Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Quan điểm của đảng cộng sản việt nam về xây dựng đảng tư tưởng, chính trị, tổ chức trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.73 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.....................................................................................................2
NỘI DUNG.........................................................................................................4
CHƯƠNG 1: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – KHÁI LƯỢC MỘT SỐ
VẤN ĐỀ..............................................................................................................4
1.1.Hoàn cảnh ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam...........................................4
1.2. Đảng cộng sản Việt Nam – Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động.....................................................................................................................5
CHƯƠNG 2: QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ
XÂY DỰNG ĐẢNG: TƯ TƯỞNG, CHÍNH TRỊ, TỔ CHỨC......................8
2.1. Xây dựng Đảng về tư tưởng..........................................................................8
2.2. Xây dựng Đảng về chính trị........................................................................11
2.3. Xây dựng Đảng về tổ chức..........................................................................13
2.4. Mối quan hệ giữa xây dựng Đảng về chính trị - tư tưởng - tổ chức...........14
CHƯƠNG 3: THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG CÔNG TÁC XÂY
DỰNG ĐẢNG VỀ TƯ TƯỞNG, CHÍNH TRỊ, TỔ CHỨC.........................16
3.1.Công tác xây dựng Đảng và những thành tựu đạt được..............................16
3.1.1.Thành tựu về tư tưởng....................................................................16
3.1.2. Thành tựu về chính trị...................................................................16
3.1.3. Thành tựu về tổ chức.....................................................................17
3.2. Công tác xây dựng Đảng và những hạn chế cần khắc phục.......................18
KẾT LUẬN.......................................................................................................21

1


LỜI MỞ ĐẦU
Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền tại Việt nam hiện nay theo
Hiến pháp. Đảng cộng sản Việt nam lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng.
Để thực sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên


phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi
ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc, Đảng phải
thực sự là đại biểu về danh dự, lương tâm trí tuệ của dân tộc.
Sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng là điều kiện cơ bản, trực tiếp là cái
bảo đảm chắc chắn nhất cho một phẩm chất như vậy. Điều đó giải thích vì sao
Đảng ta luôn xem xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức là 3 lĩnh vực
quan trọng, sống còn của Đảng trong xây dựng, phát triển.
Sau khi nước nhà thống nhất, cả nước thực hiện một nhiệm vụ chiến lược
là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ Quốc xã hội chủ nghĩa, Đảng đã ý
thức rõ sự cần thiết phải có bước tiến căn bản về chính trị tư tưởng của Đảng,
một vẫn đề bức xúc đặt ra trên lĩnh vực chính trị tư tưởng là phải đổi mới căn
bản quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Giờ đây, khi đã chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, sự đa đạng hóa chế độ sở hữu, hình thức và thành phần kinh tế, lấy
sự điều tiết của kinh tế thị trường làm căn cứ cơ bản, thị trường đóng vai trò là
cơ sở kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân...thì tư tưởng chính trị của Đảng chỉ
đạo xã hội nói chung. Môi trường kinh tế thị trường đòi hỏi ở Đảng sự kiên
định, sự năng động nhạy bén, đồng thời có sức đề kháng cao trước những tiêu
cực của kinh tế thị trường tác động vào nội bộ hàng ngũ mình.
Hiện nay, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta diễn ra trong
bối cảnh chủ nghĩa đế quốc đang thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” với
mưu đồ làm thay đổi bản chất của chế độ chính trị mà nhân dân ta đang xây
dựng và được thiết định từng bước một. Những điều kiện mới và hoàn cảnh
mới đặt ra nhiều vấn đề mới trong xây dựng Đảng về chính trị tư tưởng. Việc
2


giải quyết những vấn đề đó đòi hỏi Đảng ta phải đổi mới hơn nữa về nội dung
và phương pháp xây dựng Đảng trên các lĩnh vực nhằm giữ vững, tăng cường
vai trò lãnh đạo của Đảng trong quá trình đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi

mới đất nước hiện nay.
Vấn đề xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức là những vấn đề
quan trọng chiến lược, có ý nghĩa to lớn. Xuất phát từ việc nhận thức đúng đắn
tầm quan trọng của vấn đề xây dựng Đảng. Em chọn đề tài “Quan điểm của
Đảng Cộng Sản Việt Nam về xây dựng Đảng : Tư tưởng, Chính trị, tổ chức
trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên cứu.

3


CHƯƠNG 1
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – KHÁI LƯỢC MỘT SỐ VẤN ĐỀ
1.1 Hoàn cảnh ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Đảng cộng sản Việt Nam thành lập năm 1930 là bộ phận của quốc tế
cộng sản. Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam tháng 2 năm
1930 có ý nghĩa như Đại hội thành lập Đảng. Hội nghị đã vạch ra một đường
lối cách mạng và đường lối xây dựng Đảng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với
điều kiện một nước thuộc địa nửa phong kiến. Theo điều lệ Đảng năm 1935
“Đảng cộng sản Đông Dương, đội tiền phong duy nhất của vô sản giai cấp,
tranh đấu để thu phục đa số quần chúng vô sản, lãnh đạo nông dân lao động và
tất thảy quần chúng lao động khác...”
Hội nghị hợp nhất các tổ chức đảng cộng sản ở Việt Nam thành một
Đảng Cộng sản duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam - theo một đường lối
chính trị đúng đắn, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và hành động
của phong trào cách mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu
tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai
cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt
Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng
đại, một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam,

đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta. Sự ra
đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí
Minh là hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết hợp đó, là tiêu biểu sáng ngời cho sự
kết hợp giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa
xã hội.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời
Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là
giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để
4


Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào
cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối
cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con
đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường
lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất
của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách
mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản
quyết định phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong
suốt 80 năm qua.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng
Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được
sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng Việt
Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế
giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
1.2. Đảng cộng sản Việt Nam – Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động
Thứ nhất, Chủ nghĩa Mác là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành

động của Đảng
Chủ nghĩa Mác là một hệ thống lý luận thống nhất được hình thành từ ba
bộ phận: Triết học Mácxít, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học.
Chủ nghĩa Mác là học thuyết cách mạng và khoa học. Bởi đây là học
thuyết duy nhất nêu lên mục tiêu và con đường lực lượng, phương thức đạt
được mục tiêu là giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Chủ nghĩa Mác không phải là một học thuyết đóng kín, cứng nhắc nằm ngoài
con đường phát triển của nhân loại mà là một học thuyết mở nên luôn đòi hỏi
phải được phát triển và hoàn thiện.
Thứ hai, Đảng là đôi tiên phong, là đội có tổ chức và là hình thức tổ
chức cao nhất của giai cấp công nhân
Một là, Đảng tiên phong trên lĩnh vực lý luận
5


Theo Lênin: “Chỉ Đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì
mới có khả năng làm tròn vai trò người chiến sỹ tiên phong”.
Hai là, Đảng tiên phong trên lĩnh vực tổ chức
Lênin nói: “Tính tự giác của đội tiên phong, còn biểu hiện ở chỗ là nó
biết tự tổ chức – mà sau khi được tổ chức. Nó có một ý chỉ thống nhất và ý chí
thống nhất ấy của một nghìn, một trăm nghìn, một triệu người tiên tiến sẽ trở
thành ý chí của giai cấp”.
Ba là, Đảng tiên phong trên phương diện hành động
Lênin khẳng định: “ Tính Đảng không chỉ thể hiện ở lời nói mà còn thể
hiện ở việc làm. Những Đảng viên hữu danh vô thực thì cho cũng không lấy”.
Thứ ba, Đảng là hạt nhân lãnh đạo của chuyên chính vô sản
Đảng là lực lượng duy nhất có đủ bản lĩnh chính trị, năng lực và uy tín
để lãnh đạo xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ chức một xã hội mới, đủ sức làm thầy,
làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của tất cả những người lao động và những
người bị bóc lột – để giúp họ tổ chức đời sống xã hội mới.

Lênin khẳng định: Đảng là đội tiên phong cầm quyền trực tiếp của giai
cấp vô sản, Đảng là người lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên
quyết bảo đảm công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội thành công.
Thứ tư, Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng tổ chức,
sinh hoạt và hoạt động của Đảng.
Tập trung trong Đảng là thể hiện ý chí của đa số, là quyền lực của tập thể
trao cho. Tập trung đảm bảo sự thống nhất ý chí và hành động của Đảng.
Dân chủ là nhằm phát huy cao nhất trí tuệ và sáng tạo của các cấp bộ
Đảng và của Đảng viên, làm cho Đảng thống nhất về ý chí và hành động, tạo sự
thống nhất từ Trung ương đến cơ sở, có sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa
các tổ chức Đảng – Đảng viên
Thứ năm, Đảng là một khối thống nhất ý chí và hành động, tự phê bình
và phê bình là quy luật phát triển Đảng
Lênin khẳng định, sự nghiệp đấu tranh giành chính quyền cũng như sự
nghiệp xây dựng xã hội mới, xã hội chủ nghĩa đều đòi hỏi phải có sự thống
6


nhất ý chí hết sức chặt chẽ, tuyệt đối điều tiết được công việc chung của hàng
trăm, hàng nghìn hàng vạn người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Đoàn kết thống nhất là nguồn sức
mạnh của Đảng. Đoàn kết thống nhất là vấn đề cơ bản của cách mạng nước ta.
Cán bộ Đảng viên phải giữ gìn đoàn kết thống nhất của Đảng như giữ gìn con
ngươi mắt mình.
Thứ sáu, Tính chất quốc tế của Đảng cộng sản
Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền
với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Đảng ta kiên quyết chống mọi khuynh
hướng sô vanh nước lớn hoặc chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.

