Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

GIÁ TRỊ NỘI DUNG và NGHỆ THUẬT Tác phẩm Lều Chõng của Ngô Tất Tố

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.21 KB, 12 trang )

GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ
THUẬT CỦA “LỀU CHÕNG” – NGÔ
TẤT TỐ
Giữa lúc thế giới nổi lên cuộc đại chiến lần thứ 2, thực dân Pháp dấy lên
phong trào phục cổ kêu gọi trở lại với nền văn hóa giáo dục cũ với
những giá trị tinh thần và tôn ti trật tự của giáo lí Khổng Mạnh, với
những hủ tục ở chốn hương thôn, với quan trường và đại gia đình phong
kiến lỗi thời, coi thời xưa là thời đại hoàng kim ca ngợi Nho giáo và đạo
đức phong kiến hòng ru ngủ dân ta quên đi nhiệm vụ trước mắt, cam
chịu ách nô lệ vĩnh viễn. Trước tình hình đó một số nhà văn đã rơi vào
khuynh hướng phục cổ này, người thì sáng tác người thì dịch thuật ấy
nấy đều thi vị hóa quá khứ đề cao đạo đức phong kiến. Giữa cái không
khí phục cổ thành kính trang nghiêm ấy “Lều chõng” ra đời như ném ra
một bức tranh màu xám với đường nét tối sầm
1.
a.

b.

TÓM TẮT TÁC PHẨM
Bối cảnh “Lều chõng” bắt đầu từ năm Minh Mệnh thứ 12 đến năm
Kiến Phúc (1884).Thời gian đó xã hội phong kiến lâm vào khủng
hoảng, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân diễn ra liên tiếp, thực dân
Pháp đe dọa nền độc lập nước nhà. Nhưng triều đình phong kiến vẫn
cổ hủ trong quy cách thi cử lạc hậu.Thí sinh muốn đỗ đạt thì phải dùi
mài kinh sử ở xứ Bắc mà Nam sử thì lại chỉ là thứ yếu. Họ chỉ cần
nhai lại các giáo lí và tuân thủ nguyên tắc “tôn Khổng, sùng Nho,
chuyên kinh, phục cổ”, những nguyên tắc giáo dục mà Khổng Tử đã
đề ra cho môn đệ của mình hai ngàn năm trước.
“Lều chõng” là cuốn tiểu thuyết phóng sự về giáo dục và khoa cử
thời phong kiến triều Nguyễn. Đào Vân Hạc – Nhân vật chính của


tiểu thuyết là một nho sĩ trẻ, tài hoa, học giỏi, phóng túng, khác
thường. Chàng đã phá lối học nhồi sọ, lối văn sáo rỗng, giả dối. Vân
hạc không ham khoa cử. Tuy vậy. chàng vẫn phải lẽo đẽo với đèn
sách, lều chõng để đáp lại sự trông đợi của họ hàng và đặc biệt chiều
theo sự khao khát được làm bà nghè bà cử của cô Ngọc - vợ chàng.
Đã mấy lần “Lều chõng” thi Hương, Vân hạc và những người bạn
thân của chàng vẫn bị trượt. Người do học lực yếu ( Nguyễn Khắc


Mẫn); người vi phạm trường quy ( Bùi Đốc Cung); còn Vân Hạc dù
các bài thi đều xuất sắc nhưng vì tuổi còn quá trẻ nên bị triều đình
đánh hỏng. Vân Hạc đã chán thi cử nhưng vẫn phải dùi mài đèn sách.
Đến khoa thi thứ 4, Vân Hạc may mắn đỗ thủ khoa, Nguyễn Khắc
Mẫn đỗ tú tài, và Bùi Đốc Cung đỗ cử nhân. Vân Hạc cùng Đốc Cung
sửa soạn, vượt qua chặng đường dài vô cùng vất vả, nguy hiểm vào
kinh đô Huế thi Hội. Giữa đường Đốc Cung ngã bệnh phải quay về.
Còn lại một mình Vân Hạc vào cung ứng thí. Chàng đỗ Hội nguyên.
Vào thi Đình, Vân hạc làm bài thi xuấy sắc. Ai cũng hi vọng chắc
chắn chàng sẽ đỗ Đình nguyên. Không ngờ chàng bị bắt giam vì
“phạm húy” trong bài thi. Tin dữ bay về quê Vân Hạc làm người nhà
chàng xáo xác. Giữa lúc mọi người đang vật vã lo lắng thì chàng trở
về. Chàng bị đánh hỏng thi và còn bị cách cả thủ khoa. Cùng lúc mọi
người hay tin nghè Long từng đỗ đạt, được bổ làm tri phủ, cũng vừa
bị đi đày làm lính nơi biên ải. Từ tấm gương của nghè Long và đặc
biệt là từ những tai họa cay đắng trên đường khoa cử của mình, Vân
hạc thấm thía bản chất vô nghĩa, phù phiếm của con đường cử nghiệp.
Chàng đoạn tuyệt với cuộc đời “Lều chõng”. Cô Ngọc vợ chàng cũng
cùng tỉnh ngộ, từ bỏ mộng làm bà thám, bà bảng, cùng chồng tương
đắc, cuộc sống ấm cúng thanh nhàn.
2. GIÁ TRỊ NỘI DUNG

