Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

CÁC CHÍNH SÁCH THỰC HIỆN HIỆU QUẢ CỦA VIỆT NAM KHI THAM GIA VÀO CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN (AEC)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.57 KB, 12 trang )

CÁC CHÍNH SÁCH THỰC HIỆN HIỆU QUẢ CỦA VIỆT NAM
KHI THAM GIA VÀO CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN (AEC)
NCS. Huỳnh Tấn Hưng
Trường Đại học Kinh tế - Luật
Tóm tắt
Trọng tâm của Cộng đồng kinh tế ASEAN (ASEAN Economic Community, viết
tắt là AEC) là phát triển kinh tế khu vực dựa trên sự kết nối sức mạnh của thị trường
mười nước ASEAN (Brunei Darussalam, the Philippines, Indonesia, Malaysia,
Singapore, Thái Lan, Việt Nam, Lào, Cambodia và Myanmar). Cho tới nay, mục tiêu đưa
ASEAN trở thành một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất đang được ASEAN thúc
đẩy mạnh với mục đích hiện thực hóa AEC để AEC là tâm điểm giao thoa của hàng chục
thỏa thuận thương mại song phương và đa phương khác mà ASEAN đang triển khai hoặc
tham gia đàm phán với Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc, Tân Tây Lan, Ấn Độ, …
AEC sẽ trở thành mục tiêu hợp tác kinh tế cốt lõi của ASEAN, đóng vai trò xương sống
trong nỗ lực liên kết ASEAN. Quá trình xây dựng AEC sẽ giúp thay đổi dần cơ cấu kinh
tế theo hướng thích nghi, hỗ trợ quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng của Việt Nam.
Với sự chung sức của cộng đồng, sự quan tâm thỏa đáng của Nhà nước, AEC chắc chắn
sẽ mang lại lợi ích đối với nền kinh tế Việt Nam.
Từ khóa: AEC, cơ sở sản xuất thống nhất, cơ cấu kinh tế theo hướng thích nghi, mô hình
tăng trưởng.
Abstract
The ASEAN Economic Community’s most important point is the regional
economic development based on the power link of ten ASEAN nations including Brunei
Darussalam, the Philippines, Indonesia, Malaysia, Singapore, Thailand, Vietnam, Laos,
Cambodia and Myanmar. So far, the target that making the ASEAN becomes a single
market and a united production base has been promoted strongly with a view to realizing
ASEAN Economic Community’s ambition of being an interference centre of tens of other
bilateral and multilateral trade agreements. At present, these agreements are being
developed or negotiated by China, Korea, Japan, Australia, New Zealand and India
recently … The ASEAN Economic Community (AEC) will become an ASEAN bloc’s main
economic cooperation target, play a backbone role in doing its utmost to link ASEAN


together. The process of building AEC will help change Vietnam’s economic structure in
the suitable direction and growth model with the co-power of the community and the
satisfactory concern of the State, AEC will definitely bring benefits to Vietnam’s
economy.
Key words: AEC, united production base, economic structure in the suitable direction,
growth model.
1. Mở đầu
1


Để xây dựng ASEAN thành một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất, các nước
trong khối như Brunei Darussalam, Thailand, Indonesia, Malaysia, the Philippines,
Singapore, Việt Nam, Cambodia, Myanmar và Laos hiện đang hướng tới xây dựng Đông
Nam Á thành một khu vực hòa bình, đoàn kết và thịnh vượng. Tuy nhiên, với tính năng
đa dạng của Hiệp hội các nước Đông Nam Á về chính trị, văn hóa và sự chênh lệch đối
với trình độ phát triển kinh tế, Việt Nam phải có năng lực thực sự về xuất khẩu, phải tìm
được mặt hàng chuyên biệt để xuất khẩu được trong quá trình cạnh tranh. Trước sự cạnh
tranh quyết liệt của Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản trong xu hướng toàn cầu hóa nền
kinh tế - thương mại, AEC phải vượt qua những thách thức trong tương lai như di chuyển
lao động, xây dựng thể chế, cải cách quy định và các vấn đề thể chế nhằm xây dựng
AEC.
Trong thập kỷ tới, tổ chức ASEAN phải tiến tới một Liên hiệp thống nhất như EU
để mở rộng sự hợp tác với các nước trên thế giới, đặc biệt với những quốc gia có tiềm lực
kinh tế chính trị mạnh. Do đó, mười quốc gia trong cộng đồng ASEAN phải luôn nỗ lực
tạo nên một sức mạnh kinh tế hùng hậu cùng với chiến lược chính trị đúng đắn, có niềm
tin để sẵn sàng ứng phó mọi gây hấn thù địch của bất cứ nước hùng hậu nào. Riêng Việt
Nam cần có những biện pháp thích ứng xử lý những tình huống có thể xảy ra ở Biển
Đông, nhất là vùng kinh tế đặc quyền của nước ta.
Để tránh gặp phải nhiều thách thức khi Việt Nam tham gia Cộng đồng kinh tế
ASEAN (viết tắt AEC) sẽ hình thành vào năm 2015, Nhà nước cần tranh thủ các cơ hội