7



CHƯƠNG 2
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ XÂY DỰNG
ĐẢNG: TƯ TƯỞNG, CHÍNH TRỊ, TỔ CHỨC.
2.1. Xây dựng Đảng về tư tưởng
Tư tưởng là một khái niệm thuộc đời sống tinh thần phản ánh tồn tại xã
hội, nhưng đó là sự phản ánh ở tầm quan niệm, suy nghĩ mang tính định hướng
giá trị của con người với hiện thực.
Xây dựng Đảng về tư tưởng là quá trình đưa ý thức xã hội chủ nghĩa vào
trong Đảng, làm cho tư tưởng đó thấm sâu vào mọi tổ chức Đảng và cá nhân
Đảng viên của Đảng, biến thành niềm tin lý tưởng, mục đích sống, đạo đức, lối
sống và hoạt động của cả tổ chức Đảng cũng như Đảng viên ở mọi nghành, mọi
cấp.
Để đạt được mục tiêu đó, xây dựng Đảng về tư tưởng đòi hỏi phải:
Thứ nhất, xây dựng hệ chuẩn về tư tưởng của Đảng đáp ứng nhiệm vụ
chính trị thực tiễn ở từng thời kỳ cách mạng cần đạt để Đảng hoàn thành tốt sứ
mệnh lịch sử của mình trước dân tộc.
Xây dựng Đảng về tư tưởng không có mục tiêu tự nó, mà nhằm đáp ứng
nhu cầu lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, nâng cao sức hấp dẫn của Đảng đối với
nhân dân với dân tộc và nhân loại, để Đảng thực sự là biểu tượng về danh dự,
lương tâm trí tuệ của dân tộc, của thời đại như Lênin nói, hay để Đảng ta thực
sự “vừa là đạo đức, vừa là văn minh” như Hồ Chí Minh nói.
Nhiệm vụ chính trị - thực tiễn lại có nội dung, yêu cầu không hoàn toàn
giống nhau ở các giai đoạn phát triển khác nhau của đất nước.
Thứ hai, giáo dục cán bộ, đảng viên để nâng cao tầm tư tưởng của họ
Xây dựng Đảng về tư tưởng bao hàm xây dựng cả nội dung, tính chất và
trình độ tư tưởng trong Đảng.
Thứ ba, đưa những tư tưởng tích cực, cách mạng, tiến bộ vào trong
Đảng.

Tư tưởng của Đảng cộng sản không nảy sinh tự phát từ phong trào công
nhân. Tư tưởng cộng sản là kết quả hoạt động lý luận, tổng kết thực tiễn của
8


những tri thức ưu tú giác ngộ lợi ích của giai cấp công nhân. Việc giáo dục,
tuyên truyền đưa tư tưởng đó vào giai cấp công nhân dẫn tới sự ra đời của
Đảng cộng sản.
Tư tưởng cộng sản không ngừng được phát triển qua thực tiễn cách
mạng. Không phải mọi tổ chức Đảng và cá nhân Đảng viên đều có thể tự động
cập nhật, tiếp thu, thẩm thấu được tất cả những thành quả mới đó. Cho nên,
viweecj tuyên truyền, giáo dục tư tưởng trở thành công việc này, xây dựng
Đảng về tư tưởng sẽ góp phần biến tư tưởng thành niềm tin, thành lý tưởng,
thành những nguyên tắc đạo đức cách mạng trong tổ chức Đảng, Đảng viên.
Thứ tư, tổ chức hoạt động thực tiễn của Đảng để hiện thực hóa các nhu
cầu tư tưởng của Đảng thành những giá trị xã hội phổ biến trong Đảng và
trong xã hội.
Xây dựng Đảng về tư tưởng không phải vì tư tưởng, mà vì thực tiễn –
bao gồm thực tiễn “cách mạng hóa trên lĩnh vực tư tưởng của Đảng lẫn trình độ
tư tưởng trong xã hội, nhờ vậy, Đảng mạnh lên, đất nước phát triển mạnh hơn.
Chính qua thực tiễn đó, những thay đổi của đời sống hiện thực lại đặt ra những
nhu cầu phát triển mới về tư tưởng trong Đảng và trong xã hội nói chung. Nỗ
lực vươn lên về tư tưởng đáp ứng nhu cầu đó sẽ là động lực cho sự phát triển tư
tưởng trong Đảng.
Thứ năm, đấu tranh trên mặt trận tư tưởng
Do tính khoa học và cách mạng triệt để của nó, do giá trị cỉa tạo hiện
thực thúc đẩy sự phát triển tiến bộ xã hội vĩ đại của nó, ngay khi mới ra đời tư
tưởng xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa đã phải đương đầu với cuộc đấu
tranh gay go quyết liệt, toàn diện của các tư tưởng thù địch cả trên lĩnh vực thế
giới quan, phương pháp luận lẫn tư tưởng chính trị.

Về thế giới quan, phải đấu tranh chống lại quan điểm duy tâm, quan
điểm duy vật tầm thường về sự phát triển nói chung, sự phát triển xã hội nói
riêng.
Về phương pháp luận, phải đấu tranh chống lại phương phương pháp tư
duy siêu hình, chiết trung, ngụy biện.
9


Về tư tưởng chính trị, phải đấu tranh chống lại chủ nghĩa cải lương, tư
tưởng phiêu lưu mạo hiểm, xét lại, cơ hội hữu khuynh và tả khuynh...dưới mọi
biểu hiện, mọi biến dạng của chúng.
Ngày nay, khi tình hình thế giới đang có nhiều diễn biến phức tạp, những
thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ, đặc biệt của khoa học công nghệ,
đặc biệt của khoa học thông tin đã làm cho cuộc đấu tranh tư tưởng diễn ra với
cả chiều rộng và chiều sâu chưa từng thấy.
Ở nước ta hiện nay, phải đấu tranh bác bỏ những luận điệu sai trái, chống
sự phá hoại của các thế lực thù địch, trước hết là những luận điệu xuyên tạc chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xuyên tạc đường lối phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phá hoại khối đoàn kết toàn dân tộc,
phá hoại mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa nhân dân với Đảng, phá hoại đoàn
kết, thống nhất trong Đảng.
Thứ sáu, xây dựng sự thống nhất về tư tưởng làm cơ sở xây để xây dựng
khối đoàn kết thống nhất về ý chí và hành động trong Đảng.
Từ thực tiễn lịch sử đất nước nói chung, lịch sử phát triển của cách mạng
dưới sự lãnh đạo của Đảng nói riêng, Hồ Chí Minh khẳng định:
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công
Để có đoàn kết, giữa các bộ phận hợp thành chỉnh thể phải có cái chung,
cái đồng nhất, cái giống nhau, đó là cơ sở liên kết, cố kết giữa người với người,
tổ chức với tổ chức ..... đối với Đảng ta, dân tộc ta lúc này, cái chung cái thống

