Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Phân tích tranh chấp thương hiệu, các ví dụ thực tiễn và bài học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.75 KB, 21 trang )

Quản trị thương hiệu
LỜI MỞ ĐẦU
Cũng như con người sinh ra luôn muốn có một chỗ đứng trong xã hội. Sản phẩm
khi được tạo ra cũng mong có vị trí xứng đáng trên thị trường. Vì thế, ngay từ khi còn
thai nghén, nó đã mang biết bao mong ước ấp ủ, để được mang tên riêng, bản quyền
riêng, vị trí riêng. Sản phẩm dù đơn giản hay phức tạp thì trong mỗi thiết kế của nó đều
mang ý nghĩa hàm chứa thông điệp của người sản xuất để nó không chỉ sao quyệt ngang
bầu trời mà trở thành hình ảnh sống động khắc sâu trong tâm trí khách hàng. Đó là thành
công của rất nhiều nỗ lực, cố gắng đăng kí, bảo hộ...
Việc Việt Nam được kết nạp vào Tổ chức Thương mại Thế giới WTO là một sự
kiện trọng đại, một bước ngoặt lớn của nền kinh tế. Cùng với những cơ hội được giao
thương với những nền kinh tế lớn của thế giới, vào một sân chơi lớn trong khi nhiều
doanh nghiệp Việt Nam không hiểu được rõ luật chơi. Một trong những khó khăn thách
thức lớn mà các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt trong thời gian tới đó là những
tranh chấp về thương hiệu. Hầu hết các doanh nghiệp đều không muốn tuy nhiên dù
muốn hay không muốn thì tranh chấp thương hiệu vẫn cứ phát sinh vì nó tồn tại khách
quan trong đời sống kinh tế của nền kinh tế thị trường. điều này gây cản trở hoạt động
sản xuất kinh doanh, làm giảm uy tín của doanh nghiệp phải chi trả tiền bạc, thời gian để
giải quyết các vụ việc tranh chấp...thậm chí có doanh nghiệp phải lâm vào tình trạng phá
sản khi gặp phải những vụ kiện lớn kéo dài.
Để hiểu rõ hơn về bản chất của thương hiệu, tranh chấp thương hiệu cũng như
trên thị trường Việt Nam hiện nay có những loại tranh chấp nào, nhóm 12 chúng tôi đã
chọn nghiên cứu đề tài : “Phân tích tranh chấp thương hiệu, các ví dụ thực tiễn và
bài học”.

Nhóm 12

Trang 1


Quản trị thương hiệu


PHẦN I: LÝ THUYẾT

I.
I.1.

Các quan điểm tiếp cận thương hiệu
Thương hiệu là nhãn hiệu hàng hóa:
“Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng
loại của các cơ sở sản xuất kinh doanh khác nhau”
“ Nhãn hiệu hàng hóa có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp của các yếu tố

I.2.

đó được thể hiệu bằng một hoặc nhiều màu sắc.” VD: CocaCola. Pepsi.
Thương hiệu là nhãn hiệu đã được đăng kí bảo hộ và đã nổi tiếng.
Theo quan điểm này thì những nhãn hiệu chưa đăng kí bảo hộ sẽ không

I.3.

được coi là thương hiệu.
Thương hiệu là dành cho doanh nghiệp, còn nhãn hiệu là dành cho hàng hóa.
Với quan điểm này, thì thương hiệu được dùng để chỉ hoặc được gắn cho doanh
nghiệp (VD: Honda, Yamaha) còn nhãn hiệu hàng hóa được gắn với sản phẩm.
Theo quan điểm này thì Honda là thương hiệu, còn Future và Super Dream là

I.4.

nhãn hiệu hàng hóa.
Thương hiệu là gộp chung của nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý và
tên gọi xuất xứ?

Tuy nhiên nếu coi thương hiệu là gộp chung của nhãn hiệu hàng hóa, tên TM, chỉ
dẫn địa lý và tên gọi xuất xứ thì một nhãn hiệu bao gồm các yếu tố trên. Và không phải
khi nào cũng tồn tại 4 yếu tố đó, ngoài ra còn các dấu hiệu, yếu tố khác như âm thanh,
hay cách đóng gói đặc trưng.
VD: nước uống REDBULL rõ ràng có tên gọi riêng cho mình, song đây là tiếng
nước ngoài nên NTD thường sử dụng của con bò húc làm cách gọi cho sản phẩm này,

I.5.

vậy thì đâu là thương hiệu của sản phẩm này?
Thường có sự nhầm lẫn giữa thương hiệu và tên thương mại
Hiện tại hai thuật ngữ này thường tồn tại song song với nhau: từ Trademark
thường dùng trong pháp lý còn Brand thường dùng trong marketing và quản trị doanh

I.6.

nghiệp.VD: Trademark dùng trong công ước Pari, luật sở hữu trí tuệ các nước...
Theo quan điểm của PGS.TS Nguyễn Quốc Thịnh
“Thương hiệu là tập hợp các dấu hiệu để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của cơ sở
sản xuất kinh doanh ( DN) này với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của DN khác, là hình
tượng về một loại, một nhóm hàng hóa, dịch vụ hoặc về doanh nghiệp trong khách
hàng.”
Nhóm 12

Trang 2


Quản trị thương hiệu








Các dấu hiệu trực giác được tiếp nhận thông qua các giác quan:
Tên thương hiệu
Logos và Symbols
Khẩu hiệu(Slogan)
Nhạc hiệu
Kiểu dáng của hàng hóa và bao bì
Các dấu hiệu khác
Sự hiệu hữu các dấu hiệu trực giác tác động lên các giác quan, khả năng tiếp nhận

nhanh chóng.
- Các dấu hiệu tri giác
• Cảm nhận về sự an toàn, tin cậy
• Giá trị cá nhân khi tiêu dùng sản phẩm
• Hình ảnh về sự vượt trội khác biệt
Tính vô hình của dấu hiệu tri giác tạo ra hình ảnh về sản phẩm trong tâm trí người
tiêu dùng.

 Tri giác được dẫn dắt bởi các dấu hiệu của trực giác.
II.
Khái niệm tranh chấp thương hiệu.
II.1. Cách hiểu về tranh chấp thương hiệu
Ở bất cứ đâu trên thế giới, các doanh nghiệp đều có chung một mục đích là tăng
thị phần và lợi nhuận, điều này chỉ được thực hiện khi họ thành công trong việc chiếm vị
trí trong tâm trí khách hàng và tạo ra bản sắc riêng cho hình ảnh thương hiệu mới có cơ
hội phát triển và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.