2.1. Tố cáo chế độ khoa cử thối nát, lạc hậu.
Bằng kinh nghiệm của cuộc đời mình NTT đã miêu tả một cách tỉ
mỉ việc giảng dạy, học tập và lối thi cử thời phong kiến với tất cả sự thối
nát của nó.
+ Giảng dạy: tác giả đã miêu tả rất cặn kẽ những thứ lớp của thời đại
phong kiến từ lớp sơ học đến lớp đại học, mỗi lớp sẽ phải dạy những gì
học những gì. Trong lúc vận mệnh đất nước đang nghiêng ngả mà Cụ
bảng Tiên Kiều thì vẫn say sưa giảng Kinh Dịch, Trung Dung, Tống Sử
mà đâu có ngờ rằng cái học kinh viện, giáo điều mà cụ truyền bá lại là
cái học đưa đến sự mất nước. Ngô Tất Tố đã nêu rõ công tội của chế độ
khoa cử phong kiến : “chính nó đã làm cho nước Việt Nam trở nên một
nước có văn hóa rồi lại chính nó lại đưa nước Việt Nam đến cõi diệt
vong”. “Những ông ngồi trong miếu đường làm rường cột cho nước


nhà, những ông ở nơi tuyền thạch, làm khuôn mẫu cho đạo đức phong
hóa (ý chỉ nho sĩ PK) đều ở trong đám “lều chõng” mà ra. Vì nó nước
Việt Nam một thời kì rất dài đã hiện ra nhiều cảnh tượng kì quái, có thể
khiến người ta phải cười, phải khóc, phải rùng rợn hồi hộp”.
+ Học tập: Thiếu niên lúc bấy giờ đã phải nhai đi nhai lại những câu
chữ hán rút ra từ thần thoại Trung Quốc:
Hỗn mang chi sơ
Vị phân thiên địa
Bàn Cổ chủ xuất
Thủy phân âm dương

Thiên tử trọng hiền hào
Văn chương giáo nhĩ tào
Khiến Vân Hạc không khỏi xót xa mà nghĩ thầm: “ Không hiểu vì sao
người ta lại cứ bắt tội trẻ con phải học những sách quái gở? Những đứa

độ tám chính tuổi, mới vỡ lòng được bốn tháng còn biết đời “hỗn
mang” là cái gì, kẻ “hiền hào” là người thế nào vậy mà chúng nó cứ
phải học thuộc lòng, thật là một sự khổ cho con trẻ”
Lên đến trung học và đại học thì phải học kinh, truyện, sử - Bắc sử (tức
sử TQ) còn văn bài thì phải làm thơ, phú, văn sách, kinh nghĩa, biểu
v.v….những loại văn thời nhà Trần cách đó 600 năm về trước. Việc học
tập chủ yếu là học thuộc lòng, chuộng hình thức, lấy cổ nhân làm gương
mẫu, nên hình thức văn chương rất sáo , còn nội dung tư tưởng thì rất
giáo điều. Hậu quả của cách học khuôn sáo, thoát ly thực tế ấy đã làm
cho nghè Long được bổ làm tri phủ nhưng ít lâu sau có chiếu chỉ sai anh
ta đi dẹp giặc thì anh ta đành thất bại.


