Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

Tổng hợp văn mẫu lớp 11, Văn mẫu THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.69 KB, 51 trang )

TỔNG HỢP TẤT CẢ BÀI VĂN MẪU LỚP 11( BÀI TẬP LÀM
VĂN MẪU)
Mục Lục


Đề bài: Phân tích khổ thơ đầu của bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu .
Bài làm
Xuân Diệu là nhà thơ say với tình, yêu đời, yêu người một cách tha thiết, mãnh liệt.
Những tình cảm, của xúc trong thơ của Xuân Diệu luôn dạt dào và tràn đầy, lênh láng
trên từng câu chữ. Bài thơ “VỘi vàng” đã bộc lộ cái tôi trữ tình độc đáo, đầy sức sáng tạo
của thi sĩ Xuân Diệu. Đặc biệt khổ thơ đầu tiên đã bộc lộ rõ nét, mãnh liệt hơn cái tôi cá
nhân đầy say mê và muốn được hòa mình vào đất trời, muốn được phá vỡ những quy luât
của tự nhiên.
“Vội vàng” được lấy cảm hứng từ vẻ đẹp của mùa xuân, của tình yêu và của lòng người.
Xuân Diệu đã rất tinh tế khi nhận ra vẻ đẹp của thiên nhiên trong mùa xuân, nó khiến cho
lòng người lâng lâng và không thể cưỡng lại nổi sức hút hút. Bởi vậy Xuân Diệu với say
với cảnh, say với tình, đến nỗi muốn ôm hết cảnh và tình về mình
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của ong bướm này đây khúc tình si.
Có lẽ đọc những vần thơ này, chúng ta nhận ra ít ai mà có tình yêu đến say mê và cuồng
nhiệt như thế này. Ông chân thành với đời và muốn được sở hữu nó. Bởi rằng cuộc sống
có quá nhiều điều tốt đẹp, quá nhiều điều không thể bỏ lỡ. Tác giả cuống cuồng muốn ôm
hết về bản thân mình để say, để uống cạn những gì tốt đẹp nhất;
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất


Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi


Từ ngữ “tôi muốn” được nhắc lại và đặt đầu mỗi câu thơ diễn tả tâm nguyện, nỗi khát
khao được sống, được hòa mình với thiên nhiên, được thâu tóm hết những điều tốt đẹp
nhất đang diễn ra ở ngoài kia. Dường như Xuân Diệu muốn đoạt đi quyền của tạo hóa.
Vốn dĩ nắng, gió là những hiện tượng rất tự nhiên của tạo hóa; nhưng tác giả lại có ý định
muốn “tắt nắng” và “buộc gió”. Đó là những việc rất khó khăn, mà thực ra là không thể
nhưng Xuân Diệu vẫn muốn đến cháy bỏng. Động từ “tắt” và “buộc” càng khẳng định
hơn nữa khát khao mãnh liệt ấy.
Đây có thể xem là cái “tôi” độc đáo và đặc biệt của Xuân Diệu tạo cho người đọc một
cảm giác rất riêng, rất mới. Ông muốn ôm hết xuân sắc của đời để sống, để yêu mãnh liệt
hơn nữa.
Có lẽ nguyên do ông muốn đi ngược quy luật tạo hóa đó chính là vẻ đẹp quyến rũ, khó
cưỡng lại được của thiên nhiên, cảnh vật:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Một đoạn thơ giàu sức gợi hình, gợi cảm đã lột tả được linh hồn, thần thái của thiên nhiên
khi mùa xuân về. Tác giả cứ ngỡ có một “thiên đường trên mặt đất” đang hiện ra trước
mắt. Xuân Diệu đã liên tưởng mùa xuân đẹp và mê đắm như “tuần tháng mật” của những
cặp đôi. Một sự liên tưởng tinh tế, đầy táo bạo khiến cho người đọc cảm phục thi sĩ.
Điệp từ “này đây” đứng đầu câu vừa mang tính chất liệt kê, vừa mang tính chất khẳng
định, nhận mạnh vừa như muốn sở hữu những vẻ đẹp đang tràn đầy ở ngoài kia. Sau mỗi
từ “này đây” là một loạt những hình ảnh tươi đẹp hiện ra “hoa của đồng nội xanh rì” , “lá
của cành tơ phơ phất”. Đó đều là những hình ảnh đặc trưng của mùa xuân, của những gì
thanh khiết và tươi đẹp nhất. Tất cả những hình ảnh ấy khiến cho thi sĩ động lòng và
muốn sở hữu. Đây có thể nói là khát khao, là ước muốn mãnh liệt nhất mà Xuân Diệu

đang muốn sở hữu.
Ngôn ngữ của Xuân Diệu thật mượt mà, êm ái, đẹp một cách lạ kì kết hợp với giọng thơ
gấp gáp, nhanh khiến cho người đọc cũng có cảm giác xốn xang đến khó tả. Đây có thể
coi là sự tinh tế , tài hoa của thi sĩ Xuân Diệu.
Chỉ với khổ thơ đầu này, Xuân Diệu đã khiến người đọc mê đắm trước cảnh thiên nhiên
hữu tình, thơ mộng, tuyệt vời của mùa xuân. Đó thực sự là những nét đẹp trong veo của
mùa xuân.


Đề bài: Phân tích nhan đề và lời đề từ bài thơ Tràng Giang của Huy Cận.
Bài làm
Huy Cận là nhà thơi tiêu biểu của phong trào Thơ mới với hai phong cách sáng tác theo
từng thời kì của lịch sử. Một giọng thơ u uất, sầu não trước cách mạng tháng Tám đối lập
với giọng thơ sôi nổi, hào hùng sau cách mạng tháng Tám. Bài thơ “Tràng giang” tiêu
biểu cho phong cách u uất, não nề của Huy Cận trước cách mạng tháng Tám với nhiều
nỗi niềm, trăn trở. Đặc người người đọc ấn tượng với nhan đề và lời đề từ độc đáo.
Nhan đề chính là cửa ngõ, là điểm xuất phát để người đọc có thể lần mò theo đó khám
phá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Và bài thơ “Tràng giang” cũng vậy, ý nghĩa,
nỗi niềm thầm kín được gửi trọn trong nhan đề vẻn vẹn hai từ “Tràng giang”. Mỗi nhan
đề đều toát lên ý nghĩa riêng biệt làm nổi bật lên chủ đề, tư tưởng của tác phẩm đó.
Một số nhan đề có tính chất gợi mở, một số nhan đề khằng định nội dung. Tuy nhiên,
sáng tạo theo cách viết nào thì nó cũng bao hàm những dụng ý nghệ thuật riêng. Nhan đề
của bài thơ có tên “Tràng giang” với vần “ang’ chủ đạo vừa có ý nghĩa gợi mở, vừa tạo
nên sự u buồn dai dẳng và nặng nề, cứ triền miên trong tâm thức của tác giả. “Tràng
giang” hay còn gọi là “trường giang” là một từ hán việt ý chỉ con sông dài. Nhưng tác giả
lại lấy tên “Tràng giang” chứ không phải “Trường giang”. Bởi vốn dĩ “Trường giang” chỉ
có ý nghĩa chỉ con sông dài đơn thuần như thế; nhưng ngược lại “Tràng giang” vừa nói
con sông dài mênh mông, vừa nói lên tâm trạng, nỗi niềm của chính tác giả. Vần “ang”
kéo dài ra như nỗi niềm của Huy Cận chưa bao giờ vơi khi đứng trước con sông Hồng
rộng lớn mênh mông này. Và hình ảnh cụ thể của dòng “tràng giang” có lẽ là dòng sông

Hồng. Sông Hồng là điểm nhấn khơi gợi cảm xúc của tác giả, đồng thời chồng chất
những bế tắc không lối thoát cho những con người muốn đổi mới nhưng không tìm được
con đường đi riêng cho chính mình. Như vậy nhan đề “Tràng giang” đã được làm sáng
rõ, với ý nghĩa sâu xa như vậy.
Còn về lời đề từ, không phải bài thơ nào cũng có. Thực ra lời đề từ chính là tiêu điểm
thâu tóm nội dung của tác phẩm, nhưng nội dung này chỉ là ở bề chìm, yêu cầu người đọc
cần phải đi sâu khai thác mới có thể khám phá ra điều này. Lời đề từ của bài “tràng
giang” là “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, một câu thơ thốt lên nhưng đầy ẩn ý nội
dung và nghệ thuật. Dường như âm điệu chủ đạo của lời đề từ là sự nhẹ nhàng, buồn man
mác, buồn len lỏi vào tâm hồn của con người. Với biện pháp đảo trật tự cú pháp “bâng
khuâng” lên đầu câu, Huy Cận đã khiến người đọc vướng vào những tâm sự không thể
giãi bài, cũng như khó có thể nói ra cùng ai.


