Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

CẢI CÁCH cán bộ CÔNG CHỨC tiểu luận LLHCNN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.86 KB, 39 trang )

I. Khái quát chung về cán bộ công chức (CBCC) và cải cách đội ngũ cán bộ
công chức.
1. Cán bộ công chức
Ngày 13/11/2008, tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá XII, đã thông qua Luật cán
bộ, công chức. Đây là một văn bản có giá trị pháp lý cao nhất từ trước đến nay (luật)
và cắt nghĩa được rõ ràng về các khái niệm cán bộ, công chức.

1.1. Khái niệm cán bộ
Khái niệm "cán bộ" được sử dụng khá lâu tại các nước xã hội chủ nghĩa và bao
hàm một diện rất rộng các loại nhân sự thuộc khu vực nhà nước và các tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội. Thuật ngữ khi đó thường dùng là "cán bộ, công nhân viên
chức", bao quát tất cả những người làm công hưởng lương từ nhà nước, kể từ những
người đứng đầu một cơ quan tới các nhân viên phục vụ như lái xe, bảo vệ hay lao động
tạp vụ.
Ở nước ta từ "cán bộ" được du nhập vào từ Trung Quốc và được dùng phổ biến
trong thời kháng chiến chống Pháp. Ban đầu, từ này được dùng nhiều trong quân đội để
phân biệt chiến sĩ và cán bộ, chỉ những người làm nhiệm vụ chỉ huy từ tiểu đội phó trở
lên. Dần dần, từ "cán bộ" được dùng để chỉ tất cả những người hoạt động kháng chiến
thoát ly, để phân biệt với nhân dân.
Ngày nay, khái niệm cán bộ dùng để chỉ những người được biên chế vào làm
việc trong bộ máy chính quyền, đảng, đoàn thể, doanh nghiệp nhà nước và sĩ quan trong
lực lượng vũ trang. Ngoài ra, cán bộ được coi là những người có chức vụ, vai trò nòng
cốt trong một cơ quan, tổ chức, có tác động ảnh hưởng đến hoạt động của cơ quan, tổ
chức và liên quan đến vị trí lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần quyết định xu
hướng phát triển của cơ quan, tổ chức.
Do những điều kiện lịch sử nhất định, suốt một thời gian dài trong đời sống chính
trị - pháp lí ở Việt Nam tồn tại một tập hợp khái niệm "cán bộ, công nhân, viên chức"
không có sự phân biệt rạch ròi từng khái niệm cũng như quy chế pháp lí đối với từng nhóm.
Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2000, 2003) đề cập tới ba
đối tượng cán bộ, công chức, viên chức nhưng không thể hiện rõ ai là cán bộ, ai là công
chức, ai là viên chức, mà quy định chung các đối tượng "cán bộ, công chức" là công dân


Việt Nam, trong biên chế. Có thể nói, thuật ngữ "cán bộ" được sử dụng như là một ước


lệ, chưa thể hiện tính chất hành chính, chưa rõ nội hàm của khái niệm. Đây cũng là một
hạn chế của Pháp lệnh Cán bộ, công chức.
Cụ thể hóa Pháp lệnh Cán bộ, công chức, Chính phủ đã ban hành các Nghị định
số 114/2003/NĐ-CP về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn; Nghị định số
115/2003/NĐ-CP về chế độ công chức dự bị; Nghị định 116/2003/NĐ-CP về tuyển dụng,
sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; Nghị định số 117/2003/NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng
và quản lý cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước. Trên cơ sở nghiên cứu quy
định của pháp lệnh và các nghị định chúng ta có thể hiểu "cán bộ" là: Những người do
bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở cấp tỉnh và cấp huyện.
Cùng với xu hướng toàn cầu hóa về kinh tế, những thành tựu của sự phát triển
kinh tế - xã hội chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường mở rộng giao lưu hợp tác
nhiều mặt với các nước, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. Đồng thời, công
cuộc cải cách hành chính ngày nay đặt ra nhu cầu chuyên biệt hóa trong sự điều chỉnh
pháp luật ngày càng rõ nét, đòi hỏi phải có sự thống nhất về nhận thức trong sự phân định
các khái niệm có liên quan. Luật Cán bộ, công chức được Quốc hội ban hành tháng
11/2008, có hiệu lực từ ngày 01/01/2010 đã quy định cụ thể:
“Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ,
chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây
gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là
cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Cán bộ xã, phường,
thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ
theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí
thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị – xã hội; công chức cấp xã là công dân
Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban

nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”. (khoản 1,3

Điều 4)
Như vậy, đến nay khái niệm cán bộ đã được quy định rõ ràng, cụ thể, xác định rõ
nội hàm, đó là những người giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong các cơ quan
thuộc hệ thống chính trị Việt Nam, từ trung ương đến cấp huyện, quận và tương đương.


Tùy góc độ và mục tiêu xem xét có thể phân biệt đội ngũ cán bộ thành các nhóm khác
nhau:
- Xét về loại hình có thể phân thành: cán bộ đảng, đoàn thể; cán bộ nhà nước; cán
bộ kinh tế và quản lý kinh tế; cán bộ khoa học, kỹ thuật.
- Theo tính chất và chức năng, nhiệm vụ có thể phân thành: nhóm chính khách;
nhóm lãnh đạo, quản lý; nhóm chuyên gia; nhóm công chức, viên chức.
+ Nhóm chính khách: Những cán bộ lãnh đạo ở tầm vĩ mô của đất nước còn được
gọi là những nhà lãnh đạo chính trị cấp quốc gia hoặc là các chính khách. Các nhà chính
trị có thể được phân loại theo những căn cứ khác nhau như: Nhà chính trị chuyên nghiệp
và nhà chính trị không chuyên nghiệp; nhà chính trị tham gia bộ máy nhà nước và nhà
chính trị không tham gia bộ máy nhà nước. Họ không thuộc đội ngũ công chức nhà nước
và ở mức độ nhất định, họ có vị trí "độc lập" trong quan hệ với nền hành chính nhà nước.
Do hoàn cảnh và điều kiện chính trị - xã hội đặc thù của Việt Nam nên trong đời
sống xã hội cũng như trong các chế định pháp lý chưa có sự phân định rõ ràng chức danh
và trách nhiệm của các nhà hoạt động chính trị. Vấn đề chất lượng của đội ngũ cán bộ,
công chức và đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị quốc gia có tầm quan trọng đặc
biệt đối với công cuộc đổi mới đất nước. Do đó, bồi dưỡng, đào tạo và rèn luyện để hình
thành rõ nét tâm lý - ý thức của các nhà lãnh đạo chính trị để họ đạt tới tầm chính khách,
đồng thời có quy chế hợp lý để các chính khách thực hiện tốt vai trò, sứ mệnh của mình
là việc làm hết sức cần thiết nhằm góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức nhà nước.
+ Nhóm cán bộ lãnh đạo, quản lý: bao gồm những người giữ chức vụ và trách

nhiệm điều hành trong một cơ quan, tổ chức, đơn vị, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của
tổ chức, có vai trò quyết định và định hướng, điều khiển hoạt động của cả bộ máy.
Thông thường, cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý được hiểu tương đồng, vì cán bộ
lãnh đạo, quản lý đều phải là người giỏi nghiệp vụ chuyên môn, có đủ năng lực và phẩm
chất để định hướng, điều khiển, chỉ huy, phải có khả năng tổ chức công việc và đoàn kết
tập thể.
Tuy nhiên, khái niệm lãnh đạo và khái niệm quản lý không hoàn toàn đồng nhất
với nhau. Vì, "lãnh đạo" thường dùng để chỉ khả năng định hướng, xác định mục đích lâu
dài và khả năng lôi cuốn, thúc đẩy mọi người, thường được gắn liền với việc thiết lập
đường lối, chính sách. Hoạt động lãnh đạo thường huy động mối quan hệ với con người
dựa vào tài năng và đức độ của người lãnh đạo để thu phục và ảnh hưởng đến con người.


