HỌC
NGOẠI
THƯƠNG
INH TẾ
ĐỐI
NGOẠI
Giáo viên hướng
dẫn
:
GS.TS
Nguyễn Thị
Mơ
Sinh
viên
thực hiện
:
Nguyễn
Phương Chi
Lớp
I
Pháp
Ì
Khóa
:
K41E
-
Kinh
tế
đôi ngoại
Hà
Nội,
tháng
10/2006
TRƯỜNG
ĐẠI
HỌC NGOẠI
THƯƠNG
HÀ
NỘI
KHOA:
KINH
TE
Đối
NGOẠI
KHOA
LUẬN
TỐT
NGHIỆP
TÊN ĐỂ
TẢI:
ĐIÊU
CHỈNH
CHÍNH SÁCH THƯƠNG
MẠI
HÀNG DỆT
MAY CỦA
VIỆT
NAM
KHI
THAM
GIA
VÀO HẸ
THỐNG
THƯƠNG MẠI THẾ
GIỚI.
Giáo
viên
hướng
dẫn:
GS.TS
Nguyễn
Thị
Mơ
Họ và
tên
sinh
viên:
Nguyễn
Phương
Chi
Lớp:
Pháp
Ì
Khóa:
K41E-Kinh
tế
đối
ngoại
Hà
Nội,
tháng
10/2006
MỤC LỤC
Lòi nói đầu
Ì
Chương
ì:
Tổng
quan
về Hệ
thống
thương mại
thế
giói
và
điểu
chỉnh
chính sách
thương mại hàng
dệt
may 4
ì. Hệ
thống
thương mại
thế
giói
4
1.
Từ OA ÍT
đến
WTO 4
2.
Các nguyên
tắc
cơ
bản
cùa WTO 6
2.1.
Sự
cần
thiết
phải
thành
lập
WT() 6
2.2.
Các nguyên
tắc
cơ
bản
cùa WTO 7
li.
Chính sách thương mại hàng
(lệt
may
của
WTO 8
1.
Các quy
định
chung
của
GATT
về ihiKíng mại hàng
dệt
may
inrớc
vònụ đàm phán
Uruguay
X
2.
Hiệp
định
dệt
may ATC 13
3.
Yêu
cầu
cùa WTO
đối với
các thành viên về
việc
điều
chinh
chính sách thương
mại
hàng
dệt
may IX
3.1.
Đôi
với
thành viên
là
các nước phái
triển
IX
3.2. Đối với
thành viên
là
các nước đang phái
triển
27
Chương
li:
Thục
trạng
điều
chỉnh
chính sách thương mại hàng
dệt
may của
Việt
Nam 31
ì.
Thực
trạng
chính sách thương mại hàng
dệt
may
Việt
Nam 31
1.
Khái quái
chung
về ngành thương
mại dệt
may
ViệiNam
31
1.1.
Vị
trí
ngành
dệt
may
trong
công
nghiệp
Việt
Nam 31
1.2.
Cơ câu
xuặt
nhập
khẩu
hàng
dội
may
Việt
Nam
theo
mặt hàng và
(heo thị
trường
32
1.3.
Quy
mô,
năng
lực sản xuặt
33
1.4. Tinh
hình đầu
tu
cùa ngành
dột
may 36
1.5.
Về
chủng
loại
và
chặt
lượng
sản
phẩm 37
1.6.
Nguồn nhân
lực
IX
2.
Thực
trạng
chính sách thương mại hàng
dệt
may
Việt
Nam 39
2.
Ì.
Chính sách
thuế
quan
39
2.2.
Hạn
ngạch
41
2.3.
Trợ cấp
xuất
khẩu
46
2.4 Các
biện
pháp
tự vệ, thuế
chông bán phá giá 47
2.5.
Các chính sách hỗ
trợ
đầu tư
liên
quan
đến ngành
dệt
may 47
li.
Thực
trạng
điều chỉnh
chính sách thương mại hàng
dệt
may
của
Việt
Nam
49
1.
Thực
trạng
điều chỉnh
chính sách
thuế
quan
theo
các cam
kết
song
phương và khu
vực
49
1.1.
Cắt
giảm
thuế
quan
theo
CEPT
50
1.2. Cắt
giảm
thuế
theo
hiệp
định
hàng
dệt
may
Việt
Nam- EU
giai
đoạn 2000-2006
53
1.3. Cắt
giảm
thuế
theo
hiệp
định
thương
mại
Việt
Nam- Hoa Kỳ 53
2. Điều chỉnh
chính sách
về
hàng rào
phi thuế
quan
55
2.1.
Hạn
ngạch
55
2.2
.
Bãi bỏ dần các
trợ
cấp
57
IU.
Nhận xét
chung
về
nhớng
khó
khăn,
tổn
tại
trong việc
điều chỉnh
chính
sách thương mại hàng
dệt
may
Việt
Nam
sau
khi gia
nhập
WTO 59
Ì.
Khó khăn 59
1.1.Việc
Trung
Quốc
gia
nhập
WTO và
việc
bãi bỏ
hạn ngạch
cho các nước thành
viên
sẽ
làm cho
Việt
Nam mất
lợi
thế
cạnh
tranh
về
xuất
khâu 59
1.2.
Việt
Nam
vẫn
chưa được
coi
là nền
kinh tế thị
trường 63
2.
Tồn
tại
, 64
2.1.
Ngành công
nghiệp
phụ
trợ
của
Việt
Nam chưa phát
triển
64
2.2.Nhận
thức
chung của doanh
nghiệp
về
tiến
trình
hội
nhập
chưa dầy dù 65
2.3 .Cơ
sờ
pháp lý chưa hoàn
thiện,
ihiếu
tính đồng bộ và
thống
nhát 66
2.4 .Chưa phát huy được tính
liên
kết
cao
trong
toàn ngành 66
Chương
HI:
Giải
pháp
tiếp
tục
điểu chỉnh
chính sách thương mại hàng
dệt
may
sau khi gia
nhập
WTO 6X
ì. Giải
pháp tù phía nhà nước 69
1. Đổi
mới chính sách
tín dụng,
chính sách
thuế
phù hợp
dối với
ngành
dệt
may 69
2.
uú
tiên
đầu tư có
trọng
điểm
để
đổi
mới công
nghệ
cho ngành
dệt
may 70
3.
Có chính sách phù hợp để phát
triển
nguyên phụ
liệu
trong
nước 72
tình
hình mới ~I
5. Đổi
mới chính sách hỗ
trợ
và
xúc
tiến
thương
mại
cho ngành
dệt
may Ì
6.
Có
giải
pháp
kịp
thời
để xử
lý
tình
trạng
hàng
dệt
may
Trung
Quốc đang bán
lan
tràn ờ
Việt
Nam '
7.
Có chính sách đủ
mạnh
để tăng
cường
đào
tạo
nguồn
nhãn
lực
cho ngành
dệt
may 7
li.
Giải
pháp về phía ngành
dệt
may 8
1.
Hiệp
hội cữn tạo
sự
liên
kết
và
gắn
bó
chặt chẽ
hơn nữa
giữa
các
doanh
nghiệp
trong
ngành K
2.
Có
nhiều
chương trình đào
tạo
cán bộ
cho
ngành
dệt
may 8
3.
Hiệp
hội cữn
nâng
cao
năng
lực thu thập
và xử
lý
thông
tin
về các chính sách và
thị
trường các nước
nhập
khẩu
X
4.
Thành
lập
hệ
thống
phân
phối hiệu quả
các
sản
phẩm
dệt
may X
IU.
Giải
pháp về phía
doanh
nghiệp xuất
kháu hàng đét may 8
1.
Đa
dạng
hoa khách hàng X
2.
Đẩy
mạnh
hơn nữa
việc xuất
khẩu
hàng
dệt
may
sang
các
thị
trường
phi
hạn
ngạch
X
3.
Tăng
cường
kiểm
tra,
giám
sát
để nâng
cao chất
lượng
sản
phẩm
dệt
may
Việt
Nam X
4.
Tăng
cường
đữu tư dù
mạnh
để
đổi
mới 8
5.
Đẩy
mạnh
các
hoại
dộng
thương mại
điện
tử
8
6. Giải
pháp về đào
tạo
nguồn
nhân
lực
9
Két
luận
Tài
liệu
tham
khảo
DANH
MỰC
CÁC
BẢNG
Bảng
Ì:
Các vòng đàm phán
của
GATT
Bảng
2:
Lịch
trình
sát
nhập
vào
GATT
1994.
Bảng
3:
Lịch
trình
tự
do
hạn
ngạch
Bảng
4:
Cam
kết
xoa
bỏ
hạn
ngạch
cùa các
nước
phát
triển.