Huy Cận muốn mở ra một không gian rộng lớn, mênh mông của dòng sông để đi sâu vào
chiều dài, chiều sâu của lòng người. Hẳn đây là một dụng ý nghệ thuật tuyệt vời mang
đến cho người đọc nhiều cảm xúc khác nhau. Huy Cận đứng trước sông Hồng nhưng lại
nhớ chính con sông này, có chăng là tâm sự đứng trước nhiều con đường, nhiều ngã rẽ
nhưng lại không biết chọn con đường đi nào trọn vẹn nhất.
Với nhan đề và lời đề từ đầy ý nghĩa như thế nào, bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận đã
có sức ám ảnh lớn đối với người đọc.

Đề bài: Phân tích truyện ngắn “Đời thừa” của Nam Cao.
Bài làm
Truyện ngắn Đời thừa viết năm 1943. Có thể xem Đời thừa, về mặt chủ đề, góp phần
chuẩn bị trực tiếp cho tiểu thuyết Sống mòn của nhà văn hoàn thành vào năm sau đó, năm
1944. Không phải ngẫu nhiên mà cả hai tác phẩm đều có tính chất tự truyện và nhan đề
đều bộc lộ một tâm trạng, một tư tưởng sáng tạo gần gũi nhau.
Đời thừa viết về cuộc sống của một trí thức nghèo, một nhà văn. Hộ là một con người
trung thực, thương yêu vợ con, rất có trách nhiệm đối với gia đình, là một người cầm bút

có suy nghĩ đúng đắn, nghiêm túc về nghề pghiệp, có hoài bão xây dựng được mội tác
phẩm thật có giá trị “sẽ làm mờ hết các tác phẩm cùng ra một thời”, thậm chí có thể được
trao giải Nobel. Nhưng trong thực tế, Hộ phải chịu bao nhiêu cảnh buồn lo, cực nhục
trong cuộc sống. Hộ phải làm quần quật nhưng vẫn không kiếm đủ tiền để nuôi sống gia
đình, chạy chữa thuốc men cho một bầy con nhỏ quặt quẹo, ốm luôn. Là một người đàn
ông, một người chồng, một người cha có tinh thần tự trọng, Hộ rất khổ tâm trước cảnh
nhà túng thiếu, nhất là nhìn thấy Từ, vợ mình, người đàn bà đã chịu nhiều đau khổ với
người tình cũ, đến với mình đầy ân nghĩa, lại phải chịu đựng, lầm lũi, vất vả quá. Lúng
túng, khổ tâm vì chuyện gia đình. Hộ không mấy khi được ngồi viết văn một cách thanh
thản, thực hiện được những điều mình ưa thích, mong muốn. Và bất chấp động cơ, ý
nghĩa tốt đẹp, Hộ phải viết một cách cẩu thả, bôi bác, đế kiếm tiền, tạo ra những sản
phẩm mà mỗi lần đọc lại “hắn lại đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng, vò nát sách mà mắng
mình như một thằng khốn nạn”. Những sự dằn vặt trong gia đình vì nghèo, vì cảnh vợ
con nheo nhóc, thêm sự bất mãn, sự xấu hổ trong việc viết văn mà Hộ thiết tha và đặt bao
nhiêu hi vọng, càng ngày càng biến Hộ thành một người bẩn tính, thô bạo, bất cần. Hộ
mắng chửi vợ con, say rượu liên miên. Nhưng mỗi khi tỉnh lại, Hộ lại buồn bã, hối hận,
càng thương vợ thương con và tự trách mình.


Qua tác phẩm của Nam Cao, ta thấy những người tốt, những người có mơ ước hoài bão,
những người lao động trung thực, cần cù, sao mà khổ quá, khổ cả về vật chất và tinh
thần!
Trong hoàn cảnh như vậy, những người như Từ chỉ biết chịu đựng, nhẫn nhục, và càng
hiểu chồng, thương chồng. Nhưng Hộ là một nhà văn, Hộ càng thấy hoàn cảnh sống thật
là nặng nề, không lối thoát, một bi kịch thật sự. Hộ có lúc nói ra miệng là vợ con làm khổ
mình, nhưng trong thâm tâm anh biết không phải như vậy. Chẳng biết trách ai, anh tự
trách mình, xỉ vả mình, gặm nhấm một mình nỗi bất bình và đau khổ.
Nhân vật chính trong tác phẩm là nhà văn. Cho nên trong tác phẩm, thông qua cuộc sống
và nhất là suy nghĩ của nhân vật Nam Cao đã đề cặp trực tiếp đến một vấn đề mà ông
thường xuyên quan tâm, đó là vấn đề sáng tạo nghệ thuật, quan niệm và yêu cầu của ông

về văn chương.
Hộ rất thiết tha với nghề văn. Sáng tạo văn chương là khát vọng, là lí tưởng của đời Hộ.
Lúc đầu, Hộ coi khinh những lo lắng tùn mùn về vật chất, dồn hết tâm sức vun trồng cho
cái tài mỗi ngày một thêm nảy nở. Hộ đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng
không biết chán. Hộ biết đi vào nghề văn sẽ nghèo, sẽ khổ, nhưng Hộ chấp nhận. Văn
chương cũng mang lại cho Hộ niềm vui không gì sánh được. Mỗi lần Hộ tâm sự với vợ
nhân đọc được một đoạn văn hay:
« … Này, Từ ạ… Nghĩ cho kỉ, đời tôi không đáng khổ mà hóa khổ, chính tôi làm cái thân
tôi khổ, tôi mê văn quá nên mới khổ. Ấy thế, mà tuy khổ thật, nhưng thử có người giàu
bạc vạn nào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi, chưa chắc tôi đã đổi. Tôi cho rằng: những khi
được đọc một đoạn văn như đoạn này, mà lại hiểu được tất cả cái hay thì dẫu ăn một món
ngon đến đâu cũng không thích bằng. Sướng lắm! Sao thiên hạ lại có người tài đến thế?”
Theo Hộ, một tác phẩm thật có giá trị, tác phẩm Hộ mong viết được trong cả một đời văn
của mình, không thể chỉ có giá trị địa phương thôi, không chỉ tả được cái bề ngoài của xã
hội, mà “Phải vượt lên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho
cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau dớn lại vừa
phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tính bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần
người hơn”
Chắc chắn đó cũng là mong ước, là yêu cầu của Nam Cao về một tác phẩm hay, về văn
chương. Văn chương không chỉ là nghề mà còn là nghiệp, một sự ràng buộc, một nhu cầu
nội tại văn chương, về phương diện sáng tác cũng như thưởng thức, là nỗi đau mà cũng là
niềm vui, là hạnh phúc, tự nguyện của từng người. Văn chương là lĩnh vực của tài năng,
của sự liên tài. Tác dụng cao quý của văn chương là nhân đạo hóa xã hội và cuộc sống,
làm cho con người cảm thông với nhau, gần gũi nhau.


Nam Cao phê phán nghiêm khắc bệnh cẩu thả trong văn chương xem những người viết
văn cẩu thả là những tên bất lương. Ông viết: “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là
một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”. Nam Cao
cũng khẳng định rất rõ ràng viết văn, làm nghệ thuật là tìm tòi phát hiện, sáng tạo: không

ngừng, mang đến cho người đọc một cái gì lạ, một cái gì mới, một cái gì độc đáo, mà
điều này thì chỉ có tài năng và công phu mới làm được. Nam Cao viết: “Văn chương
không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn
chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn
chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”!
Đó là quan niệm rất chính xác, một yêu cầu rất cao về văn chương. Nhà văn, nghệ sĩ tất
nhiên phải biết “hành nghề”, phải am hiểu về kĩ thuật, phải “khéo tay” ở một mức độ nhất
định, nhất là trong một số ngành nghệ thuật nào đó, chẳng hạn như điêu khắc, biểu diễn
âm nhạc v.v… Nhưng nhà văn, nghệ sĩ, về bản chất hoạt động mà nói, không phải là
người thợ, cho dù là thợ khéo tay, làm theo những kiểu mẫu có sẵn, theo “đơn đặt hàng”
của người khác. Văn chương nghệ thuật là hoạt động tinh thần, là “Thôi thúc bên trong”
là tình cảm, tư tưởng không nén nổi của người nghệ sĩ cất lên thành lời, thành nhạc, thành
tranh… Chỉ có thứ văn chương “gan ruột”, không viết ra không được đó mới rung động
được tâm hồn người khác, mới có giá trị.
Hơn nữa, trong lĩnh vực văn chương, chỉ có thật, chân thành, chưa đủ, mà còn phải sâu
sắc, phải mới, “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Không
sâu sắc, không phát hiện và tạo được cái mới, không có được một cách nhìn mới, tiếng
nói mới, thì cũng không thể nào có được một chỗ đứng thật sự trong thế giới nghệ thuật.
Theo Nam Cao những nguời cầm bút chì viết được những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những
tình cảm nông cạn, “diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng
phẳng và quá ư dễ dãi”, chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương, là những kẻ vô
ích, những người thừa. Trong tác phẩm, Nam Cao đã dùng các khái niệm người thừa, đời
thừa theo một nghĩa xác đinh. Thừa là không có ích, không cần thiết cho con người, xã
hội. Chỉ có những con người trung thực, những người có suy nghĩ đúng và có yêu cầu về
giá trị của con người trong cuộc sống, về sự sáng tạo đích thực, mới biết thế nào là thừa,
mới dám nhận và xót xa về tình trạng thừa của mình. Người thừa, đời thừa là một nhận
thức, một tiếng kêu về sự vô vị, bế tắc trong cuộc sống.
Chủ đề này Nam Cao đã nêu ra dưới dạng này, dạng khác trong nhiều truyện ngắn của
mình, đặc biệt là sau này đã khai thác một cách rộng hơn, sâu hơn trong tiểu thuyết Sống
mòn.

