Tải bản đầy đủ (.pdf) (134 trang)

Các yếu tố tác động đến phát triển bền vững doanh nghiệp thủy sản Bạc Liêu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 134 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

PHAN VĂN ĐÀN

CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
DOANH NGHIỆP THỦY SẢN BẠC LIÊU

NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ: 62 34 01 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. LÊ THANH HÀ

TP HỒ CHÍ MINH, 2016


1
Chương 1

TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN
DOANH NGHIỆP THỦY SẢN TỈNH BẠC LIÊU VÀ
VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN

1.1 Giới thiệu
Ở Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển khác, doanh nghiệp đóng
một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Với quan
điểm phát triển doanh nghiệp là chiến lược lâu dài, nhất quán và xuyên suốt trong
Chương trình hành động của Chính phủ, chính sách phát triển doanh nghiệp được
coi là trọng tâm góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, đóng vai trò quan trọng tạo
việc làm, xóa đói giảm nghèo và thực hiện tốt công tác an sinh xã hội. Tại các nước


phát triển và đang phát triển, Chính phủ các nước này đều xác định vai trò quan
trọng, lâu dài của doanh nghiệp trong nền kinh tế và công tác xúc tiến, phát triển
doanh nghiệp được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong chính sách
phát triển kinh tế quốc gia. Các nước trong khu vực như Malaysia, Thái Lan, v.v…
và cả Việt Nam đều xây dựng Chiến lược 10 năm và Kế hoạch 5 năm phát triển
doanh nghiệp. Hiện nay, doanh nghiệp tại Việt Nam chủ yếu là loại hình doanh
nghiệp nhỏ và vừa chiếm trên 97% số lượng doanh nghiệp trên địa bàn cả nước
(Cục Phát triển doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2011).
Rõ ràng, việc phát triển doanh nghiệp theo truyền thống có ổn định, lâu dài
hoặc phát triển bền vững doanh nghiệp sẽ mang lại ổn định, lâu dài hơn tại nhiều
địa phương trong một thời gian dài là một điểm của cuộc tranh luận và tranh cãi ở
các nước đang phát triển nói chung, đặc biệt là Việt Nam. Như vậy, việc xem xét
tính chất và tìm hiểu các yếu tố tác động đến phát triển bền vững doanh nghiệp là
vấn đề nghiên cứu của luận án. Thứ nhất, đánh giá tổng quan tình hình phát triển
doanh nghiệp thủy sản Bạc Liêu và rút ra một số nguyên nhân, hạn chế phát triển
doanh nghiệp thủy sản; Thứ hai, tìm hiểu một số vấn đề nghiên cứu, khoảng trống
nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu;
Cuối cùng thảo luận kết quả, đóng góp mới và kết cấu của luận án.


2
1.2 Tính cấp thiết và khoảng trống nghiên cứu
Doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam đóng một vai trò quan trọng trong sự phát
triển kinh tế đất nước. Quy mô của doanh nghiệp thủy sản ngày càng mở rộng và
vai trò doanh nghiệp thủy sản cũng tăng lên không ngừng trong nền kinh tế quốc
dân. Doanh nghiệp thuỷ sản là một ngành đặc thù từ khâu sản xuất, chế biến và xuất
khẩu bao gồm nhiều lĩnh vực hoạt động mang những tính chất công nghiệp, nông
nghiệp, thương mại và dịch vụ, cơ cấu thành một hệ thống thống nhất có liên quan
chặt chẽ và hữu cơ với nhau. Đông thời vai trò ngày càng quan trọng trong sản xuất
hàng hoá phục vụ nhu cầu tiêu dùng thực phẩm trong nước và xuất khẩu thu ngoại

tệ. Doanh nghiệp thuỷ sản không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp
thực phẩm cho người dân, mà còn là một ngành kinh tế giải quyết việc làm cho
nhiều lao động, nhất là lao động nông nhàn ở các tỉnh đặc biệt ở những vùng nông
thôn và vùng ven biển. Doanh nghiệp thủy sản đã tham gia đóng góp nhiều vào các
chương trình xóa đói giảm nghèo, công tác an sinh xã hội tại địa phương và được
xem là trụ cột xã hội công bằng của đặc trưng phát triển bền vững. Tuy nhiên các
doanh nghiệp thủy sản đóng vai trò rất quan trọng trong chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh, đồng thời doanh nghiệp thủy sản của tỉnh Bạc Liêu là một trong
những tỉnh có thế mạnh về chế biến xuất khẩu thủy sản trong khu vực đồng bằng
sông Cửu Long và cả nước, từ đó doanh nghiệp thủy sản mang tính đặc thù hơn so
với các loại doanh nghiệp khác trong tỉnh. Nhưng doanh nghiệp thủy sản tỉnh Ba ̣c
Liêu hiện nay chưa hướng đến phát triển bền vững, như chưa giải quyết mối quan
hệ những tồn tại bên trong doanh nghiệp (lực lượng lao động chưa ổn định, áp lực
về quản lý, trách nhiệm sản phẩm, áp lực giải quyết về môi trường) và còn đối mặt
nhiều thách thức vào yếu tố bên ngoài (thiếu khách hàng, thị trường, thiếu nhu cầu
các bên liên quan trong hợp tác kinh doanh, chính sách hỗ trợ nhà nước và áp lực
vấn đề xã hội như tham gia công tác an sinh xã hội tại địa phương).
Hiện nay, có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến phát triển bền
vững và điển hình như nghiên cứu của Springett (2003a, 2005), Russell et al (2006)
và Byrch et al (2007) đều đưa ra báo cáo nhấn mạnh bởi kinh doanh trên các khía
cạnh kinh tế của phát triển bền vững doanh nghiệp. Đối với nghiên cứu khả năng
phát triển bền vững doanh nghiệp: Ứng dụng với lý thuyết hiệp lực cộng đồng (QU


3
Feng geng 2007) kết quả nghiên cứu phát triển bền vững doanh nghiệp cần chú
trọng đến mối quan hệ năng lực ngành công nghiệp, công nghệ, năng lực phát triển
thể chế và thị trường và sự tương tác của chúng để thực hiện phát triển bền vững
doanh nghiệp. Theo Kris Law (2010) lại đưa kết quả nghiên cứu các yếu tố tác động
đến phát triển bền vững: Các công ty công nghệ cao sản xuất tại Đài Loan cho thấy