Bảng
5:
Chương
trình
giảm
thuế
hàng
may
cùa
các nước
phát
triển
Bảng
6:
Nhập
khẩu
nguyên
phụ
liệu
cho
sản xuất sản
phẩm
may
Bảng
7:
Năng
lực sản xuất của
ngành
dệt
may
Bảng
8: Biểu thuế đối với
những
mặt hàng có
thuế suất t=20%
Bảng
9: Biểu thuế
đối
với
những
mặt hàng có
thuế suất
t=
10%
Bảng
10: Biểu thuế
đối
với
những
mặt hàng
dệt
may
có
thuế suất
t=30-40%
Bảng
11:
L
trình
cắt
giảm
thuế và phi thuế
hàng
dệt
may
Việt
Nam
Bảng
12: Biểu thuế
đối
với
những
mặt hàng
dệt
may
có
thuế suất t=50%
Bảng
13: Biểu thuế
EU
dành
cho
hàng
dệt
may
Việt
Nam
giai
đoạn
2000-2006
DANH
MỤC
CÁC
CHỮ
VIẾT
TẮT
ASEAN
Hiệp
hội
các nước
khu vực
Đông
Nam Á
ATC
Hiệp
định
dệt
may
CMT
Phương
thức
gia
công
xuất
khẩu
uỷ thác
DSB
Cơ
quan
giải
quyết
tranh
chấp của
WTO
EU Liên
minh
Châu
Âu
FOB
Phương
thức xuất
khẩu
trực
tiếp
GATS
Hiệp
định
chung về
thương
mại dịch
vụ
GATT
Hiệp
định
chung về
thương
mại
hàng hoa
LTA
Hiệp
định
dài hạn về
bông
sợi
MFA
Hiệp
định
Đa
sợi
MFN
Quy
chế
tối
huệ quốc
NT
Chế
độ đãi ngộ quốc
gia
STA
Hiệp
đinh ngán
hạn về
bông
sợi
TMB
Cơ
quan
giám
sát
hàng
dệt
(Textiles
Monitoring
Body)
TRIPS
Hiệp
định
về
QSHTT
liên
quan đến
thương mại
TSB
Cơ
quan
kiểm
soát
hàng
dệt
VINATEX
Tng
công
ty
dệt
may
Việt
Nam
WTO
T
chức
Thương
mại
thế giới
LỜI
NÓI ĐẦU
1.
Tính cấp
thiết
của đề tài
Toàn
cầu
hoa, hội
nhập
kinh tế
quốc
tế
và
tự
do hoa thương mại đang là xu
thế nổi
bật
của
kinh tế thế
giới
đương
đại.
Thế
giới
đã và đang
chứng
kiến
sự phát
triển
như vũ
bão
của
cách
mạng
khoa
học công
nghệ,
đặc
biệt
là công
nghệ
thông
tin
và
sinh
học,
làm tăng
nhanh
lực
lượng
sỗn
xuất
và
tạo ra
sự
thay đổi
sâu
sắc
cơ
cấu
sỗn
xuất,
phân
phối,
tiêu
dùng,
thúc đẩy quá trình
quốc
tế hoa,
xã
hội
hoa nên
kinh
tế,
cũng
như quá
trình
tham
gia
của
mỗi
quốc
gia
vào phân công
lao
động và hợp
tác quốc
tế.
Việt
Nam
chúng
ta
cũng
không nằm ngoài
xu
thế
chung
đó.
Cho đến nay hầu
hết
các nước trên
thế
giới
đều
thực
hiện
chính sách
hội
nhập
(Ngay
cỗ
Trung
quốc,
một nước có
thị
trường 1,3
tỷ dân,
lớn
hơn
bất
cứ một khu vực
mậu
dịch
tự
do
nào,
lại
có
khỗ
năng
tự
sỗn
xuất
được gắn như
hầu
hết
mọi
thứ, từ
đơn
giỗn
đến
phức
tạp,
có
những
lợi
thế
có
thể
đem
ra
mặc cỗ được
với
những
nền
kinh
tế
lớn
nhất
thế
giới
như Hoa
Kỳ, Nhật
Bỗn nhưng
vẫn
kiên
trì
đàm phán
hội
nhập
vào nền
kinh tế thế
giới
1
).
Đương
nhiên,
đối
với
những
nước đang phát
triển
nói
chung
và
Việt
Nam nói
riêng,
kinh tế
yếu
kém, sức
cạnh
tranh thấp,
trình độ quàn lý nhà nước và
kinh
doanh
còn
hạn
chế,
thì
hội
nhập
kinh tế
quốc
tế
và
khu vực
không
chỉ
có cơ
hội
mà còn có cỗ
khó
khăn,
thách
thức,
thậm
chí khó khăn thách
thức
là
lớn,
nhưng nếu cứ đứng ngoài
cuộc,
khó khăn có
thể
còn
lớn
hơn
nhiều.
Quyết
định đúng đán
là:
chủ động
hội
nhập
gắn
với
chủ động
điểu chỉnh
cơ
cấu
kinh tế
theo
hướng
phát huy
lợi
thế
so
sánh,
hoàn
thiện
hệ
thống
pháp
luật,
cơ
chế quỗn
lý, cỗi
cách hành
chính
trên cơ
sở
đó mà phát
huy
nội
lực,
vượt qua
khó khăn
-
thách
thức, tận
dụng
cơ
hội
để phát
triển
đất
nước.
Thực
hiện
chù trương hội
nhập
kinh
tế
quốc
tế, từ tháng 6/1994
Việt
nam đã nộp đơn
xin
gia
nhập
GATT
và
tiến
hành đàm phán
gia
nhập
WTO.
Việc
gia
nhập
WTO
sẽ
giúp
'
Trung
Quốc đã kiên
trì
đàm phán
gia
nhập
WTO
trong suốt
15 năm.
Ì
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam có cơ
hội
mở
rộng thị
trường,
xuất
khẩu
hàng hoa đến các
thành
viên
WTO,
là
bước
đi
tất
yếu
trong
xu
thế
chung
của quốc
tế.
Các ngành
kinh
tế
của
Việt
Nam đang
từng
bước
hội
nhập
rất
tích
cực,
tàng
cường
xuất
khẩu,
mở
rộng
thị
trường.
Trong
số
các ngành
kinh tế
của
Việt
Nam
thì
dệt
may
là
một
trong
những
ngành phát
triển
nhanh
nhất,
nhưng
cũng chịu
nhiều
tác động
nhất
của
hội
nhập
kinh
tế
quốc
tế.
Đây
là
một
trong
những
ngành hàng
xuất
khẩu
chù
lực,
chiếm
tỉ
trổng
cao
trong
cơ
cấu
hàng
xuất
khẩu
nên ngành
dệt
may
thực
sự
có một
vai
trò vô cùng
to lớn đối với
nền
kinh
tế.
Nó đã đóng góp một
phần
không nhỏ vào
tổng thu
nhập quốc
dân
trong
những
năm gần
đây,
tạo nhiều
công ăn
việc
làm,
thu
hút
đầu
tư
Tuy
nhiên,
để
hội
nhập
thành công
thì
còn
nhiều
vấn
đề
phải
điều
chình
về
chính
sách thương mại liên
quan
đến
dệt
may. Ngoài
việc
nâng cao năng
lực
cạnh
tranh
của
toàn
ngành,
sự
tổn
tại
và phát
triển
của
ngành
dệt
may
khi
Việt
nam
tham
gia
WTO còn
phải
điều chỉnh
các chính sách có
liên
quan của
nhà
nước,
của
ngành
Dệt
may và
tất
cả
các
doanh
nghiệp
đang
hoạt
động
trong
lĩnh
vực này
theo
hướng
phù hợp
với
các quy
định
của
WTO.
Điểu
đó đòi
hỏi
nỗ
lực
rất
lớn
của
nhà
nước,
tất
cả các
cấp,
các ngành
và
sự nỗ
lực
của
chính
bản
thân ngành
dệt
may.
Vì
những
lý do
trên,
em đã
lựa
chổn
để
tài:" Điều
chinh
chính sách thương
mại
hàng
dệt
may của
Việt
Nam
khi
tham
gia
vào hệ thông thương mại
thế
giới"
làm để
tài
khoa
luận
tốt
nghiệp đại
hổc
cùa mình.
2.
Mục đích và
nhiệm
vụ nghiên
cứu của
đề tài
-
Mục đích nghiên
cứu của
để
tài:
Mục đích nghiên cứu
của
để
tài
là
trên cơ sờ làm rõ các quy định
của
WTO
trong
thương mại hàng
dệt
may và sự
cần
thiết
phải
điều chỉnh
chính sách thương mại hàng
dệt
may của
Việt
Nam, đề
tài
đề
xuất
những
giải
pháp
tiếp
tục
điều
chình chính sách
thương
mại
hàng
dệt
may
sau
khi
Việt
Nam đã
gia
nhập
WTO.