+ Thi cử: nếu như các nhà văn cùng thời khác thi vị hóa chế độ khoa cử
lúc bấy giờ thì “Lều chõng” đã lột trần lối khoa cử mục nát, lỗi
thời, phức tạp của XHPK bằng ngòi bút miêu tả hết sức tỉ mỉ từ
những cảnh thi hương, thi hội cho tới thi đình. Khi làm bài thi các
thí sinh không chỉ kiêng tên húy của vua chúa mà còn phải kiêng
tên húy của Đường Thái Tôn, Tống Thái Tôn đến những tên của
cung điện, lăng tẩm trong kinh cũng không được dùng đến, không
được phạm khiếm đài, khiếm tỵ, khiếm trang, bất túc, bạch tự,
thiệp tích, tì ố.
*Chú thích:
 “Khiếm tỵ”: như bài bị đánh hỏng của Đốc Cung:
Tam bách niên xã tắc chi trường
Ninh phi lại ư thử tai
 Trường Ninh là tên cung của Hoàng Thái Hậu, tuy 2 chữ ở hai
câu nhưng nó đứng liền nhau thì cũng như ở 1 câu cho nên

Nếu mắc phải những lỗi này nhẹ thì bị đánh hỏng nặng thì phải chịu tù

tội.
Ngồi làm bài trong trường thi thì sinh không chỉ lo ngáy ngáy việc
pham húy mà còn phải chịu đựng trăm cực hình khác. Có năm mưa to
gió lớn nước ngập vào trường thi “ngồi trên chõng cũng không khác gì
ngồi dưới đáy ao, đít áo, đũng quần nước bùn thấm vào bê bết”. Mấy
trăm con người ai cũng như ai “mặt tái mét, môi thâm sì quần áo lấm bê


lấm bết như người đào dưới đất lên”. Vân Hạc ngồi ngẫm mấy vần phú
vừa rét run lẩy bẩy vừa nghĩ: “Thi với cử thế này nhục hơn con chó. Dù
có đỗ đến ông gì, cũng không bỏ công…”. Thêm vào đó là sự gian lận
trong khi thi, kẻ học dốt có thể thuê người làm gà cho mình, như Đức
Chinh một cậu ấm con quan lớn dốt đặc cán mai đã thuê Đốc Cung và
Vân Hạc làm gà nên cũng vào được Tam trường, thậm chí có thể giấu
những sách in bản nhỏ li ti để đem vào trường chép. Còn có cả sự đố kỵ
ở chốn quan trường và triều đình vì thế Vân hạc tuy có tài nhưng không
được lấy đỗ thủ khoa vì các ngài cho rằng anh còn ít tuổi sợ đỗ sớm sinh
ra kiêu ngạo nên lưu lại khoa sau mới cho đỗ.
Thấp thoáng sau mỗi hàng mỗi chữ là một nụ cười chế giễu có khi là
tiếng cười ra nước mắt. Khi viết “Lều chõng” NTT không chỉ có ý ghi
lại một thiên phóng sự về một chế độ giáo dục khoa cử mục nát dưới
triều Nguyễn bên cạnh đó nhà văn còn muốn miêu tả tấn bi – hài kịch
của lớp nho sĩ trong XHPK.
2.2. Miêu tả tấn bi – hài kịch của lớp nho sĩ trong XHPK
Dưới ngòi bút phê phán sắc sảo của NTT những quan nghè, quan
phủ đều mất hết vẻ uy nghiêm trang trọng. Trường thi được miêu tả như
sân khấu rạp tuồng, các quan giám khảo thì múa may giống hệt những
quan phường chèo: “sáu là cờ khâm sai, quan chánh chủ khảo bệ vệ đi
ra với bốn chiếc lọng xanh khúm núm theo sau”..”cái bối tử hình con
công, cái vành đai đột chỉ vàng, cái gấu áo thêu thủy ba, cái xiêm xanh

viền chân chỉ hạt bột và đôi ủng đen có đôi bướm bạc long lanh” thêm
cây hốt ngà trước ngực “với sự nâng niu của hai bàn tay xúng xính
trong đôi tà áo rộng như cái cống” “làm cho ngài giống hệt như những
quan phường chèo”. Còn cái ông tiến sĩ thì khi cờ biển vinh quy về làng
thì lại nhìn giống như “những ông nghè bằng giấy mà hàng năm đến
rằm tháng 8, người ta vẫn thấy ở cỗ “trông trăng” ”. Dưới ngòi bút
châm biếm của NTT hết thảy những ông quan phường chèo, những ông
ngèh giấy đó đều giống nhau: dáng điệu trịnh trọng bệ vệ, toàn thân
cứng nhắc ngay đuỗn, đó là cái vẻ bên ngoài của một người luôn luôn
nói đến lễ nghĩa và mọi thứ tôn ti trật tự.
Nếu như Chu Thiên thi vị hóa, lý tưởng hóa hình ảnh các nhà nho
thì NTT bóc trần tất cả màu mè vàng son giả dối làm hiện ra trước mắt