nhất đó chính là hệ tư tưởng chính trị, mục tiêu chính trị, mục đích vì dân vì
nước, vì thống nhất độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì dân giàu nước mạnh
xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Có được sự thống nhất về tư tưởng là tiền đề có sự đoàn kết thống nhất
trong Đảng.
Thứ bảy, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên của Đảng.
Tư tưởng đạo đức là một bộ phận quan trọng cấu thành tư tưởng, nó có
vai trò vô cùng to lớn trong điều chỉnh và định hướng hành vi của con người
10


trong quan hệ giữa người với người. Cho nên rèn luyện và giáo dục đạo đức
cho cán bộ đảng viên là một trong những nội dung quan trọng của nhiệm vụ
xây dựng Đảng về tư tưởng. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa càng đòi hỏi cao đối với việc giáo dục đạo đức trong Đảng – đạo đức của
người cầm quyền, thể hiện trước hết ở đạo đức chính trị, cùng với nó, là đạo
đức cá nhân của đảng viên, nhất là đảng viên giữ cương vị lãnh đạo. Điều đó
càng trở nên đặc biệt bức xúc khi “tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng,
đạo đức và lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên ... chưa
được khắc phục có hiệu quả, làm giảm sức chiến đấu của Đảng và lòng tin của
nhân dân với Đảng”.
2.2. Xây dựng Đảng về chính trị
Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia
trong vấn đề giành, giữ, sử dụng quyền lực Nhà nước, là những phương hướng,
những mục tiêu được quy định bởi lợi ích cơ bản của giai cấp, của Đảng phái,
là hoạt động thực tiễn chính trị của giai cấp, các Đảng phái, các Nhà nước để
thực hiện đường lối đã lựa chọn nhằm đi tới mục tiêu đặt ra.
Xây dựng Đảng về chính trị chính là quá trình xác lập, củng cố hệ tư
tưởng chính trị trong Đảng, trên cơ sở đó, xuất phát từ thực tiễn để xây dựng
được đường lối chính trị đúng đắn, lãnh đạo thực hiện thắng lợi đường lối đó,

củng cố, nâng cao vai trò lãnh đạo, uy tín chính trị của Đảng đối với toàn xã
hội. Xây dựng Đảng về chính trị còn nhằm phát huy hiệu lực của Nhà nước,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, làm cho Nhà nước thực sự nằm
tỏng tay nhân dân, bảo vệ và phục vụ lợi ích của nhân dân, phát huy được vai
trò các thành viên trong hệ thống chính trị, đảm bảo mọi quyền lực thực sự
thuộc về nhân dân – một xã hội thực sự dân chủ. Đảng lãnh đạo làm sao để
nhân dân làm chủ ngày càng tốt hơn, dân chủ của nhân dân ngày càng được mở
rộng và sâu sắc hơn.
Xây dựng Đảng về chính trị phải:
Thứ nhất, không ngừng bồi dưỡng nâng cao nhận thức, kiên định nền
tảng tư tưởng của Đảng
11


Theo Lênin chỉ Đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì
mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sỹ tiên phong.
Đối với Đảng ta “lý luận tiên phong” nền tảng tư tưởng đó là chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được thiết định vững chắc trong Đảng.
Đảng có khả năng nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết,
tư tưởng đó, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của
mình. Đảng phải có tư duy lý luận cao, phải nắm được chủ nghĩa Mác – Lênin,
có như vậy Đảng mới có phương pháp khoa học cho phép thâm nhập vào bản
chất của sự vật, phát hiện ra những quy luật nội tại cuat nó và lấy đó làm căn cứ
xây dựng và tổ chức thực hiện mọi quyết sách của mình.
Đổi mới không phải là phủ định thành tựu lý luận và cách làm trước đây
trên nền tảng tư tưởng đó, mà là khẳng định những gì đã hiểu đúng, loại bỏ
những gì đã hiểu sai, làm sai, hoặc những gì trước kia đúng những nay không
còn phù hợp, bổ xung nhận thức mới và cách làm mới, đáp ứng yêu cầu của
tình hình mới.
Thứ hai, xây dựng đường lối chính trị đúng