-
Nhiệm
vụ nghiên
cứu của
đề
tài:
Để
đạt
được mục đích nêu
trên,
để
tài phải thực
hiện
các
nhiệm
vụ cụ
thể
sau
đây:
+ Làm
rõ
các quy
định
của
WTO
về
thương
mại
hàng
dệt
may.
2
+
Vai
trò
của Hiệp
định
ATC
đối
với
các nước thành viên.
+ Cam
kết
của các nước thành viên WTO / ATC
trong việc
điêu
chỉnh
chính
sách thương
mại
hàng
dệt
may.
+
Thực
trạng
điểu chỉnh
chính sách hàng
dệt
may
của
Việt
Nam.
+
Giải
pháp
tiếp
tục
điểu chỉnh
chính sách thương mại hàng
dệt
may của
Việt
Nam
sau
khi gia
nhập
WTO.
3. Đối
tượng
và phạm
vi
nghiên
cứu:
Đôi
tượng nghiên
cứu của
để
tài
là
các quy định
của
WTO về hàng
dệt
may. Đôi
tượng
nghiên
cứu của
luận
vãn còn bao gồm
cả
các quy định
trong
chính sách
của
Việt
Nam
trong
thương
mại
hàng
dệt
may.
Phạm
vi
nghiên
cứu: Trong
khuôn khổ có hạn của mửt
luận
văn
tốt nghiệp,
người
viết
chỉ
giới
hạn phạm
vi
nghiên cứu chính sách thương mại cùa
Việt
Nam mửi
cách khái quát
nhất
trong
lĩnh
vực
dệt
may.
4.
Phương pháp nghiên
cứu:
Phương pháp nghiên
cứu
được
sử dụng
trong
đề
tài
là
dựa
trên
thế
giới
quan
duy
vật biện
chứng
và duy
vật
lịch
sử.
Đổng
thời
sử dụng
các phương pháp nghiên
cứu
tổng
hợp
như phân tích
tổng
hợp,
phương pháp
thống
kê,
phương pháp so sánh và phương
pháp dự
báo
S.BỐ
cục của
đề
tài:
Ngoài
phần
lời
nói
đầu, kết
luận,
tài
liệu
tham
khảo,
để
tài
gồm có ba chương:
-Chương
ì:
Tổng quan về hệ
thống
thương
mại
thế
giới
và
điểu chỉnh
chính sách thương
mại
hàng
dệt
may
-Chương
li:
Thực
trạng
điều
chình chính sách thương
mại
hàng
dệt
may
của
Việt
Nam
-Chương
HI:
Giải
pháp
tiếp
tục
điểu chỉnh
chính sách thương mại hàng
dệt
may của
Việt
Nam
sau
khi gia
nhập
WTO
3
CHƯƠNG
ì:
TỔNG
QUAN
VẾ HỆ THỐNG
THƯƠNG
MẠI
THẾ GIỚI
VÀ
ĐIỂU
CHỈNH
CHÍNH SÁCH THƯƠNG
MẠI
HÀNG
DỆT MAY
ì. HỆ THỐNG THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
1. Từ
GATT
đến
WTO
GATT
là chữ
viết tắt
của
General
Agreemant
Ôn
Trade
And
Tariff-
Hiệp
định
chung
về
thương
mại
và
thuế
quan.
Cho
tới
năm
1930 các
quốc
gia
còn dễ dàng tìm được một
điểm
chung
trong
những vấn
để
kinh tế
thương
mại quốc
tế
phát
sinh.
Cuộc
khủng hoảng
kinh tế
của
thập
kỷ 1930 dổn mỗi quốc
gia
tới
việc
đơn phương tìm một
giải
pháp
trong
điểu
kiện
khủng
hoảng
quy
mô
toàn
cẩu.
Khi
đó dâng
cao
hàng rào bảo hộ là một
biện
pháp phổ
biến.
Nhưng
khi
mọi
quốc
gia
đểu nâng
cao
hàng rào
thuế
quan
và
phi thuế
quan,
kiểm
soát
chặt
chẽ
ngoại
hối,
chia cắt thị
trường
thế
giới,
đi
ngược
lại
khả
năng có được một
giải
pháp
thích
hợp
cho cuộc khủng khoảng chung.
Nhằm
giải
quyết
nhu
cẩu
thị
trường,
năm
1941
Anh Quốc và Hoa kỳ đã ký
Hiến
chương
Đại
Tây Dương
với nội
dung
mở
cửa
thị
trường
trên cơ
sở
tương
hỗ.
Năm
1944
Tại hội
nghị Bretton-Wood
Ngân hàng Thế
giới
và
Quỹ
tiền
tệ
Quốc
tế
đã được thành
lập,
là
những
thể
chế
thường
trực
cho sự hợp tác quốc
tế
về tài
chính và
tiên
tệ.
Năm
1947,
theo
để
nghị của
tướng
Marshall
(Hoa
Kỳ) Tây
Âu
đổng
ý
tiếp
nhận
viện trợ
tái
thiết
của Hoa
Kỳ
với
điều
kiện
cho phép Hoa
Kỳ
tham
gia
hoạch
định
kế
hoạch
xây
dựng
lại
nền
kinh tế
Châu
âu.
Từ
đó
tổ
chức
kinh tế
Châu âu về hợp tác
và
phát
triển
ra đời với
mục
đích
tự
do hoa
mậu
dịch
và liên
kết trong
thanh
toán,
sau
này
được
mở
rộng
thành
tổ
chức
Hợp
tác
và
phát
triển
kinh tế
(OECD).
Tháng
2/1946,
hội
đồng
kinh tế
xã
hội
Liên hợp Quốc
triệu
tập
Hội nghị
thương
mại
và
việc
làm.
Sau
nhiều
phiên
họp
văn
kiện cuối
cùng
của Hội nghị
được
gọi
là
Hiến
4
chương La
havana.
Hiến
chương thành
lập
một ban lâm
thời
xúc
tiến
việc
thành
lập
Tổ
chức
Thương mại Quốc
tế
nhằm
mục
đích thúc đẩy thương mại
quốc
tế
và
tạo
công
ăn
việc
làm.
Tuy nhiên
những
tiến triển
sau
đó đã không dẫn đến sự thành
lập
như
mong
muốn.
Quyết
tâm
xây
dựng
một khuôn khổ thương mại
quốc
tế
cũng
với
những
mục
tiêu đưắc
nêu
tại
Hiến
chương
La
Havana,
23
nước vẫn
tiếp
tục
đàm
phán
và
ngày
23/10/1947
họ đã ký Nghị định thư
tạm
thời
về
việc
thi
hành
GATT.
Nghị định thư
bắt
đâu có
hiệu lực
từ
1/1/1948.
Trong
48 năm
GATT
đã
tổ
chức
8 vòng đàm phán
(
Xem
bảng Ì):
BẢNG
Ị:
CÁC
VÒNG
ĐÀM
PHÁN
CỦA GATT
Năm
Địa
điểm/Tên
Chủ đề
đàm
phán Số nước
1947
Geneva
Thuế quan 23
1949
Annecy
Thuế quan 13
1951
Torquay
Thuế quan 38
1956
Geneva
Thuế quan
26
1960-
1961
Geneva
(Vòng
Dillon)
Thuế quan
26
1964-
1967
Geneva
(Vòng
Kenedy)
Thuế quan
và
các
biện
phấp chống
bán
phá
giá
62
1973-
1979
Geneva
(Vòng Tokyo)
Thuế
quan,
các
biện
pháp
phi
quan
thuế,
các
hiệp
định
"khung"
102
1986-
1994
Geneva
(Vòng
Uruguay)
Thuế
quan,
các
biện
pháp
phi
quan
thuế,
dịch
vụ,
sở hữu
trí
tuệ, giải
quyết
tranh
chấp,
hàng
dệt,
nông
nghiệp,
thành
lập
WTO,
v.v
123
(Nguồn:
Bộ Thương Mại)
5
Cho
tới
trước
khi
Tổ
chức
Thương
mại
Thế
giới
-
WTO
được
thành
lập
vào ngày
1/1/1995
GATT
đã có 123 bên ký
kết
và
tiếp
nhận
25 đơn
xin gia
nhập.
Trong
48
năm
tồn
tại
với nội
dung
ngày một bao trùm và quy
mô
ngày một
lớn;
bắt
đầu
từ
việc
giảm
thuế
quan
cho
tới
các
biện
pháp
phi thuế và
tìm
kiếm
một cơ
chế
quốc
tế
giải
quyết
các
tranh
chấp
thương mại
giữa
các
quốc
gia.