để xây dựng và phát triển những ngành hàng xuất khẩu còn yếu kém để xây dựng và phát
triển những ngành hàng xuất khẩu còn yếu kém để tạo lợi thế cạnh tranh lâu dài đối với
những ngành hàng chủ lực của nước ta như nông - lâm - ngư nghiệp, khai khoáng, thực
phẩm - thức uống - thuốc lá, dệt may - da giày, bán buôn - bán lẻ, nhà hàng - khách sạn.
Trước đây, Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (viết tắt là AFTA: ASEAN Free
Trade Area) là một Hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương giữa các nước trong
khối ASEAN. Theo đó, Hiệp định này sẽ thực hiện tiến trình giảm dần thuế quan xuống
0-5%, loại bỏ dần các hàng rào thuế quan đối với đa phần các món hàng và hài hòa hóa
thủ tục hải quan giữa các nước.
Sáng kiến về FTA vốn là Thái Lan. Sau đó hiệp định về AFTA được ký kết vào
năm 1992 tại Singapore. Lúc đầu chỉ có Brunei Darussalam, Indonesia, the Philippines,
Malaysia, Singapore và Thái Lan (gọi chung ASEAN-6). Sau thêm Cambodia, Laos,
Myanmar và Việt Nam gọi là CLMV vào AFTA.Mục đích AFTA là nâng cao năng lực
cạnh tranh của ASEAN với tư cách là một cơ sở sản xuất trên thế giới, đồng thời tăng
cường tính hấp dẫn đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Về sau khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN - Trung Quốc (ASEAN - China Free
Trade Area tức ACFTA hay CAFTA là khu vực mậu dịch tự do được ký giữa các nước
ASEAN và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH) và thành lập tháng 1/2010 được
nêu ra và ký Nghị Định khung vào ngày 4/10/2002 tại Thủ đô Phnom Penh của
Cambodia. Hiệp Định ký kết bắt đầu có hiệu lực vào ngày 1/1/2010. Đây là khu vực Mậu
dịch Tự do lớn nhất thế giới xét về diện tích và dân số (1,9 tỉ người trong đó Trung Quốc
là hơn 1,3 tỉ người) nhưng đứng thứ ba về tổng thu nhập quốc dân sau Khu vực Mậu dịch
Tự do của Bắc Mỹ và Khu vực Mậu dịch Tự do của Châu Âu. Bước đầu, theo thỏa thuận
chung, các quốc gia thành viên (gồm Trung Quốc và 6 nước sáng lập ASEAN là Brunei
2


Darussalam, Indonesia, Malaysia, the Philippines, Singapore và Thái Lan) sẽ gỡ bỏ 90%
hàng rào thuế quan đối với hàng hóa nhập khẩu của nhau kể từ 2010. Những thành viên
khác của ASEAN như Việt Nam, Cambodia, Lào và Myanmar sẽ tham gia khu vực này

theo một lộ trình kéo dài trong 5 năm (2015).
Tuy nhiên, ngay sau đó Indonesia suy tính lại, và chỉ trong vài ngày sau khi hiệp
ước có hiệu lực ngày 5/1/2010, Bộ Thương mại Indonesia đã đưa ra đề nghị hoãn việc áp
dụng chế độ cắt giảm thuế nhập khẩu trong khuôn khổ hiệp định, đồng thời muốn “đàm
phán lại” để “hàng hóa nhập khẩu rẻ” không tràn vào làm tràn ngập thị trường mà không
thể bị ngăn chặn được. Các báo chí và doanh nghiệp trong vùng cũng quan ngại là hiệp
định sẽ gây nhiều bất lợi cho họ, và sẽ càng làm tăng chênh lệch mậu dịch trong cán cân
thương mại với Trung Quốc và làm mất khả năng công nghiệp hóa của các nước đi sau.
Đây là một bài học kinh tế - thương mại đầy xương máu mà các quốc gia ASEAN cần rút
ra một bài học đáng nhớ mãi về sau này.
Cho đến tháng 10/2012, hàng hóa Trung Quốc và ASEAN đang tràn ngập thị
trường Việt Nam.Đây là nỗi lo thật sự của nước ta về hàng hóa ASEAN+1. Để cân bằng
hơn, Việt Nam phải đầu tư mạnh mẽ vào sản xuất, cải thiện sức cạnh tranh về chất lượng
và giá hàng hóa so với khu vực.
Hàng hóa Trung Quốc và ASEAN tràn ngập thị trường Việt Nam và tình hình sẽ
nghiêm trọng hơn khi Hiệp định thương mại tự do Trung Quốc - ASEAN (ASEAN +1)
hoàn toàn có hiệu lực vào năm 2015. Trước hết các nhập khẩu ASEAN, Trung Quốc sẽ
làm khó các nhà xuất khẩu Việt Nam về giá, hợp đồng, khối lượng hàng hóa.Đặc biệt là
thị trường Trung Quốc rất thường xuyên xảy ra rủi ro cho các yếu tố trên.Riêng thị
trường Mỹ, EU ít khi xảy ra ép giá hay bỏ hàng. Trái lại hàng Việt Nam vào thị trường
Mỹ, EU với kim ngạch tăng liên tục. Chẳng hạn, Việt Nam xuất siêu vào Mỹ 10 tỉ USD
trong 8 tháng đầu năm 2012 và vào Đức 1,1 tỉ USD (theo Tổng cục Hải quan). Đối với
thị trường gần như ASEAN và Trung Quốc, Việt Nam phải nhập siêu liên tục.Tất cả các
nước này đều áp dụng kỹ thuật khá chặt chẽ đối với hàng nhập khẩu. Chẳng hạn, sản
phẩm Casumina phải rất gần 1 năm mới xin được giấy chứng nhận và chi phí cho việc
gửi mẫu, việc cán bộ của nước sở tại đến tận công ty lấy mẫu … Vì vậy, nhiều doanh
nghiệp ta nản chí khi đi tiếp cận thị trường. Nói chung, Việt Nam xuất siêu vào Mỹ, Đức,
Nhật trái lại nhập siêu rất lớn từ Trung Quốc và một số nước ASEAN, những nền kinh tế
sẽ cạnh tranh gay gắt với ta khi Hiệp định ASEAN+1 có hiệu lực hoàn toàn vào năm
2015. Vì vậy, về phía Việt Nam, Nhà nước cần đầu tư trọng điểm một số lĩnh vực, ngành

hàng có khả năng cạnh tranh khi Việt Nam gia nhập AEC.Ngoài ra, các doanh nghiệp
Việt Nam phải phấn đấu hạ giá thành trong cuộc cạnh tranh mói đầy gay go và quyết liệt
này. Tóm lại, nước ta phải nâng cao năng lực cạnh tranh ở cả 3 cấp: nhà nước, doanh
nghiệp và sản phẩm. Hơn nữa, Việt Nam cần chú trọng đặc biệt đến công tác quản lý
nhập khẩu, kiểm soát hàng hóa chặt chẽ hơn, tăng cường hàng rào kỹ thuật nhằm đối phó
hàng Trung Quốc, đặc biệt hàng kém chất lượng.
2. Khái quát về Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC).
Các nguyên tắc nền tảng của Cộng đồng ASEAN như sau:
- Thúc đẩy hình thành một ASEAN hướng về nhân dân nhưng chủ yếu ở trong đó
khuyến khích mọi thành phần xã hội tham gia và hưởng lợi từ tiến trình liên kết và xây
dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN.
3