chúng ta một hình tượng chân thật của lớp nho sĩ. Sĩ tử thì như những
vai hề, con rối, chẳng mảy may nghĩ tới đạo thánh hiền, đến “tu tề trị
bình” mà lăn vào thi cử chỉ vì những danh vọng nhỏ nhen. Họ xô đẩy,
chen chúc, hối lộ, thông lương, gian lận giữa trường thi. Họ sẵn sàng cúi
đầu, uốn gối tuân theo những quy chế, phép tắc kì dị và vô lối cốt giành
giật cho được mảnh bằng tiến thân. Họ bê tha đến thảm hại: hút thuốc
phiện, chơi bời hưởng lạc rồi đánh chửi nhau… Người thực tài bị đánh
trượt, bị vùi dập tàn nhẫn, vô lí. Tại sao chế độ khoa cử thời này nhiều
khổ cực lắm đắng cay nhưng vẫn thu hút hàng vạn sĩ tử? Các bạn đã
từng nghe câu “công danh ai dứt lối nào cho qua”? như đã ám ảnh tất
cả mọi người trong giới nhà nho, các nhà nho muốn tiến thân thì không
còn con đường nào khác ngoài con đường khoa cử mục nát lỗi thời ấy,
nó là nguồn duy nhất đào tạo và tuyển dụng nhân tài cho XHPK. Hơn
thế nữa chế độ phong kiến còn dành cho những ông tiến sĩ, ông nghè
những quyền hạn đặc biệt như: “hàng tổng hàng huyện đều phải đem cờ
đem quạt đến tận kẻ chợ mà đón” lại còn được “hàng huyện làm cổng

hàng tổng làm nhà” cho nên hầu hết các nho sĩ không phải vì dân vì
nước mà trước hết là để vinh thân phì gia. Chính cái lý tưởng cá nhân
ích kỷ đó đã làm cho họ trở nên nhỏ bé tầm thường ti tiện, đôi khi biến
họ thành một nhân vật hài kịch. Và cũng vì lẽ đó mà một người như Vân
Hạc vốn đã chán nản với thi cử mà vẫn cứ đeo đẳng để mong có 1 ngày
“võng anh đi trước võng nàng đi sau” và để “một người làm quan cả họ
được nhờ”. Bởi thế có những cụ già ngoài 80 râu tóc bạc phơ, trời rét
thấu xương vẫn cứ đi thi cho đến khi chết cứng trong lều. Chính đó là 1
trong những nguyên nhân làm cho chế độ PK triều Nguyễn ngày càng đi
vào con đường suy vong.
Bên cạnh tấn hài kịch “Lều chõng” còn vẽ lên một tấn bi kịch đau
xót thương tâm của lớp nhà nho trí thức dưới chế độ phong kiến. Một
ông cụ già khóc nức nở trong nhà Thập Đạo, vì đi thi đã 10 khoa, bán
hết nhà cửa ruộng vườn, bây giờ lại bị ngoại hàm. Một ông già khác, đã
6 khoa thi hương, râu tóc bạc phơ, ốm yếu không mang nổi lều chõng
vẫn cố lê cái thân tàn vào trường để rồi chết gục ở trong đó. Nhiều vị
anh hùng hỏng thi rồi uống rượu say rồi chửi đổng hoặc ném gạch đá
vào trường có người nôn thốc nôn thảo cả đường cái, có người lăn
xuống dọc đường thi nhau mà khóc mà gào. Thậm chí có anh hỏng kỳ đệ


tam vào hàng ghẹo gái bị xé tan cả khăn lượt, áo the, ông cử nhân thì đi
chiêm vợ người khác như một kẻ vô lại. Họ là những môn đệ của Khổng
Tử lúc bấy giờ quên hết cái gì gọi là lễ nghĩa, nho phong, sĩ khí. Đến cả
Vân Hạc, Đốc Cung phóng túng đến thế lúc nghe tin thi hỏng cũng
không khỏi nghẹn ngào, nức nở làm cho “quang cảnh tiệc rượu như
quang cảnh đám ma của kẻ bạo tử, toàn những người khóc người mếu”.
Ngòi bút NTT đã thẳng thắng lên án “nhiệm vụ của chế độ khoa cử” như
một cái máy mài dũa làm cho con người mất hết góc cạnh trở nên tròn
trĩnh và cuối cùng chỉ biết cuối đầu phục tòng, những con người được