Từ mức
thuế
trung
bình 40%
cễa
năm
1948
đến
năm
1995
mức
thuế
trung
bình cùa các
nước
phát
triển
chỉ
còn
khoảng
4%
và
thuế
quan
trung
bình
cễa
các
nước
đang phát
triển
khoảng
15%. Tại
lễ
kỷ
niệm
50 thành
lập
hệ
thống
thương
mại
đa biên
người
ta
đã
tổng
kết:
trong
nửa thế
kỷ
qua
hệ
thống
này
đã
góp phẩn
cơ
bản
đàm
bảo sự
tăng trưởng kinh
tế tạo
việc
làm,
làm cho
thương
mại
quốc
tế
tăng
ló
lẩn
về
khôi lượng
và
trên
100
lần
vé
trị
giá (với
giao dịch
năm
1947
khoảng
55
tỷ
USD
tăng
lên
khoảng
7000
tỷ
vào
năm
1997).
Hệ
thống thương
mại
đa
biên
đã
được
mở
tông
từ
thuần thúy nhân nhượng
thuế quan
trong thương
mại
hàng
hoa
đến
toàn
bộ
các
định
chế
về
thương
mại hàng hoa và
sang
các
lĩnh
vực
khác
đẩy
tiềm
năng
như
thương
mại
dịch
vụ,
đầu
tư
liên
quan
tới
thương
mại
và
sở hữu
trí
tuệ[2].
2.
WTO - Tổ
chức
thương mại
thế
giới.
2.1.
Sự
cần
thiết
phải
thành
lập
WTO
Thành công
cễa
GATT
trong việc
thúc đẩy
tự
do hoa thương mại
trong
thời
kỳ này
là
điều
không
thể
tranh
cãi.
Chì riêng
việc
cắt
giảm
thuế
quan,
theo thoa thuận đạt
được
tại
8
vòng
đàm
phán đã góp
phần
đưa
tốc
độ tăng
trưởng cễa
thương mại hoa toàn cầu
lên
một
mức
kỷ
lục:
Bình quân
8%
trong
hai thập
niên 50 và
60.
Và
tự
do
hoa
mậu
dịch
đã giúp
cho
tốc
độ tăng
trưởng
cễa
thương mại luôn luôn
vượt
tốc
độ tăng
trưởng
kinh
tế
trong
suốt
thời
kỳ
GATT
tổn
tại-
một
thước
đo
vẻ
khá năng các
nước
có
thể
buôn bán
với
nhau
và
được
hưởng
lợi
từ
thương
mại.
Tuy
nhiên,
đến
thập
niên 80
thì
Hiệp
định
GATT
không còn đáp ứng
được
những
yêu
cầu thực tế
như
thập
niên
40
nữa, ít
nhất
thì hệ
thống
thương mại
thế
giới
đã
trở
nên
phức
tạp
và
quan
trọng
hơn
rất
nhiều
so
với
40
năm
trước.
Nền
kinh
tế thế
giới
đang
trong
quá trình toàn
cầu
hoa,
đầu tư
quốc
tế
bùng
nổ,
thương mại
dịch
vụ và
sở
hữu trí
tuệ-
2
lĩnh
vực không
được
GATT
điểu
chỉnh
đã
trở
thành
lợi
ích càn bản cễa
nhiều
6
nước.
Ví dụ
đối vói
lĩnh
vực dệt
may,
đạt
được duy
nhất
Hiệp
định
đa
sợi
MFA mà
xét
về
bản
chất,
tạm
thời
vẫn
nằm
ngoài khuôn khổ
của
GATT. Bên
cạnh
đó,
cơ
chế
giải
quyết
tranh
chấp
hoạt
động
kém
hiệu quả vì
thù
tục
rườm
rà,
chểm
chạp
và không có
cơ
chế
pháp
lý
đảm
bảo
vững
chắc
cho việc
thi
hành các phán
quyết.
Vì
vểy
để
khắc
phục
và
cải
thiện
những
hạn
chế
trên,
sau
gần
8 năm đàm
phán,
ngày
15/4/1994
tại
Mararkech
(Maroc),
các bộ
trưởng
đại diện cho
tất
cả các bên
kí kết
hiệp
định
GATT
đã
nhất
trí kí kết
văn
kiện cuối
cùng
với
500
trang
văn bản và
26.000
trang
danh
mục cam
kết
các
kết
quả
của
Vòng
Uruguay.
Hiệp
định thành
lểp tổ
chức
thương mại
thế
giới
và
hệ
thống
các
hiệp
định liên
quan
điểu
chỉnh
hệ
thống
thương
mại
toàn
cầu.
WTO
chính
thức
được thành
lểp
vào ngày
1/1/1995,
sau
48 năm
tồn
tại
của
GATT.
WTO
ra đời
đã
đặt ra
các
mục
tiêu
cơ
bản cho
các
hoạt
động
chủ yếu
gôm:
•
Tự do
hoa thương mại hàng hoa
và
dịch
vụ
thông qua
đàm
phán nhằm
cắt
giảm
thuế
quan,
loại
bỏ các hạn
chế
số
lượng,
quy
chế hoa
các
trở ngại phi
thuế
quan,
tiến tới
một
thị
trường
thương
mại thế
giới
tự
do hơn
nữa.
• Không phân
biệt
đối
xử
giữa
các nước
tuy
nhiên vẫn
tạo
điều
kiện
để
phát
triển
kinh tế
bằng
cách
chấp
nhển
một cách
mềm
dẻo các
thoa
thuển
riêng
và
ngoại
lệ.
•
Thiết lểp
và
cùng
cố môi
trường
để
thương
mại
quốc
tế
phát
triển.
Môi
trường
đó
phải
đảm
bảo
tính
trong
suốt
và
tính tiên
liệu
được.
•> Giải
quyết
tranh
chấp
nhanh
gọn,
hợp
lý
và
hiệu quả.
Các
chức
năng và
nhiệm
vụ cơ
bản
cùa
WTO:
•
Điểu
hành
hoạt
động
của
WTO
•
Tổ
chức
các
cuộc
đàm phán
mểu
dịch
đa biên.
•
Điều
hành cơ
chế để
giải
quyết
tranh
chấp
•
Điều
hành cơ
chế
xem
xét
chính sách thương
mại của
các thành viên
•
Hợp
tác
chặt
chẽ với
các
tổ
chức
khác như
WB,
IMF.
2.2.
Các nguyên
tấc cơ bản của
WTO
WTO
có
năm
nguyên
tắc chủ
đạo
điều
tiết
toàn bộ
hoạt
động:
-
Nguyên
tác thứ
nhất:
không phán
biệt
đối xử.
7
+ĐỐÌ
xử
tối
huệ
quò'c-MFN:
Mỗi thành viên sẽ dành cho sản phẩm của
một
thành viên khác
đối
xử không kém ưu
đãi
hơn
đối
xử
mà
thành viên đó dành cho
sản
phẩm
của
nước
thứ
ba.
+Đối
xử
quốc gia-NT:
Mỗi thành viên sẽ không dành cho sản phẩm của công
dân nước mình
đối
xử ưu
đãi
hơn
so
với
của
người
nước ngoài.
-Nguyên
tác
thứ
hai:
thương mại
phải
ngày càng được tự do
hơn
thông qua
đàm
phán.
Các hàng rào
cản
trở
thương mại dẩn dẩn được
loại
bỏ,
do
đó
giúp cho các
nhà
sản
xuất
trong
nước
có
thời
gian
điểu
chắnh
nâng cao sức
cạnh
tranh
hoặc
chuyển đổi
cơ
cấu.
Mức
độ
cắt
giảm
các hàng rào bảo hộ được
thảo
thuận
thông qua các
cuộc
đàm
phán
song
phương và đa phương.
- Nguyên
tác
thứ
ba:
dễ
dự
đoán.
Các nhà đẩu tư
cũng
như chính phủ nước ngoài
tin
chắc
rằng
các hàng rào thương
mại
(thuế
quan
và các hàng rào
phi thuế
khác)
sẽ
không
bị
tăng một cách
tuy
tiện.
Cam
kết
về
thuế
quan
và các
biện
pháp khác
bị
"ràng
buộc"
về
mặt pháp
lý.
- Nguyên
tắc
thứ
tu:
tạo
ra
môi
trường cạnh tranh
ngày càng
bình đẳng.
Hạn
chế tác
động
tiêu
cực của
các
biện
pháp
cạnh
tranh
không bình đẳng như bán phá
giá,
trợ
cấp
hay
dành các
đặc quyển cho
một
số
doanh
nghiệp
nhất
định.
- Nguyên
tắc
thứ năm: dành cho các thành
viên
đang phát
triển
một số ưu
đãi
Các ưu đãi này được
thể hiện
thông qua
việc
cho phép các thành viên đang phát
triển
không
phải
thực
hiện
một số
nghĩa
vụ hay
có
thời
gian
quá
độ
dài hơn để
điểu
chắnh
chính sách.
n. CHÍNH SÁCH THƯƠNG
MẠI
HÀNG
DỆT MAY CỦA WTO
1.
Các quy
định
chung của
GATT về
thương
mại
hàng dệt
may
trước vòng
đàm
phán Uruguay.