Để xác lập, củng cố vị trí lãnh đạo của mình, Đảng phải xây dựng được
một đường lối chính trị đúng đắn. Đường lối chính trị thể hiện trước hết trong
cương lĩnh, chủ trương chính sách của Đảng.
Một là, phải nắm vững và vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Lấy đó là cơ sở lý luận phương
pháp luận nền tảng để phân tích tình hình thế giới, trong nước...nhằm đưa đất
nước vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn.
Hai là, phải xuất phát từ thực trạng tình hình và xu hướng phát triển của
đất nước với tất cả các vấn đề có thể nảy sinh cần giải quyết.
Ba là, kế thừa một cách sáng tạo kinh nghiệm lịch sử dân tộc và thời đại
đã được tích lũy.
Thứ ba, lãnh đạo thực hiện thắng lợi đường lối chính trị
Xây dựng được đường lối chính trị đúng là vấn đề hết sức quan trọng.
Lãnh đạo thực hiện có hiệu quả đường lối chính trị có vai trò quyết định đối với
12


sự thay đổi hiện thực nhằm hiện thực hóa mục tiêu mà đường lối chính trị đã
đặt ra.
Thứ tư, củng cố và nâng cao uy tín chính trị của Đảng
Đưa ra được đường lối chính trị đúng, có khả năng tổ chức thực hiện
thắng lợi đướng lối đó, nhờ vậy tạo ra những bước tiến trong thực tế với những
kết quả hữu ích, thiết thực mà mỗi người dân đều cảm nhận được ngay trong
cuộc sống thường nhật của mình là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng cho
việc xác lập, củng cố uy tín của Đảng trong nhân dân.
Mặt khác uy tín của Đảng còn được củng cố tăng cường, thấm đượm sâu
sắc vào nhân dân. Cho nên xây dựng Đảng về chính trị cũng đòi hỏi phải xây
dựng ý thức chính trị vì nước vì dân cho từng Đảng viên và tổ chức Đảng.
2.3. Xây dựng Đảng về tổ chức
Để đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh toàn diện và

mạnh mẽ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng
dân chủ văn minh. Đảng ta kiên trì thực hiện chủ trương không ngừng hoàn
thiện bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị, bảo đảm giữ vững và tăng cường
vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ
quan Nhà nước, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị xã hội.
Việc đổi mới kiện toàn về tố chức Đảng phải phù hợp với đặc điểm của
hệ thống chính trị nước ta vận hành theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ, do một Đảng duy nhất lãnh đạo, phù hợp với đặc điểm
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc
tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, giữ vững và tăng cường
vai trò lãnh đạo của Đảng.
Kiện toàn tổ chức, bộ máy nhằm đảm bảo các cơ quan trong hệ thống
chính trị hoạt động có hiệu quả, hiệu lực, tinh gọn...Phân định rõ chức năng
nhiệm vụ, trách nhiệm của mỗi tổ chức, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của tổ chức Đảng.
13


Đổi mới tổ chức, bộ máy phải vừa kế thừa những thành quả và kinh
nghiệm đã đạt được, vừa đáp ứng yêu cầu của tiến trình đổi mới đất nước, hội
nhập kinh tế quốc tế.
Trong thời kỳ đổi mới cần nâng cao nhận thức của tổ chức Đảng, đội ngũ
cán bộ Đảng viên các nghành các cấp về quan điểm, nguyên tắc đổi mới, kiện
toàn tổ chức bộ máy. Chỉ đạo kiên quyết, triển khai đồng bộ, không nể nang và
né tránh. Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và của hệ thống chính trị,
xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu bộ máy, cơ chế vận hành, lề lối
làm việc. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ
thống chính trị. Kiện toàn nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ

chức cơ sở Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ Đảng viên ở cơ sở.
2.4. Mối quan hệ giữa xây dựng Đảng về chính trị - tư tưởng – tổ chức
Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức là ba mặt của một quá
trình thống nhất trong tổng thể xây dựng Đảng. Ba mặt này có quan hệ chặt chẽ
với nhau.
Trong chính trị có tư tưởng chính trị - bộ phận cốt lõi của nó. Sự vững
vàng về tư tưởng chính trị thể hiện trong sự nắm vững, vận dụng phát triển
sáng tọa nền tảng tư tưởng của Đảng, đưa ra được cương lĩnh, đường lối đúng
đắn mang lại hiệu quả thực tiễn thiết thực...là nhân tố bảo đảm sự vững mạnh
về chính trị có ý nghĩa tiền đề. Xác dịnh đúng nhiệm vụ chính trị mới có nội
dung, phương hướng xây dựng Đảng về tư tưởng.
Xây dựng Đảng về tư tưởng phải xuất phát từ đường lối và nhiệm vụi
chính trị, phục vụ nhiệm vụ chính trị. Làm tốt công tác xây dựng Đảng về tư
tưởng sẽ đảm bảo cho Đảng đủ năng lực đề ra đường lối chính trị đúng, thông
qua vai trò tiên phong gương mẫu của Đảng viên và các tổ chức Đảng để đưa
đường lối đó vào nhân dân, có năng lực quy tụ sức mạnh của dân tộc. Sức
mạnh về tư tưởng và hành vi được chỉ đạo bởi tư tưởng về chính trị đó sẽ làm
cho đường lối chính trị của Đảng được thực hiện thắng lợi.
Xây dựng Đảng về tổ chức chặt chẽ giúp tăng thêm sức mạnh chung
nhằm đạt được mục đích nhất định.
14


Xây dựng Đảng về tư tưởng, tổ chức, chính trị có quan hệ biện chứng với
nhau, tác động qua lại, tuyệt nhiên không phải là sự phụ thuộc một chiều. Sự
thống nhất về mục tiêu, về nội dung, phương thức thực hiện khiến cho xây
dựng Đảng về chính trị, về tư tưởng không thể tách biệt. Bằng việc tiến hành
đồng bộ trên hai mặt này trong mối quan hệ hữu cơ với xây dựng Đảng về tổ
chức sẽ làm cho sức mạnh của Đảng tăng thêm gấp nhiều lần, năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng được tăng cường.