Còn "quản lý" dùng để chỉ khả năng tổ chức, xác định mục tiêu cụ thể để thi hành các
đường lối chính sách ấy. Quản lý sử dụng các phương tiện, thiết lập lề lối, mẫu mực, thủ
tục huy động hữu hiệu các phương tiện, trong đó con người chỉ là một thành tố. Chức
năng quản lý là sự tiếp tục của chức năng lãnh đạo, là bước đi kế tiếp của lãnh đạo, đó là
khâu tất yếu để thực hiện sự lãnh đạo. Trên thực tế sự phân biệt này chỉ là tương đối
nhưng lại rất cần cho công tác tổ chức cán bộ, làm cơ sở cho việc xác định tiêu chuẩn,
chức năng của người cán bộ lãnh đạo và người cán bộ quản lý.
+ Nhóm chuyên gia: gồm những người giỏi một nghề, một ngành, có trình độ lý
thuyết cao và năng lực hành động thực tiễn, năng lực nghiên cứu, sáng tạo, giải quyết
một vấn đề lý luận hay thực hành. Họ phải có trình độ văn hóa rộng, hiểu biết chuyên
môn sâu, có năng lực và vốn trí tuệ ngoại ngữ để cập nhật những thông tin mới. Đây là
nhóm nhân lực bậc cao của của xã hội, có vai trò như một bộ phận, mũi nhọn của sự phát
triển. Ở bất cứ lĩnh vực, ngành nghề nào nếu thiếu chuyên gia thì công việc ở đó không
thể đạt tới trình độ, chất lượng cao, cho nên khi nói đến đỉnh cao của chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức phải nói đến chuyên gia.
+ Nhóm công chức, viên chức: bao gồm những người được tuyển dụng để trực tiếp
thực thi các công việc hàng ngày của cơ quan, tổ chức, được hưởng lương theo ngạch bậc,

trình độ và chức vụ. Đây là nhóm có số lượng đông đảo trong toàn bộ đội ngũ cán bộ,
công chức.

1.2. Khái niệm của công chức
Nền hành chính nào cũng được cấu thành bởi những yếu tố cơ bản là thể chế
hành chính, bộ máy hành chính và công chức nhà nước. Do vậy, việc đưa ra khái niệm
công chức và xác định những đối tượng là công chức có vai trò hết sức quan trọng trong
công cuộc cải cách hành chính hiện nay.
Công chức là một khái niệm được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế
giới để chỉ những công dân được tuyển dụng vào làm việc thường xuyên trong các cơ
quan nhà nước, do ngân sách nhà nước trả lương. Nhưng do tính đặc thù của từng quốc
gia nên quan niệm công chức ở các nước không hoàn toàn đồng nhất. Có nước chỉ giới
hạn công chức trong phạm vi những người tham gia hoạt động quản lý nhà nước. Một số
nước khác có quan niệm rộng hơn, công chức bao gồm tất cả những người làm việc trong
các cơ quan, tổ chức có tính chất công quyền.
Ở Việt Nam, khái niệm công chức được hình thành, gắn liền với sự phát triển của
nền hành chính nhà nước. Văn bản có tính pháp lý đầu tiên quy định về công chức là Sắc


lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tại Điều 1
quy định: công chức là những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để
giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan chính phủ, ở trong hay ngoài nước, trừ
trường hợp riêng biệt do Chính phủ quy định.
Sau đó suốt một thời gian dài, khái niệm công chức ít được sử dụng, thay vào đó
là khái niệm cán bộ, công nhân viên nhà nước, không phân biệt công chức, viên chức với
công nhân.
Thực hiện công cuộc đổi mới, trước yêu cầu khách quan của tiến trình cải cách
nền hành chính nhà nước và đòi hỏi chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, thuật
ngữ công chức được sử dụng trở lại. Tại Nghị định số 169/HĐBT ngày 25/5/1991 của
Hội đồng Bộ trưởng, tiếp đó là Nghị định số 95/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 của Chính

phủ, Nghị định số 117/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về tuyển dụng, sử
dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước, khái niệm công chức
được đề cập một cách rõ ràng, cụ thể; xong vẫn chưa phân biệt công chức hành chính với
công chức sự nghiệp.
Đến nay, trước yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội, sự phát triển của đời
sống chính trị pháp lý Luật Cán bộ, công chức được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XII thông qua ngày 13/11/2008, có hiệu lực từ ngày 01/01/2010
quy định rõ:
“Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ,
chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã
hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân
mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự
nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công
chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo
đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.” (khoản

2 Điều 4)
Từ quy định các đối tượng là công chức như trên, chúng ta thấy công chức
theo quy định của pháp luật Việt Nam có nhiều điểm khác biệt với các nước, đó là; công
chức không chỉ bao gồm những người làm việc trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước,
mà còn bao gồm cả những người làm việc cho các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội
như: các Ban tham mưu của Đảng, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội


Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn
Việt Nam; các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân. Đây là một
trong những đặc trưng cơ bản nhất của công chức nước ta, xuất phát từ đặc thù của thể

chế chính trị và tổ chức bộ máy nhà nước, đảng, đoàn thể của nước ta.
Đồng thời, phạm vi đối tượng là công chức cũng đã được xác định rõ, theo đó:
Thứ nhất, cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan nhà nước ở cơ sở (cấp
xã, phường, thị trấn) không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định 117/2003/NĐ-CP, mà
được điều chỉnh bởi Nghị định số 114/2003/NĐ-CP về cán bộ, công chức xã, phường, thị
trấn. Dù Pháp lệnh cán bộ, công chức 1998 (sửa đổi năm 2003) đã bổ sung đối tượng này
vào phạm vi điều chỉnh, hoạt động của những người này có tính chất như công chức nhà
nước và các cơ quan Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân xã phường, thị trấn là các cơ
quan nhà nước ở cơ sở.
Thứ hai, khái niệm công chức không áp dụng cho đối tượng làm việc trong các
đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, kể cả các đơn vị sự nghiệp thực hiện dịch vụ công (trừ
các công chức giữ chức vụ lãnh đạo). Những nhân viên làm việc trong các đơn vị sự
nghiệp y tế, giáo dục, khoa học - công nghệ, văn hóa thông tin, thể dục thể thao, doanh
nghiệp của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, các hội nghề nghiệp, mà lâu nay được
gọi là công chức sự nghiệp được điều chỉnh bởi Nghị định 116/2003/NĐ-CP. Họ chính là viên
chức nhà nước.
Như vậy, đã có sự phân biệt rõ ràng giữa những đối tượng là viên chức với cán
bộ, công chức. Nhưng trong nhiều văn bản pháp luật của nước ta hiện nay các thuật ngữ
"viên chức", "công chức" nhiều khi được sử dụng như những từ đồng nghĩa và trong đời
sống hàng ngày cụm từ "cán bộ, công nhân viên" vẫn thường xuyên được sử dụng. Trong
khi công chức và viên chức có những điểm khác nhau cơ bản:
- Công chức làm việc trong cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị
- xã hội nhằm thực hiện chức năng quản lý xã hội; còn viên chức làm việc trong các đơn
vị sự nghiệp của Nhà nước, thực hiện chức năng phục vụ, cung cấp các dịch vụ cho Nhà
nước như y tế, giáo dục.
- Công chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước; còn viên chức được trả lương
vừa từ nguồn ngân sách nhà nước vừa từ nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp khác.


- Công chức làm việc theo chế độ biên chế, viên chức làm việc theo chế độ hợp

đồng, nhưng vẫn được thực hiện các chế độ bảo hiểm, nâng lương, khen thưởng, đề bạt
như công chức.
Việc phân biệt cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước với cán bộ, công
chức trong đơn vị sự nghiệp của Nhà nước là một điểm mốc quan trọng đánh dấu xu
hướng điều chỉnh có tính chuyên biệt các đối tượng phục vụ trong các cơ quan, đơn vị sự
nghiệp của Nhà nước. Điều này hoàn toàn phù hợp với xu hướng cải cách hành chính là
phải phân biệt giữa hành chính công quyền với đơn vị sự nghiệp, với dịch vụ công, với
tính chất công việc, nghề nghiệp do các đối tượng này thực hiện.
Cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước ở mức độ nhất định thì hoạt động
của họ luôn gắn với quyền lực nhà nước, phục vụ trực tiếp cho quyền lực nhà nước, còn
hoạt động của các viên chức trong các đơn vị sự nghiệp lại thuần túy mang tính chuyên
môn. Khi xã hội phát triển đến một trình độ nhất định, giai đoạn nhất định thì các tổ chức
tư nhân cũng có thể thực hiện các công việc mà viên chức nhà nước đang đảm nhiệm.
Điều này tùy thuộc vào sự phát triển của quá trình "xã hội hóa", khi đó tất yếu sẽ dẫn đến
cạnh tranh giữa các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước với các tổ chức tư nhân thực hiện
dịch vụ công. Quá trình này thúc đẩy sự phát triển xã hội và chỉ có như vậy thì người dân
mới được hưởng các dịch vụ ngày càng tốt hơn.
Thứ ba, để chuẩn bị cho hoạt động công vụ thực thụ của những người mới được
tuyển dụng vào làm việc tại các cơ quan, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội,
Nghị định 115/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ quy định về chế độ công
chức dự bị: "Là công dân Việt Nam, trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước,
được tuyển dụng để bổ sung cho đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước,
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội". Công chức dự bị được phân công làm việc
có thời hạn tại các cơ quan, tổ chức: Văn phòng Quốc Hội, Văn phòng Chủ tịch nước,
Tòa án nhân dân các cấp, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp, Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp tỉnh, huyện và
tương đương. Công chức dự bị chưa phải là công chức, mà phải trải qua một quá trình tập
sự, thi tuyển mới đủ điều kiện trở thành công chức.
Phân biệt rõ địa vị pháp lý của các đối tượng trong đội ngũ cán bộ, công chức là
việc làm cần thiết để có cơ chế quản lý và chế độ, chính sách thích hợp đối với từng đối

tượng.