•
Hiệp
định
ngán
hạn
về
mậu
dịch quốc
tế
bông
sợi
STA và
Hiệp
định
dài
hạn về
mậu
dịch quốc
tê
bóng
sợi
LTA
Ngay
từ
đầu của hệ
thống
thương mại
GATT mà
sau
này
là
WTO,
ngành
dệt
may đã
là
một
vấn
đề khúc
mắc
trong
các vòng thương
thảo
nhằm
tự
do hoa các
luồng
8
thương
mại.
Trong
hơn 30
năm,
ngành này không được
điểu
tiết
bởi
các quy
tắc
chung
áp
dụng
cho mậu
dịch
hàng hoa mà
bời
các
chế
độ
riêng:
Các
Hiệp
định
ngắn
hạn về
mậu
dịch quốc
tế
bông
sợi ( Short
Term
Arrangement
Regarding
Intemational
Trade
in
cotton
textiles-
STA), 1961, Hiệp
định dài hạn về mậu
dịch quốc tế
bông
sợi
(Long
Term
Arrangement
Regarding
International
Trade
in cotton
textiles-
LTA), 1962-1973
và
Hiệp
định
về các
loại
sợi
hay còn
gọi
là
Hiệp
định đa
sợi
(Multiíibre
Arrangement-
MFA), 1974-
1994.
Từ năm
1995,
ngành
dệt
may được
điều
tiết
bời Hiệp
định
dệt
may(Agreement
ôn
Textiles
and
Clothing-
ATC),
một
trong
những
hiệp
ước ký
kết
sau
vòng thương
thễo
Uruguay
Round,
thay thế hiệp
định đa
sợi
MFA và
qui
định
những
biện
pháp
chuyển
tiếp
nhằm đưa toàn bộ ngành
dệt
may vào
khung
pháp lý
chung
của
WTO.
Để
phân tích
những
diễn
tiến
của khung
pháp lý
từ hiệp
định
STA đến
Hiệp
ước
ATC,
phễi
điểm
sơ qua
bối
cễnh chung
cùa
thời
kỳ
ấy.
Trong những
năm
ngay sau
đệ
nhị
thế
chiến,
đa
số các
luồng
thương
mại quốc
tế
bị chi phối bời nhiều
chế
độ
quốc
gia
khác
nhau
và
phức
tạp.
Một sô nước phát
triển
viện
lý do cán cân
thanh
toán gặp khó
khăn
sau
chiến tranh
đề
nghị
áp
thuế suất cao, thủ tục thuế
quan nặng
nể,
và
rất
nhiều
biện
pháp hạn
chế
số lượng
nhập
khẩu.
Từ
những
năm 1950
trở đi,
các hàng rào mậu
dịch dần dần
được hạ
xuống
để
tiến tới
tự
do hoa thương mại thông qua các vòng đàm
phán
trong
khuôn
khổ của
GATT.
Song
song
với
xu hướng này và sự
phục
hồi
của
các
cân
thanh
toán
trong
các nước phát
triển,
Nhật
Bễn
cũng tham
gia trở
lại
vào thương
mại
dệt
may
thế
giới.
Cùng
lúc,
một
số
nước
nghèo
bắt
đầu
xuất
khẩu
hàng
dệt
và
trong
chừng
mực
ít
hơn,
các hàng may mặc. Nhờ nhân công và nguyên
liệu rẻ,
các nước này
nhanh
chóng
xuất
càng ngày càng
nhiều
hàng
dệt
may
bằng
bông
sợi
sang
các nước
phát
triển,
cạnh
tranh
ồ
ạt với
ngành sễn
xuất nội
địa
của
họ.
Trước
nguy
cơ
bị
lỗ
lã,
phá
sễn
đe
doa
việc
làm
của cễ
một ngành
sễn
xuất,
gây
ra
căng
thẳng
trong
xã
hội,
một
số
nước phát
triển
đã thương
thuyết
song
phương
với
4 nước
xuất
khẩu
chính lúc ấy là
Nhật Bễn,
Hổng
Kông,
An Độ và
Pakistan
để ép họ
phễi tự
giới
hạn
lại
việc xuất
khẩu
của
chính
mình,
những
thoa thuận"
Hạn
chế
xuất
khẩu
tự
nguyện"-
VERS
(Voluntary
9
export
restraints)
này
trở
thành
biện
pháp
phổ biến
để ngăn
chặn
nhập
khẩu,
không chì
cho
hàng
dệt
may mà
còn
trong nhiều
ngành khác.
Năm
1959, theo
yêu cầu
của
Douglas
Dillion-
Bộ
trường
Bộ
tài
chính
Hoa Kỳ,
GATT
bất
đầu họp bàn vẻ vấn đề
"
Nhập
khẩu
tăng
vọt trong
thời
gian
ngắn
cho vài
mặt
hàng
và có
thể
gây
ra
hậu quợ nghiêm
trọng
về mặt
kinh
tế,
chính
trị
và xã
hội
trong
các nước
nhập
khẩu".
Năm
1960,
các thành viên
GATT
công
nhận
hiện
tượng
"
xáo
trộn
thị
trường"(market
disruption)
đưa
ra
những
quy định bao
gồm
một số
điểu
kiện
cụ
thể,
cho phép nước
nhập
dùng các
biện
pháp phòng
chống
để bợo vệ ngành sợn
xuất nội địa. Hai
câu đáng chú
ý
trong
các
điểu
kiện
này là " Nhập
khẩu
xuất
phát
từ
một số
nguồn
cụ
thể"
và "
sự
khác
biệt
về giá cà
giữa
hàng
nhập
và hàng
nội
không
do
nước
xuất
khẩu
bán phá
giá".
Nói cách
khác,
một
là
các nước
nhập
khẩu
có
thể
áp
dụng
các
biện
pháp phòng
chống
đối với
một
hoặc
vài
nước,
một cách
chọn
lọc,
trong khi
theo
điều
XIX của
Hiệp
ước
GATT,
các
biện
pháp này
phợi
nhằm
tất
cợ mọi
nguồn,
không phân
biệt.
Hai là
họ có
thể
phòng
chống
ngay
cợ
khi
các nước
xuất
khẩu
không
vi
phạm
bất
cứ
quy tắc
nào
về
bán phá giá.
Năm
1961,
để
vận động cho đạo
luật
Trade
Act
1962,
chính phủ
Hoa Kỳ để
xướng
một
hội
nghị
các nước
xuất
khẩu
hàng
dệt trong
khuôn
khổ
cùa
GATT.
Kết
quợ
của hội
nghị
này
là hiệp
định
STA
ra
đời,
dẫu là trong
ngắn
hạn
như
nói
rõ
trong tên gọi
và
chỉ
có
hiệu lực Ì
năm.
STA
cho
phép
các
nước
nhập
khẩu,
đơn phương
hoặc
qua thoa
thuận
song
phương ấn định hạn
ngạch
(quota)
để
giới
hạn
nhập
khẩu
khi
có
nguy
cơ
"xáo
trộn
thị
trường".
Các
cuộc
thương
thợo vẫn
tiếp
tục
và
năm
1962,
STA
được
thay
thế
bởi
LTA,
hiệp
định
dài hạn
vì
các nước
liên
quan
công
nhận
đây
là
một
vấn
đề cần
phợi
giợi
quyết
lâu
dài.
LTA có
hiệu lực
5 năm
và để
bù
lại,
các hạn
ngạch
bắt
buộc
phợi
được nâng cao
và
tăng
5%
môi năm.
Hiệp
định
này
được
gia
hạn
năm
1967
và
1970.
Tháng
12/1972,
GATT
hoàn
tất
một
cuộc
điều
tra
nghiên cứu tình hình
dệt
may.
Trên cơ sô
bợn
báo cáo này và các
cuộc
thương
thuyết sau đó,
LTA
được
thay thế bởi
hiệp
định
đa
sợi
MFA
áp
dụng
từ
tháng 1/1974.
Hai hiệp
định
STA
và
LTA
chỉ
nhằm vào hàng bông
sợi vì
thời
ấy các nước đang
phát
triển
chỉ xuất
khẩu
loại
hàng
đó.
Một
trong
những
lí
do
sợn xuất sợi
hoa học tăng
lũ
nhanh
trong
các nước phát
triển
cũng
vì
các nước này
muốn
tránh
bị
lệ
thuộc
vào
nguồn
nguyên
liệu
đang
tập trung
ờ
cấc
nước
thuộc thế
giói
thứ 3,
không kể là
sợi
hoa học
ngày càng được dùng
cho
đủ mọi ứng
dụng
tiên
tiến
và dựa vào
nguồn
nguyên
liệu
rẻ,
dầi
dào,
tưởng như có
thể khai
thác
võ
tận
cho đến
cuộc
khủng
hoảng
dầu
lửa
1973.