quy tắc nghiệt ngã của chế độ khoa cử PK đó đào tạo nên được coi là
mẫu mực nhưng thực chất chỉ là những kẻ bất tài vô dụng. Giữa những
con người sống yên phận chỉ biết cuối đầu phục tòng ấy bỗng xuất hiện
những anh chàng như Vân Hạc - vốn thông minh, có lương tri và học
giỏi, tài hoa, phóng túng nhưng lập tức bị cái chế độ khoa cử thối nát ấy
cho vào khuôn phép và mài giũa cho bớt đi những cái gì gọi là bản lĩnh
khí phách, là suy nghĩ sáng tạo, là những gì bướng bỉnh, ngông nghênh
của tuổi trẻ: “Đào Vân Hạc quả là tay đại tài, sự học hơn hẳn Nguyễn
Chu Văn, đáng được đỗ đầu khoa này. Chỉ hiềm tên ấy hãy còn trẻ tuổi,
văn chương không khỏi có chỗ ngông nghênh. Nếu lấy đỗ cao, sợ sẽ
nuôi thêm cho y cái bệnh kiêu ngạo, thì khó trở nên một người đại dụng.
Triều đình trong sự tác thành nhân tài, không muốn cho kẻ có tài đến
nỗi uổng phí. Vậy khoa này hãy cho tên ấy hỏng tuột, để mài giũa bớt
những khách khí thiếu niên của y. Rồi đến khoa sau thì sẽ cho đậu giải
nguyên.” Anh vốn không ham dạnh lợi nhưng trước sự khát khao làm bà
nghè, bà thám của vợ anh đã bị cuốn vào guồn thi cử đến suýt bị cầm tù
vì “phạm húy” và bị cách tuột cả thủ khoa thì anh mới thật vỡ mộng.
Cùng lúc ấy nghè Long cũng bị cách chức tri phủ phải đi “tiền quân hiệu
lực” lúc này cô Ngọc vợ Vân hạc mới chịu yên tâm làm 1 chị đồ.
Rõ ràng ta thấy chế độ thi cử nói riêng, chế độ phong kiến nói chung
đã không mạng lại hạnh phúc thật sự cho một người nào cả. Cuộc đời
Vân Hạc, Đằng Long là những đại diện cho cái bi kịch của những kẻ có
tài trong XHPK như câu “tài mệnh tương đố”.
Ngô Tất Tố đã giáng những đòn rất mạnh vào đầu não chế độ phong
kiến và những kẻ muốn lấy đạo Nho làm nền tảng “tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ”. Tác phẩm đã dựng lại một cách sinh động, chân thật bức tranh


vừa bi thảm vừa khôi hài của chế độ giáo dục và khoa cử mục nát dưới
triều Nguyễn. Có thể nói tác phẩm mang giá trị sâu sắc về tư liệu lịch sử

và xã hội.
2.3. Những phong tục, tập quán sinh hoạt nơi làng xã
Tác phẩm “Lều chõng” ngoài những giá trị về mặt nội dung vừa nêu
trên còn cung cấp cho chúng ta một số tư liệu hữu ích về những phong
tục tập quán sinh hoạt nơi làng xã như:
+ Phong tục khoa cử: miêu tả lại một cách tỉ mỉ phong tục khoa cử của
chúng ta thời xưa từ cách thức tổ chức kỳ thi, cách ra bài, cách phát bài
thi, quyền hạn của ban giám khảo… đến những luật lệ khắt khe của khoa
cử trong ba kỳ thi: thi hương, thi hội, thi đình.
+ Tục ăn trầu VD: Trong lễ vinh quy rước ông nghè Long về làng,
phong tục ăn trầu được nhắc đến nhiều lần : “Xin mời bà con ăn trầu”
hay “Hai thúng cau khô để đó dần dần biến thành đống bã
trầu”...Miếng trầu còn được hiện hữu nhiều lần trong đám cưới của Đào
Vân Hạc: “Người ta cắt hai cô con gái bưng hai quả trầu ra tận ngã ba
đón họ nhà trai”
+ Hút thuốc lào: mỗi nhà đều có một bình điếu. Cụ Bảng Tiên Kiều, cụ
Nghè Hoàng, cụ Nghè Đặng đi đâu cũng không quên cái điếu, trong tác
phẩm ta thường gặp hình ảnh của một số văn sĩ đem ống điếu vào trường
để tỉnh táo làm văn...
+ “Nhà trò”, ở đó được xem đánh cờ, đánh tổ tôm, đánh kiệu…
+ Tục tổ chức tế tự tang ma, việc cưới xin, việc vui mừng, lễ rước quan.
GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT
3.1.
Bố cục: phẩm có đôi chỗ hơi lỏng lẻo, như lúc cô Ngọc ưng thuận
lấy Vân Hạc không hề có một sự đấu tranh tư tưởng, và tương tự
Vân Hạc cũng ngỏ lời với cô mà không hề suy tính.
3.2.
Ngòi bút miêu tả tỉ mỉ, nghệ thuật phản ánh hiện thực tinh vi.
Chẳng hạn cảnh "lều chõng": "Đêm càng khuya học trò kéo đến
càng nhiều. Ai vào vi nào lật đật tìm đến cửa vi ấy….dưới bụng thì