Những nhân vật của Nam Cao, đặc biệt là những nhân vật trí thức, thường sống nhiều với
nội tâm. Để trình bày đời sống bên trong của nhân vật, có khi tác giả trực tiếp dùng biện


pháp miêu tả tâm lí, nhưng lại hay để cho nhân vật tự bộc lộ, tự nói với mình, “độc thoại
bên trong”. Trong Đời thừa, Nam Cao cũng kết hợp hai biện pháp: miêu tả những hành
động cử chỉ của nhân vật, quan hệ, lời ăn tiếng nói của nhân vật, đồng thời để nhân vật tự
bộc lộ, tự nói với mình (độc thoại bên trong). Chính do vậy mà tác phẩm mang nhiều tính
chất trữ tình, nhiều đoạn văn thật sự làm xúc động người đọc, vì những sụy nghĩ chân
thành, vì những nỗi đau của nhân vật và của chính tác giả. Ở chiều sâu của Đời thừa, có
một chất thơ từ niềm khát khao cái đẹp, khát khao một cuộc sống trong đó con người biết
thương yêu nhau và có thể sống một cách xứng đáng, có ý nghĩa. Nam Cao hay nói đến
Tsêkhốp, mong viết được như Tsêkhốp. Ở Nam Cao, cũng có chất thơ, chất trữ tình, có
nỗi buồn, tình yêu thương xót xa đối với con người như ở Tsêkhốp. Và, cũng như
Tsêkhốp Nam Cao cảm nhận sâu xa ý nghĩa và bi kịch của cuộc đời trong những cái tư
tưởng chừng nhỏ nhặt, vô nghĩa hằng ngày ở xung quanh.
Những cảnh bực bội, thương tâm trong gia đình mà Hộ và Từ đã trải qua, lòng tự tin đến
ngông nghênh và sự chán chường, những ý nghĩ cao quý và tầm thường luôn giằng xé
tâm trí Hộ trong khi cầm bút, cũng là chuyện thường tình, không có gì đáng nói, nhưng
qua tài năng và tâm hồn của Nam Cao đã trở thành nỗi đau, bi kịch của con người, của
cuộc sống, nỗi đau và bi kịch của con người thừa, của đời thừa. Tác phẩm của Nam Cao
luôn luôn khiến người ta chú ý hơn, nhìn sâu hơn vài cái bình thường, cái hằng ngày ở
xung quanh và ở chính mình, sống có ý thức hơn, nhân ái hơn, kéo con người ra khỏi tình
trạng nhỏ nhen, lố bịch, độc ác, tự bằng lòng một cách vô lối, tức là làm cho người ta “bất
an” như một nhà văn có tên tuổi đã nói về chức năng của văn chương.
Đời thừa có một kết cấu rất tự nhiên. Thực chất đây là một loại truyện không có cốt
chuyện. Sự việc hầu như không có gì. Nhà văn có nói qua về quá khứ bất hạnh của Từ, về
quá trình Hộ và Từ quen biết nhau và nên vợ nên chồng, về một buổi gặp gỡ giữa Hộ và
các bạn làng văn, nhưng tập trung chủ yếu vào suy nghĩ và nỗi khổ tâm củ Hộ vì không
được thực hiện nguyện vọng thiết tha của đời mình là viết văn, hoàn thành những tác

phẩm thật có giá trị như mình mong ước và tin rằng có khả năng làm được. Lẽ ra phải
dồn hết tâm lực cho văn chương, cống hiến cho sự nghiệp cao quý đã lựa chọn tất cả
những gì tốt đẹp nhất của mình, thì Hộ lại tất tưởi lo kiếm sống, luôn luôn bị quấy rầy bởi
cảnh gia đình nheo nhóc, túng quấn, do đó mà con người cũng trở nên thô bỉ, hèn kém,
mộng tưởng ban đầu cũng tàn lụi dần. Tâm trạng của Hộ bị giằng xé một bên là khát
khao sáng tạo, vươn tới những đỉnh cao trong văn chương và, bên kia, là những đòi hỏi
thực dụng, cấp bách của cuộc sống gia đình vất vả, thiếu thốn hàng ngày. Đặc sắc và
chiều sâu của tác phẩm là ở sự giằng xé trong tâm trạng của Hộ, ở chất lượng những suy
nghĩ của nhân vật chính phát ngôn cho tác giả về cuộc đời, về sáng tạo văn chương.
Có thể nói nhân vật trong Đợi thừa là một nhân vật – tâm trạng. Chất thơ, chất trữ tình
bàng bạc khắp tác phẩm do đấy mà ra.


Chiều sâu và sự mới mẻ của chủ đề, chất lượng suy nghĩ, chất thơ và chất trữ tình đã tạo
nên sức hấp dẫn đặc biệt cho Đời thừa, cũng như cho nhiều tác phẩm khác của Nam Cao
có cấu tạo một cách rất tự nhiên, khiến cho người đọc có thể trở lại nhiều lần với truyện
ngắn của ông, dừng lại trên từng ý, từng câu văn ông viết ra.

Đề bài: Chí Phèo giết Bá Kiến trong trạng thái tỉnh rượu hay say? Ý nghĩa cái chết
của hai nhân vật Chí Phèo và Bá Kiến?
Bài làm
Chí Phèo là nhân vật điển hình xuất hiện sắc của nhà văn Nam Cao trong truyện ngắn Chí
Phèo ra đời năm 1941. Đây là một người nông dân cùng quẫn vốn lương thiện, hiền lành,
tự trọng nhưng đã bị Bá Kiến cho đi tù oan, bị lưu manh hóa, côn đồ hóa. Sau khi gặp Thị
Nở, được hưởng tình cảm yêu thương. Chí muốn trở lại lương thiện. Tuyệt vọng vì không
thể hoàn lương. Chí cầm dao đến nhà kẻ thù, sau khi đã nốc rất nhiều rượu. Vậy Chí Phèo
giết Bá Kiến trong trạng thái say hay tỉnh?
Theo tác giả miêu tả thì Chí đã uống đến hai chai rượu. Cũng theo truyện thì Chí rắp tâm
đến nhà thị Nở “để đâm chết cả nhà nó. Chí có ý định đó vì Thị Nở nghe lời bà cô của thị,
đã cự tuyệt quan hệ với Chí Phèo. Nhưng rồi Chí không đến nhà người tình bội bạc mà

lại đến thẳng nhà Bá Kiến. Nhà văn đưa ra lời bình: “Những thằng điên và những thằng
say rượu không bao giờ làm những cái mà lúc ra đi chúng định làm”. Căn cứ vào những
chi tiết đó, ta có thể kết luận Chí Phèo xông đến và đâm chết Bá Kiến trong trạng thái
say.
Nhưng phân tích và kết luận như thế chưa đủ. Trước khi hạ thủ kẻ thù, Chí đã nói những
lời rất tỉnh táo. Chí nói ba câu rất gọn và rõ. Một câu khắng định quyết liệt: “Tao muốn
làm người lương thiện!”. Một câu hỏi uất ức: “Ai cho tao lương thiện?”. Rồi một câu phủ
định đau xót: “Tao không thể là người lương thiện nữa”. Chí Phèo muốn. Chí Phèo hỏi và
Chí Phèo hiểu mình không thể trở thành người lương thiện được nữa với những vết mảnh
chai trên mặt, dấu vết của tội lỗi, của bao lần rạch mặt, ăn vạ, ức hiếp, gây rối. Như vậy là
Chí rất tỉnh. Vả lại lời văn của Nam Cao cho chúng ta thấy rõ khi Chí Phèo uống thêm
chai rượu nữa nhưng “càng uống càng tỉnh ra”. Tỉnh ra, Chí buồn, khóc rưng rức rồi ra đi
với con dao ở thắt lưng. Phải nói, theo cách dẫn truyện Nam Cao, Chí Phèo đang tỉnh.
Do đó, người đọc hiểu Chí Phèo đã giết Bá Kiến trong trạng thái vừa tỉnh vừa say, nhưng
có lẽ phần tỉnh nhiều hơn.
Cái chết của hai nhân vật Chí Phèo và Bá Kiến có nhiều ý nghĩa. Thứ nhất, nó tố cáo xã
hội thực dân – phong kiến đã tàn nhẫn đẩy người cố nông như Chí Phèo vào bế tắc, cùng
đường không lối thoát. Chí Phèo vốn lương thiện, có nhân cách. Chỉ vì sự ghen hão của