rằng các công ty sản xuất công nghệ cao công nhận tích cực thúc đẩy tác động của
các yếu tố phát triển bền vững từ quản lý, yếu tố nội bộ và bên ngoài. Nhưng theo
Kent Fairfield, Joel Harmon & Scott Behson (2011) lại nghiên cứu tích hợp doanh
nghiệp bền vững là các mối liên kết giữa các ảnh hưởng bên ngoài và quá trình
hướng đến quyết định phát triển bền vững, cho phép tổ chức cơ bản, chất hạn chế
nội bộ, phương thức bền vững và hiệu suất. Đến năm 2013 có một công trình
nghiên cứu điển hình về phát triển bền vững doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực
Australia: Một khung phân tích, kết quả giải quyết mối quan hệ giữa phát triển bền
vững doanh nghiệp từ các yếu tố bên trong và bên ngoài (Parisa Salimzadeh, Jerry
Courvisanos and Raveendranath Ravi Nayak, 2013), được xem là một khung lý
thuyết cơ bản nhất mà tác giả đã nghiên cứu qua. Yếu tố bên trong doanh nghiệp (1.
Hiệu suất, 2. Nhân viên, 3. Chủ sở hữu/Người quản lý) và Yếu tố bên ngoài doanh
nghiệp (1. Chinh phủ, 2. Khách hàng, 3. Các bên liên quan). Khung lý thuyết này
chưa quan tâm đến trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp, sự phòng chống ô
nhiễm môi trường thuộc về yếu tố bên trong của doanh nghiệp, và khung lý thuyết
này cũng chưa quan tâm đến yếu tố xu hướng thị trường và công tác an sinh xã hội
của doanh nghiệp phải, đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phải có trách
nhiệm đối với cộng đồng nơi doanh nghiệp đang hoạt động. Vì vậy, từ gợi ý kết quả
nghiên cứu đã giải quyết một số vấn đề còn hạn chế của khung lý thuyết và cải thiện
hoạt động của các doanh nghiệp hướng đến phát triển bền vững. Sự cần thiết một
khung lý thuyết phân tích các yếu tố tác động phát triển bền vững doanh nghiệp của
Parisa Salimzadeh, Jerry Courvisanos and Raveendranath Ravi Nayak (2013) và
phải được bổ sung vào mô hình lý thuyết phát triển bền vững và vận dụng mô hình
này kiểm định tại một địa phương cụ thể ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Đây
cũng là khoảng trống khung lý thuyết rất cần đầu tư nghiên cứu, đồng thời kết hợp
với phân tích thực trạng phát triển doanh nghiệp thủy sản tỉnh Bạc Liêu có những
yếu tố được rút ra mang tính đặc trưng doanh nghiệp thủy sản, và phù hợp với


4

khung lý thuyết của Parisa Salimzadeh, Jerry Courvisanos and Raveendranath Ravi
Nayak (2013).
Từ lý luận khoa học cũng như tính thực tiễn và khoảng trống khung lý thuyết
các yếu tố tác động mạnh nhất đến khả năng phát triển bền vững doanh nghiệp là
liên tục, lâu dài, không gây ra những hậu quả tác hại khó khôi phục ở những lĩnh
vực của xã hội. Từ đó nghiên cứu sinh xác định được khoảng trống trong nghiên
cứu mô hình lý thuyết nghiên cứu của Parisa Salimzadeh, Jerry Courvisanos and
Raveendranath Ravi Nayak (2013) và đưa ra định hướng nghiên cứu như: Các yếu
tố tác đông đến phát triển bền vững các doanh nghiệp thủy sản Bạc Liêu; chủ yếu từ
các yếu tố bên trong doanh nghiệp (1. Lực lượng lao động, 2. Người quản lý/chủ sở
hữu, 3. Trách nhiệm sản phẩm, 4. Phòng chống ô nhiễm môi trường) và yếu tố bên
ngoài doanh nghiệp (1. Khách hàng, 2. Xu hướng thị trường, 3. Thiếu nhu cầu các
bên liên quan, 4. Chính sách hỗ trợ nhà nước và 5. An sinh xã hội).
1.3 Tổng quan về tình hình phát triển doanh nghiệp thủy sản tỉnh Bạc Liêu
1.3.1 Tình hình phát triển doanh nghiệp thủy sản
Vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện có rất nhiều doanh nghiệp chuyên
ngành chế biến thủy sản xuất khẩu với tổng công suất khoảng 1 triệu tấn/năm, tập
trung ở Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cần Thơ và An Giang. Trong quá trình hội
nhập, những doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu luôn dẫn đầu, đặc biệt có
nhiều doanh nghiệp đã sớm hội nhập với thế giới, nâng cao kim ngạch xuất khẩu
hàng năm và trở thành doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản hàng đầu của nước ta. Theo
Tổng cục Thống kê, tính đến thời điểm 2013 cả nước có 2.536 doanh nghiệp thủy
sản và doanh nghiệp thủy sản chiếm đến 45,2%. Đáng chú ý là vùng đồng bằng
sông Cửu Long số lượng doanh nghiệp thủy sản chiếm tỷ trọng rất lớn nhưng đang
có xu hướng giảm rõ rệt chỉ còn 37% trong năm 2013 so với con số 50% vào năm
2006. Về nguồn vốn, năm 2013 các doanh nghiệp này có tổng vốn tài sản trên
92.100 tỷ đồng, tăng gấp hơn 2 lần năm 2006 và nợ phải trả là 32.300 tỷ đồng,
chiếm 35% tổng nguồn vốn hiện có.
Trong lĩnh vực doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu là ngành nghề chủ
lực của tỉnh Bạc Liêu, số lượng doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực thủy sản chiếm

16,6% so với tổng số doanh nghiệp của tỉnh năm 2013 là 1.318 doanh nghiệp đang


5
hoạt động. Chính vì vậy, những năm qua chính quyền tỉnh Bạc Liêu đặc biệt quan
tâm hỗ trợ đối với những hoạt động của ngành nghề thủy sản.
Tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu tính đến
năm 2013 là 1.318 doanh nghiệp, với tổng số vốn đăng ký là 10.776 tỷ đồng. Trong
số các doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp thủy sản
có đến 457 doanh nghiệp. Chủ yếu tập trung vào các loại hình doanh nghiệp như:
Doanh nghiệp tư nhân là 154 doanh nghiệp, với mức vốn đăng ký kinh doanh là 195
tỷ đồng; Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là 132 công ty, với mức vốn
đăng ký kinh doanh là 477 tỷ đồng; Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên là
122 công ty, với mức vốn đăng ký kinh doanh là 274 tỷ đồng; Công ty trách cổ
phần là 49 công ty, với mức vốn đăng ký kinh doanh là 3.199 tỷ đồng (như hình
1.1).
Bảng 1.1: Thực trạng phát triển doanh nghiệp tỉnh Bạc Liêu
Loại hình doanh
nghiệp

DNTN

Tổng số doanh
nghiệp
Số
Vốn
lượng
ĐKKD (tỷ)
DN
741

1.381

Doanh nghiệp thủy
sản
Số
Vốn
lượng
ĐKKD
DN
(tỷ)
154
195

Tỷ trọng
DN %

Vốn %

20,8%

14,1%

Cty TNHH 1 TV

252

1.972

132


477

29,4%

24,2%

Cty TNHH 2 TV

209

2.094

122

274

58,4%

13,1%

Công ty cổ phần

116

5.329

49

3.199


42,2%

60,0%

1.318

10.776

457

4.145

34,7%

38,5%

Tổng cộng

Nguồn: Phòng đăng ký kinh doanh - Sở Kế hoạch và Đầu tư
1.3.2 Tình hình đóng góp của doanh nghiệp thủy sản vào phát triển kinh tế xã
hội tỉnh Bạc Liêu
1.3.2.1 Sản lượng xuất khẩu thủy sản của doanh nghiệp
Theo Tổng cục Thủy sản, năm 2013 được đánh dấu là năm phục hồi đối với
nghề sản xuất tôm nước lợ, với các thắng lợi như được mùa, được giá và kiểm soát
tốt dịch bệnh, đặc biệt là đối với sản phẩm tôm thẻ chân trắng. Tính tính từ năm
2013, diện tích nuôi tôm của cả nước đạt 652.612 ha, bằng 99,2% cùng kỳ năm
2012; trong đó, diện tích nuôi tôm sú là 588.894 ha, tôm thẻ chân trắng 63.719 ha.