Trong hoạt động công vụ của Nhà nước, có thể phân loại công chức theo những
cách khác nhau:
* Theo đặc thù và tính chất công việc
Nhằm phục vụ cho việc quy hoạch công chức, đáp ứng yêu cầu của các loại công
việc, tạo ra sự cân đối trong việc sắp xếp và quản lý công chức, người ta phân công chức
thành 4 loại:
- Công chức lãnh đạo: là những công chức giữ cương vị chỉ huy trong điều hành
công việc. Tùy theo tính chất công việc ở các vị trí khác nhau mà phân ra công chức lãnh
đạo ở các cấp độ cao thấp khác nhau. Công chức lãnh đạo là những người được quyền ra
các quyết định quản lý, tổ chức và điều hành những người dưới quyền thực hiện công
việc. Công chức lãnh đạo được giao những thẩm quyền, trách nhiệm nhất định. Thẩm
quyền và trách nhiệm đó gắn với chức vụ người lãnh đạo đảm nhiệm, thẩm quyền càng
cao thì trách nhiệm càng nặng nề.
- Công chức chuyên gia: là những người có trình độ chuyên môn kỹ thuật, có khả
năng nghiên cứu, đề xuất những phương hướng, quan điểm và thực thi công việc chuyên
môn phức tạp. Họ là những người tư vấn cho lãnh đạo, đồng thời cũng là những nhà
chuyên môn tác nghiệp những công việc đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn nhất định.
- Công chức chuyên môn, nghiệp vụ: là những người được trao thẩm quyền nhất
định trong phạm vi công tác của mình để thừa hành công việc, thi hành công vụ nhân
danh quyền lực nhà nước. Trên cơ sở chuyên môn nghiệp vụ và nhiệm vụ được giao, họ
tham mưu cho lãnh đạo ra các quyết định quản lý hành chính và có thể họ là người trực
tiếp thực hiện các quyết định hành chính đó.
- Công chức là nhân viên hành chính: là những người thừa hành nhiệm vụ do
công chức lãnh đạo giao phó. Họ là những người có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở mức
thấp nên chủ yếu là làm công tác phục vụ trong bộ máy nhà nước.
Phân loại công chức như trên chỉ có ý nghĩa định tính, nhằm giúp cho việc xác
định cơ cấu công chức trong việc quy hoạch, mà chưa rõ trình độ, năng lực của công

chức trong từng loại khác nhau, do đó chưa đáp ứng được yêu cầu chuẩn hóa công chức.
* Theo trình độ đào tạo
Công chức được chia làm ba loại:
- Công chức loại A là người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu đào tạo chuyên
môn giáo dục đại học và sau đại học.


- Công chức loại B là người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào tạo
chuyên môn giáo dục chuyên nghiệp.
- Công chức loại C là người được bổ nhiệm vào ngạch yêu cầu trình độ đào tạo
chuyên môn dưới giáo dục nghề nghiệp.
Cách phân loại này có ý nghĩa nhất định về lý luận và thực tiễn trong việc chuẩn
hóa trình độ chuyên môn của công chức, khuyến khích họ phấn đấu học tập, nâng cao
trình độ, thăng tiến theo chức nghiệp.
* Theo ngạch công chức
Ngạch công chức là một khái niệm chỉ trình độ, năng lực, khả năng chuyên môn
và ngành nghề của công chức. Mỗi ngạch thể hiện một cấp độ về trình độ chuyên môn
nghiệp vụ và có tiêu chuẩn riêng, bao gồm 5 loại:
- Công chức ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương trở lên;
- Công chức ngạch chuyên viên chính và tương đương;
- Công chức ngạch chuyên viên và tương đương;
- Công chức ngạch cán sự và tương đương;
- Công chức ngạch nhân viên và tương đương.

1.3. Khái niệm cán bộ, công chức hành chính nhà nước
Hiện nay, trong hệ thống pháp luật và các văn bản hướng dẫn của Bộ Nội vụ
chưa có khái niệm chính thức về cán bộ, công chức hành chính nhà nước mà chỉ đề cập
chung như một thành phần chủ yếu trong khái niệm "cán bộ, công chức nhà nước".
Ngay trong Nghị định 117/2003/NĐ-CP quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý
cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước, không chỉ điều chỉnh các vấn đề liên quan

đến công chức trong cơ quan hành chính nhà nước mà còn liên quan đến công chức thuộc
các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân
dân, Công an nhân dân.
Trong các văn bản hướng dẫn thực hiện, quy định chức năng nhiệm vụ, chế độ
pháp lý về cán bộ, công chức hành chính còn có sự bất cập. Cụ thể: Nghị định số
71/2003/NĐ-CP ngày 19/6/2003 của Chính phủ về phân cấp quản lý biên chế hành chính,
sự nghiệp nhà nước và Thông tư số 89/2003/TT-BNV ngày 24/12/2003 của Bộ Nội vụ
hướng dẫn thực hiện nghị định, xác định: “ Biên chế hành chính là số người được
tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức hoặc giao giữ một công vụ thường


xuyên trong các tổ chức giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng
cơ quan thuộc Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thực hiện chức năng,
nhiệm vụ quyền hạn về quản lý hành chính nhà nước được giao”
Theo tác giả, quy định như trên chưa khoa học, vì đội ngũ cán bộ, công chức được
tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên
trong Văn phòng Đoàn đại biểu quốc Hội, Văn phòng Hội đồng nhân dân tỉnh, huyện là
bộ phận giúp việc của cơ quan quyền lực ở địa phương, công việc của họ có thể là những
hoạt động có tính chất hành chính nhưng thực chất không phải thực hiện quản lý hành
chính nhà nước. Do vậy, đối tượng này không phải là cán bộ, công chức hành chính.
Theo quan điểm của Học viện Hành chính: cán bộ, công chức hành chính nhà nước
là những người đang làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước. Ở Việt Nam, cơ
quan hành chính nhà nước là cơ quan của Nhà nước thực hiện quyền hành pháp của Nhà
nước, bao gồm cả quyền lập quy và quyền điều hành. Bao gồm: Chính phủ, các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, một số cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp và một số cơ
quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân các cấp.
Căn cứ các quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và các quan điểm nêu
trên, tác giả đưa ra khái niệm cán bộ, công chức hành chính nhà nước: là công dân Việt
Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm hoặc tuyển dụng vào ngạch, chức vụ, chức danh

hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên trong trong cơ quan hành chính nhà nước gồm:
Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, một số cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân
dân các cấp và một số cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân các cấp.
Hay có thể, định nghĩa một cách khác: Cán bộ, công chức hành chính là một bộ
phận nhân lực của hệ thống chính trị, gồm những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc
giao giữ một công vụ thường xuyên trong hệ thống hành chính công quyền, được phân
theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính. Công
chức hành chính giữ một trọng trách và vai trò quan trọng trong bộ máy nhà nước và
trong xã hội, đảm bảo cho bộ máy nhà nước hoạt động liên tục, hiệu quả, giữ vững ổn
định và thúc đẩy xã hội phát triển.

1.4. Đặc điểm của đội ngũ cán bộ, công chức hành
chính nhà nước


Cán bộ, công chức hành chính nhà nước là lực lượng trực tiếp thực thi các chức
năng hành pháp của nhà nước, thực hiện quản lý và điều hành đất nước theo pháp luật và
làm cho đất nước phát triển trên cơ sở đảm bảo kỷ cương phép nước. Các mệnh lệnh, quyết
định quản lý trong mọi hoạt động của nền kinh tế - xã hội là do công chức hành chính
triển khai thực hiện. Do vậy, cán bộ, công chức hành chính nhà nước có những đặc điểm
cơ bản sau đây.
1.4.1. Đội ngũ cán bộ, công chức hành chính là chủ thể của nền công vụ, là
những người thực thi công vụ và được Nhà nước đảm bảo các điều kiện cần thiết,
quyền lợi chính đáng để có khả năng và yên tâm thực thi công vụ
Chúng ta biết rằng hoạt động quản lý hành chính nhà nước chủ yếu được vận
hành thông qua nền công vụ và đội ngũ công chức hành chính. Đội ngũ công chức hành
chính là những người có vị trí trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, có chức năng
thực thi pháp luật và thi hành công vụ nhằm phục vụ lợi ích chung cho toàn xã hội.
Những loại nhiệm vụ này do chính đội ngũ công chức hành chính các cấp thực hiện,
không thể chuyển giao cho bất cứ tổ chức, cá nhân nào bên ngoài. Đội ngũ cán bộ, công