tên bá hộ cáo già, anh trai làng vô tội đó đã phải vào tù đến bảy, tám năm. Nhà tù của
thực dân đã lưu manh hóa con người lương thiện ấy. Rồi Bá Kiến tiếp tục đẩy sâu Chí
Phèo vào vũng bùn tội lỗi, biến anh thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Kết cục là Chí
Phèo tự sát sau khi đã đâm chết tên thủ phạm Bá Kiến. Anh chưa tìm được lối thoát, một
mặt không thể sống hung hãn, ngập trong rượu và máu như trước được nữa, mặt khác
cũng không thể trở lại con đường sống lương thiện. Ý nghĩa khách quan của cái chết Chí
Phèo là khi chưa được ánh sáng cách mạng soi rọi thì cuộc đời người nông dân nghèo hèn
trong xã hội cũ rất dễ rơi và kết thúc bi thảm.
Cái chết của Bá Kiến và Chí Phèo còn nói lên sự phản kháng của con người dưới đáy xã
hội. Dù sự phản kháng này là manh động, liều lĩnh, đơn độc nhưng cũng giáng một đòn

chí tử, đích đáng vào kẻ có tội ác, đầu mối của những bi kịch trong cái làng Vũ Đại khốn
khổ. Kẻ gieo gió đã phải gặt bão. Bá Kiến đã bị trừng phạt bởi chính người mà hắn đã
đào luyện thành tên tay chân đắc lực. Bá Kiến chết cùng với tội lỗi của hắn. Chí Phèo
chết trong người cố nông đáng thương, đáng giận ấy gục xuống trên vũng máu, chưa phải
là hết chuyện. Sẽ có thể có Chí Phèo con ra đời nếu xã hội bất công, xấu xa ấy chưa thay
đổi.

Đề bài: Phân tích tâm trạng của nhân vật trữ tình qua bài thơ “Tôi yêu em” của
Puskin
Bài làm
Bài thơ Tôi yêu em là một bài thơ tình đặc sắc của Puskin. Ta tìm gặp ở bài thơ tâm hồn
Nga, tính cách Nga, hồn thơ Nga sôi nổi, đằm thắm, ngọt ngào…
Tôi yêu em đến nay chừng có thể
Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai…
Ghi nhận sự có mặt của câu thơ đầu là hình ảnh của chủ thể trữ tình. Nó không bằng một
cái tên cụ thể nào hết, mà là em và tôi. Nhân vật tôi ư? Không cần thiết phải nghi vấn, là
người khác hay tác giả. Thống nhất nhưng không đồng nhất. Thơ trữ tình luôn lưu ý ta về
đặc điểm này. Và em nữa, cũng như tôi vậy thôi. Chỉ có điều em và tôi là hai trong một
chính thể. Tôi yêu em, vâng, tôi đã yêu, yêu say đắm, yêu vô vọng và cuồng nhiệt. Em
không biết ư? Nó chưa tắt đâu, chưa tàn đâu, hay đúng hơn, sẽ không bao giờ lụi tàn đâu.
Tôi yêu em bằng tình yêu số một, tình yêu duy nhất, tình yêu vĩnh cửu. Có lẽ em không
biết, nhưng với tôi, trước sau không khoảng cách, bởi tôi là tôi. Tôi không phải là một
người nào khác.


Nhưng không muốn em bận lòng thêm nữa
Hay hồn em phải gợn sóng u hoài.
Từ sâu thẳm của tôi là nỗi đau của sự chấm dứt một mối tình – một mối tình cô đơn và
lạc lõng. Tôi yêu em, nhưng tôi không muốn làm bận em, hay gây day dứt cho em. Tôi
đứng giữa hai con đường. Tất cả đều khó tin và đều buồn như nhau. Mặc dầu thế tôi càng

yêu em. Trái tim mách bảo với tôi không thể rủ bỏ dễ dàng được đâu. Đã có sự mâu thuẫn
giữa con người suy nghĩ và con người hành động. Một mối mâu thuẫn giữa tình cảm và lí
trí đã giằng xé tôi, co giật tôi. Chia tay thì tôi đã tự nguyện chia tay, nhưng câu thơ sao
trăn trở rớm máu! Tự nguyện mà sao lòng quặn lại, xót xa… Càng day dứt, càng đau,
càng yêu. Tôi muốn có em, nhưng tôi biết rằng không thể. Tôi đứng đứng ở tư thế yêu và
rất yêu nhưng chỉ là tình cảm từ một phía. Tình yêu tôi mất phương hướng, tôi chao đảo,
tôi chới với. Em đấy, nhưng rất xa xôi, có thể tôi không bao giờ với tới được.
Tôi yêu em âm thầm không hi vọng
Khi rụt rè, khi hậm hực lòng ghen.
Tôi đơn phương? Điều đó quá rõ. Biết rằng tôi yêu em, nhưng : cũng biết là không mơ có
được em. Tôi yêu một cách vô vọng. Ý thức đấy tôi tới một mối bi kịch sâu sắc. Điệp từ
Tôi yêu em như một minh chứng về sự yêu tột đỉnh của tôi. Yêu và ghen, đó là sắc thái tự
nhiên của tình yêu, càng đơn phương, càng vô vọng, tôi càng tự biểu hiện mình rõ rệt và
tự nhiên hơn. Bài thơ Tôi yêu em – đó là tiếng lòng của tôi, nhưng tôi phải để cho em tự
do lại là tiếng nói đầy lí trí. Rụt rè, mãnh liệt, hậm hực, ghen tuông… trong tình yêu, ấy
là điều dễ có. Si mê, đau khổ và cao thượng, vô vọng nhưng kết thúc, tôi đã thốt lên:
Cầu cho em được người tình như tôi đã yêu em.
Một câu thơ vị tha, một tấm lòng vị tha. Tình đơn phương mà không tàn lụi đi. Trái lại,
tình cảm của tôi càng thêm mãnh liệt. Giọng điệu cũng như tâm trạng thơ, vừa thiết tha,
vừa đau đớn. Đó chính là ấn tượng riêng của tôi yêu em.
Bao nhiêu nỗi niềm, bao nhiêu hi vọng, bao nhiêu cay đắng và day dứt, tôi đã cất lên
được tiếng lòng mình: Tôi yêu em.

Đề bài: Cảm nhận của bạn về truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.
Bài làm
Có một thời, lối “tư duy từ điển” đã làm bó tay không ít người nghiên cứu văn học Việt
Nam, đẩy họ đến tình trạng lay hoay trong “cái rọ” của khái niệm. Dựa vào khái niệm,
người ta khảo cứu văn chương như một thực thể bị chia cắt một cách siêu hình thành



những dòng, những khuynh hướng khác nhau. Khi đem những tiêu chỉ của chủ nghĩa
hiện thực phê phán qui chiếu vào văn học 1930 – 1945 sẽ dễ thấy nổi lên tác phẩm của
Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan… còn nhiều sáng tác của Thanh Tịnh, Thạch Lam…
Như bị lùa vào cái dòng lãng mạn (mà lãng mạn trong cái dân tộc lầm than thì không thể
tha thứ!). Tuy nhiên, lịch sử bao giờ cũng mang tính khách quan của nó, “tư duy mới” đã
gạt bỏ những hướng đi duy lí chủ quan, để tuy chậm, song chưa muộn, mấy năm gần đây
Thạch Lam và một số “danh bút” của một thời văn chương được khẳng định trở lại.
Đọc Thạch Lam, càng thấy ông thật sự là cây bút tài hoa, một nhà văn mà tri thức phương
Tây rất phong phú cũng không lấn át được một tâm hồn “thuần Việt”. Sáng tác của ông
trong cái vẻ ngoài bình dị là một tấm lòng mẫn cảm, một nhân cách văn hóa, một người
bạn của lớp người nghèo khổ ở thời đại ông. Những truyện ngắn “Nhà mẹ Lê”, “Hai đứa
trẻ” của Thạch Lam chỉ khác với “Tắt đen”, “Bước đường cùng”… ở điển hình và tiếng
nói riêng của tác giả và cái chung duy nhất giữa họ là một tấm tình hòa cảm, bao dung.
Khi nghiên cứu khu vực lưu trú của người Việt, chúng ta thường chú ý tới hai khu vực cơ
bản: thành thị và nông thôn, ít lưu tâm tới khu vực cư trú tồn tại ở “ranh giới mờ” giữa lối
sống đô thị và làng xã là cái phố huyện. Phố huyện – có thế được coi như trạm trung
chuyển của sự giao lưu giữa thành thị và nông thôn. Dấu ấn của hai nhịp điệu sống, hai
lối sống cơ bần của xã hội để lại khó rõ nét trong sinh hoạt cộng đồng phố huyện. Ở thời
của Thạch Lam (thậm chí tới ngày nay) văn minh đô thị chưa là tiêu biểu cho xã hội, làng
xã và các phố huyện mới thật sự là bộ mặt của xã hội. Dạo quanh bất kỳ một phố huyện
nào cũng có thể xác định những nét cơ bản về phương thức sinh tồn, đặc điểm kinh tế…
của một cơ cấu địa phương. Rộng hơn, có thể hiểu được những nét lớn của xã hội, vì lẽ,
mấy nghìn năm nay “Văn hóa lúa nước” tạo dựng nên một xã hội Việt nam truyền thống;
bên những ưu điểm còn buộc nó phải vận hành trong một vòng quay tù túng, ngưng trệ.
Đã từ lâu, nhiều người nhận ra, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” dường như đã nhận chân theo
kiểu văn chương. Nên không ngẫu nhiên, Thạch Lam lại chọn một phố huyện để nhận
chân sự mòn mỏi đơn điệu của lớp người đông nhứt trong xã hội lúc đó là những người
nghèo.
“Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi
chiều về. Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than