6

Sản lượng thu hoạch là 475.854 tấn (sản lượng tôm sú là 232.853 tấn, tôm thẻ chân
trắng là 243.001 tấn). Theo Hiệp hội Chế biến Thủy sản Việt Nam (VASEP), 2013.
Tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam ước đạt 6,5 tỷ USD. Trong đó, tôm
và cá tra dự báo chiếm hơn 70,7% tổng giá trị xuất khẩu, đạt 4,6 tỷ USD. Một số địa
phương có vùng nuôi, số lượng nhà máy chế biến tôm lớn trong cả nước như: tỉnh
Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng,… kim ngạch xuất khẩu tôm có nhiều chuyển biến
tích cực. Tình hình sản lượng xuất khẩu của tỉnh Bạc Liêu chủ yếu có hai loại hàng
hóa chính đó là gạo và thủy sản đông lạnh (bảng 1.2) cho thấy sản lượng xuất khẩu
tăng đều qua các năm, sản lượng xuất khẩu năm 2009 đạt 90.340 tấn, trong đó, sản
lượng xuất khẩu thủy sản đông lạnh đạt 20.340 tấn, đến năm 2013 sản lượng xuất
khẩu đạt 105.861 tấn, trong đó, sản lượng xuất khẩu thủy sản đông lạnh đạt 35.515
tấn.
Bảng 1.2: Sản lượng xuất khẩu thủy sản đông lạnh tỉnh Bạc Liêu
Đơn vị tính: tấn
Mặt hàng xuất khẩu
- Gạo
- Thủy sản đông lạnh
Tổng cộng

2009

2010

2011

2012

2013

70.000

20.340

80.000
23.380

92.000
28.135

63.951
32.286

70.346

90.340

103.380

120.135

96.237

105.861

35.515

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bạc Liêu, 2013
Nhìn chung, tình hình xuất khẩu thủy sản tỉnh Bạc Liêu tăng đều qua các
năm, tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2009 là 192.500.000 USD. Trong đó, mặt hàng
thủy sản có giá trị xuất khẩu đạt 151.680.000 USD, giá trị xuất khẩu tăng đều đến
năm 2013 có tổng kim ngạch xuất khẩu tăng lên 409.164.000 USD. Trong đó, mặt

hàng thủy sản có giá trị xuất khẩu đạt 376.512.000 USD. Điều này cho thấy giá trị
xuất khẩu thủy sản tỉnh Bạc Liêu sẽ tiếp tục là mặt hàng chủ lực của tỉnh.
1.3.2.2 Giá trị xuất khẩu thủy sản của doanh nghiệp
Trong những năm gần được các chuyên gia kinh tế đều nhận định là năm mà
các doanh nghiệp chế biến thủy sản gặp nhiều khó khăn hơn, không chỉ khó về vốn,
lãi suất ngân hàng mà còn phải đối đầu với thách thức nguyên liệu chế biến. Nhiều
nhà máy phải hoạt động cầm chừng, đa số chỉ đáp ứng 40 - 50% công suất để giữ
chân người lao động. Do tính điều kiện tự nhiên và thiên nhiên, nên tính đặc thù
phát triển kinh tế xã hội của tỉnh chỉ mới có hai nhóm mặt hàng xuất khẩu sang


7
nước ngoài đó là hàng nông sản và hàng thủy sản. Nhưng mặt hàng xuất khẩu thủy
sản chiếm một tỷ trọng rất cao so với mặt hàng nông sản, được thể hiện giá trị xuất
khẩu tăng đều như năm 2009 doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản 151.680.000 USD
tăng đến năm 2013 lên tới 376.512.000 USD (bảng 1.3).
Bảng 1.3: Giá trị xuất khẩu thủy sản tỉnh Bạc Liêu
Đơn vị tính: 1.000 USD
Mặt hàng xuất khẩu chủ
yếu
- Hàng nông sản

2009

2010

2011

2012


2013

40.820

46.439

61.429

27.210

32.652

- Hàng thuỷ sản

151.680

172.561

222.571

313.760

376.512

Tổng

192.500

219.000


284.000

340.970

409.164

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bạc Liêu, 2013
1.3.3 Những nguyên nhân, hạn chế phát triển doanh nghiệp thủy sản Bạc Liêu
 Vấn đề yếu tố khách hàng
Lợi thế của doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu Việt Nam đang có uy
tín cao trên thế giới về chất lượng với hệ thống các nhà máy được trang bị hiện đại,
quản lý tốt và đặc biệt có lợi thế về lao động tay nghề cao, hiện đang có khách hàng
với nhu cầu ngày càng tăng tại trên 150 quốc gia và vùng lãnh thổ, đủ năng lực cạnh
tranh với các nước trong khu vực, đặc biệt là Trung Quốc. Trước đây Trung Quốc là
quốc gia thành công nhất trong việc nhập khẩu lượng lớn nguyên liệu thủy sản để
sản xuất xuất khẩu, ngoài việc tạo công ăn việc làm ổn định cho người lao động còn
góp phần tăng trưởng nhanh xuất khẩu, nhưng hiện nay Trung Quốc đang mất lợi
thế do uy tín chất lượng và an toàn thực phẩm của hàng thực phẩm Trung Quốc
đang bị suy giảm nghiêm trọng, nên nhiều công ty Nhật Bản và Châu Âu đang tìm
cách chuyển dòng nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc sang Việt Nam để gia
công hoặc chế biến xuất khẩu. Nhưng hiện nay doanh nghiệp Việt Nam chưa chủ
động nhập khẩu vì đang thiếu vốn trầm trọng, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi
các ngân hàng ngày càng thắt chặt tín dụng.
Áp lực khách hàng, đặc biệt là khách hàng Nhật có những quy định rất khắt
khe không chỉ về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm mà còn các quy định về bảo
vệ môi trường sinh thái. Ngoài ra, hiện nay áp lực khách hàng về yêu cầu chất
lượng sản phẩm, dịch vụ ngày càng cao; áp lực về dịch vụ chăm sóc khách hàng
luôn được chú trọng và đảm bảo chất lượng; thu hút khách hàng mới hướng đến