Như một quy luật chung, ở đâu có cạnh tranh ở đấy tất sẽ xảy ra tranh chấp, nhất
là đối với thứ mang lại nhiều lợi nhuận như thương hiệu. Nhiều vụ tranh chấp thương
hiệu đối với các công ty Việt Nam ở nước ngoài cũng như trong nước đã diện ra trong
thời gian gần đây. Hiện nay trên thế giới có hàng triệu thương hiệu đang tồn tại, mỗi
năm cũng có hàng trăm ngàn thương hiệu mới mọc lên. Để xây dựng thương hiệu cho
mình phù hợp với uy tín của sản phẩm ở các thi trường mới, đặc biệt là các thị trường
lớn, sức tiêu thụ sản phẩm khổng lồ thì việc doanh nghiệp đưa ra một thương hiệu mới
có sự nghiên cứu kĩ để bảo hộ là rất cần thiết. Theo nhiều DN, khi xây dựng thương hiệu
mới rất dễ trùng lặp với phía đối tác, dù chỉ là một chi tiết nhỏ cũng dễ dẫn tới nguy cơ
tranh chấp.
II.2. Các loại về tranh chấp thương hiệu.
a) Tranh chấp tên thương mại
Nhóm 12

Trang 3


Quản trị thương hiệu
Các tranh chấp liên quan chủ yếu đến việc đăng kí tên miền phạm quyền lời và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác. Dạng tranh chấp này xảy ra trong trường
hợp một chủ thể tiến hành đăng kí tên miền và phát hiện thấy tên miền này đã được sử
dụng bởi một chủ thể khác.
Tên thương hiệu được các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân đăng ký nhằm mục
đích thể hiện quyền và lợi ích chính đáng của mình trên Internet, thông qua đó góp phần
quảng bá về tổ chức, sản phẩm, dịch vụ và tiến hành các hoạt động thương mại và phi
thương mại trong môi trường Internet toàn cầu.
Các tên thương hiệu hoạt động trên mạng phải đáp ứng được một số yêu cầu
trong đó quan trọng nhất là tính duy nhất của tên thương hiệu.

b) Tranh chấp về kiểu dáng công nghiệp

Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm, được thể hiện bằng
đường nét, hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này.
Sản phẩm mang kiểu dáng công nghiệp được hiểu là đồ vật, dụng cụ, thiết bị,
phương tiện... thuộc mọi lĩnh vực, có kết cấu và chức năng nhất định, được sản xuất
và lưu thông độc lập.
Đó là việc trùng hình dáng bên ngoài của sản phẩm, đường nét hình khối, màu
sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này của một doanh nghiệp chủ thế với một doanh
nghiệp chủ thể khác đã được sử dụng trước đó.

c) Tranh chấp về quyền tác giả
Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra
hoặc sở hữu.
Vậy tranh chấp về quyền tác giả là sự sao chép, sử dụng dưới mọi hình thức của
một cá nhân hoặc tổ chức khi chưa có sự đồng ý chấp thuận của tác giả đó.
Một cách hiểu khác hơn đó là tạo ra những bản giống về hình thức nội dung với

III.

sở hữu của chủ thế khác.
Bảo vệ thương hiệu
Nhóm 12

Trang 4


Quản trị thương hiệu
III.1. Khái quát về Luật Sở hữu Trí tuệ Việt Nam
Luật sở hữu trí tuệ được quốc hội VN trong khóa 11 kì họp thứ 8 thông qua ngày
29/22/2005 và có hiệu lực vào ngày 1/7/2006 là quy luật về quyền tác giả, quyền liên
quan đến tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và việc bảo

hộ các quyền đó.
Các đối tượng của luật sở hữu trí tuệ bao gồm:
 Đối tượng quyền tác giả gồm tác phẩm văn học nghệ thuật khoa học
 Đối tượng quyền liên quan đến tác giả baog ồm cuộc biểu diễn, bản gi âm, ghi hình,
chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình mã hóa.
 Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế
bố trị mạch, tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn


III.2.





III.3.


địa lý.
Đối tượng quyền đối với giống cây trồng là giống cây trồng và vật liệu nhân giống.
Quy trình bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa.
B1: Chuẩn bị đăng ký
Thiết kế nhãn hiệu
Tra cứu nhãn hiệu
Chuẩn bị hồ sơ
B2: Tiến hành đăng kí.
Nộp hồ sơ
Theo dõi tiến hành xử lý
B3: Nhãn hiệu được cấp đăng kí.
B4: Sau đăng kí

Kiểm tra giám sát vi phạm nhãn hiệu hàng hóa đã được đăng kí
Hủy bỏ hoặc tham gia hạn nhãn hiệu hàng hóa đã được đăng kí
Biện pháp bảo hộ thương hiệu
Chống xâm phạm từ bên ngoài.
Rà soát và tổ chức tốt hệ thống phân phối và bán lẻ: Mạng lưới về kênh phân
phối càng rộng thì thị phần cho hàng giả càng bị thu hẹp, uy tín thương hiệu được khẳng
định -> đây là biện pháp quan trọng và hiệu quả.
Rà soát và phát hiện hàng giả, hàng nhái: Là việc làm cần thiết với việc sử dụng
chính đội ngũ các nhân viên bán hàng hoặc nhân viêc quản lý hệ thống bán lẻ nhằm
kiểm tra và rà soát chéo ngay cả với các đại lý để phát hiện nhanh và đưa ra biện pháp
xử lý kịp thời cho các vi phạm.
Gia tăng các điểm tiếp xúc thương hiệu:Khi mạng lưới phân phối hàng hóa mở
rộng cũng sẽ đồng nghĩa với việc tăng cường được sự tiếp xúc của NTD với DN, tạo ra
Nhóm 12

Trang 5


Quản trị thương hiệu
những cơ hội tốt nhất để họ có thể lựa chọn đúng hàng hóa, tránh tình trạng mua phải
hàng giả hàng nhái.
Thường xuyên đổi mới bao bì và sự thể hiện TH trên bao bì của hàng hóa: Tạo ra
một cảm giác hấp dẫn đồng thời làm cho hàng giả khó theo kịp.
Thực hiện các biện pháp kĩ thuật để đánh dấu bao bì và sản phẩm: Đó là sử dụng
các phương tiện và vật liệu khác nhau theo cách khác nhau để tạo ra trên hàng hóa hoặc
bao bì những dấu hiệu khó bắt chước bằng phương pháp vật lý và hóa học.
 Chống sa sút từ bên trong.
Duy trì và nâng cao chất lượng sản phẩm, chất lượng phục vụ: Một thương hiệu
không được bảo vệ chắc chắn nếu nó không tự khẳng định mình tông qua chất lượng của
hàng hóa và dịch vụ. NTD sẽ không quan tâm và không sử dụng hàng hóa của một DN

neeys hàng hóa đó không đảm bảo chất lượng vì thế việc nâng cao chất lượng hàng hóa
cũng như chất lượng dịch vụ của DN là cực kì quan trọng
Hình thành phong cách công ty: Trước kia người ta quan tâm việc tìm kiếm các
chuyên gia giỏi và những người tài những ngày nay người ta quan tâm đến việc hình
tành văn hóa công ty hơn. Và giữ môi trường xanh trong công ty cũng như xung quanh
khu vực công ty. Điều này không những giũ vững được lòng trung thành sự tin tưởng
của KH mà còn giúp nhân viêc trong công ty chuyên nghiệp hơn.
Xây dựng hệ thống nhận diện thương hiệu: Sản phẩm, nhãn hiệu có thể bị làm giả
nhưng không thể làm giả một cách có tổ chức.