cái yên mộc hay cái tráp sơn. Bấy nhiêu đồ vật, nặng có, nhẹ có,
lớn có, bé có, dài có, ngắn có, hết thảy xúm lại đu cả lên cái cổ
yếu ớt của các ông thư sinh"  qua phương thức miêu tả của Ngô
3.


Tất Tố người ta không thấy sự trang nghiêm của trường thi và vẻ
hăm hở của sĩ tử vào ứng thí, chỉ thấy cảnh nhếch nhác, bệ rạc, "lôi
thôi". Ngầm châm biếm, mỉa mai các nho sinh đang cố kiết bám
theo con đường công danh cũ
3.3.
Gần với tiểu thuyết truyền thống, cũng kể theo trình tự thời gian,
cũng có lời đoán trước số mệnh (cô Ngọc bói “Kiều”) nhưng kết
thúc lại không đẹp đẽ như trong các truyện Nôm
3.4.
Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tương đối sâu sắc, chẳng hạn
như đoạn miêu tả tâm lý cô Ngọc, sau khi uất ức đến ngất đi trước
cảnh vinh quy của nghè Long – người mà lẽ ra là chồng cô – cô cứ
nằm lẩn quẩn trên gường bệnh với quyển Truyện Kiều: “Cảnh
tượng của đám vinh qui hôm nọ thình lình lại hiện trước mắt. Kìa
lá cờ vàng phấp phới trước gió. Kìa cái biển gỗ sơn son thếp vàng
chói lọi dưới ánh mặt trời….."Số kiếp mình thật không ra gì. Cờ
đã đến tay, ai ngờ lại về kẻ khác..Cô không định nghĩ như thế.
Nhưng mấy câu ấy nó cứ vơ vẫn kéo đến và trở đi trở lại mãi mãi
trong trí”. Hoặc đoạn miêu tả tâm trạng của cô nghè Long vẫn mãi
nghĩ xem mình nên ngồi thể nào cho ra dáng bà nghè, cho tế nhị,
duyên dáng trong ngày vinh quy của chồng.
3.5.
Ngôn ngữ: là một trong những đóng góp đặc sắc nhất
3.5.1. Ngôn ngữ trần thuật theo trình tự thời gian.

VD: đoạn miêu tả kỳ thi đệ nhất của hai nhân vật Vân Hạc, Khắc
Mẫn: "Khoảng đầu canh ba, tiếng ồn ào bắt đầu nổi ở nẻo xa. Rồi
nó dần dần gần lại. Rồi nó dần dần rõ thêm. Rồi nó dần dần đưa
đến những đám đèn đuốc lập lòe như đám ma chơi (...) Sang đầu
canh tư, các cây đình liệu đều cháy hết già một nửa (...) Mặt trời
mọc. Các cây đình liệu cũng vừa cháy hết. Vũ trụ đã khôi phục
cảnh tượng xinh đẹp và mông mênh của ban ngày. Mấy nghìn học
trò của vi giáp đã được vào trường gần hết (...) Mặt trời lên khỏi
đầu bức phên nứa ở phía đông trường, chàng vừa viết xong hai
câu phá thừa bài Truyện (...) Gần trưa, chàng đã viết xong một bài
Luận ngữ, một bài kinh Thi và gần hết một bài kinh Dịch (...) Mặt
trời tà tà, Khắc Mẫn viết xong bài Mạnh Tử (...) Mặt trời lui
xuống đầu bức phên nứa phía tây. Khắc Mẫn mới giáp đến đoạn
trung cổ của bài kinh (...) Trời lại tối đen như mực mấy cây đình