8
phát triển bền vững; nhằm giảm rủi ro thông qua việc đa dạng hóa khách hàng. Đây
là một trong những áp lực làm hạn chế khả năng xuất khẩu thủy sản của doanh
nghiệp Việt Nam.
 Xu hướng thị trường
Hiện nay, xu hướng xuất khẩu thủy sản Việt Nam hiện là thị trường EU và
thị trường rộng lớn, đầy tiềm năng đối với các nước Châu Á, trong đó có Việt Nam.
Đây cũng là thị trường chính của thuỷ sản Việt Nam hàng chục năm qua và có
nhiều triển vọng cho việc đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong thời
gian tới. Các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam đã đáp ứng yêu cầu cao của xu
hướng thị trường EU về vệ sinh an toàn thực phẩm đã giúp sản phẩm thuỷ sản Việt
Nam xuất khẩu sang EU không những ngày càng tăng mà còn có chỗ đứng vững
chắc ở các thị trường đòi hỏi khắt khe khác như Mỹ, Nhật Bản và Canada. Hiên
nay, Việt Nam là 1 trong 3 nước đứng đầu về số vụ bị từ chối nhập khẩu sản phẩm
thủy sản (theo số liệu tuyệt đối) tại 4 thị trường nhập khẩu lớn là EU, Mỹ, Nhật Bản
và Australia, đồng thời là quốc gia có số vụ từ chối cao nhất so với giá trị hàng xuất
khẩu thủy sản tại EU, Hoa Kỳ và Nhật Bản. Tổng giá trị trung bình tổn thất hàng
năm do các vụ từ chối nhập hàng thủy sản của Việt Nam lên tới 14 triệu USD/năm
và nguyên nhân quan trọng dẫn đến các vụ từ chối này là do nhiễm khuẩn (nguồn
vasep.com.vn). Như vậy, xu hướng thị trường ngày càng khó tính hơn, từ đó doanh
nghiệp thủy sản cần quan tâm hơn: Duy trì thị trường truyền thống và phát triển các
thị trường mới thông qua các sáng kiến phát triển bền vững; Nâng cao sự hài lòng
của khách hàng hiện tại và lòng trung thành thông qua các sáng kiến phát triển bền
vững; Khuyến khích các nhà cung cấp sử dụng phương thức quản lý nhằm nâng cao
tính bền vững; Cung cấp sản phẩm, dịch vụ tốt trong nước và xuất khẩu.
 Thiếu nhu cầu các bên liên quan
Bên cạnh, thuận lợi về thị trường xuất khẩu thủy sản truyền thống sang các
nước EU. Hiện nay các doanh nghiệp thủy sản đang mở rộng thị trường sang một số
nước Châu phi và đối với các nước Châu Á đầy tiềm năng. Tôm sú vẫn là mặt hàng
xuất khẩu ưu thế của Việt Nam so với các nhà cung cấp khác, bởi Việt Nam hiện là

nước sản xuất tôm sú lớn nhất trên thế giới với sản lượng ổn định. Nhờ giá tôm sú
trên thị trường thế giới nói chung và trên thị trường Nhật Bản nói riêng, ở mức cao
là cơ sở giúp giá trị xuất khẩu tôm sú Việt Nam trên thị trường Nhật Bản duy trì


9
tăng trưởng mạnh, đồng thời khẳng định đây vẫn là thị trường tốp đầu. Không chỉ
thị trường Nhật Bản, nhiều thị trường nhập khẩu thủy sản lớn của Việt Nam cũng
đưa ra những rào cản phi thuế quan mới và thường đánh vào các khâu quản lý chất
lượng sản phẩm, đặc biệt trong nuôi trồng, khai thác và chế biến như Mỹ sẽ có
chương trình kiểm tra, giám sát tôm đông lạnh; EU sẽ chấn chỉnh hệ thống kiểm tra
chứng nhận thủy sản khai thác tự nhiên có khai báo, có kiểm soát…Cũng chính từ
nhận thức ngày càng cao của người tiêu dùng về an toàn vệ sinh thực phẩm, ý thức
trách nhiệm đối với môi trường và xã hội đòi hỏi ngành thủy sản Việt Nam phải có
những bước thay đổi nhanh chóng để đáp ứng yêu cầu thị trường. Từ đó, các doanh
nghiệp thủy sản Bạc Liêu đã từng bước chuyển từ cạnh tranh bằng giá sang cạnh
tranh bằng chất lượng; không sử dụng các loại hóa chất cấm, hoặc lạm dụng các
chất hóa chất trong quá trình nuôi, bảo quản, chế biến và bắt đầu kiểm soát nguồn
nguyên liệu trước khi chế biến bằng việc áp dụng các tiêu chuẩn sản xuất tiên tiến.
Để làm được đều này, các doanh nghiệp thủy sản tỉnh Bạc Liêu đang bị ảnh hưởng
thiếu nhu cầu từ các biên liên quan giữa đối tác nguyên liệu đầu vào và đầu ra xuất
khẩu thủy sản như: Thiếu nhu cầu từ những ý tưởng cụ thể về những gì cần làm của
doanh nghiệp; Thiếu nhu cầu từ các nhà cung cấp cho doanh nghiệp; Thiếu nhu cầu
từ người tiêu dùng và khách hàng; Thiếu nhu cầu từ các nhà quản lý và người lao
động.
 Vấn đề chính sách hỗ trợ nhà nước
Năm 2013 kết thúc với việc Chính phủ đã kiểm soát thành công lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, để đạt được những dấu ấn trên Việt Nam đã phải
đánh đổi bằng tăng trưởng kinh tế và nguồn lực ngày càng suy giảm. Doanh nghiệp
chính là động lực quan trọng nhất cho phát triển kinh tế - xã hội, nhưng doanh

nghiệp phải tiếp tục trải qua một năm đầy khó khăn. Lượng doanh nghiệp giải thể
ngày càng nhiều, trong khi số gia nhập thị trường tỏ ra thận trọng, vì không biết
ngày mai sẽ ra sao. Tuy nhiên, trong năm 2012 chính sách hỗ trợ nhà nước đối với
doanh nghiệp được quan tâm, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 13/ NQ-CP ngày
10/5/2012 về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh và hỗ trợ
thị trường, trong đó trọng tâm là nhóm giải pháp tài chính, thời gian qua Bộ Tài
chính đã miễn, giảm, gia hạn hàng chục ngàn tỷ đồng tiền thuế, phí cho cộng đồng
doanh nghiệp. Bộ Tài chính đã thực hiện gia hạn khoảng 11.000 tỷ đồng tiền thuế