- Tôn trọng các quy định thương mại nhiều bên và các quy định của ASEAN dựa
trên các chế độ cho sự áp dụng hiệu quả các cam kết kinh tế và dần dần giảm bớt hướng
tới loại bỏ tất cả các rào cản với sự hội nhập kinh tế của khu vực, trong một nền kinh tế
định hướng thị trường.
Chính vì thế ASEAN đã ký kết các thỏa thuận tự do thương mại với Trung Quốc,
Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc, Tân Tây Lan (New Zealand) và gần đây nhất là Ấn Độ.
Xuất phát từ nền tảng cơ bản nói trên, một Cộng đồng kinh tế ASEAN (ASEAN
Economic Community được viết tắt là AEC) sẽ hình thành dự định vào năm 2015 và dần
dần lớn mạnh trở thành một khối kinh tế khu vực của các quốc gia thành viên ASEAN.
Cộng đồng kinh tế ASEAN là một trong ba trụ cột quan trọng của Cộng đồng ASEAN
nhằm mục đích thực hiện các mục tiêu đề ra trong tầm nhìn ASEAN 2020. Hai trụ cột
còn lại là Cộng đồng An ninh ASEAN và Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN.
Mục đích các nước ASEAN thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) nhằm
hình thành một khu vực kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vượng và có khả năng cạnh tranh
cao, trong đó hàng hóa, dịch vụ, đầu tư sẽ được chu chuyển tự do và vốn được lưu
chuyển tự do hơn, kinh tế phát triển đồng đều, sự đói nghèo và sự chênh lệch phát triển

kinh tế được giảm bớt dần đến năm 2020. Theo kế hoạch trung hạn 6 năm lần thứ hai của
ASEAN (2004-2010). Chương trình hành động Vientiane đã xác định rõ hơn mục đích
của AEC là: tăng cường năng lực cạnh tranh thông qua sự hội nhập nhanh hơn nhằm thúc
đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của ASEAN.
Hiện nay, bối cảnh quốc tế mới đầy biến động của thời kỳ khủng hoảng tài chính
và suy thoái kinh tế toàn cầu ngày càng lan rộng trên thế giới. Điều này cũng đã và đang
tác động nhiều đến sự hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015.Đặc biệt
vùng “Biển Đông mới nổi sống” gần đây đã tác động không nhỏ tới tiến trình hội nhập
của khu vực Đông Nam Á.
Thực tế, kinh tế thế giới đang có tốc độ tăng trưởng chậm, đặc biệt ở các nền kinh
tế mới nổi như Ấn Độ, Brasil, Trung quốc, … Bối cảnh này làm cho các nhà đầu tư, các
hộ gia đình, các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạch định lại chính sách phát triển kinh tế,
thương mại theo chiều hướng phát triển bền vững chậm lại, theo lộ trình tăng trưởng
mạnh và vững chắc. Ngoài ra, tình hình an ninh ở Nga, Ukraine, Syrie, Iraq, Palestine,
Israel, … ngày càng xấu đi do tranh chấp lãnh thổ leo thang, bạo động, nội chiến, … Do
đó, các tiến trình hội nhập của ASEAN thiếu liên kết và chậm lại. Trong bối cảnh kinh tế
như thế, nhiều nhà kinh tế khuyến nghị các nền kinh tế đang phát triển, đặc biệt ở Cộng
đồng ASEAN nên cố gắng tìm cách tái cơ cấu lại nền kinh tế để cân đối các nguồn tăng
trưởng nhằm hướng tới phát triển kinh tế bền vững, ưu tiên phát triển ngành công nghiệp
hỗ trợ, nâng cao mức tiêu thụ hàng hóa nội địa để phục vụ dân nghèo ở nông thôn và tầng
lớp trung lưu ở thành thị. Đây là hướng phát triển thị trường nội địa trong tư thế chuẩn bị
tham gia Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) nhằm mục đích đưa cộng đồng các nước
ASEAN trở nên tâm điểm hội nhập khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
3. Thời cơ mang lại cho Việt Nam từ Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC).
Cộng đồng kinh tế ASEAN thực tế là một khối kinh tế trong khu vực có quy mô
cam kết rộng và sâu hơn các hiệp định mà Việt Nam đã từng tham gia từ trước đến nay.
4


Vì vậy, việc tham gia vào Cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015 sẽ tạo nhiều cơ hội

cho Việt Nam, cụ thể như sau:
Thứ nhất, AEC giúp Việt Nam có cơ hội tận dụng tốt nhất kết quả tái cấu trúc thị
trường thế giới và khu vực Đông Nam Á để tham gia tích cực chuỗi sản xuất và cung ứng
khu vực 10 quốc gia thuộc Cộng đồng ASEAN. Điều này sẽ tác động mạnh đến việc giải
quyết việc làm ở nước ta, và tác động đến quá trình tăng trưởng kinh tế lẫn giải quyết
việc làm ở các quốc gia Đông Nam Á khác. Hơn nữa, chiến lược phát triển kinh tế xã hội
nước ta trong giai đoạn 2011-2020 xác định tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt từ 7-8% năm.
Do đó, Nhà nước phải tạo ra nhiều việc làm cho thanh niên lao động, đặc biệt ở nông
thôn (vùng sâu vùng xa), để góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nông nghiệp,
nông thôn. Đây là một bài toán nan giải hiện nay của Đảng và Nhà nước, đặc biệt vùng
Đồng bằng Sông Cửu Long có dân tộc người Khmer, người Chăm sinh sống. Ngoài ra,
Nhà nước cũng cần đưa ra chính sách giải quyết việc làm của nền kinh tế nói chung và
các khu vực kinh tế nói riêng trong giai đoạn từ nay đến năm 2020.
Ngoài ra, Việt Nam cần tập trung vào các giải pháp cụ thể như:
- Duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định.
- Thực hiện chính sách tài chính chặt chẽ.
- Giảm chi ngân sách.
- Tăng cường vốn vào những công trình trọng điểm quốc gia.
- Thúc đẩy thị trường bất động sản giảm dần bị đóng băng.
- Hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ gia đình tăng cường sản xuất
hiệu quả …
- Cần có những biện pháp cấp thiết để huy động các nguồn lực tài chính, các
nguồn lực tự nhiên nhằm phục vụ cho phát triển kinh tế bền vững.
Thứ hai, AEC thúc đẩy nước ta quan tâm nhiều hơn các doanh nghiệp nhỏ và vừa,
hộ gia đình sử dụng công nghệ sản xuất thâm dụng lao động để tạo việc làm của người
lao động ở khu vực nông thôn, đồng thời hoàn chỉnh các trang trại sản xuất, phát triển
doanh nghiệp tư nhân …
Thứ ba, AEC giúp Việt Nam đẩy nhanh quá trình đào tạo nghề cho người lao động
ở thành thị và nông thôn để biết tiếp cận công nghệ, tổ chức quản lý … nhằm tăng năng
suất lao động. Việc đào tạo nghề do chính các doanh nghiệp tự đào tạo tại chỗ, hoặc gửi