Nhóm 12

Trang 6


Quản trị thương hiệu
PHẦN II : VẬN DỤNG – CÁC VÍ DỤ THỰC TIỄN VÀ BÀI HỌC KINH
NGHIỆM.
2.1. Tranh chấp tên thương hiệu
2.1.1. Tranh chấp thương hiệu giữa CTCP Vincom và CT cổ phần tài chính và bất
động sản Vincon ( CTCP tập đoàn xây dựng và phát triển nhà Vicoland mới.
2.1.1.1. Giới thiệu khái quát về công ty Vincon và công ty cổ phần Vincom
Công ty Cổ phần Vincom (Vincom), tiền thân là Công ty Cổ phần (CP) Thương
mại Tổng hợp Việt Nam, được chính thức thành lập vào ngày 3/5/2002. Trải qua hơn 8
năm xây dựng và phát triển,tới nay, Vincom đã trở thành một trong những doanh nghiệp
hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực bất động sản. Hàng loạt những dự án bất động sản
cao cấp mang thương hiệu Vincom đang được triển khai tiếp nối nhau tại nhiều thành
phố lớn của cả nước. Những dự án này đều là tâm điểm của sự chú ý và được đánh giá
cao bởi các nhà đầu tư. Trong tương lai, hàng loạt công trình tầm cỡ mang tên Vincom
sẽ xuất hiện trên khắp đất nước Việt Nam, góp phần xây dựng hình ảnh Việt Nam hiện

đại,năng động và phát triển.
Công ty Cổ phần tập đoàn Xây dựng và Phát triển nhà Vicoland được Sở Kế
hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội cấp đăng ký lần đầu ngày 05/6/2007 và đăng ký
thay đổi lần thứ 6 ngày 25/5/2011 với các chức năng: kinh doanh bất động sản; kinh
doanh dịch vụ tư vấn bất động sản; xuất nhập khẩu hàng hoá công ty kinh doanh; kinh
doanh khách sạn, Resort, du lịch; dịch vụ lập dự án đầu tư, quản lý dự án; khai thác
khoáng sản; xây dựng các công trình dân dụng và công nghiệp, giao thông thuỷ lợi, khu
chung cư cao tầng; khai thác vận hành và kinh doanh các dịch vụ phục vụ toà nhà, khu
chung cư.

2.1.1.2. Nội dung tranh chấp
Ngày 23/11/2010, Công ty cổ phần Vincom đã tổ chức họp báo công bố việc khởi
kiện dân sự Công ty cổ phần Tài chính và bất động sản Vincon về việc sử dụng tên
tương tự với tên thương mại của Vincom.
Công ty cổ phần Vincom đã gửi đơn lên Tòa án Nhân dân TP Hà Nội,;Đồng thời,
gửi đơn yêu cầu xử lý vi phạm lên Thanh tra Bộ Khoa học Công nghệ với lý do Vincon
đã vi phạm nghiêm trọng đến quyền sở hữu trí tuệ về nhãn hiệu và tên thương mại của
mình.
Công ty cổ phần Tài chính và Bất động sản Vincon (VINCON) là do tên thương
mại/tên doanh nghiệp tương tự với tên thương mại/tên doanh nghiệp của VINCOM đã
Nhóm 12

Trang 7


Quản trị thương hiệu
được đăng ký trước và được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực bất động sản. Việc đặt tên
doanh nghiệp này đã gây ra sự nhầm lẫn giữa hai công ty, dẫn đến nhiều ảnh hưởng bất
lợi cho uy tín thương hiệu, hình ảnh và uy tín của Vincom.
Công ty Vincom đã đăng ký bảo hộ nhãn hiệu đối với tên "VINCOM và hình" từ

ngày 26/1/2005 tại Cục Sở hữu Trí tuệ (SHTT) - Bộ khoa học và Công nghệ. Nhãn hiệu
VINCOM đã được đăng ký bảo hộ độc lập hoặc cùng với các yếu tố khác theo 7 Văn
bằng bảo hộ được cấp bởi Cục Sở Hữu trí tuệ và Nhãn hiệu VINCOM đang được bảo hộ
độc quyền tại Việt Nam.
Đồng thời nhãn hiệu VINCOM còn được đăng ký quốc tế theo Thoả ước Madrid
dưới số 975445 và đã được chấp nhận bảo hộ tại 20 nước EU và Singapore, Nga....và
thời gian tới sẽ là ở Trung Quốc và Belarus. Nhãn hiệu VINCOM cũng đã được đăng ký
ở Hong Kong và sắp tới là ở Thái Lan. Trong khi đó, nhãn hiệu VINCON mới chỉ được
nộp một đơn duy nhất tại Cục SHTT vào ngày 10/02/2010 và cũng đã bị VINCOM nộp
đơn phản đối vào tháng 8/2010.
Trên thực tế, chữ cuối của hai thương hiệu này chỉ khác nhau ở hai phụ âm M và
N, khi đọc cũng gần tương tự như nhau, không đủ để phân biệt. Do vậy, Công ty CP
Vincom đã phải chịu những thiệt hại khá nghiêm trọng về uy tín thương hiệu từ sự nhầm
lẫn nêu trên.
2.1.1.3. Biện pháp giải quyết tranh chấp
Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ đã ra quyết định xử phạt Công ty cổ phần
Tài chính và Bất động sản Vincon 14 triệu đồng. Đồng thời, yêu cầu Công ty Vincon
loại bỏ tên Vincon trên biển hiệu giấy tờ giao dịch, phương tiện kinh doanh, phương tiện
quảng cáo và trên tên công ty, tên chi nhánh của công ty tại Đà Nẵng và Thừa Thiên
Huế.
Công ty Vincon đã đổi tên doanh nghiệp thành Công ty Cổ phần Tập đoàn Xây
dựng và Phát triển nhà Vicoland, khép lại cáo buộc của Công ty cổ phần Vincom về việc
gây nhầm lẫn thương hiệu giữa hai bên.
Ngoài việc đổi tên doanh nghiệp, Vicoland Group cũng công bố logo mới và thay
đổi tên domain của công ty tại Trung tâm internet Việt Nam.
2.1.1.4.

Bài học kinh nghiệm.
Vụ tranh chấp thương hiệu giữa Vincom và Vincon là dịp để doanh nghiệp Việt
Nam xem lại mình và có cách ứng xử mới với vấn đề SHTT.

Nhóm 12

Trang 8


Quản trị thương hiệu
Phân xử ở tòa là một việc cực chẳng đã, vì tốn kém chi phí, thời gian, ảnh hưởng
đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì thế, theo các chuyên gia, ngoài
việc tạo ra sản phẩm hàng hóa, dịch vụ và dấu hiệu riêng, doanh nghiệp cũng cần chú ý
đến việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa, sở hữu công nghiệp, hoặc đăng ký quyền
tác giả để bảo vệ thương hiệu. Quá trình đó, không chỉ từ giai đoạn khởi nghiệp, mà còn
phải thực hiện liên tục trong quá trình phát triển, cũng như phải có tầm nhìn xa hơn là
các thị trường tiềm năng ở nước ngoài.
2.1.2.

