do sự
điều khiển của hoocmon. Thời kỳ từ lúc đẻ quả trứng đến khi rụng trứng tiếp
theo kéo dài 15 – 75 phút, sự rụng trứng ở gà xảy ra 1 lần trong ngày, thường là
30 phút sau khi đẻ trứng. Trường hợp nếu trứng đẻ sau 16 giờ thì sự rụng trứng
sẽ chuyển đến đầu ngày hôm sau. Trứng bị giữ lại trong ống dẫn trứng làm
ngừng sự rụng trứng tiếp theo. Nếu lấy trứng ra khỏi tử cung thì cũng không
làm tăng nhanh sự rụng trứng được.
Khi tế bào trứng chín, rụng, trứng rơi vào phễu và được đẩy xuống ống
dẫn trứng, đây là một ống dài có nhiều khúc cuộn, bên trong có tầng cơ, trên
thành ống có lớp màng nhầy lót bên trong, trên bề mặt lớp màng nhầy có tiêm
mao rung động. Ống dẫn trứng có nhiều phần khác nhau: phễu, phần tạo lòng
trắng, phần eo, tử cung và âm đạo. Chúng có chức năng tiết ra lòng trắng đặc,
loãng, màng vỏ, vỏ trứng và lớp keo mỡ bao bọc bên ngoài quả trứng. Thời gian
trứng lưu lại trong ống dẫn trứng từ 20 – 24 giờ. Khi trứng rụng và qua các phần
của ống dẫn trứng tới tử cung, đầu nhọn quả trứng bao giờ cũng đi trước nhưng

khi nằm trong tử cung quả trứng được xoay một góc 1800, do vậy trong điều kiện
bình thường gà đẻ đầu tù của quả trứng ra trước.
2.3.2.2. Tuổi đẻ trứng đầu
Nhiều tác giả khi nghiên cứu về tuổi đẻ quả trứng đầu cho rằng, đây là chỉ
tiêu đánh giá sự thành thục sinh dục, cũng được coi là một yếu tố cấu thành năng
suất trứng. Đối với từng cá thể, tuổi đẻ quả trứng đầu tiên là số ngày tuổi kể từ
khi nở ra đến khi đẻ quả trứng đầu. Trong thực tế sản xuất tuổi đẻ quả trứng đầu
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 13


của một đàn (quần thể) được xác định khi có 5% số cá thể trong đàn đã đẻ
(Pingel and Jeroch, 1986). Guideil, Lerner và một số tác giả khác cho rằng có các
gen trên nhiễm sắc thể giới tính cùng tham gia hình thành tính trạng này (dẫn
theo Khavecman, 1972). Theo Trần Đình Miên và Nguyễn Kim Đường (1992)
thì có ít nhất hai cặp gen cùng quy định tuổi đẻ quả trứng đầu, cặp thứ nhất gen E
và e liên kết với giới tính, cặp thứ hai là E’ và e’. Tuổi đẻ và năng suất trứng có
mối tương quan nghịch, giữa tuổi đẻ và khối lượng trứng lại có tương quan
thuận. Tuổi đẻ quả trứng đầu phụ thuộc vào bản chất di truyền, chế độ nuôi
dưỡng, các yếu tố môi trường. Đặc biệt là thời gian chiếu sáng sẽ thúc đẩy gia
cầm thành thục sinh dục, thời gian chiếu sáng dài sẽ thúc đẩy gia cầm đẻ sớm
(Khavecman, 1972).
Dickerson (1952) đã tính toán hệ số tương quan di truyền giữa khối lượng
cơ thể gà chưa trưởng thành với sản lượng trứng thường có giá trị âm (-0,21 đến 0,16). Còn Nicola và cs tính hệ số tương quan di truyền giữa tuổi thành thục với
sản lượng trứng là 0,11 (dẫn theo Trần Long, 1994).
2.3.2.3. Năng suất trứng và tỷ lệ đẻ
Năng suất trứng là số lượng trứng đẻ ra của một gia cầm mái trong một
đơn vị thời gian. Đối với gia cầm đẻ trứng thì đây là chỉ tiêu năng suất quan trọng
nhất, nó phản ánh trạng thái sinh lý và khả năng hoạt động của hệ sinh dục. Năng