các công nhân đến những trung tâm dạy nghề ở địa phương …
Thứ tư, AEC tạo cơ hội cho nước ta thực hiện tích cực chiến lược chủ động hội
nhập khu vực để nâng cao vị thế địa lý chính trị của Việt Nam ở Biển Đông nhằm mục
đích củng cố môi trường hòa bình, ổn định khu vực và đảm bảo an ninh, quốc phòng đất
nước.
Thứ năm, AEC tạo môi trường thuận lợi cho Việt Nam xuất khẩu các mặt hàng
chủ lực như dệt may, giày dép, gỗ và sản phẩm gỗ, thủy sản, túi xách, … tới Brunei
Darussalam, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Myanmar, …
Thứ sáu, AEC giúp Việt Nam quyết liệt tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước để thúc
đẩy tăng trưởng trong cả ba khu vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ nhằm phấn đấu
5


đạt mức tăng trưởng cả năm là 5,8% (2014). Như thế, sang năm 2015 nước ta mới tự tin
vào AEC vì không còn doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả. Ngoài ra,
Việt Nam cũng phải mạnh dạn thực hiện tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém và cần thiết
thì sát nhập, giải thể theo đúng pháp luật vì lợi ích nhân dân và vì sức cạnh tranh của nền
kinh tế nước ta khi tham gia vào Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) dự kiến vào năm tới.
Thứ bảy, AEC tạo cơ hội tốt cho các nhà doanh nghiệp Việt Nam sang các nước
như Myanmar, một thị trường rất chuộng hàng “made in Vietnam” vì chất lượng, mẫu mã
tốt hơn hẳn hàng Trung quốc, giá cạnh tranh hơn hàng Thái Lan. Theo ước tính, 70%
hàng hóa tại Myanmar phải nhập khẩu (dân số Myanmar khoảng 60 triệu người), nên đây
là cơ hội tốt cho doanh nghiệp Việt Nam để có những kế hoạch tiếp cận thị trường này
một cách phù hợp và hiệu quả nhất. Myanmar đang trong giai đoạn mở cửa nên rất cần
phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, thực phẩm chế biến, hàng tiêu dùng,
vật liệu xây dựng cho nhu cầu xây dựng khách sạn, khu phức hợp, văn phòng cho thuê,
nhà ở, … Ngoài ra, các công ty du lịch Việt Nam cũng phải nhanh chóng khai thác ngành
du lịch đầy tiềm năng ở Myanmar.
Thứ tám, AEC thúc đẩy các nhà làm chính sách công phù hợp với điều kiện kinh
tế nước ta để đầu tư công nhiều hơn vào những lĩnh vực có tỷ suất sinh lợi cao với mục

đích đưa đến các mức thu nhập bình quân đầu người cao hơn trong dài hạn. Ngoài ra, nền
kinh tế mở nước ta rất dễ tiếp cận công nghệ mới và ý tưởng mới của thế giới. Như vậy,
nền kinh tế mở giúp nước ta phân công lao động hợp lý hơn và quá trình sản xuất phù
hợp hơn về lợi thế cạnh tranh, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam nhanh
hơn và hàng hóa nước ta trong AEC mới đủ sức cạnh tranh những sản phẩm có thương
hiệu từ lâu của Thái Lan, Singapore, Malaysia, …
Thứ chín, việc gia nhập AEC của Việt Nam sẽ giúp các nhà đầu tư ngoại khối để
tìm đến nước ta nhiều hơn vì họ có thể tận dụng được nguồn lực có chi phí thấp và có thể
tiêu thụ hàng hóa bên trong AEC với những cơ chế thương mại tự do nội khối. Ngoài ra,
Việt Nam lại ở gần Trung quốc nên những nhà đầu tư ngoại khối luôn luôn muốn tiếp cận
thị trường khổng lồ này để tiêu thụ hàng hóa của mình với lợi nhuận cao hơn. Như vậy,
Việt Nam là môi trường tốt đối với các nhà đầu tư ngoại khối ASEAN và họ luôn tìm
cách góp phần xây dựng nền kinh tế Việt Nam phát triển những ngành nghề xuất khẩu
cho tiêu thụ ở bên trong lẫn bên ngoài AEC. Chẳng hạn, gần đây vào chiều ngày
11/8/2014, ông Pascal Lamy, nguyên Tổng Giám đốc Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) có buổi tọa đàm với các doanh nghiệp nhân chuyến thăm và làm việc tại Việt
Nam. Ông Pascal Lamy đánh giá cao những thành tựu kinh tế mà Việt Nam đạt được sau
nhiều năm gia nhập WTO, nhất là những thành công về tăng trưởng kinh tế, thương mại,
thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài và du lịch. Ngoài ra, ông cũng phát biểu là
thương mại thế giới là vấn đề bảo vệ người tiêu dùng thay vì bảo vệ người sản xuất, xoay
quanh vấn đề chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩnsản phẩm, … Ngoài ra, đến thăm Thành
phố Hồ Chí Minh ngày 26/8/2014, Chủ tịch Ủy ban châu Âu (EC) Jose Manuel Barroso
khẳng định ông có niềm tin lớn đối với vào tiềm năng kinh tế và thương mại của Việt
Nam. Theo Chủ tịch EC, để duy trì đà tăng trưởng kinh tế và phát triển, Việt Nam cần
tiếp tục cải cách thị trường theo hướng tự do hóa, cần thêm sự minh bạch và cởi mở. Tuy
nhiên, nếu trong thời gian ngắn tới FTA với EU đạt được thì Việt Nam sẽ có ảnh hưởng
lớn trong quá trình hồi phục kinh tế sau ba năm suy giảm và sẽ giúp Việt Nam có nhiều
lợi thế cạnh tranh hơn trong khối AEC. EU là đối tác thương mại quan trọng của Việt
6