chức là hạt nhân cơ bản của nền công vụ, là chủ thể thực sự tiến hành các công vụ cụ thể
và cũng chính là yếu tố đảm bảo cho nền công vụ hoạt động, vận hành có hiệu lực, hiệu
quả.
Công chức hành chính là người thực thi công vụ, trực tiếp thi hành quyền lực nhà
nước. Lao động của họ thực chất là lao động quyền lực, khác với lao động sản xuất, kinh
doanh và các dạng lao động xã hội khác. Sản phẩm lao động của họ là các đạo luật, văn
bản quy phạm pháp luật hoặc các quyết định quản lý để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà
nước, thi hành pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống, nhằm bảo đảm an ninh chính trị và trật
tự an toàn xã hội; quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn tài sản chung và ngân sách nhà nước,
phát triển và ổn định kinh tế - xã hội; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Nhân danh quyền lực nhà nước, phục vụ nhân dân, thực hiện lý tưởng phụng sự Tổ quốc là
đặc điểm nổi bật và duy nhất của nguồn nhân lực hành chính nhà nước. Người công chức
trong bộ máy hành chính nhà nước được trao quyền để thực thi công vụ, đồng thời, họ có
bổn phận phục vụ xã hội, công dân và chịu những ràng buộc nhất định do liên quan đến
chức trách đang đảm nhiệm. Họ có thể phải từ chức, bị truy cứu trách nhiệm hoặc phải
bồi thường thiệt hại nếu không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, ra quyết định hành
chính làm tổn hại lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.


Để thực hiện công vụ, người công chức được Nhà nước cung cấp các điều kiện
cần thiết để tiến hành thực thi công vụ như trụ sở, phương tiện, điều kiện làm việc… Họ
được đảm bảo các quyền lợi vật chất và tinh thần như: hưởng lương từ ngân sách nhà
nước tương xứng với chức trách và công việc, nhận các loại trợ cấp, phụ cấp khác bằng
tiền hoặc hiện vật và lương hưu khi đủ thời gian cống hiến cho nền công vụ, được khen
thưởng khi có công lao xứng đáng. Sự đảm bảo quyền lợi cho nguồn nhân lực này có tính
chất ổn định, lâu dài, thực tế là suốt đời nếu như công chức không vi phạm kỷ luật bị thải
hồi hoặc bị truy tố trước pháp luật.
1.4.2. Là lực lượng lao động chuyên nghiệp, có tính chuyên môn hóa cao
Các cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương được tổ chức
và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định nhằm thực hiện quyền hành pháp của Nhà

nước để điều hành, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội theo pháp luật và bằng pháp
luật, vì lợi ích của Nhà nước và của toàn xã hội, nhằm đảm bảo cho xã hội ổn định và
phát triển. Với chức năng đó, bộ máy nhà nước đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ, chức quản
lý mang tính chất chuyên nghiệp, là những người thực hiện công vụ thường xuyên, liên
tục, có trình độ chuyên môn và được đào tạo, bồi dưỡng về kỹ năng, nghiệp vụ quản lý
hành chính nhà nước ở các mức độ khác nhau.
Hơn nữa, chức năng cơ bản của cán bộ, công chức hành chính là thực thi công
vụ, thực thi quyền lực nhà nước, thực thi pháp luật; đây là một dạng lao động đặc thù và
phức tạp không cho phép có sai sót, không được vi phạm. Đồng thời, qua thực tiễn hoạt
động, chính đội ngũ cán bộ, công chức hành chính là lực lượng sáng tạo pháp luật, tham
mưu đề xuất những chủ trương, chính sách, pháp luật quản lý và phát triển xã hội, đất
nước. Do vậy, cán bộ, công chức hành chính phải am hiểu và tinh thông pháp luật, thực
hiện đúng pháp luật; nắm vững chuyên môn nghiệp vụ, phải am hiểu sâu sắc lĩnh vực
chuyên môn của mình.
Tính chuyên nghiệp của công chức hành chính được quy định bởi địa vị pháp lý
và được thể hiện qua hai yếu tố: thời gian, thâm niên công tác và trình độ năng lực
chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ hành chính. Hai yếu tố này gắn bó chặt chẽ với nhau tạo
nên mức độ chuyên nghiệp của người công chức hành chính. Thời gian, thâm niên công
tác tạo điều kiện để công chức thành thạo công việc và đúc rút kinh nghiệm trong thực thi
công vụ, còn trình độ hiểu biết pháp luật, năng lực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ hành
chính tạo khả năng hoàn thành những công việc được giao.


Chính vì vậy, ngay khi tuyển dụng, cơ quan nhà nước đã yêu cầu phải người dự
tuyển phải có chuyên môn, có đủ tiêu chuẩn về độ tuổi, phẩm chất chính trị, đạo đức…
Trong điều kiện hiện nay, đội ngũ cán bộ, công chức phải có trình độ chuyên môn hóa
cao, được đào tạo một cách chính quy và hệ thống, đồng thời phải luôn luôn được bồi
dưỡng, cập nhật kịp thời các thông tin và tri thức mới của khoa học công nghệ. Không
thể xây dựng được nền công vụ và nền hành chính nhà nước nói chung, chính quy hiện
đại, phục vụ đắc lực nhân dân nếu đội ngũ cán bộ, công chức chưa được quản lý và đào

tạo cơ bản theo hướng chuyên nghiệp hóa, chuyên môn hóa cao.
1.4.3. Đội ngũ cán bộ, công chức hành chính tương đối ổn định, mang tính kế
thừa, nhưng luôn đòi hỏi không ngừng nâng cao về chất lượng
Khác với công chức của một số nước, không có tính ổn định. Đội ngũ cán bộ,
công chức hành chính Việt Nam hoạt động ổn định, ít chịu biến động nhằm duy trì tính
ổn định, liên tục của nền hành chính; họ được bảo hộ bằng quy định "biên chế nhà nước".
Tuy nhiên, cơ chế này cũng tạo thành môi trường nuôi dưỡng sự thụ động, dựa dẫm, trì
trệ của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức. Bởi cán bộ, công chức đã thuộc diện
biên chế chỉ trừ khi vi phạm pháp luật, hoặc vi phạm đến mức bị kỷ luật buộc thôi việc
còn thường thì họ làm việc từ khi được tuyển dụng cho đến khi nghỉ hưu.
Hiện nay, xã hội không ngừng phát triển; đối tượng điều chỉnh của pháp luật
ngày càng mở rộng và phức tạp hơn; yêu cầu của khách hàng về chất lượng phục vụ ngày
càng cao nhưng các cơ quan hành chính nhà nước không thể tuyển dụng hàng loạt người
lao động mới, vì rằng việc tuyển dụng và giải quyết các lao động dôi dư trong các cơ
quan hành chính nhà nước luôn liên quan đến một loạt các vấn đề về chính sách, chế độ
xã hội phức tạp.
Trước thực tế khách quan đó, đòi hỏi cán bộ, công chức hành chính phải luôn
được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ. Giải pháp hiệu quả, thích hợp trong điều kiện
hiện nay là xây dựng hệ thống chính sách tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng, sắp xếp, đề bạt,
thuyên chuyển, đãi ngộ phù hợp để giảm thiểu tối đa sự chênh lệch về số lượng và chất
lượng nguồn nhân lực hành chính nhà nước. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hiện có
bằng bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại đội ngũ công chức nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của các cơ quan hành chính nhà nước. Chú trọng chất lượng tuyển dụng nhân lực, thu
hút, khuyến khích nhân tài thực thi công vụ. Hạn chế đến mức thấp nhất những sai lầm
trong tuyển dụng công chức hành chính nhà nước.