10
giá trị gia tăng cho 190.280 doanh nghiệp; gia hạn 2.868 tỷ đồng nợ thuế Thu nhập
doanh nghiệp cho 70.300 doanh nghiệp, giảm 50% tiền thuê đất năm 2012 cho trên
2.400 doanh nghiệp với số tiền giảm là 250 tỷ đồng. Trong năm 2012 việc kê khai
thuế Thu nhập doanh nghiệp thực hiện miễn giảm thuế cho các doanh nghiệp sử
dụng nhiều lao động, Bộ Tài chính đã thực hiện miễn giảm hơn 3.600 tỷ đồng cho
các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Nhận thấy những nguyên nhân khó khăn của doanh nghiệp phần lớn do yếu
tố khách quan, nhà nước đã ban hành nhiều chính sách vĩ mô để hỗ trợ thị trường
thời gian qua, như tháo gỡ hàng tồn kho, miễn, giãn, giảm thuế cho doanh nghiệp,
cứu thị trường bất động sản, xử lý nợ xấu ngân hàng. Việc triển khai chính sách vẫn
còn chậm, chưa kịp thời, trong khi thị trường rất cần đến những chính sách tác động
để các doanh nghiệp hội sinh trở lại. Riêng vùng đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục
phát triển mạnh nuôi trồng thủy sản theo chiều sâu. Chuyển một phần diện tích nuôi
thủy sản quảng canh sang bán thâm canh, thâm canh quy mô công nghiệp ở những
nơi có điều kiện thuận lợi. Nhưng các chính sách của nhà nước chưa đến được với
doanh nghiệp thủy sản, chưa tạo đọng lực cho doanh nghiệp phát triển, như chưa tổ
chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị từ sản xuất nguyên liệu đến chế biến tiêu thụ ở
tất cả các lĩnh vực và đối tượng sản phẩm; trọng tâm là khai thác thủy sản biển, nuôi
tôm nước lợ, tạo sự gắn kết, chia sẻ lợi nhuận, rủi ro giữa người sản xuất nguyên

liệu và doanh nghiệp chế biến thủy sản. Đồng thời chưa tổ chức các mô hình sản
xuất theo đặc thù từng lĩnh vực trên từng khu vực, từng vùng. Bên cạnh phát triển
các doanh nghiệp thủy sản chưa gắn kết sâu với quản lý cộng đồng, bảo vệ môi
trường, nguồn lợi để phát triển sản xuất hàng hóa lớn theo hướng bền vững.
Về phát triển thị trường và xúc tiến thương mại chưa phát huy hết tiềm năng
như chưa thực hiện hiệu quả công tác xúc tiến thương mại để củng cố và phát triển
các thị trường truyền thống, các thị trường lớn (EU, Nhật, Mỹ) và phát triển mở
rộng các thị trường Đông Âu, Trung Đông, Trung Quốc, Hàn Quốc,… Đồng thơi
phát triển, mở rộng thị trường nội địa phục vụ du lịch, các đô thị, khu dân cư lớn
trong vùng và cả nước; chính quyền địa phương chưa có chính sách hỗ trợ doanh
nghiệp thủy sản nhằm để tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại cho các sản
phẩm thủy sản ở các thị trường trọng điểm (triển lãm, hội chợ, tuyên truyền, quảng
cáo, tiếp thị sản phẩm). Nâng cao năng lực trao đổi, tiếp cận với thông tin thị


11
trường, thương mại thủy sản cho các doanh nghiệp, các cán bộ quản lý và người sản
xuất. Bên cạnh, đã có một số chính sách của nhà nước phát huy tác dụng nhưng vẫn
còn một số hạn chế nhất định đối với chính sách hỗ trợ nhà nước chưa mang tính
kịp thời, chưa ổn định như: Tác động sự thay đổi tỷ giá (USD so với VNĐ) dẫn đến
rủi ro đối với hoạt động doanh nghiệp; Sự tiếp cận thuận lợi từ chính sách xúc tiến
đầu tư thủy sản của địa phương và trung ương; Hỗ trợ tiếp cận thị trường (trong
nước, ngoài nước) từ địa phương và trung ương; Hỗ trợ chính sách thuế từ địa
phương và trung ương.
 Vấn đề an sinh xã hội
Trong tiến trình phát triển kinh tế thị trường, vấn đề an sinh xã hội ngày càng
có ý nghĩa quan trọng nhằm bảo đảm an toàn cho đời sống các thành viên trong xã
hội trước những biến động khó lường, như những rủi ro trong kinh tế thị trường,
những rủi ro về xã hội, những tác động xấu của môi trường thiên nhiên. Chính sách
an sinh xã hội nhằm chia sẻ trách nhiệm trong cộng đồng, hướng tới công bằng xã

hội. Vì vậy, hiệu quả của chính sách an sinh xã hội đang trở thành một thước đo của
sự phát triển kinh tế - xã hội. Từ khi chuyển sang kinh tế thị trường, nước ta cũng
đã hình thành hệ thống an sinh xã hội, bao gồm các chương trình mục tiêu (chương
trình việc làm, xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ các nơi đặc biệt khó khăn, phòng chống
tệ nạn xã hội, nước sạch nông thôn) và các quỹ (tình thương, việc làm, xoá đói giảm
nghèo,...). Đồng thời, thể chế hoá vấn đề an sinh xã hội như ra đời bộ Luật lao động,
Luật bảo hiểm xã hội, Luật giáo dục, Luật bình đẳng giới, Pháp lệnh về ưu đãi
người có công, về người cao tuổi, về người tàn tật. Hệ thống an sinh xã hội đã góp
phần quan trọng vào việc ổn định và phát triển đất nước. Tuy nhiên, doanh nghiệp
thủy sản tỉnh Bạc Liêu có vị trí đặc biệt quan trọng phát triển kinh tế - xã hội tại địa
phương, là bộ phận chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm của tỉnh (GDP). Những năm gần
đây, hoạt động của doanh nghiệp thủy sản đã có bước phát triển đột biến, góp phần
giải phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào phát triển
kinh tế xã hội, góp phần quyết định vào phục hồi và tăng trưởng kinh tế, tăng kim
ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết có hiệu quả các vấn đề
xã hội như: Tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo,... Ngoài hiệu quả kinh tế, các doanh
nghiệp còn có lợi từ việc tạo dựng hình ảnh với khách hàng, sự gắn bó và hài lòng
của người lao động, thu hút lao động có chuyên môn cao. Do đó, bản thân doanh