Tranh chấp thương hiệu giữa Công ty Luật Sở Hữu trí tuệ Winco và Công ty CP tư
vấn Winlaw.

vấn

2.1.2.1. Giới thiệu khái quát về Công ty Luật Sở hữu trí tuệ Winco Công ty CP tư
Winlaw
a. Công ty Luật Sở hữu trí tuệ Winco

Công ty luật WINCO được thành lập theo Luật pháp Việt Nam, hoạt động theo
Giấy phép số 0102005361/SKHĐT của Sở Kế Hoạch Đầu Tư thành phố Hà Nội, Giấy
phép hành nghề số 222/QĐ-PCQL của Cục trưởng Cục Sở hữu Công nghiệp (nay là Cục
Sở hữu Trí tuệ) - Bộ Khoa Học và Công Nghệ và số 1322/TP/LS-CCHN của Bộ trưởng
Bộ Tư pháp. WINCO là thành viên của các Hiệp hội, Tổ chức trong nước và Quốc tế
như: Hội Sở hữu Công nghiệp Việt Nam (VIPA ), Hội luật gia Việt Nam (VAL), Hiệp

hội Sở hữu Trí tuệ Châu á (ASEAN IPA ), Hiệp hội Luật sư sáng chế Châu á (APAA),
Tổ chức Nhãn hiệu Quốc tế (INTA), Tổ chức Nhãn hiệu Cộng đồng Châu Âu (ECTA),
Hiệp hội Quốc tế về Bảo hộ quyền Sở hữu Trí tuệ (AIPPI).
Với đội ngũ gần 100 cán bộ, nhân viên trong đó có các Giáo sư, Tiến sĩ, Luật sư,
Thạc sĩ, Kỹ sư, Cử nhân Kinh tế, Luật, ... , có kiến thức chuyên môn sâu rộng trên nhiều
lĩnh vực khoa học công nghệ, thông thạo các ngoại ngữ khác nhau, hầu hết tốt nghiệp
các khóa đào tạo về luật Sở hữu Trí tuệ ở nước ngoài, hiện đang làm việc tại Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh.
Công ty WINCO đã đại diện cho nhiều khách hàng trong và ngoài nước nộp
đơn đăng ký bảo hộ các đối tượng sở hữu trí tuệ (nhãn hiệu, Kiểu dáng Công nghiệp,
Sáng chế, Bản quyền tác giả,... ) ở trong nước, các nước trong khu vực và các nước trên
thế giới, đồng thời giải quyết hàng trăm vụ khiếu nại bảo vệ quyền lợi hợp pháp của chủ
sở hữu các đối tượng sở hữu trí tuệ bị xâm phạm.
Trong những năm qua, WINCO được khách hàng đánh giá là một công ty luật
uy tín hàng đầu trong lĩnh vực hoạt động Sở hữu Trí tuệ.
Nhóm 12

Trang 9


Quản trị thương hiệu
b. Công ty CP tư vấn Winlaw
Công ty Luật TNHH Winlaw đã được thành lập hợp pháp theo Giấy đăng ký
hoạt động do Sở Tư pháp Hà Nội chấp thuận và cấp ngày 30-9-2008
WINLAW là một Công ty Luật tại Hà Nội( Phòng 208, Sport Hotel, Làng SV
Hacinco, Thanh Xuân, Hà Nội) có lĩnh vực tư vấn đa dạng và toàn diện với mạng lưới
hoạt động rộng khắp Việt Nam và khu vực châu Á. Chuyên nghiệp trong các lĩnh vực tư
vấn về sở hữu trí tuệ, đầu tư nước ngoài, bất động sản, chứng khoán, tài chính - ngân
hàng và hỗ trợ giải quyết tranh chấp, đẳng cấp của WINLAW được khẳng định dựa trên
khả năng cung cấp các dịch vụ tư vấn pháp lý có chất lượng cao.

Với đội ngũ các luật sư và các chuyên gia tư vấn giàu kinh nghiệm trong các giao
dịch kinh doanh quốc tế, được đào tạo tại các trường đại học danh tiếng nhất trên thế
giới.Các luật sư của WINLAW đã từng tham gia tư vấn và hỗ trợ các công ty trong nước
và quốc tế trong việc thực hiện, giải quyết các giao dịch và tranh chấp quốc tế phức tạp
trên trong các lĩnh vực hoạt động chuyên nghiệp của công ty.
Bên cạnh đó, ngoài việc luôn duy trì một mối quan hệ tốt đẹp với các cơ quan có
thẩm quyền trong nước, thông qua mạng lưới liên kết dịch vụ của mình với các Văn
phòng Luật sư danh tiếng của nước ngoài.

2.1.2.2. Nội dung tranh chấp
“Công ty TNHH SHTT Winco được thành lập từ năm 2002, được cấp Giấy phép
hoạt động kinh doanh về dịch vụ tư vấn khoa học công nghệ, dịch vụ đại diện sở hữu
công nghiệp. Công ty Winco cũng là chủ sở hữu nhãn hiệu “WINCO, WINCOLAW và
hình” theo Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu số 60668 do Cục Sở hữu trí tuệ cấp
ngày 3-3-2005, có hiệu lực và độc quyền trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Tuy vậy, thời gian qua trên địa bàn Hà Nội một công ty đã lấy tên là Công ty CP
tư vấn Winlaw, tên giao dịch WINLAW hoặc WINLAW corp, tên
miền WWW.WINLAW.COM.VN… Việc công ty này sử dụng dấu hiệu “WINLAW” ở
tên thương mại, tên giao dịch, tên miền và trên các giấy tờ giao dịch, trên các phương
tiện thông tin truyền thông cho các dịch vụ tư vấn pháp lý, tài chính, ngân hàng, sở hữu
trí tuệ… đã làm cho khách hàng bị nhầm lẫn về chủ thể hoạt động kinh doanh giữa công
ty này và Winco. Cụ thể là: Xét về cấu trúc: dấu hiệu “WINLAW” được ghép bởi 2 từ
tiếng Anh là “WIN” và “LAW” hoàn toàn trùng với từ đầu và từ cuối trong dấu hiệu
“WINCOLAW”.
Nhóm 12

Trang 10


Quản trị thương hiệu

Do đó việc Công ty CP Tư vấn Winlaw sử dụng dấu hiệu “WINLAW” đã gây
hiểu lầm cho khách hàng, xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, ảnh hưởng đến uy tín
của Winco. Do đó,công ty Winco đã có văn bản đề nghị Công ty CP tư vấn Winlaw
nhanh chóng chấm dứt việc sử dụng dấu hiệu “WINLAW” ở tên thương mại, tên giao
dịch…; Chủ động sửa đổi Giấy CNĐKKD và thay đổi tên miền tại cơ quan cấp phép tên
miền nhưng đến nay công ty này vẫn không chấm dứt những hành vi vi phạm nêu trên”
2.1.2.3. Biện pháp giải quyết tranh chấp
Như vậy, vấn đề mấu chốt ở chỗ: Hai thương hiệu "Winco" và "Winlaw" có gây
ra sự hiểu lầm "2 trong 1" khi mà 2 chủ thể này đều có chung phần đầu giống nhau là
"win" và chỉ có phần đuôi "co" và "law" khác nhau?
Cuộc tranh cãi bất phân thắng bại như trên đã phải nhờ đến trọng tài phân xử Viện Khoa học sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ).
Và mới đây, viện này đã hoàn thành bản kết luận giám định số NH. 0009-09
YC/KLGĐ về hành vi vi phạm Luật Sở hữu trí tuệ của Cty Winlaw đối với VPLS
Winco.Chánh Thanh tra Bộ Khoa học & Công nghệ thì PC 15, CA TP.Hà Nội sẽ phối
hợp với Thanh tra Bộ Khoa học & Công nghệ tiến hành thanh tra Cty luật TNHH
Winlaw và Cty CP tư vấn Winlaw trong vòng 1 tháng
Sau khi phân tích một loạt các yếu tố liên quan, Viện Khoa học sở hữu trí tuệ kết
luận: Việc Cty luật Winlaw sử dụng dấu hiệu "Winlaw" trên tên thương mại, tên giao
dịch, tên miền, giấy tờ giao dịch để thực hiện dịch vụ tư vấn pháp luật và tranh tụng tại
toà án và các dịch vụ tư vấn và đại diện sở hữu trí tuệ mà không được phép của VPLS
Winco là hành vi xâm phạm quyền (theo Điều 124.5.a và Điều 129.1.c Luật Sở hữu trí
tuệ) đối với nhãn hiệu của VPLS Winco được bảo hộ theo GCNĐKNH số 70053.
Cty luật Winlaw sử dụng dấu hiệu "Winlaw" trên các phương tiện truyền thông
và trên tên thương mại, tên giao dịch, tên miền nhằm mục đích quảng bá cho các dịch
vụ tư vấn pháp luật và tranh tụng tại toà án cùng dịch vụ tư vấn và đại diện sở hữu trí
tuệ mà không được phép của VPLS Winco là hành vi xâm phạm quyền (theo Điều
124.5.b và 129.1.c, Luật Sở hữu trí tuệ) đối với nhãn hiệu của VPLS Winco được xác
lập và bảo hộ theo GCNĐKNH số 70053.