liệu lại bị đốt cháy đùng đùng. Cảnh tượng đêm qua lại diễn lại
một lần nữa" (*Lưu ý: không đọc hết VD)  giúp cho người đọc
hình dung một cách dễ dàng, cụ thể diễn biến trong trường thi.
3.5.2.Ngôn ngữ trần thuật theo trình tự sự kiện:
"Cuộc hành lễ bắt đầu. Đấy mới là lễ bái vọng quan Chánh Chủ
khảo xúng xính vào trước. Qua năm lần hương bái, ngài đi lùi ra
phía bên hữu. Đến quan phó Chủ khảo. Cũng đủ hương bái năm
lần, rồi ngài cũng lui xuống và đứng sang phía bên tả. Rồi đến
các ông Ngự sử, Đề điệu, Phân khảo, Giám khảo, Phúc khảo, Sơ
khảo, ai lớn vào trước ai nhỏ vào sau, mỗi ông cũng phải hương
năm lần và bái năm lần.. Hết bộ quan trường, đến lượt quan Tổng
đốc sở tại và văn thân các tỉnh. Cũng như hai ông Chánh phó chủ
khảo, các ông sau này lễ xong cũng phải đứng ra hai bên. Ông
nào ông ấy hai tay chắp ngực, nét mặt nghiêm trang... Bấy giờ

mới đến các ông Cử mới. Đây là lễ tạ ơn nhà vua lấy đỗ. Cố
nhiên mỗi người cũng phải năm lễ. Hết hai trăm rưởi cái lên gối,
xuống ngồi, các ông tân khoa cũng đứng giàn ra hai dãy. Bây giờ
đến lễ tạ ân mũ áo. Hai nhăm các ông tân khoa lại sì sụp một
trăm hai nhăm cái. Lần này đến lễ tạ ơn cho yến. Mỗi vị tân khoa
lại phải phủ phục thêm năm lượt nữa."  cho độc giả dễ hiểu và
theo dõi bởi vì NTT đã từng nói “trình độ độc giả của mình còn
kém, viết như bác chỉ để một vài anh trí thức đọc thôi, còn đa số sẽ
không hiểu mô tê gì cả"
3.5.3.Sử dụng từ ngữ chỉ thiên nhiên làm thước đo thời gian:
chỉ trong hai trang sách mà từ "Mặt trời" xuất hiện ba lần, nhằm để
thông báo thời gian đang dịch chuyển trong ngày: “Sáng: Mặt trời
ở mái nhà thập đạo nhòm xuống, ánh nắng xuyên qua lỗ cót,
khoang khủa in vào mặt chiếu(...) Chiều: Mặt trời tà tà, hai nhăm
ông cử đã đến đủ mặt. Trong đó có đến bảy ông đều là học trò cụ
Bảng Tiên Kiều(...)Chiều tối: Mặt trời sắp lặn, cả bọn mới về đến
nhà" . Việc sử dụng từ ngữ chỉ thiên nhiên làm thước đo thời gian
là thi pháp có tính ước lệ của văn học trung đại. Ta có thể bắt gặp
những trường hợp tương tự trong Truyện Kiều:
"Tà tà bóng ngả về tây"
"Mặt trời gác núi chiêng đà thu không”


“Gương nga chênh chếch dòm song"
3.5.4.Cấu trúc ngôn ngữ nhịp nhàng, đăng đối theo lối văn biền
ngẫu: "Rồi đến ông cầm trống khẩu. Rồi đến võng của quan nghè. Đi
kèm ở hai bên võng, hai người rước đôi lọng xanh chóp bạc, hững hờ
dương ở cạnh mũi võng. Và thêm vào đó, bên này một người vác chiếc
quạt lông, bên kia một ông lễ mễ cắp cái tráp sơn đen và xách một chiếc
ống điếu xe trúc. Sau võng, phấp phới năm lá cờ vuông, đủ cả năm sắc