12
nghiệp cần coi việc thực hiện an sinh xã hội chính là đòn bẩy, động lực cho sự phát
triển của mình. Thực hiện đóng góp vào quỹ an sinh xã hội không chỉ là nghĩa vụ
mà còn là quyền lợi để đảm bảo cho chính doanh nghiệp phát triển, thực hiện an
sinh xã hội là cách thức hiện thực hoá định hướng phát triển kinh tế – xã hội của
tỉnh Bạc Liêu như tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội, đối với doanh
nghiệp thủy sản thực hiện an sinh xã hội là một cách thức để giữ vững vai trò chủ
đạo của mình đối với xuất khẩu của tỉnh. Tuy nhiên, thời gian qua tỉnh Bạc Liêu
thực hiện cơ bản thành công công tác an sinh xã hội thông qua nhiều nguồn vốn
đóng góp vào quỹ an sinh xã hội địa phương, trong đó nguồn ngân sách nhà nước

chưa đảm bảo đủ để thực hiện công tác an sinh xã hội. Từ đó, việc đóng góp doanh
nghiệp thủy sản vào thực hiện công tác an sinh xã hội tại nơi doanh nghiệp đang
hoạt động vẫn còn manh tính chất đối phó, doanh nghiệp chưa thật sự xem đây là
vấn đề tất yếu, góp phần quan trọng trong việc chia sẻ với với chính quyền địa
phương trong bối cảnh khó khăn phát triển kinh tế như hiện nay. Đặc điểm của hệ
thống an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay là chưa phổ cập trong toàn xã hội, đồng
thời chủ yếu được thực hiện bởi chủ thể chính thức là Nhà nước và chủ thể cộng
đồng phi chính thức, vai trò của chủ thể chính thức doanh nghiệp còn chưa tương
xứng với trách nhiệm vốn có của nó và yêu cầu đặt ra hiện nay. Ngoài ra, từ áp lực
cộng đồng xã hội nơi doanh nghiệp đang hoạt động đã thúc đẩy doanh nghiệp thủy
sản tham gia đóng góp vào quỹ an sinh xã hội địa phương như: Tham gia trao học
bổng cho học sinh, sinh viên nghèo hiếu học; Tham gia đóng góp xây dựng nhà tình
nghĩa, tình thương, mái ấm gia đình; Tham gia đóng góp chương trình gây quỹ từ
thiện (mổ tim bẩn sinh trẻ em, bệnh HIV, bệnh hiểm nghèo); Tham gia đóng góp
chương trình xoá đói giảm nghèo và các hoạt động xã hội tại địa phương.
 Vấn đề lực lượng lao động
Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận song nhìn chung, các
doanh nghiệp chế biến thủy sản vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của đất nước trong
giai đoạn ông nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và nhất là trong quá
trình hội nhập với kinh tế thế giới. Một trong những nguyên nhân khiến cho ngành
này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng, yêu cầu của đất nước trong giai đoạn
mới chính là đầu tư phát triển lực lượng lao động quan tâm chưa đúng mức. Đặc


13
biệt là công tác đào tạo cán bộ quản lý, khoa học công nghệ, công nhân kỹ thuật cho
những ngành nghề này còn yếu kém.
Hiên nay, lực lượng lao động lĩnh vực chế biến thủy sản thường biến động từ
30-40%, lực lượng lao động có tay nghề là vấn đề nan giải trong tuyển dụng đối với
một số doanh nghiệp sản xuất hàng hóa đòi hỏi có tính chuyên môn. Để đáp ứng đủ

kế hoạch sản xuất, có rất nhiều doanh nghiệp chế biến thủy sản cần tuyển thêm lao
động, tuy nhiên do yêu cầu lao động có tay nghề, nên khó tuyển đồng loạt lao động.
Do đó, trong kế hoạch tuyển dụng doanh nghiệp phải phân kỳ cho từng tháng và kết
hợp với các trung tâm đào tạo nghề, giải quyết việc làm thì mới huy động được lực
lượng lao động cần thiết, đồng thời có những chính sách đặc biệt hơn đối với công
nhân có tay nghề thì mới giữ chân được người lao động lâu dài. Vấn đề khó nhất
hiện nay là chỗ ở cho công nhân, đa phần họ ở trọ bên ngoài. Để giữ chân người lao
động, ngoài thực hiện các chính sách mua bảo hiểm xã hội, y tế, doanh nghiệp chế
biến thủy sản còn có chế độ nhà ở, xe đưa rước công nhân trong vòng bán kính 50
km. Tuy nhiên, các doanh nghiệp hiện nay cần một lực lượng lao động rất nhiều,
trong khi đó lao động trong tỉnh chưa đáp ứng đủ, doanh nghiệp phải tuyển thêm ở
các tỉnh lân cận. Muốn có một lực lượng lao động ổn định gắn bó với doanh nghiệp
dài lâu, như các chính sách về tiền lương hợp lý, các chế độ khác đúng theo luật
định. Bên cạnh các chính sách mà doanh nghiệp đang áp dụng, nhưng vẫn còn một
số vấn đề hạn chế chưa được giải quyết như: Nâng cao tinh thần nhân viên, tham
gia và cam kết quy chế doanh nghiệp; Đảm bảo sức khỏe và an toàn cho người lao
động; Việc tìm kiếm giải pháp cho một lực lượng lao động kế thừa; Thu hút và giữ
được đa dạng người tài.
 Vấn đề người quản lý/Chủ sở hữu
Nhìn chung, năm 2013 là một năm thật sự khó khăn cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp thủy sản Việt Nam, trong đó có doanh nghiệp thủy
sản tỉnh Bạc Liêu. Mặc dù doanh nghiệp thủy sản đã có những cố gắng tập trung
mọi nguồn lực để hoàn thành kế hoạch, nhưng do nhiều nguyên nhân chủ quan và
khách quan đã ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thủy
sản, thực hiện không hoàn thành kế hoạch kinh doanh. Một số tồn tại của doanh
nghiệp thủy sản tỉnh Bạc Liêu; cụ thể tại một số địa phương đã xảy ra hiện tượng
tôm chết hàng loạt nên sản lượng thu hoạch giảm, ngoài sự cạnh tranh từ các nhà


14

sản xuất trong nước cho việc hoàn tất các hợp đồng đã ký, doanh nghiệp thủy sản
còn phải đối mặt với việc thu mua tôm ào ạt của các thương nhân nước ngoài tạo
nên sự cạnh tranh về giá mua và sản lượng đã làm giảm hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Tình hình xuất khẩu vào các thị trường chính: Một trong những thị trường
chính của doanh nghiệp thủy sản là Nhật Bản đã liên tục áp dụng nhiều quy định
nhằm hạn chế sản lượng tôm nhập khẩu từ Việt Nam: nhóm kháng sinh
Enrofloxacin/Ciprofloxacin, chất chống oxy hóa Ethoxyquin. Việc này đã làm tăng
chi phí kiểm nghiệm và giảm kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp thủy sản vào
thị trường này. Thị trường Mỹ, các nhà nhập khẩu Mỹ tìm nguồn hàng rất mạnh do
tình trạng thiếu nguyên liệu từ nhiều nước, nhưng do giá nguyên liệu tăng quá cao
doanh nghiệp thủy sản đã không nắm bắt được cơ hội cho nên phần lớn các đơn
hàng thị trường này không hiệu quả. Thị trường EU suy thoái kinh tế kéo dài đã làm
giảm sức mua của thị trường, nhưng các doanh nghiệp thủy sản vẫn duy trì được
khách hàng truyền thống và phát triển thêm nhiều khách hàng mới. Vấn đề thiếu
nguyên liệu đặc biệt là tôm sú cũng làm giảm sức cạnh tranh của công ty tại thị
trường này.
Các doanh nghiệp thủy sản tỉnh Bạc Liêu đã và đang tìm những thị trường
thay thế như Hàn Quốc, Hong Kong,… nhưng hiện tại thị phần quá nhỏ, manh mún,
chưa tạo được sự bền vững như các thị trường chính nêu trên. Đa dạng hóa mặt
hàng, việc nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới của các doanh nghiệp thủy sản
còn chậm, chưa đáp ứng nhu cầu thị trường đặc biệt là các sản phẩm giá trị gia tăng.
Điều này làm mất nhiều cơ hội cạnh tranh của các doanh nghiệp thủy sản so với các
nhà sản xuất trong nước.
Tóm lại, từ một số vấn đề tồn tại của doanh nghiệp thủy sản tỉnh Bạc Liêu,
rút ra một sô nguyên nhân và hạn chế của người quản lý/chủ sở hữu như: Mức độ
hiểu biết và kinh nghiệm để hướng đến phát triển bền vững; Chủ sở hữu/người quản
lý niềm tin để hướng đến phát triển bền vững; Chi phí thực hiện để hướng đến phát
triển bền vững; Cung cấp các điều kiện làm việc an toàn để hướng đến phát triển
bền vững.