sắp tàn trong lò. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời.
Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng
ruộng theo gió nhẹ đưa vào”… Phố huyện lúc chiều tàn thật thanh bình, yên ả; cũng là
lúc cư dân của nó bước vào một đêm mới, lặp lại những gì đã diễn ra như bao nhiêu đêm
trước: Chị em cô hàng xén lại ngồi trước cửa ngóng trời, ngóng đất, ngóng người; mẹ con
chị hàng nước lại dọn cái bàn nước; bác hàng phở nhóm lại bếp lửa; gia đình bác Xẩm lại
chờ khách đến nghe…”. Chừng ấy con người trong bóng tối mong đại một cải gì tươi


sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”… Thật ra, nhịp điệu sống không nhất
thiết chỉ có những ngày vui vẻ. Xã hội dù tươi đẹp vẫn có những ngày hè mưa buồn,
những ngày thu heo hắt, những ngày đông ảm đạm, nhưng đó là sự bất thường của tự
nhiên. Còn cái đêm u tịch được Thạch Lam dựng lại là cái đêm buồn mang số nhiều: “Từ
khi có cái cửa hàng này, đêm nào Liên và em cũng ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc
bàng với cái tối của quãng phố xung quanh”, “Chị Tí chả kiếm được bao nhiêu, nhưng
chiều nào chị cũng dọn từ chập tôi cho đến đêm”… Dạng huống số nhiều của hành động
chỉ ra sự lặp lại nhàm chán của sinh hoạt phô huyện, nhàm chán nhưng vẫn lặp lại vì
miếng cơm, manh áo: “Ôi chao, sớm muộn gì thì có ăn thua gì”. “Cũg như mọi đêm Liên
không còn trông mong còn ai đến mua nữa”, một cách kiếm sống hú họa, vật vờ. Tác giả
đồng điệu với Liên và những người xung quanh cô bằng cách dựng lại mọi chi tiết từ
không gian rộng đến sự vật nhỏ nhoi đang chìm trong bóng đêm: “Đường phố và các con
ngõ rộng dần dần chứa đầy bóng tối”, “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con
đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn”, “đêm tối vẫn bao bọc xung
quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng”. Tối đến mức
cả phố huyện đều “thu nhỏ lại”. Vài ánh sáng lọi qua phên nứa, ngọn đèn con của chị
hàng nước, cái bếp lửa cửa bác hàng phở trở nên lắc lay thảm hại trước bóng đêm, đến
ngay cả âm thanh cũng chìm nghỉm trong đó: “Tiếng dàn bầu bần bật trong yên lặng”.
“Trống cầm canh ở phố huyện đánh tung lên một tiếng ngắn khô khan, không vang động
ra xa, rồi chim ngay vào bóng tối”, “tiếng vang động của xe hỏa đã nhỏ rồi, và mất dần
trong bóng tối”. Bóng tối nhấn chìm cả âm thanh thì quả là rất gợi, nhưng rất thực, thực

bởi diễn biến tâm trạng của nhân vật: “đêm tối với Liên quen lắm”, “tâm hồn Lièn yên
tình hẳn, có những cảm giác ma hồ lihônq hiểu”, “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự
xa xôi không biết”. Trạng thái bàng bạc của tâm hồn Liên là trạng thái của cả nhóm người
quanh Liên qua những mẩu đối thoại rời rạc, vẩn vơ, những câu hỏi đã quen và những
câu trả lời cũng đã quen. Nghĩa là mọi người cùng mòn mỏi, cùng u ám, cùng vô định.
Sự tương phản giữa ánh sáng và bóng đêm, giữa âm thanh và tĩnh lặng đem lại cảm giác
nặng nề và chị em Liên “buồn ngủ ríu cả mắt”, “vẫn cố gượng để thức khuya chút nữa”,
“vì muốn được nhìn chuyến tàu”. Chuyến tàu như ngôi sao băng đêm nào cũng vụt qua
thinh không phố vắng vào lúc chín giờ. Chuyến tàu đến rồi đi, nó thuộc về một thế giới
khác. Nó lướt qua phố huyện đang chìm trong đêm đen. Nó tỏa sáng. Nó vang động. Nó
xa xăm. Nó là giấc mơ huyền ảo. Nó như không có thật. Chuyến tàu vụt qua chỉ đủ sức
an ủi những con người lam lũ đang an phận nghèo. Tuy thế nó vẫn là một hy vọng.
Chuyến tàu chấm dứt một ngày sinh sống của phố huyện về một thời gian và làm tăng nỗi
đợi chờ khắc khoải cho ngày hôm sau.
Thử đặt một giả định: Phố huyện không có chuyến tàu đi qua hàng đêm, con người sẽ gửi
gắm ước mơ khoáng hậu của họ vào đâu? Sẽ là khó trả lời, vì chuyến tàu là sự tương
phản cuối cùng, mang ý nghĩa nhất mà Thạch Lam cần biểu đạt. Mọi hình ảnh không
gian, thời gian sự vật, con người trong trạng thái chờ đợi mòn mỏi suốt mấy trang giấy
chỉ nhằm tới chi tiết cuối cùng: lúc con tàu đi qua. Con tàu hi vọng đồng thời là “thuốc


thử” đối với xã hội và kiếp người. Là nhà văn tâm huyết với dân tộc, Thạch Lam nắm bắt
được sự ngưng trệ, tù túng của xã hội ông. Ông muốn ánh sáng văn minh chiếu rọi lên
đêm đen của dân tộc. Ông không hướng nhân vật của ông tới hành động tự phát của anh
Pha, tới sự nhẫn nhục có bản lĩnh của chị Dậu, ông hướng họ tới văn hóa, để vượt thoát
khỏi tình trạng ngột ngạt. Truyện ngắn không có bóng dáng một xã trưởng, một thầy lý,
một thầy đội nào… nhưng vẫn làm người đọc liên tưởng tới nguyên nhân nỗi thống khổ
của những con người trong truyện.
Ở “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam không lựa chọn lối viết miêu tả sự vật, không đứng ở vị trí
người kể chuyện. Bằng các cảm giác, các tâm trạng, ông đưa người đọc vào thế giới nội