Nam.EU là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam.Thương mại song phương tăng
gần 20% mỗi năm, đạt 27 tỉ Euro (37 tỉ USD) trong năm 2013.EC và các nước thành viên
EU cũng là nhà cung cấp viện trợ không hoàn lại lớn nhất của Việt Nam. Trong giai đoạn
2014-2020, EC đã cam kết viện trợ không hoàn lại 400 triệu Euro cho Việt Nam, nhiều
hơn 100 triệu Euro so với giai đoạn 2007-2013. Đây là một lợi thế to lớn tác động mạnh
đối với việc nước ta gia nhập AEC dự kiến thành lập vào năm 2015.
4. Những thách thức của Việt Nam khi tham gia Cộng đồng kinh tế ASEAN(AEC)
Khi tham gia Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) có nhiều cơ hội mang đến cho
nước ta như đã phân tích ở trên. Tuy nhiên Việt Nam cũng sẽ gặp nhiều thách thức như
sau:
Một là, Việt Nam cần sớm hoàn thiện hệ thống luật pháp theo thông lệ quốc tế:
Nước ta phải nỗ lực nhiều để hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, nhất là hệ thống thể
chế kinh tế thị trường và đồng thời thực hiện cam kết xây dựng chính quyền các cấp một
cách minh bạch.
Hai là, Việt Nam hiện nay phải quyết tâm triển khai tái cơ cấu nền kinh tế nông
nghiệp: Việc này tiến triển rất chậm, chưa căn bản, chưa tạo thành hệ thống, chưa phân
bổ sử dụng các nguồn lực có hiệu quả. Các thể chế chính sách nhằm mục đích tạo môi
trường thuận lợi trong sản xuất nông nghiệp không kịp thời sửa đổi, bổ sung đồng bộ. Do
đó, từ năm 2010 đến nay, mức đầu tư của ngân sách nhà nước vào nông nghiệp nông thôn
rất thấp, trên dưới 1,5% GDP. Đây là khu vực rất quan trọng luôn luôn giúp ổn định nền
kinh tế.Vì thế, nhà nước cần tăng mức đầu tư chế độ nông nghiệp, nông thôn nhiều hơn.
Ba là, Việt Nam cần chấn chỉnh doanh nghiệp nhà nước:
Vấn đề chấn chỉnh này theo hai hướng sau để thúc đẩy kỹ thuật cao - mới “tân
kinh tế hóa” các ngành truyền thống:
- Thu hẹp quyết liệt bằng cách giảm đầu tư công từ khu vực này để giảm bớt bộ
máy doanh nghiệp nhà nước với mục đích chuyển nguồn lực cho khu vực tư nhân nhằm
đạt hiệu quả cao hơn. Việt Nam khuyến khích nguồn vốn tư nhân đầu tư vào các xí
nghiệp kỹ thuật cao, động viên các xí nghiệp vừa và nhỏ, hộ gia đình tham gia kế hoạch
phát triển và đổi mới của AEC.

- Trong dài hạn, đầu tư tư nhân mới là yếu tố tác động mạnh nhất đến tăng trưởng
kinh tế Việt Nam. Đầu tư công đã tác động tích cực tới tăng trưởng của Việt Nam nhưng
chỉ tác động trong khoảng thời gian năm năm, sau đó giảm dần.
Theo Viện Nghiên cứu chiến lược (Bộ Kế hoạch - đầu tư), năm 2011 ước tính theo
quốc tế thì nợ công của Việt Nam là 128,9 tỉ USD, tương đương 106% GDP, nhưng theo
Bộ Tài chính công bố chỉ 66,8 tỉ USD và bằng 55% GDP.Ngân sách nhà nước luôn bị
thâm hụt, cán cân thương mại cũng bị thâm hụt. Điều này dẫn đến cứ vay nợ rồi không sử
dụng hiệu quả thì chắc chắn cuộc khủng hoảng kinh tế sẽ xảy ra.
- Tái cấu trúc lĩnh vực bất động sản hiện nay theo đúng quy luật thị trường, chấp
nhận cho phá sản, rồi ngân hàng siết nợ, bán theo giá người dân chấp nhận được.
Bốn là, Việt Nam cần có vai trò cầu nối, liên kết giữa các chủ trang trại với nhà
khoa học, trung tâm nghiên cứu khoa học: Điều này sẽ đẩy nhanh quá trình ứng dụng
khoa học kỹ thuật, đưa công nghệ mới vào chăn nuôi, sản xuất; tư vấn hỗ trợ chủ trang
7