 Vần đề trách nhiệm sản phẩm


15
Nghĩa vụ của doanh nghiệp sản xuất, chế biến thủy sản nhằm phân phối và
tiêu thụ sản phẩm trên thị trường là phải cung cấp sản phẩm không có khuyết tật,
không gây nguy hiểm cho người sử dụng và phải chịu trách nhiệm đối với những
sản phẩm của mình sản xuất ra. Trong đó, sản phẩm có khuyết tật là nguyên nhân và
kết quả là thiệt hại xảy ra cho người sử dụng hoặc người có liên quan. Như vậy,
người bị thiệt hại chỉ cần chứng minh sản phẩm có khuyết tật và khuyết tật đó dẫn
tới thiệt hại của mình. Tuy nhiên, khuyết tật có thể xuất hiện ở một trong quá trình
sản xuất, phân phối sản phẩm, người bị thiệt hại cần xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do khuyết tật đó thuộc về người sản xuất nào. Nhưng tính quan
trọng của trách nhiệm sản phẩm là rất cao trong khi các doanh nghiệp chế biến thủy
sản chưa thật sự quan tâm đếm trách nhiệm sản phẩm của mình sản xuất ra. Theo
phản ánh của các doanh nghiệp trên địa bàn 3 tỉnh: Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng,
thời gian gần đây, tình trạng tôm bơm chích tạp chất lại tiếp tục tái diễn, thậm chí
còn với mức độ nghiêm trọng và tinh vi hơn. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, hiện nay, ở một số địa phương hành vi bơm tạp chất vào tôm lại đang
bùng lên mạnh mẽ hơn với những hành vi được tiến hành công khai, nhất là khi các
nhà nhập khẩu tôm Trung Quốc liên tục cử người sang thu mua tôm nguyên liệu, kể
cả tôm có tạp chất với tỷ lệ tạp chất cực lớn. Nghiêm trọng hơn, một số doanh
nghiệp chế biến tôm (đặc biệt tại Cà Mau và ranh giới giữa hai tỉnh Bạc Liêu - Cà
Mau) đã bắt tay với thương lái Trung Quốc gia công tôm đông lạnh để vận chuyển
theo đường bộ đi thẳng sang Trung Quốc. Tình trạng này ảnh hưởng lớn đến uy tín,
chất lượng con tôm Việt Nam, gây thiệt hại nặng nề cho người nuôi và các doanh
nghiệp chế biến tôm xuất khẩu làm ăn chân chính.
Nhìn chung, các mặt hàng thủy sản nhập khẩu làm thực phẩm sẽ không phải
chịu thuế tại Australia, nhưng các chi phí khác liên quan việc kiểm tra chất lượng
cũng không ít. Theo Cục kiểm dịch Australia (AQUIS), các doanh nghiệp có ý định

xuất khẩu thủy sản sang thị trường này nên tìm hiểu kỹ thông tin về hệ thống kiểm
dịch sản phẩm nhập khẩu của Australia (hệ thống ICON). Theo đó, các nhà xuất
khẩu tại thị trường Australia phải xuất trình hệ thống truy xuất nguồn gốc đáng tin
cậy. Hiện 100% sản phẩm được dán nhãn, ghi rõ trọng lượng tịnh, tên từng loại sản
phẩm phải chính xác, tham chiếu theo hệ thống dữ liệu tên sản phẩm thủy sản của
Australia. Một số sản phẩm tươi sống có nguồn gốc động vật sẽ được lấy mẫu phân


16
tích; nếu kết quả dương tính với virus WSSV (bệnh đốm trắng) và YHD (bệnh đầu
vàng) thì các lô hàng đó sẽ bị trả lại. Mỗi lô hàng sẽ được kiểm dịch riêng rẽ. Các
sản phẩm tôm đã qua quá trình chế biến kỹ lưỡng sẽ tránh được quá trình phân tích
mẫu như trên; tuy nhiên, những sản phẩm này phải có chứng nhận của cơ quan có
thẩm quyền tại nước xuất khẩu, đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn VSATTP, tiêu
chuẩn về nhiệt độ, thời gian chế biến, bảo quản,… Như vậy, các nhà xuất khẩu tôm
Việt Nam cũng phải hết sức lưu ý vấn đề này, để đảm bảo hơn nữa ATVSTP, đồng
thời cải thiện chất lượng, mẫu mã sản phẩm, giúp thủy sản Việt Nam nói chung và
sản phẩm tôm nói riêng tiến xa hơn trên thị trường Australia (nguồn vasep.com.vn).
Vừa qua, ngày 01/8/2014 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị số
20/CT-TTg về việc ngăn chặn hành vi đưa tạp chất vào tôm nguyên liệu và sản xuất
kinh doanh tôm có chứa tạp chất. Sau khi nghiên cứu nội dung bản chị thị, VASEP
đánh giá cao tinh thần và sự kịp thời của bản Chị thị trước tình hình bơm chích tạp
chất vào tôm như hiện nay. Để hoạt động phòng chống tôm tạp chất đạt kết quả cao,
Hiệp hội VASEP đề nghị các doanh nghiệp nhiệt liệt hưởng ứng chương trình ngăn
chặn hành vi bơm chích tạp chất vào tôm nguyên liệu như tinh thần của chỉ thị nêu
rõ. Tiếp nối chuỗi hoạt động trong công tác phòng chống tôm tạp chất, các Bộ ban
ngành và chính quyền địa phương sẽ tổ chức Hội nghị về tôm tạp chất tại tỉnh Cà
Mau. Nhân hội nghị lần này VASEP cũng sẽ khởi động lại chương trình “Doanh
nghiệp nói không với tôm tạp chất”.
Từ những vấn đề liên quan đến trách nhiệm sản phẩm chế biến thủy sản xuất