2.1.2.3. bài học kinh nghiệm

-Các cơ quan chức năng mà cụ thể ở đây là Cục Sở Hữu Trí Tuệ Việt Nam cần
Nhóm 12

Trang 11


Quản trị thương hiệu
phải rà soát thật chặt,tìm hiểu thật kỹ trước khi phê duyệt một thương hiệu hay nhãn hiệu
nào đó,xem nhãn hiệu hay thương hiệu đó đã có trên thị trường hay vi phạm điều luật về
quyền bảo hộ cũng như quyền đằng ký và bảo hộ thương hiệu nào không.
-Khi bị kiện ngay cả công ty cổ phần Winlaw cũng đã không biết bản thân mình
vi phạm luật.Điều này cho thấy các công ty làm luật cần phải hiểu về luật hơn ai hết nếu
không sẽ mất uy tín cũng như lòng tin với khách hàng.Đồng thời mang tiếng xấu làm
luật mà lại không hiểu luật.
2.2. Tranh chấp về kiểu dáng công nghiệp.
2.2.1. Tranh chấp về kiểu dáng công nghiệp của công ty võng xếp Duy Lợi và
công ty Trường Thọ.
2.2.1.1. Giới thiệu khái quát về công ty võng xếp Duy Lợi và công ty Trường
Thọ.
a) Công ty võng xếp Duy Lợi
Thành lập tháng 01/2000, chuyên sản xuất và kinh doanh các sản phẩm gia
dụng độc đáo do doanh nghiệp tự thiết kế. Các sản phẩm mang thương hiệu Duy
Lợi được sản xuất trên dây chuyền thiết bị máy móc hiện đại, kiểu dáng trang nhã, màu
sắc hợp thời trang, bền bỉ theo thời gian. Sản phẩm Duy Lợi được khách hàng trong và
ngoài nước ưa chuộng và sử dụng rộng rãi.
Duy Lợi có các cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩm tại Sài Gòn và Hà Nội.
Ngoài ra còn có hơn 1.000 đại lý phân phối và bán sản phẩm mang thương hiệu Duy
Lợi phủkhắpViệtNam.
Sản phẩm của Duy Lợi đang được xuất khẩu sang các nước: Nhật, Hàn Quốc, Đức,
Pháp ...

b) Công ty Trường Thọ






THÁNG 11/1999: CƠ SỞ SẢN XUẤT VÕNG XẾP ĐƯỢC HÌNH THÀNH
TRƯỜNG THỌ là cơ sở đầu tiên cải tiến và cho ra đời chiếc võng hoàn thiện từ năm
1999 tại Việt Nam
Ngày 24/06/2003: Công ty TNHH SX TM DV TRƯỜNG THỌ được thành lập theo
quyết định số 4102016380 của Sở Kế Hoạch và Đầu Tư TP. HCM.
- Nhà xưởng được xây mới khang trang, đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề.
- Bộ phận kỹ thuật và thiết kế đã khéo léo kết hợp giữa nét truyền thống và hiện đại cho
ra đời nhiều sản phẩm và dịch vụ mới như: võng xếp với nhiều kiểu dáng, chất liệu
phong phú, ghế xếp, giường xếp, nôi xếp, hàng gia dụng nội-ngoại thất, bàn ghế ngoài
trời; thương mại nhiều loại vải Textilene, vải bố nhập từ Mỹ với những tính năng hữu
dụng đáp ứng nhu cầu ngày càng khắc khe của khách hàng.
Tháng 11/2005: Trường Thọ đã bảo vệ thành công quyền sở hữu trí tuệ về tranh chấp
kiểu dáng võng xếp và đã tạo ra một “sân chơi” bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp
cùng ngành – Đó là niềm vinh hạnh cho Công Ty TRƯỜNG THỌ.
Nhóm 12

Trang 12


Quản trị thương hiệu
2.2.1.2. Nội dung tranh chấp
Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học - công nghệ) vừa có văn bản gửi Chi cục Quản
lý thị trường TP.HCM liên quan đến vụ tranh chấp kiểu dáng khung mắc võng giữa

DNTN Duy Lợi và Công ty TNHH Trường Thọ, đồng thời đề nghị doanh nghiệp Duy
Lợi trả lời ý kiến về vụ việc này trước ngày 25-12-2005.
Công ty Trường Thọ đã nộp đơn đề nghị hủy bỏ hiệu lực bằng độc quyền kiểu
dáng khung mắc võng của doanh nghiệp Duy Lợi vì “kiểu dáng võng xếp không phải
của riêng doanh nghiệp này mà là của chung ngành võng xếp”.
2.2.1.3. Biện pháp giải quyết tranh chấp
Tháng 9-2005, cơ quan quản lý thị trường đã tạm giữ một số võng xếp của
Trường Thọ vì “sản xuất kinh doanh khung mắc võng có kiểu dáng giống với khung
mắc võng đang được bảo hộ độc quyền”. Từ đó đến nay Trường Thọ phải ngưng sản
xuất các loại võng.
2.2.1.4. Bài học kinh nghiệm
Từ vụ việc của Duy Lợi, ngoài việc đăng kí tên thương mại thì các doanh nghiệp
cần phải đăng kí cả kiểu dáng sản phẩm, việc trùng lặp về kiểu dáng của nhau sẽ khiến
khách hàng nhầm lẫn sản phẩm, như vậy sẽ giảm uy tín của doanh nghiệp cũng như hiệu
quả sản xuất sẽ ảnh hưởng tới tài chính do vụ tranh chấp kéo dài.
2.2.2. Tranh chấp kiểu dáng công nghiệp của công ty liên doanh Nhã Quán đối
với công ty THHH Ý Thiên
2.2.2.1. Giới thiệu khái quát về công ty liên doanh Nhã Quán và công ty THHH Ý
Thiên
a) Công ty liên doanh Nhã Quan:

-Ngày hoạt động:9/5/2002.
-Trụ sở:Thuận An,Tỉnh Bình Dương.
-Ngành nghề hoạt động:Đồ gỗ,sản xuất và kinh doanh.
b) Công ty TNHH Ý Thiên:
-Ngày hoạt động:15/6/2005.
Nhóm 12