trại, đặc biệt chủ trang trại trẻ; xây dựng thương hiệu sản phẩm; tìm thị trường tiêu thụ
nhất là ở Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC). Do đó, doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ kinh
doanh … cũng sẽ có cơ hội phát triển hơn và đưa sản phẩm của mình vào AEC.
Năm là, bất cứ doanh nghiệp Việt Nam nào muốn đầu tư vào Cộng đồng kinh tế
ASEAN (AEC) cũng phải hội nhập về cả văn hóa, phong tục, tập quán của quốc gia đó:
Thực tế, những hành vi, cử chỉ đôi khi nhỏ nhưng lại có ảnh hưởng lớn. Vì thế, người
đứng đầu một doanh nghiệp cũng phải hiểu về những văn hóa giao tiếp dù là nhỏ nhất.
Khó khăn về ngôn ngữ cũng là một rào cản lớn khi đầu tư ra vào Laos, Cambodia,
Indonesia, Singapore, Thái Lan và gần đây là Myanmar. Chẳng hạn, để hướng dẫn sử
dụng, giới thiệu và truyền đạt kiến thức về trồng trọt một cách rõ ràng đến những người
nông dân Cambodia thì cần phải sử dụng ngôn ngữ của họ. Điều này thể hiện đảm bảo độ
chính xác đồng thời thể hiện sự hoàn thiện, thành ý của nhà sản xuất đối với người tiêu
dùng thuộc Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) ngay trên mảnh đất quê hương của họ.
Sáu là, hiện nay điểm đến chủ yếu của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn là những

thị trường lân cận như Lào, Cambodia, Singapore, Indonesia,…:Ngoài ra, các doanh
nghiệp Việt Nam phải nghiên cứu kỹ thị trường, phải suy nghĩ cẩn thận và thấu đáo về kế
hoạch đầu tư nước ngoài ở AEC. Đôi khi một số doanh nghiệp Việt Nam chỉ nhìn thấy
mặt tích cực mà chưa thấy mặt trái. Việc phân tích và đánh giá các cơ hội đầu tư không
chỉ dựa vào chủ quan của nhà đầu tư mà còn cần có sự tư vấn, những ý kiến phản biện
trái chiều của luật sư, cố vấn pháp luật, … . Đối với những dự án đầu tư có giá trị lớn,
nhà đầu tư Việt Nam cần có sự tư vấn về thuế, về pháp lý của nước sở tại trong Cộng
đồng kinh tế ASEAN (AEC). Ngoài ra, các nhà đầu tư Việt Nam phải có những khảo sát
nghiên cứu khá sâu về thị trường trước khi quyết định đầu tư vào AEC.Nếu nhà đầu tư
nước ta thiếu hiểu biết về môi trường đầu tư ở AEC thì việc đầu tư ra nước ngoài có thể
dẫn đến mất hết tài sản lẫn tiền bạc. Chẳng hạn, ngày nay doanh nghiệp Việt Nam muốn
đầu tư vào Indonesia mà không tham khảo luật sư sở tại thì sẽ gặp nhiều khó khăn trong
việc mua nhà, văn phòng … .Khung pháp lý của Indonesia hoàn toàn khác với các nước
khác trong AEC, kể cả việc muốn sửa chữa nhà cũng không dễ dàng.
Bảy là, trước khi Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)hình thành cuối năm 2015,
Việt Nam và các nước thành viên khác trong khối ASEAN có nhiều thách thức đã và
đang đặt ra trước mắt: Các nước thành viên ASEAN đang tăng tốc và đẩy mạnh các nỗ
lực để AEC hình thành đúng kế hoạch, tìm giải pháp giải quyết những thách thức như
chênh lệch trong trình độ phát triển giữa các nước thành viên, thách thức về kết nối, giao
thông, những quan ngại về an ninh phi truyền thống khi khu vực hội nhập … . Trước
thềm AEC, có nhiều ý kiến trái chiều về cơ hội và thách thức trong thời gian tới vì hơn
một nửa dân số trong khối ASEAN là hơn 600 triệu người vẫn chưa nhận thức được điều
gì đang xảy ra. Người ta còn quan ngại về kỹ năng và sự nhận thức của doanh nghiệp
trong khu vực về AEC. Hơn nữa, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay không nhận thức
được đầy đủ những thách thức của AEC, hoặc chưa sẵn sàng đầu tư vào các cơ hội. Hầu
hết các doanh nghiệp Việt Nam lạc quan về sự linh hoạt trong nguồn lao động, hàng rào
thương mại được nới lỏng, dòng đầu tư chảy tự do … nên chưa có chính sách về sự sẵn
sàng đối mặt với cạnh tranh được tạo nên từ một thị trường lao động hội nhập khu vực.
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), chỉ có 46% doanh nghiệp hiểu toàn diện về tác
động của AEC đối với việc kinh doanh của họ. Với tài nguyên kinh tế phong phú khắp

khu vực, ASEAN sẽ có sự dịch chuyển lớn của những lao động tay nghề thấp từ những
8


nước nghèo sang những nước giàu hơn. Từ đó sẽ có những tác động xã hội tiêu cực.Xu
hướng này thật khó giải quyết. Ngoài ra khu vực ASEAN sẽ thiếu hụt lao động lành
nghề, nguồn nhân lực chất lượng cao, ở một số lĩnh vực cụ thể. Khi tham gia vào Cộng
đồng kinh tế ASEAN, nguồn nhân lực Việt Nam có năng lực đáp ứng nhu cầu phát triển
đất nước, nhất là ở ngành công nghiệp hỗ trợ, công nghệ cao để có thể đưa GDP tăng lên
14,5%, sẽ thiếu trầm trọng.Khi tham gia AEC, tăng trưởng việc làm lên 10,5% …
Tám là, điều đáng quan tâm hiện nay là các doanh nghiệp Việt Nam chưa chuẩn bị
nhiều để bắt đầu chiến dịch nâng cao nhận thức về AEC: Ngay trong ASEAN, quá trình
liên kết kinh tế cũng được tăng cường theo chiều sâu với việc lập AEC, làm cho ASEAN
thay đổi một cách mạnh mẽ vào năm 2020. Để tránh bớt lo lắng của dân ta về Cộng đồng
kinh tế ASEAN (AEC), Nhà nước và doanh nghiệp nên có chiến dịch nâng cao nhận thức
về AEC một cách rầm rộ khắp Việt Nam.Chẳng hạn, các trường Đại học, các trung tâm
ngoại ngữ nên quảng cáo liên tục các khóa học tiếng Anh và ngôn ngữ các nước ASEAN.
Ngoài ra, đài truyền hình, đài phát thanh nước ta luôn có những bộ phim truyền hình,
những bài quảng bá AEC trên đài phát thanh để nhân dân ta có thêm nhận thức về Cộng
đồng kinh tế ASEAN.
Chính phủ hiện cũng rất quan ngại các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa
và nhỏ, không thể cạnh tranh trong môi trường mới vì nhiều lý do: khả năng nói tiếng
Anh yếu và thiếu kiến thức về các nước láng giềng. Vì vậy, chiến dịch nâng cao nhận
thức cho người dân cần được thực hiện một cách nghiêm chỉnh.Thực tế, nếu một chiến
dịch về AEC được tổ chức tốt thì nó sẽ đem lại nhiều lợi ích và kiến thức hơn.Chính phủ
nên thực hiện nhiều biện pháp để chuẩn bị cho AEC ở cả khối nhà nước và tư nhân, mặc
dù dân chúng chưa được tuyên truyền tốt lắm. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần nâng cao
nhận thức của người dân về Việt Nam, vì nước ta là một bộ phận không thể tách rời của
ASEAN do có vị thế địa - chính trị quan trọng ở Đông Nam Á, đặc biệt ở vùng Biển
Đông. Chính nhận thức của từng người dân về ASEAN sẽ là thành tố cơ bản để Việt