tâm của nhân vật, qua thế giới nội tâm người đọc liên tưởng, tự hình dung về điều tác giả
muốn đặt ra. Bút lực của ông thật vững vàng khi phân tích cảm giác một cách nhẹ nhàng,
tinh tế nhưng biểu cảm và sâu sắc. Những câu văn đẹp, mang chất thơ giàu hình ảnh như
của Thạch Lam thật hiếm thấy trong văn chương. Không lẫn vào đâu được, cái chợ huyện
đã tan lúc chạng vạng: “Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn, bã mía. Một
mủi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi, quen thuộc quá, khiến chị em
Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”… Phải là người có khả năng quan
sát đầy mĩ cảm mới có thể viết được câu văn như: “Qua khe lá của cành hàng ngàn ngôi
sao lấp lánh; một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vừng sáng nhỏ nhấp nháy rồi hoa
bàng rụng xuống vai. Liên khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một”… Trong “Hai đứa trẻ”,
những câu văn đẹp mang một hiệu năng đa dạng: Vừa hấp dẫn đầy chất thơ, vừa buồn
man mác; vừa xót xa thương cảm, vừa thêm gắn bó với quê hương.
Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là khoảnh khắc của mọi khoảnh khắc, là một đêm buồn bã
giữa những đêm buồn bã, một đêm có “dấu chấm lửng” ở cả hai đầu. Thạch Lam đã lựa
chọn đúng cả không gian, thời gian, con người và địa điểm rất chung và rất riêng. Phố
huyện, nơi cả đời mong được tới một lần của dân quê xưa có dáng dấp của làng xã, văn
minh thành thị có ghé qua với đường tàu hỏa và phố xá có đèn dây sáng xanh, có gánh
phở đêm, có phu gạo, phu xe… vẫn là nửa quê nửa tĩnh; Hà Nội vẫn là hình ảnh mơ hồ
“không rõ rệt cái gì, chỉ là một vùng sáng rực và lấp lánh”. Có lẽ vì xem nhân vật của
mình bé nhỏ, đáng thương mà Thạch Lam dùng “Hai đứa trẻ” để chỉ hai chị em Liên
trong khi Liên đã là một cô gái.
Thạch Lam dằn vặt trước cuộc sống, ông dùng văn chương thể hiện mối quan tâm với
đồng loại. Thạch Lam day dứt vì nhịp điệu mòn mỏi của cuộc sống đồng bào ông, ông
muốn đi tìm một giải pháp. Giải pháp của ông có thể không trùng khớp với yêu cầu của
chúng ta hôm nay thì vẫn phải ghi nhận ở ông một tấm tình hòa cảm, bao dung. Dù sao
chăng nữa, Thạch Lam vẫn là sản phẩm của thời đại ông, không thể đòi hỏi ở ông những
gì ông chưa có hoặc không thể có.


Đề bài: Bình giảng bài thơ “Tống biệt hành” của Thâm Tâm

Bài làm
Thơ mới chỉ có hai cuộc tiễn đưa đặc biệt: một của Thế Lữ – “Giây phút chạnh lòng” và
một nửa của Thâm Tâm – “Tống biệt hành”. Còn thì chỉ là những cuộc biệt ly thông
thường, cuộc chia tay giữa người tình với người tình, giữa người thân với người thân.
Thương nhớ chỉ quẩn quanh nơi những không gian xa cách, những mối tình phôi pha…
Anh biết em đi chẳng trở về
Dặm ngàn liễu khuất với sương khe
Em đừng quay lại nhìn anh nữa
Anh biết em đi chẳng trở về.
(Thái Can – Anh biết em đi)
Tất nhiên, những khúc ly biệt ấy đều có những giá trị, những hấp dẫn. Nhưng ta càng biết
quý những cuộc biệt ly của những tầm cao nhân cách.
Đó là những khúc biệt ly mang chất thẩm mỹ bi tráng.
Thế Lữ và Thâm Tâm đã cảm hứng từ cuộc tiễn đưa con người chí lớn, con người khát
vọng cái cao cả – khát vọng lý tưởng nồng cháy:
Non nước đang chờ gót lãng du
Đâu đây vẳng tiếng hát chinh phu
Lòng tôi phơi phới quên thương tiếc
Đưa tiễn anh ra chốn hải hồ
Anh đi vui cảnh lạ đường xa
Đem chí bình sinh giải nắng mưa
Thân đã hiến cho đời gió bụi
Đâu còn lưu luyến chút duyên tơ
(Giây phút chạnh lòng)


Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
Chí lớn chưa về, bàn tay không
Thì đừng bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong

(Tống biệt hành)
Trong bi kịch, các nhân vật trữ tình này vẫn lồng lộng chất tráng ca.
Đó cũng chính là tâm hồn thời đại trong bối cảnh không khí thời đại.
Thuở ấy, những thanh niên trí thức, sinh viên học sinh đã cảm nhận được cái vô nghĩa
của những nhân cách an phận, nhàn du nhỏ bé mà sau này, Chế Lan Viên viết:
Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp
Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn

Lương thiện đấy, nhưng không có nội dung!
Thậm chí, có những người “vô tư”
Quanh Hồ Gươm không ai bàn chuyện vua lê
Lòng ta đã hóa thành rêu phong chuyện cũ.
(Chế Lan Viên)
Những con người nhỏ bé ấy đã đứng ngoài những cảm nhận về nỗi dân tộc đang trong
gông xiềng nô lệ, về nỗi nhân dân đang đói khổ, đau khổ… Kiếp người cơm vãi cơm rơi,
Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi…” (Tố Hữu), về nỗi những Chí Phèo đang lâm vào
thảm trạng tha hóa, và đang bị cự tuyệt quyền làm người lương thiện… (nhân vật của
Nam Cao).
Có một tầng lớp thanh niên có học biết nặng lòng với đất nước, với nhân dân. Họ ưu tư,
trăn trở trên đời sống chung của dân tộc. Nhưng nhìn quanh, họ chỉ thấy những bức
tường bế tắc!
Thuở ấy, không khí thời đại ảm đạm lắm.


Một lá cờ Cần Vương phất cao với bao tâm huyết. Rồi từ Bắc chí Nam, Cần Vương đi
vào thất bại. Những chiến sĩ Đông Kinh Nghĩa Thục ra quân, những Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh… cũng lâm vào thất bại. Vận hội may mắn của cái dân tộc điêu linh này
chưa tới? Rồi Việt Nam Quốc Dân đảng nồng nhiệt liều thân… cũng chỉ để lại một tiếng

bom của Phạm Hồng Thái. Không thành công cũng thành nhân”…
Đúng như sau này, Chế Lan Viên viết:
Cha ông xưa từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời.
Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khóa
Những pho tượng chùa Tây Phương không biết cách trả lời.
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
Văn chiêu hồn từng giọt thấm mưa rơi…
Trong không khí thời đại ấy, những con người có học, có tâm huyết đã buồn. Ai đã chê
Thơ Mới buồn? Thậm chí, ai đã cho Thơ Mới là bạc nhược? Hơn nữa, ai đã kết tội Thơ
Mới là có lợi cho địch? Đến bây giờ, khi không khí của hai cuộc chiến tranh đã lùi xa, khi
mọi lí lẽ đã được suy ngẫm, kiểm nghiệm, chúng ta mới biết sợ những thái độ “khoa học”
chưa hoàn chỉnh này.
Chất buồn của Thơ Mới là chất buồn mang tầm cao thời đại. Đó là chất buồn nhân tính.
“Tống biệt hành” là khúc trữ tình buồn ấy, là khúc bi tráng ca của một tâm hồn non nước.
Đưa người ta không đưa qua sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Trên bình diện nội dung công khai, đã có hai nhân vật trữ tình: người ra đi và người đưa
tiễn. Rồi cả ở những đoạn thơ sau, vẫn là hai con người ấy:
Đưa người ta chỉ đưa người ấy
… Ta biết người buồn chiều hôm trước
… Ta biết người buồn sáng hôm nay
Nhưng có thật là có hai người không? Hay chỉ là một nhân vật trữ tình ở dạng phân thân?
Hai con người này có những ranh giới nhập nhoạng mơ hồ, có khi chập vào nhau:” ”…
tiếng sóng ở trong lòng” và “hoàng hôn trong mắt trong”; có khi ở trong nhau mà tự vấn:


Người đi? ừ nhỉ, người đi thật!
Đoạn thơ đầu, bằng thể thất ngôn cổ điển, bằng nghi vấn tu từ thể điệp… Thâm Tâm đưa

ta vào một không khí Đường thi trang trọng. Ta chìm vào trong một trầm tư.
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình một dửng dưng…
Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ,
Chí lớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.
Như một hành động chọn lọc “…ta chỉ đưa người ấy” cuộc tiễn đưa bắt đầu đi vào chiều
hoành tráng “một giã gia đình, một dửng dưng”. Tính cách thời đại xuất hiện. Con người
ấy có dáng dấp Kinh Kha “Ai đồng chí trong đám người tiểu kỷ, Trên kinh thành lơ lửng
một thanh gươm…” con người ấy mang phong thái chiến sĩ “Tráng sĩ một đi không trở
về…”.
Cái chất lãng mạn hoành tráng này, về sau sẽ được tái diễn trong những vần thơ của
Quang Dũng, Chính Hữu ở giai đoạn thơ thời đầu kháng chiến chống Pháp (1946-19471948):
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
(Tây Tiến – Quang Dũng)
Nhớ đếm ra đi đất trời bốc lửa
Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm
Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm


Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa…
(Ngày về – Chính Hữu)