1.4.4. Hoạt động của đội ngũ công chức hành chính diễn ra thường xuyên, liên
tục trên phạm vi rộng và mang tính phức tạp
Các cơ quan hành chính nhà nước được tổ chức thành hệ thống từ trung ương đến

cơ sở thực hiện nhiệm vụ quản lý, điều hành toàn bộ các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính
trị, xã hội, ngoại giao, an ninh quốc phòng với các mặt hoạt động hết sức phong phú và
phức tạp gồm tài chính, ngân sách nhà nước, kế toán, kiểm toán, thống kê, tín dụng, bảo
hiểm, tài sản công, khoa học, công nghệ, môi trường, kế hoạch, xây dựng, bưu chính viễn
thông, giao thông vật tải, nông nghiệp, y tế, văn hóa, giáo dục… Tất cả các hoạt động đó
đều liên quan hàng ngày và trực tiếp hoặc gián tiến đến cuộc sống của tất cả mọi người
dân, đòi hỏi hệ thống các cơ quan quản lý hành chính nhà nước và đội ngũ công chức hành
chính phải đủ năng lực, thẩm quyền để giải quyết tất cả các vấn đề thuộc phạm vi quản lý,
điều hành một cách nhanh chóng, kịp thời, có hiệu quả.
1.4.5. Đội ngũ cán bộ, công chức hành chính phải am hiểu và tôn trọng luật
pháp và thông lệ quốc tế
Trong điều kiện mở cửa hội nhập quốc tế hiện nay, tất yếu Nhà nước phải giải
quyết các quan hệ pháp lý mang yếu tố quốc tế, đồng thời phải ký kết và thực hiện các công
ước quốc tế, các tập quán và thông lệ quốc tế trong tất cả các lĩnh vực. Để thực hiện tốt
nhiệm vụ này, đội ngũ cán bộ, công chức hành chính phải có tri thức, phải am hiểu và tôn
trọng luật pháp và thông lệ quốc tế. Muốn vậy, trước hết họ phải có kiến thức pháp luật và
trình độ ngoại ngữ nhất định, đủ để có thể giao tiếp, đọc hiểu các văn bản pháp luật, hợp
đồng mang tính quốc tế. Do vậy, Nhà nước cần phải quan tâm, chú trọng đến công tác
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức có đầy đủ phẩm chất và năng lực, am hiểu và
có khả năng thực sự giải quyết tốt các quan hệ có yếu tố nước ngoài.
1.4.6. Đội ngũ cán bộ, công chức hành chính trung thành với Đảng, với Chính
phủ, với Tổ quốc và nhân dân
Đây là đặc trưng cơ bản của đội ngũ cán bộ, công chức Việt Nam nói chung, xuất
phát từ truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta và từ đặc điểm lịch sử, quá trình cách mạng hình
thành Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nhà nước ta ra đời từ thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám do nhân dân thực
hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; Nhà nước ta là con đẻ của
khối đại đoàn kết toàn dân. Về phương diện pháp lý, Nhà nước ta là thiết chế quyền lực



do nhân dân bầu ra theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu. Ngoài việc lập ra Nhà nước,
nhân dân thông qua các hình thức khác tham gia hoạt động quản lý nhà nước, xã hội, tác
động đến các quá trình hoạch định đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; thực hiện việc giám sát đối với hoạt động của các cơ quan, tổ chức nhà nước, cán
bộ, công chức nhà nước trong thực thi công vụ. Nhà nước ta tồn tại là để phục vụ lợi ích
nhân dân, bảo đảm các quyền tự do dân chủ của công dân. Trong hoạt động, các cơ quan
nhà nước, cán bộ, công chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ
chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe và chịu sự giám sát của nhân dân.
Trong bối cảnh mở cửa hội nhập với khu vực và quốc tế, chuyển đổi cơ chế quản
lý kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã
hội chủ nghĩa, có nhiều quan hệ xã hội mới xuất hiện đòi hỏi cán bộ, công chức phải có
những thay đổi tương ứng nhằm thích nghi và đủ khả năng giải quyết tốt mối quan hệ
giữa phát triển kinh tế và bảo đảm công bằng tiến bộ xã hội theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Mặt trái của tiến trình hội nhập và nền kinh tế thị trường cũng đặt ra yêu cầu cán
bộ, công chức nói chung phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, rèn luyện phẩm chất đạo
đức và lối sống lành mạnh, tận tâm, tận trí phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc.
1.5. Vai trò của cán bộ công chức
Vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức hành chính thể hiện qua bốn mối quan hệ.
Một là, quan hệ với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hai là, với
bộ máy tổ chức lãnh đạo quản lý; ba là, với công việc; bốn là, với quần chúng nhân dân.
Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh
đạo, có sự tham gia của nhiều chủ thể xã hội, trong đó có nền công vụ nhà nước. Nền
công vụ đóng vai trò chủ yếu trong việc tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng bằng
việc thể chế hóa các nghị quyết của Đảng thành pháp luật và thực thi trong xã hội, qua đó
giúp Đảng đánh giá, điều chỉnh các chủ trương, đường lối cho phù hợp với thực tiễn.
Ngoài ra, là một bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực trong nền công vụ, những cán
bộ, công chức, đảng viên.. đã trực tiếp tham gia đóng góp vào quá trình xây dựng các chủ
trương, chính sách của Đảng qua việc xây dựng dự thảo, đề án, hoặc đóng góp ý kiến,
chỉnh sửa dự thảo...

Cán bộ, công chức hành chính là lực lượng lao động nòng cốt có vai trò cực kỳ
quan trọng trong quản lý và tổ chức công việc của nhà nước. Nhiệm vụ của họ là thực thi
công vụ, thực thi pháp luật, thực thi quyền lực nhà nước. Đồng thời chính họ đóng vai trò


sáng tạo pháp luật, tham mưu, đề xuất, xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và tiến
bộ của Nhà nước.
Với chức năng cơ bản là thực thi công vụ, cán bộ, công chức hành chính nhà
nước là người đem chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước giải thích cho dân
chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời nắm tình hình triển khai thực hiện chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lại cho Đảng và Nhà
nước để có sự điều chỉnh, sửa đổi bổ sung cho đúng và phù hợp với thực tiễn. Ở đây, vị
trí vai trò của người cán bộ, công chức hành chính như là cầu nối giữa Đảng, Chính
phủ với nhân dân.
Vì vậy, chỉ có đội ngũ cán bộ, công chức hành chính có phẩm chất và năng lực
tốt mới có thể đề ra đường lối đúng, mới có thể cụ thể hóa, bổ sung hoàn chỉnh đường lối
và thực hiện tốt đường lối. Không có đội ngũ cán bộ, công chức vững mạnh thì dù cho có
đường lối chính trị đúng đắn cũng khó có thể biến thành hiện thực. Cán bộ, công chức
chính là nhân tố quyết định sự thành bại của đường lối và nhiệm vụ chính trị của Đảng và
Nhà nước.
Cán bộ, công chức là nhân tố chủ yếu, hàng đầu và là nhân tố "động" nhất của
tổ chức. Cán bộ, công chức là người lập ra tổ chức và điều hành bộ máy tổ chức, song
đến lượt mình cán bộ, công chức lại chịu sự chi phối, ràng buộc của tổ chức. Tổ chức
buộc cán bộ, công chức phải hành động theo những nguyên tắc và khuôn khổ nhất
định. Tổ chức bộ máy khoa học và hợp lý sẽ nhân sức mạnh của cán bộ, công chức lên
gấp bội. Cán bộ, công chức chỉ có sức mạnh khi gắn với tổ chức và nhân dân. Tách rời
khỏi tổ chức thì cán bộ, công chức mất sức mạnh quyền lực và hiệu lực do tập thể tạo
ra.
Đội ngũ cán bộ, công chức hành chính là "công bộc" của nhân dân, có vai trò
quan trọng trong bảo đảm kỷ cương phép nước, bảo vệ pháp luật và công lý, bảo vệ các

quyền tự do dân chủ, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm
trật tự xã hội, chống lại các hành vi xâm hại pháp luật, tùy tiện và vô chính phủ. Họ cũng
là người đóng vai trò tiên phong, đi đầu trong cuộc đấu tranh với các hiện tượng quan
liêu, hành vi tham nhũng, cửa quyền và các tiêu cực khác làm cho bộ máy Nhà nước
trong sạch vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
1.6. Yêu cầu của cán bộ công chức.


Để khẳng định được vai trò quản lý của mình, đội ngũ công chức phải tự xác
định được nhiệm vụ,nâng cao tri thức để đảm nhận công việc phục vụ sự nghiệp cách
mạng, quản lý Nhà nước và phục vụ nhân dân.
Trong hoạt động hành chính công chức phải chủ động hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ
được giao và chống lại sự quan liêu,đùn đẩy trách nhiệm,phải giữ vững mối quan hệ với
quần chúng,thu hút quần chúng tham gia ngày càng đông đảo vào công tác quản lý. Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh thì người cán bộ công chức không chỉ có tài mà còn phải có đức.
Người quan niệm rằng người cán bộ, công chức có tài mà không có đức thì như cây
không rễ và thường gây ra những tai hại không nhỏ. Ngược lại nếu chỉ có đức mà không
có tài thì chẳng khác nào ông bụt ngồi ở trong chùa. Đạo đức luôn giữ vị trí hàng đầu, cơ
bản,quyết định nhân của người cán bộ,công chức. Trong bất cứ hoàn cảnh nào người cán
bộ, công chức cũng phải đặt của nhân dân, của Đảng và Nhà nước lên trên hết.