15


CHƯƠNG 3
THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG
VỀ TƯ TƯỞNG, CHÍNH TRỊ, TỔ CHỨC
3.1. Công tác xây dựng Đảng và những thành tựu đạt được
3.1.1. Thành tựu về tư tưởng
Công tác lý luận đã chủ động nghiên cứu nhiều vấn đề lý luận và thực
tiễn của công cuộc đổi mới, diễn biến mới của tình hình thế giới; giá trị khoa
học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tập trung
vào tổng kết và bổ sung, phát triển Cương lĩnh, xây dựng Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2011 - 2020 và các văn kiện khác trình Đại hội XI của
Đảng.Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng có đổi mới.
Coi trọng hơn nhiệm vụ xây dựng đạo đức trong cán bộ, đảng viên và
nhân dân; tập trung chỉ đạo có kết quả bước đầu cuộc vận động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, gắn với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh
đốn Ðảng; chủ động hơn trong đấu tranh chống “diễn biến hoà bình”, bác bỏ
các quan điểm sai trái, luận điệu tuyên truyền của các thế lực thù địch. Các hoạt
động thông tin, báo chí, xuất bản được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo; chú trọng
ngăn ngừa, khắc phục những lệch lạc, nhất là biểu hiện xa rời tôn chỉ, mục
đích. Công tác thông tin đối ngoại được đẩy mạnh. Đa số cán bộ, đảng viên và
nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc đổi mới và
triển vọng phát triển của đất nước. Tư tưởng tích cực vẫn là xu hướng chủ đạo
trong đời sống xã hội.
3.1.2. Thành tựu về chính trị
Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng
tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của

toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết của cán bộ lãnh đạo chủ
chốt các cấp; không dao động trong bất cứ tình huống nào. Kiên định đường lối
đổi mới, chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô
nguyên tắc.Khẩn trương triển khai cụ thể hoá, thể chế hoá và tổ chức thực hiện
16


có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XI về Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm
2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, phương hướng,
nhiệm vụ 5 năm 2011 - 2015 và Điều lệ Đảng (sửa đổi, bổ sung); gắn kết chặt
chẽ và đồng bộ hơn các nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng
Đảng là then chốt và phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội.
3.1.3. Thành tựu về tổ chức
Công tác tổ chức, cán bộ được triển khai thực hiện tương đối đồng bộ.
Tổ chức bộ máy các cơ quan đảng, nhà nước các cấp được sắp xếp, kiện toàn
theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu quả. Đã xây dựng, bổ sung các quy định về
chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động và lề lối làm việc của mỗi tổ
chức; ban hành nhiều quy chế phối hợp giữa các cơ quan trong hệ thống chính
trị. Tổng kết, rút kinh nghiệm, xác định rõ hơn tổ chức và hoạt động các đảng
đoàn, ban cán sự đảng trong các cơ quan hành pháp và tư pháp ở trung ương và
cấp tỉnh, ban cán sự đảng và mô hình tổ chức đảng ở các đơn vị sự nghiệp trực
thuộc Chính phủ.
Nhiều chủ trương, quan điểm, giải pháp lớn về công tác cán bộ được thể
chế hoá, cụ thể hoá thành các quy chế, quy định. Đã triển khai tương đối đồng
bộ các khâu: quản lý, đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân
chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ, trong đó công tác quy
hoạch, đào tạo và luân chuyển cán bộ có những chuyển biến tích cực. Tăng
cường phân cấp trong công tác cán bộ. Đội ngũ cán bộ được bổ sung về số
lượng, chú trọng nâng cao về chất lượng.
Việc củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức

đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đạt được một số kết quả; chú trọng
hơn xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng ở những vùng, lĩnh vực trọng yếu,
có nhiều khó khăn. Chức năng, nhiệm vụ các loại hình tổ chức cơ sở đảng được
xác định phù hợp hơn. Công tác phát triển, quản lý, nâng cao chất lượng đảng
viên được quan tâm chỉ đạo. Số lượng đảng viên mới kết nạp hằng năm đều
tăng; tỉ lệ đảng viên mới kết nạp trong độ tuổi thanh niên, đảng viên nữ, người
dân tộc thiểu số, trí thức tăng hơn khoá trước. Sau hơn hai năm triển khai thực
17


hiện Quy định số 15-QĐ/TW về đảng viên làm kinh tế tư nhân, đã có nhiều
đảng viên trước đây công tác ở các cơ quan đảng, nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, lực lượng vũ trang, doanh nghiệp nhà nước, tham gia phát triển kinh tế
tư nhân để làm giàu chính đáng cho bản thân, đóng góp tích cực vào phát triển
kinh tế - xã hội.
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được các cấp uỷ, tổ chức đảng quan tâm
chỉ đạo; tiếp tục giải quyết những vấn đề lịch sử chính trị, đồng thời chú trọng
nắm và giải quyết vấn đề chính trị hiện nay.
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng được coi trọng, chất lượng, hiệu
quả được nâng lên. Cấp uỷ đảng các cấp đã chỉ đạo thực hiện có kết quả việc
kiểm tra thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng; các chương trình, dự án; quản
lý và sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản; chống tham nhũng, lãng phí,
thực hành tiết kiệm và công tác cán bộ; xử lý nghiêm tổ chức đảng, đảng viên
có sai phạm, góp phần phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm, tăng cường kỷ luật, kỷ
cương, thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ chính trị. Chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền, tổ chức bộ máy, điều kiện hoạt động của uỷ ban kiểm tra và cơ quan uỷ
ban kiểm tra các cấp tiếp tục được làm rõ.
Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới, vừa bảo đảm sự
lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy tốt hơn tính chủ động, sáng tạo của các tổ
chức trong hệ thống chính trị. Việc mở rộng, phát huy dân chủ trong Đảng
được chú trọng; đã thí điểm chủ trương đại hội đảng bầu trực tiếp ban thường