Cao cả trác tuvệt như vậy mà ai lại dám bảo đó là những vần thơ “buồn rớt, mộng rớt…
yêng hùng…” ai lại dám bắt “lột xác, nhận đường…”
Thâm Tâm đi bước thứ nhất, để cho Quang Dũng, Chính Hữu, đi bước thứ hai trong cảm
hứng lãng mạn hoành tráng.
Ta biết người buồn chiều hôm trước
Vì sao người buồn? Không phải vì cuộc ra đi bịn rịn. Người buồn vì nỗi những nhân cách
ở tầm thông thường không thể hiểu người. Đó là những “một chị, hai chị cũng như sen,
khuyên nốt em trai dòng lệ sót”
Nỗi buồn ấy hiện ra trong buổi chiều.
Ta biết người buồn sáng hôm nay
Vì sao người buồn? Vì phải xa những tấm lòng trẻ thơ, xa những “em nhỏ ngây thơ đôi
mắt biếc”. Nỗi buồn ấy lấy bối cảnh một ban mai rực rỡ (Trời chưa mùa thu tươi lắm
thay) tương ứng hài hòa với ánh sáng tinh khôi trong mắt trẻ. Đó là thẩm mỹ của cái đẹp
– buồn.
Người đi? Một dấu hỏi.
Ừ nhỉ, người đi thực!
Một trả lời trong cảm thán. Cũng có thể là một tự hỏi mình.
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Nhân vật bà mẹ đến đây mới thật sư xuất hiện. Trước, trong câu: Ba năm mẹ già cũng
đừng mong, chỉ là một cách nói. Bi kịch của lòng mẹ là bi kịch của:
Lá vàng thì ở trên cây
Lá xanh rụng xuống trời hay chăng trời
(Ca dao)
Chị thà coi như là hạt bụi
Đó là một câu tâm lý học. Các bà chị đã tự bằng lòng mình về việc thương em (Khuyên
nốt em trai dòng lệ sót); bây giờ, lòng thành thanh thản.
Em thà coi như hơi rượu say


Thâm Tâm dành cho “em” cái ngôi kết thúc. Người tình của Dũng là nàng Loan (nhân vật

của Nhất Linh), trong tiến đưa đã:
Lòng tôi phơi phới quên thương tiếc
Dưa tiễn anh ra chốn hải hồ
Thế Lữ
Người tình của chàng trai chí lớn này thì, trong ly biệt, hoài niệm một chất nồng say đã
được hưởng… Câu thơ không tiếc nuối, chỉ là man mác. Nó ngân vang tạo ra dư âm
chung của toàn bài…
Sau 1945, Thâm Tâm cùng với dân tộc, đi vào cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp.
Và anh đã chết cái chết đẹp của người chiến sĩ.
Phải chăng, bằng chính cuộc đời mình, Thâm Tâm đã thực hiện hóa cái giấc mơ của nhân
vật trữ tình trong thơ mình?

Đề bài: Phân tích bài “Thơ Duyên” của Xuân Diệu.
Bài làm
Hồn thơ Xuân Diệu luôn mở rộng ra cả đất trời và cõi người. Nó luôn khao khát được
giao cảm với con người, thiên nhiên, vũ trụ. Thơ duyên biểu hiện điều ấy.
Thơ duyên chưa hẳn là bài thơ tình vốn rất đắm say sôi nổi trong thơ Xuân Diệu. Bài thơ
có anh và em họ đi xa nhau như không quen biết. Em thì “điềm nhiên” anh thì “lững
thững” và cả hai đều “vô tâm”.
Có lẽ duyên ở đây là “tác hợp cơ trời” của thiên nhiên, vũ trụ và lòng người. Sự hòa thơ,
hòa nhạc âm thầm, mãnh liệt và đầy quyến rũ. Nó khởi đầu từ cái “buổi ấy lòng ta nghe ý
bạn” để rồi nhìn đâu cũng thấy chiều mộng, nghe đâu cũng động tiếng huyền nó vô thanh
với tác nhưng náo nức con tim.
Tất cả đều cặp đôi trong yêu thương đắm đuối, mỗi lúc một mãnh liệt, lơi lả. Chiều mộng
thì hòa thơ với nhánh duyên, trên cây me thì cặp chim ríu rít như không biết buổi chiều
mà ngỡ là sáng bình minh. Chim chuyền cành này qua cành khác, bầu trời trong xanh thì
như đổ tràn ánh sáng như ngọc lấp lánh qua muôn lá, mùa thu tới thì khắp nơi như tiếng
nhạc đón mừng (“động tiếng huyền” – tiếng huyền là tiếng đàn), con đường “nho nhỏ”
thì đi với gió “xiêu xiêu”, cành hoang thì lả tả như có tình với “nắng chiều”, con cò trên
ruộng thì như cảm thông với “Mây biếc về đâu bay gấp gấp” nên cánh nó cũng “phân

vân”, chim cũng thế, hoa cũng vậy, tất cả đều giao hòa cảm thông như vốn có duyên với


nhau tự bao giờ. Và tất nhiên con người cũng thế, anh với em tuy chưa quen biết nhau và
cũng chẳng có mối lái gì (băng nhân) mà tự nhiên cũng cứ đi sóng đôi với nhau nhịp
nhàng như “một cặp vần” trong bài thơ, thậm chí “Lòng anh thôi, đã cưới lòng em”
– Cảnh trong thơ tươi tắn, trong sáng, tình trong thơ thì hòa hợp nhịp nhàng. Đây là một
bài thơ vui tuy viết về một cảnh chiều thu. Trong thơ truyền thống, cảnh chiều mà lại là
chiều thu thì nói chung là buồn. Thơ xưa nói đến cảnh chiều thì thường có chim mỏi về
rừng, người lữ thứ tha hương thì nhớ nhà, chân bước vội. Còn mùa thu thì lá vàng rơi
rụng, hoa sen tàn tạ trên các đầm ao… ở đây cảnh chiều thu lại vui. Xuân Diệu có bài thơ
xuân không mùa, nghĩa là mùa nào cũng là xuân cả, vì xuân tự trong lòng nhà thơ tỏa ra
trời đất bốn mùa:
“Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm,
Mấy cành xanh, năm bảy sắc yêu yêu.
Thế là xuân. Tôi không hỏi chi nhiều.
Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng
Xuân không chỉ ở mùa xuân ba tháng…”
Nhưng cảnh thu thực ra cũng có cái vui của nó chứ, nhất là mùa thu ở một nước nhiệt đới
như nước ta. Xuân Diệu là nhà “Thơ mới”, ông không nhìn cảnh vật theo công thức, ước
lệ của thơ cổ, ông khám phá cái đẹp, cái vui của mùa thu có thật trên đất nước bằng con
mắt chân thật của mình và thấy mùa thu rất thơ mộng: “Chiều mộng hòa thơ trên nhánh
duyên”, không khí mùa thu khô ráo và sáng, trời thu thì cao và trong xanh, khí hậu mùa
thu không nóng và chưa rét, con người cảm thấy dễ chịu, tâm hồn thơ thới sảng khoái,
gió rì rào trong lá cành, chim chóc ríu rít, nghe như đâu đây vang vọng lại tiếng nhạc của
đất trời:
“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền”.

Nhưng niềm vui của mùa thu không ồn ào mà êm ái dịu dàng. Phải có một tâm hồn lắng
nghe, tinh tế và nhạy cảm mới thấy hết được. Nhà thơ đi giữa đất trời như đi giữa một
“bài thơ dịu”, không dám ồn ào, chỉ “lững đững” trên đường, lắng nghe bước đi nhẹ
nhàng êm ái và lặng lẽ của mùa thu:
“Ai hay tuy lặng bước thu êm”.


Và cũng lắng nghe nơi lòng mình niềm cảm thông với vạn vật và nỗi khao khát thương
yêu, khao khát hòa hợp với mọi người, nhất là với cô gái nào kia ngẫu nhiên cùng bước
lên đường.
– Trong thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh có một nhận xét rất tinh tế về Xuân Diệu: “… Sự
sống muôn hình thức nhưng hình thức nhỏ nhặt thường lại ẩn náu một nguồn sống dồi
dào. Không cần phải là con hổ ngự trị trong rừng xanh, không cần phải là con chim đại
bàng bay một lần chín vạn dặm mới là sống. Sự bồng bột của Xuân Diệu có lẽ đã phát
biểu ra một cách đầy đủ hơn cả trong những rung động tinh vi!”.
Bài Thơ duyên là một trường hợp Xuân Diệu bày tỏ sức sống của mình trong những cảm
nhận hết sức tinh vi về thiên nhiên và sự sống. Nhìn chung cảnh thơ yên tĩnh mà vẫn có
một cái gì xôn xao từ trong lòng sự vật, chỉ cảm thấy được nhưng khó phân tích, diễn giải
cho rõ ràng:
“… Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền”
“… Con đường nho nhỏ, gió xiêu xiêu
Lả tả cành hoang, nắng trở chiều”.
Bình hai câu thơ trên, Hoài Thanh viết: “Cảnh như muốn theo lời thơ mà tan ra. Nó chỉ
mất một tí rõ ràng để được thêm rất thơ mộng”.
Thiên nhiên đúng là có hồn, nó lặng lẽ vận động, nhưng chỉ là những biến thái tinh vi
không thể gọi tên ra được. “Nắng trở chiều” là màu sắc thế nào? Thật khó nói rõ ra được.
Sự cảm nhận còn tỏ ra tinh vi hơn nữa trong mấy câu thơ này:
“Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Chim nghe trời rộng dang thêm cánh

Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần”.
Hoài Thanh viết: “Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay tới ráng chiều (“Lạc hà dữ cô lộ
tề phi – Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc”, dịch là: “Ráng chiều và cánh cò đơn chiếc
láng bay – Nước mùa thu cùng trời thu một sắc”) đến con cò của Xuân Diệu không bay
mà cánh phân vân, có sự cách biệt của hơn một ngàn năm và của hai thế giới”.
Sự cách biệt ấy thể hiện ở chỗ, một đằng thì tả sự vận động bên ngoài, mắt thường thấy
được, một đằng thì cảm nhận được sự vô hình, chỉ mới có trong gân cốt của cánh cò.