Cho đến
lúc ấy, nhiều
người
vẫn
nghĩ
rằng
sợi
hoa học
sẽ
loại
hẳn các
loại
sợi tự
nhiên
ra
khỏi thị
trường.
Nhưng chính
khuynh
hướng này
cũng
tác động lên các nước đang
phát
triển,
họ
cũng
muốn
gia
tăng giá
trị
xuất
khẩu
cùa mình
và
bát đầu
tham
gia
vào
ngành
sợi hoa học.
Do
đó
Hiệp
định
MFA
không
chì chi phối sợi
bông
mà
còn áp
dụng
cho
cả
len
và
sợi
hoa
học.
Do
tranh
chấp
về
lợi
ích
từ
ngành
dệt
may
của các nước
thành viên ngày càng
trở
nên
quyết
liệt
cho nên
tại
vòng
đàm
phán
Uruguay
vấn
để
đã
trờ
nên gay
gắt giữa
các nước đang phát
triển
và các nước phát
triển.
Kết
quả là
hiệp
định
đa
sợi
MFA
phải
được
thay thế
bằng
một cơ
chế
ràng
buộc
tất
cả các thành viên
như
mọi
quy
chế
khác
của
WTO
và
Hiệp
định
ATC
ra đời thay thế cho hiệp
định
MFA-
là
một công cụ cho một
giai
đoạn
chuyển
tiếp
và
sẽ kết
thúc vào "ngày đẩu tiên của
tháng
thứ
121"(điều
9
ATC)
khi
ấy ngành
dệt
may
sẽ
hoàn toàn sát
nhập
vào
hiệp
định
GATT
1994 tức là
ngày
1.1.2005.
•
Hiệp
định đa
sợi
MFA:
Năm
1961, theo
sáng
kiến của
Hoa Kỳ, một
hiệp
định
đa phương đầu
tiên
được
ký
kết
nhằm chính
thức
hoa các hạn
chế.
Đó
là
Hiệp
định
đa
sợi
MFA.
Hiệp
định
này
chi
được áp
dụng
với
thương
mại sản
phẩm
bông.
Hiệp
định
này được
gia hạn
bằng
một
hiệp
định
mói được ký
kết
vào
1962
và có
hiệu lực
đến năm
1973.
Năm
1974, hiệp
định
này đã bao
hàm
tất
cả các
sản
phẩm
dệt
may
trừ vải
lụa.
Do
có phạm
vi
toàn
diện
hơn
nên
mới
được
gọi là
Hiệp
định
đa
sợi
MFA.
Tuy
nhiên,
MFA mâu
thuẫn với
các quy
tắc
cân bản của
GATT ở 2
điểm.Thứ
nhất,
các nước có
mong
muốn
hạn
chế
nhập
khẩu
các
sản
phẩm
dệt
may
có
quyền
đưa
ra
hạn
ngạch.Thứ
hai,
nguyên
tắc
bình
đẳng,
không phân
biệt
đối
xử
giữa
các
quốc
gia
thành viên
của
GATT
đã
bị
vi
phạm do
hạn
ngạch
không được phân
phối
một cách bình
đẳng.
Một số nước được phép
xuất
khẩu
phi
hạn
ngạch
hoàn
toàn,
một số khác được
xuất
khẩu
với
mức
hạn
ngạch
khá hào phóng
trong khi
một
số
các nước khác
lại
bị
hạn
li
chế
bởi
nhũng
quy
định
về
hạn
ngạch
rất
khắt khe.
Do
vậy,
MFA không tương hợp
với
nội
dung
không phân
biệt
đối
xử và
tự
do hoa
- vốn
được
coi
là một đạc trưng cơ bản
cùa
GATT.
MFA được
gia
hạn 4
lần
vào các năm
1977, 1981,
1986 và
1991,
sau
khi
được
thương
thuyết
và
sau
mỗi
lỹn
thương
thuyết
lại
kèm
theo
những
điều
lệ
mới.Trong
những
năm
cuối,
tham
gia
MFA
chi
có 8 nước phát
triển
(nước
nhập
khỹu)
- Áo,
Canada,
EU, Mỹ, Phỹn
Lan,
Nhật,
Thụy
Sĩ
và Nauy cùng 36 nước đang phát
triển
với
tư
cách nước
xuất
khỹu.
Nhiều
nước công
nghiệp, tận
dụng
lợi
thế của
việc
áp
dụng
hạn
ngạch.
Các
thị
trường
quan
trọng
nhất
áp
dụng
hạn
ngạch
là Hoa Kỳ, EU và Canada.
Thụy
Điển và Nauy
cũng
đưa
ra
hạn
ngạch.Trong
khi
đó
Nhật
Bản,
Thụy
Sĩ
lại
không
áp
dụng
bất
kì hình
thức
hạn
ngạch
nào.
Các nước đang phát
triển
cũng
không đưa
ra
chế
độ hạn
ngạch
vì trên
thực tế
các nước này không cần hạn
ngạch
để bảo vệ
thị
trường
nội
địa.Thuế
quan
cao
cộng
với
các hàng rào thương
mại phi thuế
quan
là
đã đủ.
Thế
nhưng áp
lực từ
phía các nước
nhập
khỹu
buộc
các nước
xuất
khỹu
phải
đổng ý
tự
hạn chế xuất
khỹu
hàng
dệt
may.
Bởi vì
tại
thời
điểm
đó,
tương
quan
với
các nước phát
triển
thì
các nước đang phát
triển
đang ờ
vị trí
rất
yếu
so
với hiện nay. Khi đó,
nếu các
nước
này
từ chối
chấp
nhận
các
hiệp
định
song
phương
về
hạn
ngạch
thì
các nước
nhập
khỹu
cũng
có
thể
đáp
trả
bằng
các
biện
pháp
tự vệ
thậm
chí đơn phương và kèm
theo
những
điểu
kiện
còn
tồi
tệ
hơn
so
với
những
điều
kiện
của
MFA.
Thực
tế
trong
suốt 21
năm
thi
hành
từ
năm 1973 đến năm
1994,
MFA đã
là
công
cụ của
các nước giàu có ngăn
chặn
nhập
khỹu
từ
các nước nghèo hơn
là
việc
chú
trọng
mờ
rộng
thương
mại,
giảm
các hàng rào mậu
dịch
và
dần
dỹn
tự
do hoa mậu
dịch
quốc
tế
về
hàng
dệt,
cùng lúc điều
tiết
sự phát
triển
cùa
luồng
thương mại này và tránh các
hậu
quả gây xáo
trộn
thị
trường và ngành
sản xuất trong
các nước
nhập
khỹu
như mục
tiêu
chính
thức
để
ra.
Các hạn
ngạch
được đề
ra
trên cơ sờ
song
phương,
thường xuyên
xem xét
lại
và
tỷ lệ gia
tăng hạn
ngạch
thường
thấp
hơn con số 6%
qui
định
trong
MFA.
Do các nước
xuất
khỹu
không
ngừng
đòi
hỏi phải
bãi bỏ
chế
độ hạn
ngạch
này
và cơ
sở
pháp
lý của
nó cho nên
vấn
đề
dệt
may
là
để
tài
khúc mắc
của
vòng đàm phán
Uruguay
và các nước nghèo
cũng
chỉ
đổng ý
với
một số nhượng bộ cho 2
hiệp
ước
12
GATS và
TRIPS
với
điều
kiện
là
các
nước giàu
cũng
phải
nhượng
bộ về
mặt nông
nghiệp
và
dệt
may. Một
trong
những
thoa
nhượng
này
là
tuy
không chấm
dứt
ngay
trong 1994
nhung
MFA
phải
được
thay thế bời
một cơ
chế
khác hợp
lý
hơn để
chuẩn
bị
cho việc sát
nhập
ngành
dệt
may
vào
khung
pháp lý
chung
của
WTO. Cơ
chế
này
tức
Hiệp
định
ATC
chỉ là
công cầ
trong
giai
đoạn quá độ và không
thể
duy
trì
quá
lâu.
Do
đó
điểu
9
của
ATC
khẳng
định là
"
ngày đầu tiên của tháng
thứ
121
sau khi hiệp
ước
WTO
ban
hành,
khi
ấy ngành
dệt
may
sẽ
hoàn toàn
sát
nhập
vào
GATT
1994".
2. Hiệp định dệt may ATC
Xuất
phát
từ
khía
cạnh
pháp lý đơn
thuần,
việc
duy
trì
những
hạn
chế
số lượng
của
MFA
không
phù
hợp
với
những
quy định của
GATT.
Tuy
nhiên,
MFA đã
tạo ra
một
cơ
sở
pháp
lý
để có
thể vi
phạm nguyên
tắc
cùa
GATT.