vụ, bí thư, phó bí thư. Phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo
Đảng từ trung ương đến cơ sở tiếp tục được cải tiến theo hướng sâu sát cơ sở,
gần gũi nhân dân, tăng cường đôn đốc, kiểm tra, giám sát.
3.2. Công tác xây dựng Đảng và những hạn chế cần khắc phục
Trong bối cảnh quốc tế và trong nước có rất nhiều khó khăn, thách thức,
nhất là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn
cầu, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu đạt được những
thành tựu quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của Đại hội
X; ứng phó có kết quả trước những diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới và
18


trong nước; cơ bản giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; duy trì tốc độ tăng trưởng
kinh tế khá, các ngành đều có bước phát triển, quy mô nền kinh tế tăng lên. Đời
sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện; chính trị - xã hội ổn định; quốc
phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ được giữ vững; hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế được mở rộng, vị thế,
uy tín quốc tế của nước ta được nâng cao; phát huy dân chủ có tiến bộ, khối đại
đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được tăng cường; công tác xây dựng Đảng và hệ
thống chính trị đạt một số kết quả tích cực.
Kết quả đạt được trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X đã góp
phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợiChiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2001 - 2010 và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Một số chỉ tiêu, nhiệm vụ Đại hội X đề ra chưa đạt. Kinh tế phát triển
chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp;
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá chậm;
chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý, phân hoá giàu nghèo tăng lên. Những
hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ,
văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường chậm được khắc phục; tệ quan liêu, tham

nhũng, lãng phí, tội phạm, tệ nạn xã hội, suy thoái đạo đức, lối sống chưa được
ngăn chặn, đẩy lùi. Thể chế kinh tế, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng
vẫn là những điểm yếu cản trở sự phát triển. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ. Công tác xây
dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới, nâng
cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân chuyển
biến chậm. Còn tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội.
Những hạn chế, yếu kém nói trên có nguyên nhân khách quan là do ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu; thiên tai,
dịch bệnh; sự chống phá của các thế lực thù địch; những yếu kém vốn có của
nền kinh tế; nhưng trực tiếp và quyết định vẫn là nguyên nhân chủ quan : Công
tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được
19


yêu cầu. Nhận thức trên một số vấn đề cụ thể của công cuộc đổi mới còn hạn
chế, thiếu thống nhất. Công tác dự báo trong nhiều lĩnh vực còn yếu. Sự lãnh
đạo, chỉ đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước trên một số lĩnh vực
và một số vấn đề lớn chưa tập trung, kiên quyết, dứt điểm; kỷ luật, kỷ cương
chưa nghiêm. Tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu. Năng lực, phẩm chất của một
bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ trong tình hình mới.
Nhìn lại bước đường đã qua, chúng ta vô cùng tự hào về Đảng ta, về
những chặng đường đầy gian lao thử thách mà Đảng ta đã vượt qua, về những
gì Đảng đã cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp, của dân tộc. Cùng
với lịch sử chiến đấu kiên cường và thắng lợi vinh quang của mình, Đảng đã
không ngừng lớn mạnh, sự lãnh đạo của Đảng ngày càng già dặn, vững vàng.
Trên chặng đường mới, những nhiệm vụ cách mạng vô cùng vẻ vang và
cũng rất nặng nề đang chờ đón chúng ta. Sau khi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ "đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào", chúng ta đang ra sức tiến hành

cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước, biến
thành hiện thực điều mong muốn cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là "xây
dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh,
và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới".
Đảng ta quyết không ngừng vươn lên, phát huy những truyền thống tốt
đẹp, củng cố đội ngũ, tăng cường sức chiến đấu, nâng cao năng lực lãnh đạo,
hoàn thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình trong giai đoạn mới. Đảng ta
quyết mãi mãi xứng đáng với Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ thiên tài của
Đảng, của giai cấp công nhân và nhân dân ta, người anh hùng dân tộc vĩ đại,
người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế; xứng đáng với những hy
sinh cao cả của các anh hùng, liệt sĩ, của biết bao đồng chí, đồng bào trong mấy
chục năm chiến đấu đã qua. Đảng ta quyết tiến lên, làm tròn nhiệm vụ trong
giai đoạn mới, xứng đáng với lòng tin yêu của nhân dân cả nước, đáp lại những
tình cảm tốt đẹp của nhân dân cách mạng thế giới đối với dân tộc ta, với Đảng
ta.
20