2. Cải cách cán bộ công chức
2.1. Khái niệm cải cách cán bộ công chức
Cải cách hành chính, được hiểu là những thay đổi có tính hệ thống, lâu dài và có
mục đích nhằm làm cho hệ thống hành chính nhà nước hoạt động tốt hơn, thực hiện tốt
hơn các chức năng, nhiệm vụ quản lý xã hội của mình. Như vậy, cải cách hành chính
nhằm thay đổi và làm hợp lý hóa bộ máy hành chính, với mục đích tăng cường tính hiệu
lực và hiệu quả quản lý nhà nước.
Cải cách Hành chính là quá trình cải biến có kế hoạch cụ thể để đạt mục tiêu
hoàn thiện một hay một số nội dung của nền HCNN …nhằm xây dựng nền hành chính

công đáp ứng yêu cầu của một nền hành chính hiệu lực, hiệu quả và hiện đại.
Cải cách hành chính nhà nước là một trong những nội dung quan trọng của khoa
học hành chính, có ý nghĩa không chỉ về mặt lý luận mà còn mang tính thực tiễn cao. Mọi
hoạt động cải cách hành chính nhà nước đều hướng tới việc nâng cao hiệu lực và hiệu
quả hoạt động của bộ máy hành chính nhằm đáp ứng các yêu cầu quản lý cụ thể của mỗi
quốc gia trong mỗi giai đoạn phát triển.
Cải cách hành chính nhà nước là một quá trình cải biến liên tục cách thức thực
hiện theo định hướng nhất định nhằm làm cho hoạt động thực thi quyền hành pháp thích
ứng với đòi hỏi của sự vận động phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia một cách có hiệu
lực, hiệu quả.
Trong đó, cải cách chế độ công vụ, công chức được hiểu là: Trong lĩnh vực nhân sự, các
cơ quan nhà nước đưa các yếu tố của mô hình “quản lý nguồn nhân lực” từ lâu đã là
một động lực quan trọng trong khu vực tư nhân vào khu vực nhà nước thay thế cho mô
hình “quản trị nhân sự truyền thống”. Quá trình thay đổi này khiến cho đội ngũ công
chức hoạt động tích cực hơn và mang lại hiệu quả hoạt động cao hơn. Đồng thời, việc
giao lưu nhân sự giữa khu vực công và khu vực tư trở nên dễ dàng hơn và nhờ đó những


ý tưởng quản lý theo kiểu doanh nghiệp được vận dụng vào khu vực nhà nước cũng ngày
càng nhiều hơn.

2.2. Sự cần thiết cải cách cán bộ công chức
Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng Cộng sản và
Nhà nước Việt Nam xác định là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của
mình trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ
thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam",
trong đó có vấn đề cán bộ. Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác cán bộ; Người coi
"Cán bộ là cái gốc của mọi công việc", và "Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do
cán bộ tốt hoặc kém". Kế thừa tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước
ta rất coi trọng công tác cán bộ, luôn quan tâm xây dựng, phát triển và nâng cao chất

lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan, tổ chức của mình; coi đó là lực lượng
then chốt bảo đảm cho sự thành công của sự nghiệp cách mạng. Vấn đề xây dựng và phát
triển đội ngũ cán bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã được thể hiện rõ trong
nhiều văn kiện của Đảng và văn bản pháp luật của Nhà nước. Văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) chỉ ra: "Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà
nước vừa có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao vừa giác ngộ về chính trị,
có tinh thần trách nhiệm, tận tụy, công tâm, vừa có đạo đức liêm khiết khi thi hành công
vụ”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII (1997) coi:
"Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng”. Văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) khẳng định: Hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế
cán bộ, công chức, coi trọng cả năng lực và đạo đức; bảo đảm tính nghiêm túc, trung thực
trong thi tuyển cán bộ, công chức. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, trước hết là cán
bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, về đường lối, chính sách, về kiến thức và kỹ năng quản lý
hành chính nhà nước. Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức theo đúng chức năng, tiêu
chuẩn. Định kỳ kiểm tra, đánh giá chất lượng cán bộ, công chức, kịp thời thay thế những
cán bộ, công chức yếu kém và thoái hóa. Tăng cường cán bộ cho cơ sở. Có chế độ, chính
sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn. Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) chỉ rõ: "Xây dựng một xã hội dân chủ, trong
đó cán bộ, đảng viên và công chức thực sự là công bộc của nhân dân", và đưa ra giải
pháp: "Đổi mới chính sách cán bộ và công tác quản lý cán bộ, xây dựng chế độ công vụ
rõ ràng, minh bạch, đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực gắn với chế
độ hưởng thụ thỏa đáng và công bằng". Từ những cơ sở chính trị và pháp lý kể trên, có
thể nói cải cách đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta ngày càng phát triển vững mạnh, có


năng lực, trình độ và phẩm chất ngày càng được nâng cao, là nhu cầu cấp thiết của đất
nước, để đáp ứng yêu cầu cơ bản của sự nghiệp đổi mới đất nước.

2.3. Nội dung cải cách
2.3.1. Đổi mới trong công tác quản lý cán bộ, công chức

Tiến hành điều tra thực trạng, đánh giá số lượng,chất lượng cán bộ công chức,từ
đó xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ, công chức. Xác định rõ vị trí cơ cấu và tiêu
chuẩn công chức gắn với chức năng nhiệm vụ trong các cơ quan hành chính nhà nước.
Thực hiện thi tuyển bắt buộc đối với công chức hành chính và công chức cơ sở. Phân cấp
cho các sở ngành, huyện thành phố việc tuyển dụng viên chức sự nghiệp. Triển kkhai
thực hiện quyết định của Chính phủ về chính sách tinh giảm biên chế. Mở rộng quyền và
trách nhiệm quản lý cán bộ công chức của các sở ngành, huyện, thành phố, phân cấp về
quản lý nhân sự gắn với phân cấp về nhiệm vụ và phân cấp về tài chính. Bên cạnh đó, cần
thực hiện chế độ chính sách đãi ngộ đối với cán bộ công chức. Tiếp tục bổ sung, sửa đổi
chế độ chính sách ưu tiên, khuyến khích về vật chất và tinh thần đối với người có tài, có
trình độ cao để tham gia vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội ở địa phương
2.3.2. Cải cách tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ
Chế độ tiền lương đối với công chức là biểu hiện của sự đánh giá chính thức của
Nhà nước đối với lao động của công chức, đồng thời là động lực thúc đẩy công chức thực
thi công vụ, Từ năm 1998 đến nay, chế độ tiền lương ở nước ta đã được cải cách nhiều
lần, đặc biệt là lần cải cách năm 2004 với nội dung rút gọn số lượng các bảng lương,
ngạch, bậc; tăng lương tối thiểu và hệ số lương...Tuy nhiên tiền lương còn mang nặng
tính bình quân, thiếu sự phân hóa giữa các đối tượng công chức, viên chức, đồng nhất
lương của công chức lãnh đạo và công chức chuyên môn. Mặt khác, chế độ tiền lương
quá thấp hiện nay không khiến ít người phải dành phần lớn trí tuệ và thời gian, trong đó
có cả thời gian công vụ, để làm thêm những nghề khác, mà đôi khi mang lại thu nhập
chính. Bởi vậy, để lương đóng vai trò kích dụng công chức theo vị trí việc làm, cần thực
hiện các công việc sau:
Một là, áp dụng hệ thống bảng lương có tính linh hoạt, mềm dẻo trên cơ sở thực hiện
quyền tự chủ về ngân sách của các địa phương. Mỗi địa phương có thể căn cứ vào các
yếu tố diện tích, dân số, điều kiện tự nhiên và xã hội để xác định mức lương cho công
chức. Thực hiện điều này cho phép tạo ra sự cân đối về giá trị tiền lương giữa các địa
phương, làm cho thu nhập thực tế của công chức không bị giảm do nguyên nhân gia tăng
của vật giá.