Vì
thế
mầc đích chính cùa
ATC
là
đưa thương mại hàng
dệt
may
tuân
thủ
những
quy định của
GATT
tức
là xoa
bỏ
những
hạn
chế
đang được một
số
nước phát
triển
với
tư cách
là
các nước
nhập
khẩu
áp
dầng
để hạn
chế
nhập
khẩu
hàng
dệt
may
bằng
cách yêu cầu các nước thành viên
đang sử
dầng
những
hạn chế số lượng
phải cất
giảm
chúng
trong
vòng
lo
năm.
Sau
khoảng
thời
gian lo
năm,
từ
ngày 1/1/2005 không nước nào được sử
dầng
hạn
chế
số
lượng
nhập
khẩu
hàng
dệt
may
trừ khi
họ có
thể
chứng
minh
rằng
biện
pháp này
phù
hợp với
những
điều
khoản
của
Hiệp
định về các
biện
pháp
tự vệ.
Nói cách
khác,
một
nước
nhập
khẩu
chỉ
có
thể
áp
đạt
những
hạn
chế sau khi
họ
đã
chứng
minh
được qua
quá
trình
điểu
tra
rằng
sự
gia
tăng hàng
nhập
khẩu
chính
là
nguyên nhân gây
ra
những
tổn hại
nghiêm
trọng đối với
ngành
dệt
may
trong
nước.
Hơn
nữa,
những
hạn
chế
này
sẽ phải
được áp
dầng
cho hàng
nhập
khẩu
từ
tất
cả các
nguồn,
không phân
biệt
đối
xử
với
hàng
nhập
khẩu
từ
Ì
hoặc
2
nước nào như
trong
trường hợp các hạn
chế của
Hiệp
định
đa
sợi.
•
Quy
định
của
Hiệp
định
ATC
về lộ
trình
nhất
thể
hoa hàng
dệt
may:
•
Hiệp
định
đã
liệt
kê
những
quy
định
được các nước thành viên áp
dầng
trong
thời
kì
quá
độ.
Các thành viên đồng
ý
sẽ
tăng cơ
hội
cho các nhà
cung
cấp
nhỏ
trong việc
tiếp
13
cận thị
trường hàng
dệt
may
đồng
thời
tạo
điêu
kiện
buôn bán cho các nhà
cung
cấp
mới.
• Sau
khi hiệp
định
ra đời
60
ngày,
các thành viên còn duy
trì
hạn
chế phải
thông báo
tường
tận cho
cơ
quan
giám
sát
hàng
dệt
may
TMB, bao
gồm mức
hạn chế, tỷ
lệ
tăng và
điều
khoản
linh
hoạt.
Các thành viên đổng
ý, Ì
ngày trước
khi
Hiệp
định
có
hiệu lực
tất
cả
những
hạn chế phải
tuân
theo
những
quy
định
của hiệp
định
mới này.
• Vào ngày
mà
hiệp
định
có
hiệu lực
mỗi thành viên đưa
những
sản
phầm không
thấp
hơn 16%
tổng
sản lượng
nhập
khầu
được
ghi trong
phụ
lục
mỗi nước
năm
1994
trong
khuôn
khổ
GATT
1994.
Các
sản
phầm này bao
gồm 4
nhóm:
sợi len
và
sợi
cotton,
hàng
dệt,
thành phầm
dệt
và
quần
áo.
Các thành viên còn duy
trì hạn chế
thông báo
việc nhất
thể
hoa các sản phầm
này
cho ban thư
ký GATT
trước ngày
15/4/1994.
Những sản
phầm chưa đưa vào
hiệp
định
GATT
1994
theo
điểu
6
phải
được
đưa
vào
theo
3
giai
đoạn:
> Vào ngày đầu tiên
của
tháng
thứ
37
tức
là 1/1/1998
sau khi hiệp
định
dệt
may
có
hiệu lực phải
đưa
nhất thể
hoa
17%.
Sản phầm
nhất thể
hoa
phải
bao
gồm 4
nhóm hàng kể trên.
> Vào ngày đầu tiên
của
tháng
thứ
85
tức là
ngày
1/1/2002
sau khi hiệp
định
dệt
may có
hiệu lực phải
đưa
nhất thể hoa
18%
sản
phầm.
>
Vào
ngày đầu tiên
của
tháng
thứ
121
tức
là ngày 1/1/2005 sau
khi hiệp
định
dệt
may
có
hiệu lực phải
đưa
nhất thể hoa
49%
sản
phầm còn
lại.
Có
nghĩa
là
toàn
bộ
hàng
dệt
may
sẽ
phải
được hoa
nhập
vào hệ
thống
thương mại
đa
biên của
WTO,
tất
cả
những
hạn chế đểu phải
được
bãi
bỏ
(xem
bảng
2).
>
Việc nhất thể
hoa
dệt
may vào hệ
thống
thương mại của
WTO
cũng
đổng
nghĩa
với việc tự
do hoa thương
mại
hàng
dệt
may.
Tự
do hoa có
nghĩa
là
các hạn
ngạch
còn
tổn
tại
phải
tăng
lẽn sau
mỗi
năm
như
thời
Hiệp
định
MFA.
Tuy nhiên
thay
vì
tỉ lệ
cố định như
MFA,
tỷ lệ gia
tăng
theo
ATC
cũng
tăng dần
theo
thời
gian
cho đến
giai
đoạn
cuối
cùng
theo lịch
trình
rất
cụ
thể.
Trong
giai
đoạn đầu,
tức
36 tháng
sau khi hiệp
định
dệt
may
có
hiệu
lực,
mức
hạn
chế
mỗi
năm
trong
những
hiệp
định
song
phương được
thực hiện
trước
khi hiệp
định
của
WTO
ra đời
14
mỗi hạn chế
phải
tăng
vói
tỷ
lệ
không
thấp
hơn
16%.
Vào
giai
đoạn
thứ
2
từ
tháng
thứ
37 đến tháng
thứ
84
sau
khi hiệp
định
có
hiệu lực
tỷ
lệ
tăng
của
mỗi hạn chế
sẽ
là
25%.
Vào
giai
đoạn
cuối
cùng
mức
tăng của mỗi hạn chế sẽ
lần lượt
là
27%/năm (xem
bảng
3).
Và
những
mức
tăng
này
sẽ
phải
mạnh
hơn
cho
những
nước
nghèo
nhất. Biện
pháp này nhờm
tạo ra
một quá
trình
thực hiện từng
bước
để
tất
cả các
bên đểu có
thời
gian
điều
chỉnh.
>
Các
thành viên đồng
ý
rờng
việc
chuyển vận,
thay
đổi
hành trình
tuy
ý.,
là
những
hành
vi
phá
rối việc
thực hiện nhất
thể
hoa hàng
dệt
may
theo hiệp
định
GATT
1994.
Do
đó,
các nước thành viên
phải
đưa
ra
quy định pháp
luật
và
hoặc
thủ
tục
hành chính để xử
lý
những
hành
vi
này.
>
Tất
cả các hạn
chế
về hàng
dệt
may
phải
kết
thúc vào tháng
thứ
121 sau
khi
hiệp
định
dệt
may
ra
đời.
Đến
lúc
đó toàn bộ hàng
dệt
may
đểu được
nhất thể
hoa.
Hiệp
định
dệt
may
sẽ
không được kéo
dài.
>
Trong
khuôn khổ này các nước
nhập
khẩu
có
quyển tự
quyết
định cách
thức
thực hiện
ATC.
BẢNG
2:
LỊCH
TRÌNH
SÁT
NHẬP
VÀO GATT 1994
Giai
đoạn
Kỳ hạn
Tỷ
lệ
sát
nhập
tối
thiểu(tính
trên
khối
lượng
nhập
năm 1990)
Giai
đoạn
1
1.1.1995
16%(còn
lại
84%)
Giai
đoạn
2
1.1.1998
17%(còn
lại
67%)
Giai
đoạn
3
1.1.2002
18% (còn
lại
49%)
Giai
đoạn
4
1.1.2005
100%
(Nguồn:
Hỏi đáp
về
tố
chức thương
mại thế
giới
WTO-NXB
Chính
trị
Quốc
Gia
Hà
Nội
2004)
15
BẢNG
3:
LỊCH
TRÌNH
Tự DO HẠN
NGẠCH
Năm
Tỷ
lệ
gia
tăng
Khối
luợng(đơn
vị)
1994
6%
(như
theo
qui định
của
MFA)
Thí
dụ:
1000
đem
vị
(6%xl,16)
1995 6,96%
1
070
1996 6,96%
1
144
1997 6,96%
ì
224
(6,96%xl,25)
1998 8,70%
1
330
1999 8,70%
1
446
2000
8,70%
1
572
2001 8,70%
1
709
(8,70%xl,27)
2002
11,05%
1
898
2003
11,05%
2
108
2004
11,05%
2 340
(Nguồn:
Hỏi đáp
vê tố
chức thương
mại thế
giới
WTO-NXB
Chỉnh
trị
Quốc
Gia
Hà
Nội
2004)
Hiệp
định
ATC
quy
định
rõ
phạm
vi
điều
chỉnh
hay
danh
mục
sản
phẩm được
điểu
chỉnh
bao
gồm
sợi, vải,
thành phẩm và
quẩn
áo
tức là hầu hết
ngành
dệt
may
chỉ
trừ
các
nguyên
liệu
thô (áp
dụng
đối với
tựt
cả hàng
dệt
may
không
chỉ
riêng
những
mặt hàng
là đối
tượng
chịu
hạn
ngạch).