xanh, đỏ, vàng, trắng và tím. Đứng đúng như năm cái chấm ở mặt "ngũ"
của con thò lò, năm ông vác cờ đều đi giầy Tàu, mặc áo nhiễu điều, đội
mũ đuôi én, và đều khuỳnh tròn hai tay để giữu lấy cây cán cờ cắm trên
chiếc cối gỗ treo ở trước bụng. Rồi đến ông cầm kiểnh đồng. Rồi đến
ông võng của bà Nghè”…”Cũng như võng của quan Nghè, võng của bà
Nghè cũng được hộ vệ bằng đôi lọng xanh, chỉ kém có cái chóp bạc. Rồi
đến võng của cố ông. Rồi đến võng của cố bà"  Tác giả đã vận dụng
nó để tả cảnh đám rước, một đám rước rất đông, cồng kềnh nghi lễ đang
di chuyển.
3.5.6.Sử dụng nhiều từ ngữ chuyên biệt của khoa cử, chủ yếu là từ
Hán Việt: "Mấy ông sơ khảo ấy mà bị phù xuất là tại phê văn không
đúng. Theo lệ, những ông quan trường chấm văn tuy vẫn được mỗi
người mỗi ý, nhưng các dấu phê phải na ná với nhau, không được chênh
nhau qúa xa. Thí dụ như ông Sơ khảo phê "liệt" rồi thì ông Phân khảo
phê "thứ" hoặc phê "bình" thì không sao, nếu ông Phân khảo phê
"ưu" ấy là những ông chấm trước đã phê "liệt" đều phải phù xuất. Hay
là các ông Sơ khảo phê "ưu" rồi, ông chủ khảo phê "bình" hoặc phê
"thứ" thì không việc gì, nếu ông chủ khảo phê "liệt" thì ông chấm trước
phê "ưu" cũng bị đuổi ra khỏi trường. Bởi vì "ưu" với "liệt" cách nhau
rất xa, khi nào cùng một quyển văn mà lại có thể người này phê "liệt"
người kia phê "ưu"? Mấy ông sơ khảo bị phù xuất trong khoa thầy tôi
đi chấm trường, nghe đâu chỉ vì mấy quyển vì các ngài phê "liệt", đến
ông Phân khảo lại phê "ưu",  sử dụng với mật độ dày đặc, cung cấp
cho người đọc một cách chính xác qui tắc chấm văn của triều đình
phong kiến.
3.5.7.Ngôn ngữ nghệ thuật mang đậm sắc thái ngôn ngữ nông thôn
Bắc bộ VN:


+ Vận dụng khéo léo phương ngữ Bắc Bộ: “"- Ừ,các con đã về đấy ư?

Đẻ đương có ý mong đợi. Nếu như hôm nay chúng bay không về, thì
ngày mai có lẽ đẻ phải cho người đi gọi. Vân Hạc sửng sốt: - Thưa đẻ
có việc gì ạ? Bà Cống vội đáp: - Không có việc gì đâu. Vợ chồng hãy
vào trong nhà mà nghỉ. Đi đường lúc nắng có mệt lắm không? Cô Ngọc
lễ phép: - Thưa đẻ, cũng không nắng lắm. Vì ở trên đường có gió luôn"
 "Đẻ" là chỉ "mẹ" được sử dụng phổ biến ở một số vùng như Vĩnh
Yên, Phú Thọ, Bắc Ninh... làm cho đoạn đối thoại giữa ba mẹ con Văn
Hạc trở nên gần gũi thân mật hơn. Đồng thời, nó cũng đã góp phần mô
tả ngôn ngữ sinh hoạt, giao tiếp của con người vùng đồng bằng Bắc Bộ
nước ta.
+ Vận dụng nhiều thành ngữ quen thuộc với người nông dân: "Bàn ra
nói vào", ''Danh chính ngôn thuận", "Chửi chùm chửi lợp", "Chấp chới
như quạ đậu chuồng lợn", "Ếch đớp cái hoa mướp"
 Nờ những nổ lực hết mình NTT đã đạt được những thành tựu nhất
định trên phương diện ngôn ngữ nghệ thuật.
Từ thời điểm nó ra đời cho đến nay đã để lại nhiều bài học giáo dục
manh mẽ, nhờ đó mà giá trị của tác phẩm càng được nâng cao hơn. Nhìn
chung, “Lều chõng” đã có nhiều đóng góp to lớn về mặt nội dung và
nghệ thuật cho sự nghiệp sáng tác của NTT nói riêng và nần VHVN nói
chung.



×