Trang 13



Quản trị thương hiệu
-Trụ sở:Phạm Thế Hiển,Quận 8,Hồ Chí Minh.
-Ngành nghề hoạt động:Mua bán máy móc,thiết bị phụ tùng các ngành
công-nông nghiệp.Hóa Chất.Đồ tranh trí nội thất.
2.2.2.2. Nội dung tranh chấp:
Nhã Quán là công ty liên doanh chuyên sản xuất áo quan, thành lập năm
2002 theo hợp đồng giữa Công ty TNHH Trường Sanh với đối tác nước ngoài.
Khi hoạt động, Nhã Quán “đã đăng ký nhãn hiệu hàng hóa, đăng ký độc quyền
kiểu dáng công nghiệp đối với mặt hàng áo quan”.
Sau đó, Trường Sanh lại “tự ý lấy các kiểu dáng áo quan do Nhã Quán làm
ra” đăng ký độc quyền kiểu dáng cho Trường Sanh, đến năm 2007 thì chuyển
nhượng cho Ý Thiên.
Tháng 8/2007, Nhã Quán nhận được thông báo của Ý Thiên yêu cầu Nhã
Quán không được sản xuất, kinh doanh 33 kiểu áo quan mà Ý Thiên nhận chuyển
nhượng từ Trường Sanh.
Cho rằng việc chuyển nhượng giữa Trường Sanh và Ý Thiên là trái luật,
tháng 6 vừa qua, Nhã Quán đã khởi kiện yêu cầu TAND tỉnh Bình Dương công
nhận quyền sở hữu kiểu dáng áo quan của mình, buộc Ý Thiên chấm dứt hành vi
xâm phạm.
Ngược lại, Ý Thiên phản tố, nói Nhã Quán biết rõ quyền sở hữu các kiểu
dáng áo quan thuộc về Trường Sanh và cả việc Trường Sanh chuyển nhượng hợp
pháp cho Ý Thiên. Với tư cách là chủ sở hữu mới, Ý Thiên từng yêu cầu Nhã
Quán không sản xuất các kiểu dáng áo quan này để bán ra thị trường nhưng Nhã
Quán không thực hiện nên đã nhiều lần bị cơ quan chức năng xử phạt hành chính.
Ngoài ra, Ý Thiên nhận định việc Nhã Quán khởi kiện thực ra chỉ nhằm
cản trở các cơ quan chức năng xử lý vi phạm và để tiếp tục sử dụng các kiểu dáng
áo quan mà Ý Thiên đang sở hữu. Hành vi này là có dụng ý, xâm phạm nghiêm
trọng đến quyền lợi của Ý Thiên nên Ý Thiên yêu cầu Nhã Quán bồi thường 500
triệu đồng.

Trong khi đó, “nhân chứng” Trường Sanh cho biết mình là một công ty gia
đình, trước đây đã sản xuất áo quan, sau đó mới liên doanh thành lập Nhã Quán để
tăng cường tiềm lực tài chính. Trong liên doanh, Trường Sanh chỉ góp vốn bằng
Nhóm 12

Trang 14


Quản trị thương hiệu
máy móc, nhà xưởng chứ không góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ về kiểu dáng
áo quan mà Trường Sanh đã có văn bằng bảo hộ.
Theo Trường Sanh, việc Nhã Quán viện dẫn trên một số kiểu dáng áo quan
của Trường Sanh có logo Nhã Quán để nói rằng đó là kiểu dáng công nghiệp của
mình là không đúng. Trường Sanh chỉ chấp thuận cho Nhã Quán gắn logo để tiện
kinh doanh nên dù có gắn logo Nhã Quán thì các kiểu dáng đó vẫn là của Trường
Sanh và Trường Sanh đã chuyển nhượng hợp pháp cho Ý Thiên.
Ngoài ra, Trường Sanh còn cho biết trước thời điểm Nhã Quán khởi kiện,
Trường Sanh đã đăng ký các kiểu dáng áo quan đang tranh chấp và công bố trên
Công báo Sở hữu công nghiệp, quá thời hạn cũng không ai phản đối quyền tác giả
của Trường Sanh cả.
2.2.2.3. Biện pháp giải quyết tranh chấp:
TAND tỉnh Bình Dương đã dựa trên Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 để làm
căn cứ xét xử (thời gian Trường Sanh được cấp văn bằng bảo hộ kiểu dáng công
nghiệp áo quan là giữa năm 2005-2006 - nằm trong phạm vi điều chỉnh của luật
trên).
Theo Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu kiểu dáng công nghiệp được
xác lập trên cơ sở văn bằng bảo hộ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác lập.
Vì thế theo tòa, Nhã Quán không đăng ký bảo hộ kiểu dáng công nghiệp áo quan,
nay lại khởi kiện để tranh chấp các kiểu dáng mà Trường Sanh đã đăng ký là trái
pháp luật.

Mặt khác, trong bản thỏa thuận giữa Trường Sanh và Nhã Quán ghi nhận
các kiểu dáng áo quan là sự sáng tạo và tài sản sở hữu công nghiệp của Trường
Sanh. Trường Sanh chỉ đồng ý cho Nhã Quán sử dụng kiểu dáng công nghiệp. Vì
thế nên trước đây, Nhã Quán từng khiếu nại lên Cục Sở hữu trí tuệ đề nghị hủy bỏ
hiệu lực các văn bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp của Trường Sanh nhưng
không được chấp nhận. Dù Nhã Quán một mực nói không biết gì về bản thỏa
thuận trên nhưng theo kết quả giám định của Viện khoa học hình sự thì văn bản
đó có chữ ký, con dấu của Nhã Quán.
Hơn nữa, Nhã Quán không chứng minh được ai là người tạo ra kiểu dáng và
công ty đã đầu tư kinh phí, phương tiện vật chất gì cho tác giả dưới hình thức giao
việc, thuê việc hay thỏa thuận nào khác để tạo ra các kiểu dáng đó. Việc Nhã
Quán cho rằng tình hình nhân sự công ty xáo trộn, dẫn đến việc quản lý không tốt,
làm mất tài liệu là không thể chấp nhận. Cách giải thích này không thể miễn trừ
Nhóm 12

Trang 15


Quản trị thương hiệu
nghĩa vụ chứng minh của Nhã Quán. Do đó, Nhã Quán phải chịu hậu quả của việc
này theo Điều 79 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Ngoài ra, Ý Thiên hiện đang là chủ sở hữu các kiểu áo quan thông qua việc
chuyển nhượng hợp pháp với Trường Sanh. Khi Ý Thiên yêu cầu Nhã Quán
ngưng sản xuất các kiểu dáng mà Ý Thiên sở hữu, Nhã Quán không thực hiện mà
vẫn tiếp tục sản xuất hàng loạt, bị cơ quan quản lý thị trường nhiều lần xử phạt,
thu giữ hàng hóa. Việc làm trên đã gây thiệt hại không nhỏ cho Ý Thiên.
Từ các phân tích trên, TAND tỉnh Bình Dương đã bác yêu cầu khởi kiện
của Nhã Quán, buộc công ty này phải bồi thường 440 triệu đồng thiệt hại về cả vật
chất lẫn tinh thần cho Ý Thiên.
2.2.2.4. Bài học kinh nghiệm:

-Khi tạo ra một sản phẩm cần phải xem xét kỹ lưỡng các nhãn hiệu khác
để tránh “đụng hàng” với doanh nghiệp khác.
-Phải hiểu biết rõ luật pháp về thương hiệu nói riêng và kinh doanh nói
chung
-Với những doanh nghiệp liên kết cần có hợp đồng rõ ràng.Không để bị
kiện vì những chi tiết nhỏ.