KẾT LUẬN
Từ trước Đại hội XI của Đảng đến nay, đi đôi với những thời cơ và thuận
lợi mới, tình hình quốc tế và trong nước cũng xuất hiện những diễn biến phức
tạp, tác động đến công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “diễn
biến hoà bình”. Trong chiến lược “Diễn biến hoà bình”, chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực phản động quốc tế luôn coi chống phá về chính trị, tư tưởng và tổ
chức đối với các nước xã hội chủ nghĩa là lĩnh vực quan trọng hàng đầu, có ý
nghĩa quyết định. Do vậy, việc không ngừng xây dựng Đảng vững mạnh về
chính trị, tư tưởng, tổ chức là nhiệm vụ rất quan trọng.
Chiến lược “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch thực hiện là
nhân tố khách quan, điều kiện bên ngoài, tác động chủ yếu từ bên ngoài. Nhưng
nhân tố chủ quan, nguy cơ chủ yếu làm cho các nước XHCN bị “diễn biến hoà

bình” lại nằm trong nội tại các nước đó, mà quan trọng nhất là trong nội bộ
đảng cầm quyền ở các nước XHCN. Trong mối quan hệ giữa nguyên nhân
khách quan và nguyên nhân chủ quan, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng thì nguyên nhân chủ quan, bên trong giữ vai trò quyết định sự phát
triển của mọi sự vật. Do đó, việc tăng cường công tác xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh, đặc biệt là về chính trị, tư tưởng, tổ chức là tất yếu khách
quan trong nhiệm vụ đấu tranh chống chiến lược “Diễn biến hoà bình”.
Nguyên nhân trực tiếp, căn bản dẫn đến chính biến tại Liên Xô và các
nước XHCN Đông Âu là do đảng cầm quyền tại các nước này đã không làm tốt
công tác xây dựng Đảng, đã xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ; buông lỏng sự
lãnh đạo chính trị, tư tưởng của Đảng; nội bộ Đảng có sự thoái hoá, biến chất
nghiêm trọng; việc lựa chọn những người kế tục sự nghiệp cách mạng không
chính xác....Đảng ta đã chỉ rõ: “Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm
mưu “diễn biến hoà bình” gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”,
“nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị nước ta” “Hết sức chú trọng
công tác bảo vệ Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức”.
21


Vì vậy, phải coi trọng hơn nữa công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đấu
tranh bảo vệ, vận dụng sáng tạo và phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh. Tăng cường giáo dục lý luận chính trị cho đảng viên, cán bộ chủ
chốt các cấp, các ngành, bồi dưỡng nhận thức, lập trường, quan điểm và năng
lực vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin. Các cấp, các ngành, các địa phương, đơn
vị, cơ quan, đoàn thể cần chủ động triển khai có hiệu quả đấu tranh trực tiếp
trên mặt trận tư tưởng, lý luận. Sử dụng và phát huy hiệu quả các phương tiện
của công tác tư tưởng đấu tranh phê phán những quan điểm tư tưởng, lý luận
phản động, sai trái của các thế lực thù địch, không để lây lan và tác động xấu
trong xã hội. Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn hoạt động tập hợp lực lượng, móc
nối trong ngoài, không để công khai hoá, quốc tế hoá các tổ chức chính trị đối

lập trong nước chống Đảng, Nhà nước. Tập trung giải quyết một bước căn bản,
có hiệu quả các vấn đề ở những vùng trọng điểm và các vùng tập trung đông
đồng bào dân tộc thiểu số, không để các thế lực thù địch lợi dụng gắn vấn đề
dân tộc với vấn đề tôn giáo để kích động quần chúng biểu tình, bạo loạn, gây
mất ổn định chính trị.
Tiếp tục triển khai có hiệu quả Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng,
chỉnh đốn Đảng. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đấu tranh có hiệu quả
chống tham nhũng, quan liêu và các tiêu cực, tệ nạn xã hội. Đề cao tinh thần
cảnh giác, chủ động phòng, chống nguy cơ “tự diễn biến” trong cán bộ, đảng
viên.
Đấu tranh chống “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, tổ
chức là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, mà trước hết, trực tiếp
là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng chứ không phải chỉ là nhiệm vụ của cơ quan
Tổ chức, Tuyên giáo hay Hội đồng Lý luận Trung ương. Vì vậy, từng cấp uỷ,
từng ngành, từng địa phương, các cấp cần chủ động xây dựng kế hoạch và
chương trình hành động đấu tranh chống “diễn biến hoà bình” nói chung, trên
lĩnh vực chính trị, tư tưởng, tổ chức nói riêng phù hợp với điều kiện và tình
hình ở đơn vị mình, địa phương mình; phải đặt dưới sự lãnh đạo đúng đắn của
22


Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị; gắn với việc xây
dựng, giữ vững và phát huy nhân tố nội lực mang tính quyết định.
Trong tình hình hiện nay, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức là một nhiệm vụ cấp bách nhằm bảo đảm “nâng cao ý thức tự
bảo vệ, tự đề kháng của cơ quan, đơn vị, cá nhân cán bộ, đảng viên trước các
thủ đoạn “diễn biến hoà bình”, mua chuộc của kẻ thù; trên cơ sở tiếp tục xây
dựng hoàn thiện các quy chế, chính sách quản lý cán bộ và công tác kiểm tra,
giám sát cán bộ, chống nguy cơ “tự diễn biến. Do vậy, phải “chủ động phòng

ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”
trong nội bộ”, quán triệt tư tưởng chỉ đạo chú trọng cả hai nhiệm vụ “xây” và
“chống” trong đó lấy xây dựng là chính; đồng thời, phải chủ động và có giải
pháp đúng tạo ra khả năng “miễn dịch” cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân
dân, nhất là đối với thế hệ trẻ, là vấn đề có ý nghĩa sống còn của Đảng, của chế
độ.

23



×