Nam bước vào ASEAN vào năm 2015 một cách năng động hơn bao giờ hết. Hơn nữa,
theo báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn kinh tế thế giới công bố ngày
3/9/2014, Việt Nam tăng hai hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu, xếp thứ 68 trên 148 nền
kinh tế. Kinh tế vi mô tiếp tục cải thiện và lạm phát giảm còn 6,6%. So với năm 2013,
các vấn đề như tham nhũng tiếp tục giảm đáng kể trong khi chất lượng giao thông vận tải,
hạ tầng năng lượng chỉ cải thiện nhẹ. Ngoài ra, trong khi thị trường lao động nhiều nước
gặp nhiều vấn đề thì Việt Nam xếp ở vị trí khá ổn định, thứ 49. Đặc biệt các doanh
nghiệp Việt Nam lại chậm trong việc áp dụng các công nghệ mới nhất. Thành thử, Việt
Nam thuộc nhóm năm nền kinh tế lớn nhất là Malaysia, Thái Lan, Indonesia, the
Philippines cần phải tận dụng hiệu quả cao những cơ hội mà Cộng đồng kinh tế ASEAN
(AEC) mang lại, cần phải thường xuyên nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng
xuất khẩu, đổi mới mặt hàng, đáp ứng các tiêu chí về quy tắc xuất xứ để được hưởng các
ưu đãi về thuế quan. Hội nhập AEC là cơ hội để các doanh nghiệp cải cách và hình thành
khu vực doanh nghiệp đủ mạnh hướng về xuất khẩu mặt hàng chuyên biệt trong quá trình
cạnh tranh trong bối cảnh các rào cản thuế quan sẽ về 0% vào cuối năm 2015.
Chín là, Việt Nam phải nâng cao chất lượng cạnh tranh của nền kinh tế: Nâng cao
năng lực cạnh tranh đã trở thành nhiệm vụ “sống còn” đối với cả nền kinh tế và đối với
mỗi doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Để nền kinh tế nước ta phát triển nhanh và bền
vững khi tham gia vào AEC, Việt Nam cấp thiết phải hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể
9


chế, đổi mới tư duy để phát huy vai trò tích cực của cơ chế thị trường; nâng cao năng suất
lao động; tích cực đổi mới công nghệ sản xuất ở các doanh nghiệp; tập trung đầu tư và
phát triển bền vững khu vực nông nghiệp, nông thôn, dựa trên cơ sở nâng cao năng suất
lao động và sức cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp trong nền kinh tế khi bắt đầu
gia nhập vào AEC vào năm 2015.
5. Gợi ý giải pháp tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức của Cộng đồng kinh tế
ASEAN (AEC) đối với Việt Nam
Để có thể tận dụng tốt nhất các cơ hội và vượt qua các thách thức mà AEC mang

đến cho Việt Nam, trong thời gian tới Việt Nam cần phải thực hiện các giải pháp sau:
- Đối với nhà nước. Nhà nước phải đẩy mạnh hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường, xóa bỏ mọi phân biệt đối xử đối với các thành phần kinh tế ngoài nhà nước, bằng
cách quốc hội mạnh dạn thay đổi cách làm luật, tích cực ban hành các luật, bộ luật phù
hợp với thể chế kinh tế thị trường. Trong thời gian qua, có nhiều luật phải bị mất rất
nhiều thời gian để luật đó có thể đi vào cuộc sống vì các nghị định của chính phủ, các
thông tư hướng dẫn thực hiện luật của các bộ, ngành liên quan chưa được ban hành, hoặc
các thông tư hướng dẫn của các bộ, ngành không phù hợp với nội dung luật. Điều này
gây khó khăn cho việc thực hiện luật.
- Đối với chính phủ. Trước hết chính phủ cần đẩy mạnh cải cách hành chánh ở các
cấp để minh bạch hóa hoạt động của chính quyền nhằm xây dựng chính quyền trong sạch
với mục đích thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài, nâng cao sức cạnh tranh quốc
gia đối với những nước khác trong AEC.
- Đối với doanh nghiệp. Các doanh nghiệp Việt Nam trước hết chủ động tìm hiểu
thông tin về Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) dự kiến thành lập vào năm 2015, tiếp xúc
các nhà nghiên cứu AEC để trao đổi những vấn đề cụ thể mà doanh nghiệp quan tâm để
tận dụng cơ hội do AEC mang lại. Ngoài ra, doanh nghiệp Việt Nam cũng có những biện
pháp nâng cao tính cạnh tranh, và chủ động tham gia vào chuỗi cung ứng trong khu vực
ASEAN. Để hội nhập AEC dễ dàng, doanh nghiệp Việt Nam phải nâng cao chất lượng
nhân lực, xây dựng chiến lược hội nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và tận dụng
cơ hội hợp tác với các doanh nghiệp trong khối ASEAN để tranh thủ lợi thế về vốn, kỹ
thuật, công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao của AEC. Riêng các tổ chức, doanh
nghiệp sản xuất nông nghiệp phải đổi mới theo hướng tăng quy mô sản xuất, tập trung
chuyên canh, áp dụng kỹ thuật sản xuất hiện đại, nâng cao năng suất lao động và chất
lượng sống ở khu vực nông thôn.
- Đối với công nghiệp hỗ trợ.Tham gia vào Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) là
cơ hội lớn nếu nắm bắt được. AEC là cơ sở để Việt Nam phát triển nền sản xuất và tạo
điều kiện thuận lợi gắn kết các doanh nghiệp nước ta vào chuỗi sản xuất toàn cầu nói
chung và khối ASEAN nói riêng, để dần nâng cao công nghệ của đất nước … . Hiện
ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam chưa phát triển, phải dựa vào linh kiện và phụ