2.3 Vụ tranh chấp quyền tác giả tác phẩm “Biệt đồng Sài Gòn.”
2.3.1 Nội dung vụ kiện
- Tác phẩm Biệt động Sài Gòn
Bộ phim nhựa nổi tiếng “Biệt động Sài Gòn” do đạo diễn Long Vân thực
hiện, gồm 4 tập lần lượt có tên:Điểm hẹn, Tình lặng, Cơn giông và Trả lại tên cho
em,từng là cơn sốt trong những năm 80.

Phim nói về chiến công của các chiến sỹ biệt động thành trước năm 1975
với các nhân vật chính như: Tư Chung, Ngọc Mai, ni cô Huyền Trang, Sáu Tâm
do dàn diễn viên nổi tiếng như Thương Tín, Thanh Loan, Hà Xuyên… thủ vai.
- Khởi kiện
Nhóm 12

Trang 16


Quản trị thương hiệu
Ngày 19/10/2007, ông Nguyễn Thanh (66 tuổi, cựu phóng viên Báo Quân
đội Nhân dân) kiện ông Lê Phương (nhà biên kịch thuộc Hãng phim truyện Việt
Nam) và Hãng phim truyện Việt Nam. Đơn khởi kiện yêu cầu toà xác định ông
Thanh là tác giả duy nhất của kịch bản Biệt động Sài Gòn chứ không phải hai ông
là đồng tác giả. Đồng thời yêu cầu ông Phương và hãng phim truyện Việt Nam
phải bồi thường 550 triệu đồng tiền nhuận bút cho ông. Sau nhiều lần bổ

sung, yêu cầu khởi kiện, tại phiên toà 12/5/2009, số tiền mà ông Thanh đòi bồi
thường lên tới... 74 tỷ đồng.
- Xét xử vụ kiện
Ngày 11/05/2009 TAND TP Hà Nội đã đưa ra xét xử vụ kiện hy hữu về
quyền tác giả của kịch bản nổi tiếng Biệt động Sài Gòn.
Theo ông Thanh, cách đây 28 năm (năm 1981), qua bạn bè giới thiệu, ông
Lê Phương (lúc ấy là nhà biên kịch của Hãng phim truyện Việt Nam) đã đến đặt
hàng ông viết kịch bản cho một bộ phim truyện nhựa về biệt động thành xảy ra
trước năm 1975.
Vốn là phóng viên chiến trường của Báo Quân đội Nhân dân, được tiếp xúc
với nhiều chiến sỹ tình báo, năm 1975, ông Thanh từng viết ký Biệt động Sài
Gòn và Người con gái Sài Gòn đăng dài kỳ trên Báo Quân đội Nhân dân. Vì vậy,
khi ông Phương đặt hàng, ông Nguyễn Thanh đã nhận lời. Dựa vào các tác phẩm
trước đây và vốn đi thực tế, ông Thanh đã hoàn thành kịch bản có tênThành phố
gọi những tình yêu hay còn gọi là Biệt động Sài Gòn ngay trong năm 1981.
Ông Thanh trình bày trước toà rằng, ông Phương giục ông viết nhanh vì
đang cần gấp nên có tổng cộng 3 lần ông Phương đã đến lấy kịch bản. Một trong
số những lần đó, ông Phương có đưa cho ông Thanh 1.200 đồng.
Tại toà, bị đơn là ông Lê Phương thừa nhận, năm 1981, ông có đặt hàng
ông Nguyễn Thanh viết kịch bản Biệt động Sài Gòn. Nhưng sau khi hoàn
thành, Biệt động Sài Gòn của ông Thanh không được Hội đồng duyệt chấp nhận
nên ông Phương phải viết lại kịch bản mới có tựa đề: Những thiên thần ra trận.
Đây chính là kịch bản được duyệt để sản xuất phim Biệt động Sài Gòn. Vì thế,
ông Phương mới là tác giả chính nên đã thoả thuận với ông Thanh rằng nhuận bút
sẽ chia 3, ông Phương 2 phần còn ông Thanh 1 phần và ông Thanh đã đồng ý.
Nhóm 12

Trang 17



Quản trị thương hiệu
Tuy nhiên, tại toà, ông Thanh nói ông đã không đồng ý mức chia trên và đề
nghị ông Phương cho đối chiếu kịch bản Biệt động Sài Gòn của mình và Những
thiên thần ra trận (kịch bản do ông Phương sửa) xem khác nhau đến mức nào rồi
mới quyết mức chia nhuận bút nhưng đều bị ông Phương né tránh.
Dù lập luận như vậy nhưng tại toà cả hai bên đều không xuất trình được
chứng cứ chứng minh có sự thoả thuận tỉ lệ chia nhuận bút
Khi phim Biệt động Sài Gòn còn chưa đóng máy thì không hiểu sao, Báo
Sài gòn Giải phóng đã có kịch bản và đăng nhiều kỳ với tên tác giả là Lê Phương.
Khi ông Phương biết được, có yêu cầu báo ghi tên tác giả gồm cả ông Thanh,
nhưng các số sau đó, phần tác giả lại ghi “Lê Phương với sự cộng tác của Nguyễn
Thanh”. Một số NXB sau này khi xuất bản cũng chỉ ghi tác giả là: “Lê Phương
với sự cộng tác của Nguyễn Thanh”.
Đọc được kịch bản qua báo, ông Thanh phát hiện giữa bản thảo gốc của ông
và kịch bản dựng phim mà ông Phương nói rằng phải viết lại, không có sự khác
nhau nhiều. Ông Phương chỉ thêm bớt một số chi tiết và các chi tiết này theo ông
Thanh chỉ làm hỏng kịch bản của ông chứ không hề hay lên. Vì những lý do trên,
ông Thanh yêu cầu toà xem xét tuyên chỉ mình ông mới là tác giả của kịch
bản Biệt động Sài Gòn.
Chưa hết, cho rằng chính ông Phương đã gửi tác phẩm tới NXB Thanh Hoá
và Hội Văn học nghệ thuật Long An để in sách rồi lĩnh nhuận bút và “ỉm” đi, nên
ông Thanh tính toán và cho rằng, tổng số tiền nhuận bút mà ông Phương nhận
được rất lớn. Sự việc xảy ra đã hơn 20 năm, ông Thanh cho rằng nếu quy đổi ra
vàng để tính thì tổng số tiền mà ông Phương phải trả cho ông lên tới… 74 tỷ
đồng!
Tại toà, ông Phương thừa nhận đã nhận 12.000 đồng nhuận bút từ Hãng
phim truyện Việt Nam và đã chuyển cho ông Thanh 1/3 số tiền trên. Báo Sài gòn
Giải phóng cũng đã trả cho ông Phương 2.500 đồng nhuận bút và ông đã nhiều lần
báo cho ông Thanh tới lấy nhưng ông Thanh không lấy. Riêng việc NXB Thanh
Hoá và Hội Văn học Nghệ thuật Long An in lại tập truyện trên từ nguồn nào thì

ông không biết và cũng không được trả nhuận bút.