Cũng như vậy: “Chim nghe trời rộng dang thêm cánh – Hoa lạnh chiều thưa sương xuống
dần”, nhà thơ dường như nhận thấy cái cảm giác trống trải rợn ngợp của con chim trước
không gian cao rộng, và cái cảm giác se lạnh của bông hoa khi sương chiều buông
xuống…
Bài thơ giúp ta hiểu được ở Xuân Diệu một hồn thơ yêu đời, yêu sống, khao khát giao
cảm với thiên nhiên, với con người. Nó cũng giúp ta cảm nhận được một cảnh vật thu
tươi tắn, trong trẻo thơ thới, êm ả, dịu dàng, như gợi mát tâm hồn ta. Nó còn giúp ta mài
sắc cảm giác của mình để biết kĩ lưỡng hơn, tinh tế hơn với cuộc sống này trong mỗi giây
phút của đời mình.

Đề bài: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài “Vội vàng” của Xuân Diệu:
“Tôi muốn tắt nắng đi

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
BÀI LÀM
Vội vàng là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu, được in trong tập Thơ
Thơ, xuất bản lần đầu năm 1938. Vội vàng là tiếng nói của tâm hồn yêu đời, yêu sống
đến cuồng nhiệt và quan niệm nhân sinh mới chưa từng thấy trong thơ ca truyền thống.
Đoạn thơ đầu của bài thơ thể hiện cảm xúc: Với rộn ràng, say đắm của nhà thơ khi mùa
xuân đến.
Mở đầu đoạn thơ là ý nguyện của thi sĩ – một tâm hồn yêu đời:

“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Bằng biện pháp điệp ngữ, bài thơ thể hiện ý chí của chủ thể trữ tình cái “tôi” muốn tắt
nắng để đừng mất màu đẹp rực rỡ, buộc gió không cho hương bay đi, để được hưởng thụ
nó, thưởng thức nó. Ý nguyện của thi sĩ là muốn tác động vào vũ trụ để giữ nguyên vẻ
đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp thực của nó trong hiện tại, vẻ đẹp chóng mất, chóng phai tàn.
Đó là một ý nguyện chủ quan của thi sĩ. Điều đó dường như vô lí “xa rời cuộc sống”,
“thoát li hiện thực” nhưng nó lại có lí trong tâm hồn thi sĩ yêu đời, trân trọng và nâng niu
cuộc sống.


Tình yêu thiên nhiên – một tình cảm muôn đời của người nghệ sĩ nhưng sự cảm nhận của
Xuân Diệu – thi sĩ “mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh) thật lạ. Dường như
mọi giác quan của thi sĩ đều run lên đón nhận mọi âm thanh, mọi sắc màu, đón nhận cái
hữu tình và cả cái vô tình vấn vương của tạo hóa. Từ ý nguyện dẫn đến hành động; ý
nguyện giữ mãi cuộc sống, để hưởng thụ cuộc sống. Điều đó thể hiện nhiệt tình sống của
tác giả khi chợt đến mùa xuân.
Rồi đây nữa, hình ảnh của sự sống muôn màu sắc, thật tốt tươi, thật ngon lành đang dạt
dào ùa vào tâm hồn thi sĩ:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi”.
Điệp ngữ “này đây” liệt kê một loạt những hình ảnh đẹp miêu tả xuân: hoa của đồng nội
xanh rì; lá của cành tơ phơ phất; của yến oanh khúc hát tình ca say mê cuồng nhiệt trong
tình yêu; ánh sáng chớp hàng mi.
Trước mùa xuân tươi đẹp ấy ai mà không rung động? Vậy thì tâm hồn thi sĩ Xuân Diệu

sao lại không say trong chập chờn của “ong bướm” ngày xuân đang vào độ tràn đầy hạnh
phúc bên “yến oanh” quấn quýt để hưởng “khúc tình si”? Không sao xuyến đến nao lòng
sao được trước cái mát mẻ, tươi non của sắc “Hoa của đồng nội xanh rì” và lá non bên
“cành phơ phất”?
Những hình ảnh thơ thật chân thật, tươi nguyên và tràn trề nhựa sống. Nhà thơ lãng mạn
đón nhận sự sống thanh xuân bằng – cặp mắt “xanh non”, cặp mắt, “biếc rờn” ngơ ngát
và đầy vui sướng. Nhà thơ đã phát hiện ra biết bao vẻ đáng yêu, đáng say đắm của thế
giới thiên nhiên và con người trần thế rất đỗi bình dị và gần gũi này. Phát hiện ra nó, đón
nhận nó và cao hơn nữa là sự níu giữ sự sống bằng cả tấm lòng, bằng cả ý muốn chủ quan
của mình. Điều đó giải thích tại. sao “tôi muốn”, lí giải ý nguyện của mình vì: Mùa xuân
đẹp lắm.
Sự sống mùa xuân quanh ta thật hấp dẫn, thật say lòng người khiến tâm hồn thi sĩ như cất
lên tiếng reo vui:
“Mỗi buổi sớm thần Vui hàng gõ cửa”


Vẻ đẹp mùa xuân – một vẻ đẹp say đắm, xanh non, tươi trẻ, vẻ đẹp thực của trần thế rất
bình dị và gần gũi, nó không phải là vẻ đẹp ở chốn tiên thơ mộng, huyền ảo và hấp dẫn
mà Thế Lữ đã tìm ra:
“Trời cao – xanh ngắt – Ô kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai
Theo chim, tiếng sáo lên khơi
Lại theo dòng suối bên người tiên nga”
(tiếng sáo thiên thai – Thế Lữ)
Vẻ đẹp mà Xuân Diệu cảm thấy là vẻ đẹp của thiên nhiên quanh ta nhưng nó đẹp – một
vẻ đẹp tươi trẻ, say đắm, nó hợp với con người nơi trần thế và trong vẻ đẹp tươi trẻ của
mùa xuân ấy, cảm xúc của nhà thơ thật vui, rộn ràng và say đắm.
Niềm say mê ấy thật cuồng nhiệt và mãnh liệt biết bao khi thi sĩ thốt lên: “Tháng giêng
ngon như một cặp môi gần”.
Hình ảnh thơ độc đáo, hình ảnh so sánh rất Xuân Diệu. Nhà thơ đã so sánh khái niệm thời

gian “tháng giêng” – một hình ảnh vô hình với một hình ảnh cụ thể “cặp môi” và truyền
cho người đọc một cảm giác thật cụ thể “ngon”, “gần”.
Sau cái phút giây bồng bột cảm hứng ấy, nhà thơ chợt tỉnh lại được và tự ý thức được về
thời gian:
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
Một trạng thái đối lập mở ra một trạng thái tâm hồn mới: mùa xuân đẹp hấp dẫn làm cho
thi sĩ “sung sướng” nhưng rồi có cái gì đó khiến cho thi sĩ phải “vội vàng”, phải hưởng
thụ mùa xuân ngay lúc mùa xuân đến, phải hưởng thụ ngay cái vẻ say đắm của nó trong
hiện tại, phải tận hưởng mùa xuân khi nó còn tươi non, hấp dẫn và phải hưởng ngay khi
nó còn “mới bắt đầu” để sau này khi mùa xuân đã qua, mùa hạ đến không phải nuối tiếc,
ân hận.
Nhà thơ bộc lộ niềm say mê, vui sướng bất chợt khi mùa xuân vừa đến nhưng rồi nhà thơ
chợt tỉnh lại được, ý thức được về thời gian mà từ đó hưởng thụ mùa xuân ngay trong
thực tại.
Đoạn thơ làm nổi bật phong cách thơ Xuân Diệu: dùng diệp ngữ, sử dụng biện pháp thậm
xưng, hình ảnh đẹp, độc đáo, táo bạo. Thơ xưa nào đã mấy ai dám bộc lộ tiếng nói cương
quyết và dứt khoát như sự lên tiếng của Xuân Diệu? Và đã mấy ai dám so sánh mùa xuân


×