Hai là, áp dụng hệ thống bảng lương riêng cho các vị trí lãnh đạo thông qua thi tuyển
trực tiếp, công khai. Để thực hiện điều này cần xác định cụ thể việc thi tuyển công chức
theo mô hình việc làm sẽ áp dụng đối với những vị trí lãnh đạo nào. Trên cơ sở đó, những
người có đủ điều kiện và khả năng phù hợp với bảng mô tả công việc đều có quyền thi
tuyển vào vị trí quản lý theo quy định và đều có cơ hội ngang nhau trên cơ sở cạnh tranh
một cách khách quan lành mạnh. Nếu trúng tuyển thì họ được hưởng lương tương ứng
với vị trí dự tuyển đã xác định rõ trong bảng lương được thiết kế
Ba là, đẩy mạnh thực hiện xã hội hoá dịch vụ công, thực hiện tốt quy định của chính phủ
về quyền tự chủ tài chính và biên chế trong các đơn vị sự nghiệp công lập. Thực hiện có
hiệu quả công tác này sẽ có ý nghĩa lớn trong việc chủ động tăng thêm tổng quỹ tiền
lương trả cho công chức từ ngân sách. Cần thiết kế mức lương riêng trên cơ sở tính chất,
đặc điểm lao động, mức độ phức tạp và những yêu cầu riêng biệt về năng lực cho từng vị
trí công việc, từng ngành, từng địa phương. sự khác biệt về mức lương sẽ phản ánh rõ
ràng việc phân hóa giữa các đối tượng thụ hưởng lương, hạn chế tình trạng cào bằng
trong mức lương hiện nay, tạo động lực cho công chức thực thi nhiệm vụ và chủ đọng
nâng cao trình độ chuyên môn.
2.3.3. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Xây dựng và triển khai kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức trong bộ
máy hành chính nhà nước theo từng loại cán bộ, công chức làm nhiệm vụ tham mưu,
hoạch định chính sách, cán bộ công chức các ngạch hành chính, sự nghiệp và cán bộ
chính quyền cơ sở. Tiếp tục đổi nội dung, chương trình và phương thức đào tạo, bồi
dưỡng, khuyến khích cán bộ công chức tự học có sự giúp đỡ của nhà nước.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức thực sự chưa chủ động chủ yếu là khi có công văn
từ cấp trên hoặc từ các trung tâm đào tạo gửi thông báo tuyển sinh. Trên cơ sở đó, các cơ
quan hành chính căn cứ vào thực trạng cán bộ công chức trong cơ quan rồi mới lập danh
sách đăng kí. Tuy trong thực tế, việc cử cán bộ công chức đi học là có lựa chọn, nhưng
chủ yếu dựa vào thâm niên công tác, bậc lương hoặc quy hoạch. Đi học các lớp này, đa
số học viên chỉ học mang tính đối phó là chủ yếu, học để lấy bằng cấp, chứng chỉ chứ
chưa có mục đích rõ ràng, trước hết là để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phục

vụ công tác. Vì vậy, cán bộ công chức tham gia các lớp học thường chỉ nhằm đáp ứng
những tiêu chuẩn về các loại văn bằng, chứng chỉ cần thiết để được bổ nhiệm, được
chuyển ngạch cao hơn mà chưa thật sự chú trọng nâng cao năng lực chuyên môn để làm
việc tốt hơn


Thực tế các cơ quan quản lý cán bộ chưa làm tốt việc xác định các tiêu chí để đánh giá
đúng thực chất trình độ và năng lực chuyên môn của cán bộ công chức qua hoạt động
thực tiễn đề có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu hoặc nâng cao những kiến thức
mà họ đã được đào tạo trong nhà trường. Vì thế, vấn đề đào tạo bồi dưỡng cán bộ công
chức mang định hướng "cung" mà chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề "cầu".
Thiết nghĩ trong thời gian tới, việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức cần có những đổi
mới để góp phần tích cực vào việc nâng cao năng lực quản lý bộ máy nhà nước, thực hiện
thành công công cuộc cải cách hành chính nhà nước mà Đảng và Nhà nước ta đang triển
khai thực hiện.
2.3.4. Nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức cán bộ công chức
Tăng cường các biện pháp giáo dục tư tưởng cán bộ công chức về tinh thần trách
nhiệm, ý thức tận tâm, tận tụy, kỷ luật, kỷ cương đối với công việc. Thực hiện nghiêm
chế độ công vụ gắn với thực hiện quy chế dân chủ trong cơ quan hành chính nhà nước.
Thực hiện kỷ cương trong bộ máy nhà nước, nâng cao ý thức trách nhiệm, ý thức tổ chức
kỷ luật của đội ngũ cán bộ công chức. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống quan liêu tham
nhũng trong bộ máy nhà nước.
2.3.5. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
Đến năm 2020, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có số lượng, cơ cấu hợp lý,
đủ trình độ và năng lực thi hành công vụ, phục vụ nhân dân và phục vụ sự nghiệp phát
triển của đất nước.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức tốt, có bản
lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân thông
qua các hình thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp, có hiệu quả.
Xây dựng, bổ sung và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về chức danh,

tiêu chuẩn nghiệp vụ của cán bộ, công chức, viên chức, kể cả cán bộ, công chức lãnh đạo,
quản lý.
Trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị, xây dựng
cơ cấu cán bộ, công chức, viên chức hợp lý gắn với vị trí việc làm.
Hoàn thiện quy định của pháp luật về tuyển dụng, bố trí, phân công nhiệm vụ phù
hợp với trình độ, năng lực, sở trường của công chức, viên chức trúng tuyển; thực hiện chế
độ thi nâng ngạch theo nguyên tắc cạnh tranh; thi tuyển cạnh tranh để bổ nhiệm vào các
vị trí lãnh đạo, quản lý từ cấp Vụ Trưởng và tương đương (ở Trung ương), Giám đốc Sở
và tương đương (ở địa phương) trở xuống.
Hoàn thiện quy định của pháp luật về đánh giá cán bộ, công chức, viên chức trên
cơ sở kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao; thực hiện cơ chế loại bỏ, bãi miễn những
người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân; quy định rõ


nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức, viên chức tương ứng với trách nhiệm và có
chế tài nghiêm đối với hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ luật, vi phạm đạo đức công
vụ của cán bộ, công chức, viên chức.
Đổi mới nội dung và chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên
chức; thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng theo các hình thức: Hướng dẫn tập sự trong thời
gian tập sự; bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức, viên chức; đào tạo, bồi dưỡng
theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý; bồi dưỡng bắt buộc kiến thức, kỹ năng tối
thiểu trước khi bổ nhiệm và bồi dưỡng hàng năm.
Tập trung nguồn lực ưu tiên cho cải cách chính sách tiền lương, chế độ bảo hiểm
xã hội và ưu đãi người có công; đến năm 2020, tiền lương của cán bộ, công chức, viên
chức được cải cách cơ bản, bảo đảm được cuộc sống của cán bộ, công chức, viên chức và
gia đình ở mức trung bình khá trong xã hội. Sửa đổi, bổ sung các quy định về chế độ phụ
cấp ngoài lương theo ngạch, bậc, theo cấp bậc chuyên môn, nghiệp vụ và điều kiện làm
việc khó khăn, nguy hiểm, độc hại. Đổi mới quy định của pháp luật về khen thưởng đối
với cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ và có chế độ tiền thưởng hợp lý
đối với cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành xuất sắc công vụ.

Nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương hành chính và đạo đức công vụ của cán
bộ, công chức, viên chức.

II. Thực trạng cải cách cán bộ công chức
1. Hoạt động
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 đề ra
mục tiêu đến năm 2020, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có số lượng, cơ cấu hợp lý,
đủ trình độ và năng lực thi hành công vụ, phục vụ nhân dân và sự nghiệp phát triển đất
nước. Để xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức tốt,
có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân,
bên cạnh các khía cạnh khác nhau của công tác tổ chức cán bộ còn cần phải có các hình
thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp, hiệu quả. Cán bộ, công chức có vai trò rất quan trọng
trong việc hoạch định, triển khai và tổ chức thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước;
quyết định sự thành công hay thất bại của đường lối, chính sách do cơ quan, tổ chức vạch
ra. Đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp thực thi các chính sách, kế hoạch của cơ quan, tổ
chức; các mục tiêu quốc gia; thực hiện các giao tiếp (trao đổi, tiếp nhận thông tin,...) giữa
các cơ quan nhà nước với nhau và với doanh nghiệp và người dân. Vì vậy, đội ngũ cán
bộ, công chức phải được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng về năng lực công tác, kỹ năng
nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm và ý thức phục vụ nhân dân. Đổi mới, nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức là một nhiệm vụ
quan trọng được xác định trong Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai


đoạn 2011-2020. Đào tạo, bồi dưỡng nhằm xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức
thực sự có năng lực, biết giải quyết các vấn đề được giao trên nguyên tắc kết quả, hiệu
quả và chất lượng. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là nhiệm vụ thường xuyên, có ý
nghĩa quan trọng, góp phần tích cực trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực
công tác, chất lượng và hiệu quả làm việc của cán bộ, công chức, viên chức; hướng tới
mục tiêu là tạo được sự thay đổi về chất trong thực thi nhiệm vụ chuyên môn. Đào tạo,
bồi dưỡng tập trung trang bị những kiến thức, kỹ năng, thái độ thực hiện công việc cho

cán bộ, công chức, viên chức; trong đó, cung cấp những kiến thức, lý luận cơ bản, trang
bị kỹ năng, cách thức hoạt động thực thi công việc, giáo dục thái độ thực hiện công việc
thể hiện sự nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm của người cán bộ, công chức, viên chức.
Trong thời gian qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở các cấp, các ngành,
các địa phương đã có chuyển biến tích cực, bước đầu đạt được những kết quả quan trọng.
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ, công chức (nhất là cán bộ chủ chốt) ở các cơ quan, đơn vị,
địa phương có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng
động và sáng tạo; tích cực thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước. Trình độ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ, công chức
ngày càng được nâng cao, thích nghi với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế. Đội ngũ cán bộ, công chức có đóng góp quan trọng trong việc
đạt được những thành tựu trong phát triển kinh tế xã hội, đưa nước ta gia nhập các nước
đang phát triển, có thu nhập trung bình thấp, bảo đảm vững chắc an ninh, quốc phòng.
Báo cáo của Bộ Nội vụ về kết quả 3 năm thực hiện Quyết định số 1374/QĐTTg ngày
12-8-2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức giai đoạn 2011-2015 cho thấy 100% các bộ, ngành và địa phương đã xây
dựng, ban hành Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2011-2015 và
tổ chức triển khai thực hiện đúng yêu cầu về đối tượng và nội dung đào tạo, bồi dưỡng;
nhiều bộ, ngành và địa phương đã ban hành Quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức; các chế độ, chính sách khuyến khích, hỗ trợ cán bộ, công chức học tập, nâng cao
trình độ;... bảo đảm hoàn thành hai mục tiêu: Đào tạo, bồi dưỡng để đáp ứng tiêu chuẩn
quy định về ngạch công chức và để đáp ứng yêu cầu công việc theo chức vụ lãnh đạo,
quản lý và vị trí việc làm của cán bộ, công chức. Kết quả trong 3 năm thực hiện đã có
98% cán bộ, công chức từ trung ương đến cấp huyện được đào tạo, đáp ứng tiêu chuẩn
quy định; khoảng 71% cán bộ, công chức lãnh đạo cấp phòng của các bộ, ngành và 80%
của các địa phương được đào tạo, bồi dưỡng theo chương trình quy định; 67% cán bộ,
công chức các bộ, ngành và 56% cán bộ, công chức của địa phương thực hiện chế độ bồi


dưỡng bắt buộc tối thiểu hàng năm. Đối với cán bộ, công chức cấp xã và những người

hoạt động không chuyên trách: Đào tạo trình độ chuyên môn cho cán bộ cấp xã đáp ứng
theo tiêu chuẩn quy định đạt gần 75%; đào tạo trình độ trung cấp chuyên môn trở lên cho
95% công chức cấp xã vùng đô thị, vùng đồng bằng và 87% công chức cấp xã vùng miền
núi; 60% cán bộ cấp xã được bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, điều hành
theo vị trí công việc; 70% công chức cấp xã thực hiện chế độ bồi dưỡng bắt buộc tối
thiểu hằng năm; 50% những người hoạt động không chuyên trách cấp xã được bồi dưỡng
kiến thức phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ. Kế hoạch bồi dưỡng đối với đại biểu hội đồng
nhân dân các cấp được xây dựng và triển khai ngay sau kỳ bầu cử hội đồng nhân dân các
cấp. Trong 3 năm, đã tiến hành bồi dưỡng cho gần 286.000 lượt đại biểu hội đồng nhân
dân các cấp, tập trung vào các kiến thức, kỹ năng phục vụ cho hoạt động của đại biểu hội
đồng nhân dân. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn một số cán bộ, công chức, nhất là ở các
địa phương vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu công việc. Một số cấp ủy, chính quyền địa
phương chưa coi trọng đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức vì vậy một số chỉ tiêu theo kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức theo quy định đạt thấp. Cán bộ, công chức chủ yếu vừa học vừa làm nên còn
để công việc chi phối quá trình học tập, thời gian dành trọn vẹn cho việc học tập không
nhiều. Có tình trạng cán bộ, công chức không muốn đi học vì đi học có thể bị sắp xếp,
điều chuyển vị trí công tác khác không “hấp dẫn” bằng vị trí hiện tại. Cán bộ cơ sở, nhất
là cán bộ người dân tộc, vùng sâu, vùng xa, cán bộ có tuổi, có hoàn cảnh kinh tế khó
khăn ngại đi học vì phải đi tập trung, không phụ giúp được cho gia đình. Công tác đào
tạo, bồi dưỡng mặc dù đã có những cố gắng đổi mới nhưng vẫn còn tình trạng chạy theo
số lượng, chưa cử đúng đối tượng đào tạo, học chưa đúng chuyên ngành cần đào tạo, bồi
dưỡng vì thế chưa đáp ứng được nhu cầu công việc của cơ quan, tổ chức. Việc đào tạo
chưa gắn kết chặt chẽ với sử dụng, nhiều trường hợp được cử đi đào tạo nhưng không bố
trí công việc theo chuyên ngành đào tạo sau khi tốt nghiệp, gây nên tâm lý thờ ơ với việc
đào tạo. Nội dung và chất lượng đào tạo chưa cao, chương trình, giáo trình đào tạo, bồi
dưỡng chưa thật phù hợp với từng đối tượng cán bộ. Việc đào tạo, bồi dưỡng nhìn chung
vẫn còn nặng về lý thuyết, tính ứng dụng không cao, chưa chú trọng tính đặc thù riêng
biệt của từng vị trí việc làm của cán bộ, công chức, viên chức. Nội dung và thời lượng
khung cho các chương trình đào tạo, bồi dưỡng liên tục thay đổi và cải cách nhưng hiệu

quả vẫn chưa cao, chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn của từng ngành, từng địa phương
(điều kiện đặc thù, tính chất, trình độ phát triển rất khác nhau), chưa đáp ứng yêu cầu
từng vị trí việc làm của cán bộ, công chức, viên chức. Việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ


cán bộ, công chức chưa được thực hiện đồng bộ, mới chỉ đào tạo về lý luận chính trị và
chuyên môn nghiệp vụ mà chưa chú ý bồi dưỡng về kỹ năng quản lý điều hành, tổ chức
thực hiện, nhất là xử lý những tình huống trong thực tiễn. Thêm vào đó là chế độ chính
sách cho cán bộ, công chức được cử đi đào tạo, bồi dưỡng tuy đã được điều chỉnh, bổ
sung, nâng cao hơn so với trước, song còn thấp và chưa phù hợp. Nhìn chung, chất lượng
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức chưa được cải thiện rõ rệt so với yêu cầu cải cách
hành chính. Vẫn còn một số cán bộ, nhất là cán bộ cấp xã của một số địa phương vùng
miền núi chưa đạt trình độ chuyên môn theo tiêu chuẩn quy định, tình trạng công chức
làm việc không theo chuyên môn đào tạo còn nhiều. Chính vì vậy, cần đổi mới, nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung, đổi mới
nội dung chương trình, giáo trình, phương pháp và tài liệu giảng dạy cho phù hợp, theo
yêu cầu của vị trí việc làm, trong đó chú trọng kỹ năng thực tiễn áp dụng cho từng đối
tượng người học; cần có sự liên thông trong nội dung chương trình, giảm bớt những nội
dung trùng lắp. Nghị định số 18/2010/NĐCP ngày 05-3-2010 của Chính phủ về đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức nhấn mạnh: "Đào tạo, bồi dưỡng theo vị trí việc làm nhằm
trang bị, cập nhật kiến thức, kỹ năng, phương pháp cần thiết để làm tốt công việc được
giao". Theo tinh thần đó, cần tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức theo hướng: Tiếp tục hoàn thiện công tác quy hoạch cán bộ
lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giai đoạn 2010-2020,
xem đây là căn cứ để có kế hoạch, đầu tư ngân sách nhà nước cho công tác đào tạo, bồi
dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ lãnh đạo, quản lý. Rà soát, đánh giá đội ngũ
cán bộ, công chức và công tác đào tạo, bồi dưỡng trong thời gian qua, qua đó, xác định
nhu cầu đào tạo, xây dựng kế hoạch đào tạo cụ thể theo từng năm và cả nhiệm kỳ đối với
mỗi bộ, ngành, địa phương cũng như trên phạm vi cả nước. Trên cơ sở quy hoạch cán bộ
và nhu cầu thực tiễn của cơ quan, đơn vị, địa phương, cấp ủy xây dựng kế hoạch đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ cụ thể, phù hợp với từng chức danh, ngạch, bậc; quan tâm đào tạo cán
bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số; chú trọng đào tạo chuyên sâu sau đại
học để có đội ngũ trí thức giỏi trên từng ngành, lĩnh vực, nhất là những ngành, lĩnh vực
có yêu cầu cao trong hội nhập quốc tế. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải gắn với việc bố
trí, sử dụng; tránh tình trạng đào tạo không đúng chuyên ngành, chuyên môn nghiệp vụ.
Xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện quy
hoạch đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ. Tăng cường quản lý việc cử cán bộ đi học,
tránh lãng phí trong đào tạo, bồi dưỡng. Cần áp dụng phương pháp cạnh tranh lành mạnh
trong đánh giá, bố trí, sắp xếp, đãi ngộ, nâng ngạch, bổ nhiệm cán bộ, công chức, nhất là


×