suất trứng là một tính trạng số lượng nên nó phụ thuộc nhiều vào điều kiện ngoại
cảnh và cũng phụ thuộc nhiều vào loài, giống, hướng sản xuất, mùa vụ, điều kiện
dinh dưỡng, chăm sóc và đặc điểm của cá thể.
Hull (1973) đã đề nghị tính sản lượng trứng từ khi gia cầm đẻ quả trứng
đầu tiên, còn theo Brandsch and Buelchel (1978) cho rằng sản lượng trứng được
tính đến 500 ngày tuổi, cũng theo tác giả trên thì sản lượng trứng còn được tính
theo năm sinh học 365 ngày, kể từ khi đẻ quả trứng đầu tiên. Trong thời gian gần
đây, sản lượng trứng được tính theo tuần tuổi. Các hãng gia cẩm nổi tiếng trên
thế giới như Shaver (Canada), Lohmann (Đức)..., sản lượng trứng được tính phổ
biến nhất đến 70 và 80 tuần tuổi.
Năng suất trứng là một tính trạng số lượng có mối tương quan nghịch chặt
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 14


chẽ với tốc độ sinh trưởng sớm, do đó trong chăn nuôi gà sinh sản người ta
thường quan tâm đến việc cho gà ăn hạn chế trong các giai đoạn cuối gà con, giai
đoạn gà dò – hậu bị để đảm bảo cho năng suất trứng cao trong giai đoạn đẻ trứng.
Theo Bùi Thị Oanh (1996) thì năng suất trứng còn phụ thuộc nhiều vào số lượng
và chất lượng thức ăn, đặc biệt là mức năng lượng trao đổi, hàm lượng protein và
các acid amin thiết yếu trong khẩu phần ăn của gia cầm sinh sản. Năng suất trứng
có hệ số di truyền không cao, nhưng lại dao động lớn. Theo Nguyễn Văn Thiện
(1995) cho biết hệ số di truyền năng suất trứng của gà là 0,12 – 0,3. Đối với tính
trạng năng suất trứng, để cải thiện năng suất cần áp dụng phương pháp lai, kết
hợp với chọn lọc cá thể, nếu chỉ áp dụng chọn lọc thì việc nâng cao năng suất
trứng ít có hiệu quả.
Tỷ lệ đẻ và năng suất trứng có liên quan chặt chẽ với nhau, tỷ lệ đẻ trứng
được tính theo tuần, tháng, năm, đó cũng thể hiện cường độ đẻ trứng là sức đẻ
trứng trong một thời gian. Cường độ đẻ trứng phụ thuộc và độ dài của chu kỳ đẻ

trứng, chu kỳ đẻ trứng chính là thời gian gia cầm đẻ liên tục không bỏ ngắt quãng
còn được gọi là trật đẻ, Pingel and Jeroch (1986).
Cường độ đẻ trứng có tương quan dương và chặt chẽ với sản lượng trứng
Merner Alfreg (1962). Đây chính là tính trạng có hệ số di truyền cao, thường
đượng sử dụng để chọn lọc nâng cao năng suất trứng. Wegner (1980) cho biết hệ
số di truyền về cường độ đẻ trứng của gà vào loại cao h2 = 0,66.
Cường độ đẻ trứng có tương quan rất chặt chẽ với năng suất trứng của
cả năm, thường người ta dựa theo các số liệu của trật đẻ trứng những tháng
đầu tiên và thường theo dõi sản lượng trứng từ lúc bắt đầu đẻ đến 36 hoặc 38
tuần tuổi đẻ đánh giá sức đẻ trứng của cả năm (Hull,1978) đã áp dụng ổ đẻ có
cửa sập tự động để kiểm tra sản lượng trứng cả năm có tương quan di truyền
chặt chẽ (0,7 – 0,9).
2.3.2.4. Khối lượng trứng
Khối lượng trứng cũng là một tính trạng số lượng, là một tính trạng do
nhiều gen có tác động cộng gộp quy định, nhưng đến nay người ta cũng chưa xác
định được số lượng gen quy định tính trạng này. Sau sản lượng trứng, khối lượng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 15


×