tùng nhập khẩu (chủ yếu từ Trung quốc) đã làm tăng chi phí sản xuất, tăng nguy cơ nhập
siêu và tính cạnh tranh thấp. Đứng trước nhu cầu vô cùng cấp thiết phải phát triển công
nghiệp hỗ trợ trước khi Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) thành lập vào năm 2015,
Chính phủ và Bộ công thương đẩy nhanh Chương trình quốc gia phát triển công nghiệp
hỗ trợ để thống nhất chỉ đạo điều hành sớm thành lập các trung tâm phát triển công
nghiệp hỗ trợ ở các vùng kinh tế trọng điểm. Các trung tâm này sẽ hỗ trợ chuyên gia,
10


thiết kế mẫu mã, sản xuất thử nghiệm sản phẩm, kết hợp kiểm nghiệm và kiểm tra chất
lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn để doanh nghiệp kịp điều chỉnh, đáp ứng yêu cầu của các
tập đoàn. Ngoài ra, các trung tâm này cũng giúp thúc đẩy kết nối mạng lưới tiêu thụ để
làm giảm chi phí cho doanh nghiệp. Vai trò của những trung tâm hỗ trợ rất quan trọng đối
với doanh nghiệp Việt Nam mà năng lực còn hạn chế, và thiếu các trung tâm này thì các
doanh nghiệp Việt Nam khó phát triển nổi. Ngành công nghiệp hỗ trợ đòi hỏi chi phí cho
máy móc công nghệ lớn hơn bất cứ ngành công nghiệp nào. Tuy nhiên, để được vay ưu
đãi, theo quy định hiện nay, phải qua hội đồng thẩm định do các bộ, ngành thực hiện … .
Ngoài ra, nước ta đang đứng trước tình cảnh cấp bách vì đến năm 2018, cơ bản tất cả các
dòng thuế theo lộ trình cam kết thương mại tự do AFTA sẽ về 0%. Khi đó, Việt Nam sẽ
khó lòng phát triển công nghiệp hỗ trợ nữa. Ngày 28/8/2014, Hiệp hội doanh nghiệp
ngành công nghiệp hỗ trợ Thành phố Hà Nội (HANSIBA) đã tổ chức hội thảo “Giải pháp
tài chính và hạ tầng phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ” để tìm gói tín dụng với lãi suất
ưu đãi từ 8% và đặc biệt là không phải thế chấp tài sản …
6. Kết luận
Qua 45 năm hình thành và phát triển ASEAN, sự ra đời của AEC là sự tiếp nối của
các chương trình hợp tác kinh tế nội khối ASEAN với khoảng 600 triệu người tiêu dùng
và tổng GDP hơn 1.850 tỷ USD. AEC sẽ hướng tới việc đưa ASEAN thành một thị
trường và cơ sở sản xuất thống nhất, một khu vực kinh tế có sức cạnh tranh cao, phát
triển kinh tế cân bằng và hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu.
Với những mục tiêu đã đặt ra nhằm hiện thực hóa AEC, các nước thành viên

ASEAN sẽ có những lợi ích như tăng trưởng kinh tế nhanh hơn, tạo ra nhiều việc làm
hơn, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mạnh mẽ hơn, phân bố nguồn lực chất
lượng cao tốt hơn, tăng cường năng lực sản xuất và tính cạnh tranh cao hơn.
Mục tiêu của AEC là hình thành thị trường chung, trong đó có sự di chuyển tự do của
các yếu tố sản xuất như các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, vốn, lao động có tay nghề. Sự
thành công của AEC sẽ giúp cho ASEAN tăng GDP từ 720 tỷ USD hiện nay lên 2,6 ngàn tỷ
USD, thu nhập bình quân đầu người tăng từ mức 1.400USD lên 3.000 USD.
Tóm lại, liên kết kinh tế quốc tế là xu hướng chủ yếu trong những thập kỷ đầu của
thế kỷ XXI.Các liên kết kinh tế quốc tế - một cơ cấu kinh tế lớn - sẽ có quyền độc lập tự
chủ và ảnh hưởng tới nền kinh tế thế giới.Hiện nay, châu Á - Thái Bình Dương dù còn
tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định nhưng vẫn có khả năng trở thành khu vực phát triển
năng động nhất.Ngoài ra, chính quá trình toàn cầu hóa và tác động của cách mạng khoa học
công nghệ hiện đại đã và đang mang lại những thay đổi trong quá trình quản lý kinh tế đối
với Việt Nam trước khi tham gia vào AEC năm 2015./.

11


Tài liệu tham khảo
1. GS. Vũ Dương Ninh (chủ biên), 2004 “Việt Nam - ASEAN: Quan hệ đa
phương và song phương”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. PGS. TS Nguyễn Văn Trình, 2014, “Các giải pháp thực hiện hiệu quả Hiệp
định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)”, Tạp chí Phát triển nhân lực,
UBND Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Lê Nam, 2013, “Đa dạng hàng Việt vào Myanmar”, Báo Tuổi Trẻ ngày
18/4/2014.
4. TS. Phạm Đỗ Chí (chủ biên), 2012, “Từ bình ổn vĩ mô đến tái cơ cấu kinh
tế”, NXB Thanh Niên, Thành phố Hồ Chí Minh.
5. PGS. TS. Kim Ngọc, 2004, “Kinh tế Thế giới 2020 - Xu hướng và thách
thức”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

6. GS. Trần Văn Thọ, 2006, “Biến động kinh tế Đông Á và con đường công
nghiệp hóa Việt Nam”, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

12



×