Trong
đó các thành viên được
quyền
lựa
chọn
các
danh
mục
sản
phẩm
dệt
may
để hợp
nhựt
dần dần vào khuôn khổ
của
GATTẠVTO
và
song
song
một
lịch
trình
tự
do hoa qua đó các hạn
ngạch
được
gia
tăng
theo từng
giai
đoạn
cho
đến
khi
được bãi
bỏ.
Một
cơ
cựu
phòng
chống
tạm
thời
đạc định cho trường hợp
các ngành
sản xuựt
nội
địa
có
thể bị tổn
hại
trong
thời
gian
quá độ và một cơ
quan
giám
sát hàng
dệt (
Textiles
MonitoringBody-
TMB)
được thành
lập
để
đảm
bảo là mọi quy
16
định
được tuân
thủ.
Và
mọi tranh
chấp
phát
sinh sẽ
không
thuộc
thẩm
quyển
của
TMB
như
trong
MFA mà
phải
đưa lên Cơ
quan
giải
quyết
tranh
chấp
(
Dispute
Settlement
Body-
DSB).
• Các
biện
pháp bảo hộ
trong
ATC
Tuy
WTO dã có Ì
hiệp ước
riêng
cho
các
biện
pháp
tự vệ
dành
cho
các nước thành
viên
trong
thời
kì
chuyển
tiếp
hay
còn
gọi là
thời
kì
quá độ nhưng
trong
Hiệp
định
ATC
vẫn
dành một
điều
khoản
(điều
lệ 6)
cho phép các nước
nhập
khẩu
dùng đến
biện
pháp
này thép
điểu
kiện
khác,
ngoại lệ so với
Hiệp
ước
SG:
trong khi
SG
qui
định
là
các
biện
pháp
tự vệ phải
áp
dửng
cho
tất
cả mọi
nguồn,
theo
nguyên
tắc
không phân
biệt
đôi xử,
ATC
cho
phép nước
nhập
khẩu
áp
dửng
một
biện
pháp
"đặc
định",
tức là chỉ
nhắm một
đối
tượng,
nếu
xác
định
được
là đối
tượng ấy đã gây
ra tổn hại
cho mình
tuy
rằng
sự gia
tăng
nhập
khẩu
là
từ
mọi
nguồn.
Lý do là vì ATC không cho phép áp
đạt
hạn
ngạch
mới,
nên các nước ngày trước không
tham
gia
MFA
(phi
hạn
ngạch)
vẫn
phải
có cách
tự
vệ.
Cơ
cấu
phòng
chống
ATC
vận
hành như
sau:
nước
nhập
khẩu,
khi thấy
cẩn bảo
vệ thị
trường của
mình,
yêu cầu nước
xuất
khẩu
hội
ý
với
mình. Hai bên có
thể thoa
thuận
một
biện
pháp
giới
hạn
nhập
khẩu.
Thoa
thuận
này
cũng
như yêu
cẩu hội
ý đểu
phải
được thông báo lên TMB. Nếu không đi đến
thoa thuận,
nước
nhập
khẩu
có
thể
trình
lên
TMB một để
nghị
giói
hạn đơn
phương.
TMB có 30 ngày để
điểu
tra
và đưa
ra
khuyến
cáo.
Nếu
hai
bên
vin
không đổng ý
thì
có
thể kiện
nhau
trước
DSB. Vì
mọi
giai
đoạn
đểu
đặt
dưới
sự giám sát
của
TMB, một cơ
quan
đa
phương,
nên cơ
cấu này, tuy
hãy còn
vi
phạm nguyên
tấc
không phân
biệt
đối xử, ít ra
cũng
trong suốt
hơn các hạn
ngạch
song
phương,
chỉ
có
hai
nước liên
can
là
biết
với
nhau.
Mạt
khác,
để tránh
việc
nước
nhập
khẩu
lạm
dửng
và
biến
phòng
chống
thành một
thứ
hạn
ngạch
"chui",
các
biện
pháp này
cũng
"tạm
thời"
tức
là chì có
thể
áp
dửng
trong
3 năm, không
gia
hạn.
ATC dùng
chữ
"transitional"
thay vì
"temporary"
cũng
để
nhắc
lại
yếu tố
quá độ
của
cả
hiệp ước.
Từ 1995 đến
2001,
có 53
biện
pháp
tự
vệ thông báo lên TMB,
trong
đó một nửa
(26) là
do Hoa Kỳ,
phần
còn
lại
do các nước châu Mỹ
la
tinh.
Điêu đáng nói
là trong
năm
đâu, 1995,
đã có 23
biện
pháp,
toàn bộ
là của
Hoa Kỳ,
khiến ai
cũng
phải
hoảng
TU'./ Ví ', Ì
17 !'••'-'Ì '
ị
LA/
01346
-Ị
I
JUJO6 ị
hốt,
từ
các nước
xuất
khẩu
đến các nhà
quan
sát
và
cả
TMB. Nhưng
sau
đó
thì
ngoài 3
trường
hợp
của
Hoa Kỳ và Ì cùa Ba Lan (năm
2001), chỉ
có 4 nước châu Mỹ
la
tinh
dùng đến
điểu
lệ
6
của
ATC:
Argentina,
Brazil,
Ecuador
và
Colombia
[14, tr.67].
cá 4
nước
này đêu là thành viên của tổ
chức
International
Textile
and
Clothing
Bureau
(ITBC)
tầi
Genève.
Tổ
chức
ITBC
cũng
hoầt
động
tích
cực trong
ngành
dệt
may.
3. Yêu cầu của WTO
đối với
các nước thành viên về
việc
điều
chỉnh
chính sách
thương
mầi
hàng
dệt
may.
3.1.
Đôi
vói
thành viên
là
các nước phát
triển
Kể
từ hiệp
định
STA đến
hiệp
định
LTA
rồi
MFA,
cuối
cùng
là
ATC,
những
sự
điều
chỉnh
bao
giờ
cũng
đi kèm
với
nỗ
lực
giảm
thuế
và
phi thuế
ờ các nước thành viên dù
đôi lúc
cũng
chưa
thực
sự công
bằng
(các nước
nhập
khẩu
luôn
chiếm
ưu
thế
hơn các
nước
xuất khẩu).
Xem xét
tự
do hoa thương
mầi
nói
chung
và
dệt
may nói riêng có
thể
nhìn
nhận
ở
nhiều
góc độ khác
nhau.
Tuy nhiên chúng
ta
có
thể thấy
ở một góc độ nào
đó thì đó
là
quá trình
cải
cách
thuế
quan
cùa các nước
theo
các khuôn khổ
hiệp
định
thương
mầi đặc
biệt
là sau
GATT,
và bước
tiếp
theo là
các nước
thực hiện
quá
trình
cam
kết
bãi bỏ các hàng hàng rào bảo hộ mới đó
là
các hàng rào về kỹ
thuật.
Hiện
nay các
nước
nhất
là các nước phát
triển
đang
thay đổi
chính sách bảo hộ của mình
bằng
cách
phát
triển
một số
biện
pháp bảo hộ mới
mang
tính
chất
kỹ
thuật
như các quy định về
quy tắc xuất xứ,
các quy định về
chống
bán phá
giá, thì
quá trình
tự
do hoa thương
mầi
không
chỉ
dừng
lầi
ờ mức độ
cắt
giảm
hoặc
bỏ các
loầi
thuế
trực
tiếp
và gián
tiếp
đối
với
thương mầi
nữa.
Mà lúc này
tự
do hoa thương mầi còn bao gôm
việc
dỡ bỏ,
không đưa thêm mới các hàng rào kỹ
thuật
bóp méo thương
mầi
hoặc
các chính sách về
minh
bầch
hoa
chính sách thương
mầi.
mức độ
cao nhất của tự
do
hoa
thương
mầi
hàng
dệt
may.đó là các nước có
thể tự
do buôn bán thương mầi mà không gặp
phải
các cản
trở
nào.
Những
ví
dụ như
khu vực
đổng
tiền
chung
châu
Âu, khu vực
mậu
dịch
tự
do mà
Hoa Kỳ đã ký
kết với
một số nước như
Mêhicô,
Canada,
Hoa Kỳ đây
là
dầng
tự
do
cao nhất khi
mà các nước
sử
dụng
một đổng
tiền
và hầu như không có một
cản
trở
nào
đối
với việc
di
chuyển
hàng
hoa.
18