Nhóm 12

Trang 18


Quản trị thương hiệu
Luật sư của bị đơn cho rằng yêu cầu trả nhuận bút của ông Thanh không có
cơ sở và mang nhiều yếu tố tưởng tượng vì không có bất kỳ chứng từ nào chứng
minh. Hơn nữa, Điều 158 Bộ luật Dân sự quy định, thời hiệu khởi kiện là 2 năm.
Trong khi từ năm 1997, ông Thanh nhận nhuận bút, thấy không thoả mãn nhưng
cũng không kiện, bây giờ mới kiện là không có cơ sở và căn cứ để toà xem xét.
Luật Sở hữu trí tuệ chỉ nói đến khái niệm đồng tác giả mà không nói rõ đâu là tác
giả chính đâu là phụ và hai tác giả cũng thừa nhận là đồng tác giả. Do đó, đề nghị
toà bác đơn của ông Nguyễn Thanh yêu cầu toà khẳng định ông là tác giả duy
nhất, đồng thời bác đơn đòi bồi thường của ông Thanh.
Đại diện của Hãng phim truyện VN cho rằng, ông Phương là biên kịch của
hãng và hãng đặt hàng ông Phương viết kịch bản. Sau đó đã thanh toán đầy đủ
nhuận bút cho ông Phương. Việc ông Phương đặt hàng ông Thanh ra sao là việc
giữa hai tác giả với nhau, Hãng phim truyện không có trách nhiệm. NXB Thanh
Hoá và Hội Văn học Nghệ thuật Long An, trong văn bản gửi toà cũng đều cho
biết, do đã lâu, sổ sách chứng từ của các cơ quan này không còn lưu nên việc xác
minh đã trả nhuận bút chưa, trả cho ai là rất khó khăn.
2.3.2 Giải quyết tranh chấp.
Toà nhận định, do cả hai ông đều không xuất trình được bảo thảo lần đầu
để xác định phần trăm đóng góp của hai ông nên kịch bản Biệt động Sài Gòn là tác
phẩm chung của hai tác giả Nguyễn Thanh – Lê Phương, vì vậy tất cả các khoản
nhuận bút phải được chia đôi.
Mặt khác, ông Phương cũng không đưa ra được chứng cứ chứng minh việc

đã đưa nhuận bút (gồm 12.000 đồng của Hãng phim truyện Việt Nam trả và 2.500
đồng của Báo Sài gòn Giải phóng trả) cho ông Thanh ngoại trừ việc ông Thanh
nói đã nhận đã 1.200 đồng trong quá trình viết kịch bản. Vì vậy, ông Phương sẽ
phải trả cho ông Thanh ½ số nhuận bút đã nhận của hãng phim và Báo Sài gòn
Giải phóng trừ đi 1.200 đồng. Như vậy, ông Phương phải trả cho ông Thanh 6.050
đồng.
Theo toà, nếu lấy giá vàng thời điểm đó để tính giá trị tiền hiện tại thì
không có cơ sở, nhưng nếu áp dụng mức lãi suất ngân hàng thì sẽ thiệt thòi cho
ông Thanh. Vì vậy, toà áp dụng hướng dẫn của Bộ Tài chính, lấy giá gạo thời
Nhóm 12

Trang 19


Quản trị thương hiệu
điểm trả nhuận bút để tính thì ông Phương sẽ phải trả cho ông Thanh tổng cộng
9.072.000 đồng.
Tuy nhiên kết quả này vẫn chưa làm thỏa mãn của bị cáo và nguyên cáo.
2.3.3 Bài học kinh nghiệm rút ra.
Mỗi một tác phẩm văn học như một đứa con tinh thần của tác giả, vì thế
nên quyền tác giả không chỉ có ý nghĩa về mặt vật chất mà nó còn là già trị tinh
thần vô cùng to lớn.
Thế nhưng quyền tác giả ở Việt Nam thực sự chưa được bảo vệ hay có sự
rõ ràng trong hợp pháp hóa.
Để tránh đi những hạt sạn không đáng có trong hình ảnh một tác phẩm nổi
tiếng như Biệt động Sài Gòn. Chúng ta nên rút ra những bài học:
Đối với tác giả
-

Làm rõ vai trò của tác giả, quyền tác giả, đồng tác giả khi xuất bản.

Đặng kì quyền tác giả với các cơ quan nhà nước,để được bảo vệ khi có sự
xâm phạm trái phép mà chưa có ý kiền của tác giả.
Ghi một cách rõ ràng những tài liệu đã tham khảo của các tác giả khác trong
tác phẩm, để tránh những vi phạm không đáng có.
Đối với nhà xuất bản:
-

Nên xác minh rõ ràng tác giả, đồng tác giả tác phẩm trước khi xuất bản để
tránh sự nhầm lần, dẫn đến phải bồi thường khi xâm phạm quyền tác giả
Hỏi ý kiền có sự cho phép của tác giả khi xuất bản, tránh vi phạm quyền sở
hữu trong Luật sở hữu trí tuệ.

PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Có thể thấy rằng tranh chấp thương hiệu và vấn đề bức xúc của các doanh nghiệp
hiện nay, điều này gây ra tổn thất không nhỏ cả về tiền bạc và uy tín của công ty. Mặc
dù vậy quy định về đăng kí bảo hộ thương hiệu quốc tế chưa được DN Việt Nam quan
Nhóm 12

Trang 20


Quản trị thương hiệu
tâm, kể cả các DN lớn, có thương hiệu nổi tiếng trong nước cũng như thiếu hiểu biết vấn
đề này. Nguyên nhân chủ yếu là do DN thiếu thông tin, ngại thủ tục và chi phí. Tuy
nhiên, thông qua thông qua những trường hợp gần đây, đã đến lúc DN phải xác định
nhãn hiệu là tài sản vô giá của DN. Mất đi nhãn hiệu do mình gây dựng có thể đưa DN
đến phá sản. DN cũng phải xác định thị trường là vô hạn, sản phẩm của công ty sẽ có
ngày ra khơi, vượt qua biên giới để đến với công đồng quốc tế.
Vì thế, cần phải đăng kí bảo hộ nhãn hiệu ở phạm vi quốc tế ngay khi có điều
kiện, mà thời điểm thích hợp nhất là khi sản phẩm sắp có chỗ đứng trên thị trường nội

địa. Hay thông qua các tổ chức đại diện sở hữu trí tuệ, các công ty luật có uy tín để sử
dụng dịch vụ của họ nhằm tiết kiệm thời gian, chi phí, tìm thấy sự an tâm. Về cơ bản,
khi đã để xảy ra tranh chấp thương hiệu ở phạm vi quốc tế, DN sẽ gặp hầu hết là bất lợi
do tốn kém chi phí, khả năng thắng kiện thấp...
Và đã đến lúc các doanh nghiệp phải quan tâm tới thương hiệu của mình, tránh đi
lại vào vết xe đổ, vấn đề này thực sự đến lúc cần thiết.
Trên đây là bài nghiên cứu của nhóm 12
Dưới sự hướng dẫn của thầy giáo nhóm chúng tôi đã rất cố gắng hoàn thành bài
thảo luận này.

Nhóm 12

Trang 21



×