khẩu, các doanh nghiệp vẫn chưa thực hiện nghiêm một số quy định của nhà nước
như: Sản phẩm và dịch vụ chưa được thể hiện đầy đủ nội dung ghi nhãn theo yêu
cầu pháp luật nhà nước; Tuân thủ các quy định nhà nước về hệ thống quản lý chất
lượng liên quan đến sản phẩm và dịch vụ theo từng loại sản phẩm; Sản phẩm, dịch
vụ đảm bảo vì sức khoẻ và sự an toàn của khách hàng.
 Vấn đề phòng chống ô nhiễm môi trường
Việc bảo vệ môi trường, bảo vệ tái tạo và phát triển thủy sản là vấn đề rất
quan trọng, chính là chiến lược phát triển dài hạn của cả bản thân doanh nghiệp và
chính quyền địa phương. Thời gian qua doanh nghiệp đã đẩy mạnh áp dụng các
công nghệ mới, tiên tiến, thân thiện với môi trường để giảm thiểu và xử lý tình
trạng ô nhiễm môi trường trong quá trình sản xuất của ngành thủy sản. Tuy nhiên,


17
nhiều năm qua được thanh tra, kiểm tra của cơ quan chính quyền tỉnh Bạc Liêu đã
phát hiện rất nhiều doanh nghiệp chế biến thủy sản chưa tuân thủ đúng quy định của
nhà nước về xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường và bảo vệ môi trường đúng quy
định. Năm 2011 Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh thành lập đoàn kiểm tra việc
chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường và tài nguyên nước, thực hiện kiểm tra 17
doanh nghiệp thủy sản với kết quả kết luận: xây dựng hệ thống xử lý nước chưa
đúng theo đánh giá tác động môi trường; thực hiện giám sát môi trường về nước
thải, không khí chưa tốt; chưa tuân thủ đúng các quy định về pháp luật môi trường
và bị xử lý vi phạm hành chính năm 2009 là 16 doanh nghiệp thủy sản, trong đó, bị
xử lý vi phạm hành chính là 4 doanh nghiệp, số lượng doanh nghiệp thủy sản đến
năm 2013 tăng lên 67 doanh nghiệp, trong đó đáng chủ ý là có đến 22 doanh nghiệp
bị xử phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực môi trường. Riêng trong năm 2011, Tổng
Cục môi trường thành lập đoàn thanh tra 17 doanh nghiệp thủy sản tại tỉnh Bạc
Liêu, với kết quả có đến 14/17 doanh nghiệp bị xử phạt vi phạm hành chính về lĩnh
vực môi trường và có 17/17 doanh nghiệp phải yêu cầu về biện pháp khắc phục hậu
quả vi phạm môi trường, thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về bảo vệ

môi trường; thu gom và xử lý nước thải sinh hoạt đạt chuẩn kỹ thuật quốc gia về
nước xả ra ngoai môi trường; xử lý khí thải phát sinh đạt chuẩn kỹ thuật quốc gia về
khí thải; thực hiện đúng quy định về quản lý chất thải nguy hại, chất thải rắn thông
thường va trương trình giám sát môi trường định kỳ.
Đồng thời, bản thân doanh nghiệp và chính quyền địa phương chưa thể hiện
được mối quan hệ chặt chẽ đến công tác kiểm tra, kiểm soát và tổ chức quản lý,
giám sát cộng đồng để quản lý môi trường và áp dụng các hình thức xử phạt nghiêm
đối với các cơ sở sản xuất không tuân thủ quy định của Luật Bảo vệ môi trường để
giảm thiểu tình trạng xả thải tùy tiện của các doanh nghiệp thủy sản sản xuất gây ô
nhiễm môi trường. Đồng thời các doanh nghiệp cần phải tuyên truyền, giáo dục
nâng cao nhận thức của công nhân, nhân viên trong công tác bảo vệ môi trường
chưa thật sự có hiệu quả. Trong khi chính quyền cấp tỉnh chưa đầu tư hoàn thiện hệ
thống cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, đặc biệt là xử lý chất thải và nước thải trong
quá trình sản xuất để bảo đảm các quy định của Luật Bảo vệ môi trường; chính
quyền tỉnh cần ban hành quy định nghiêm ngặt quy trình khai thác thủy sản nhằm
bảo vệ được môi trường.


18
Bảng 1.4: Số lượng doanh nghiệp thủy sản vi phạm pháp luật môi
trường, và bị xử phạt hành chính.
Stt

Khoản mục

1
2

2009


2010

2011

2012

2013

Doanh nghiệp chưa tuân thủ đúng các
quy định về pháp luật môi trường.
Doanh nghiệp bị xử phạt vi phạm
hành chính về lĩnh vực môi trường

12

17

20

22

45

4

6

14

17


22

Tổng cộng doanh nghiệp

16

23

34

39

67

Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bạc Liêu 2014
Tóm lai, các doanh nghiệp thủy sản chưa tuân thủ đúng các quy định về pháp
luật môi trường; bị xử phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực môi trường ngày càng
tăng. Như vậy việc phòng chống ô nhiễm môi trường là vấn đề cấp thiết đối với
doanh nghiệp thủy sản hiện nay, như: Giảm thiểu ô nhiễm môi từ hoạt động sản
xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; Xử lý chất thải, nước thải và phế thải theo đúng
quy định nhà nước về môi trường; Khuyến khích phát triển và phổ biến các công
nghệ thân thiện với môi trường.
 Vấn đề phát triển doanh nghiệp thủy sản Bạc Liêu
Tình hình xuất khẩu của tỉnh Bạc Liêu chủ yếu dựa vào lĩnh vực thủy sản là
chính và chưa có mặt hàng chủ lực nào khác. Tuy sản lượng chế biến thủy sản đông
lạnh hàng năm tăng mạnh, là một trong những sản phẩm xuất khẩu chủ lực của tỉnh
nhưng mối liên kết giữa doanh nghiệp và người sản xuất còn lỏng lẻo. Doanh
nghiệp thủy sản chưa gắn kết với vùng nuôi tôm, chưa ký hợp đồng tiêu thụ với
người sản xuất mà chỉ mua khi có nhu cầu chế biến và xuất khẩu; người sản xuất

còn phá vỡ hợp đồng không bán cho doanh nghiệp khi giá thị trường tăng cao, các
doanh nghiệp thủy sản tại tỉnh Bạc Liêu phát triển trong thời gian qua chủ yếu chỉ
tập vào lợi nhuận là chính, chưa quan tâm nhiều đến vấn đề đổi mới công nghệ sản
xuất, chế biến hiện đại; vùng nguyên liệu thu mua chưa ổn định; thị trường tiêu thụ
sản phẩm chưa ổn định; doanh thu tăng trưởng chưa như mong muốn; nơi sản xuất,
kinh doanh chưa phù hợp với vùng nguyên liệu; mức độ chưa hài lòng với sự hỗ trợ
của chính quyền địa phương nơi doanh nghiệp đang hoạt động. Đồng thời chưa tạo
sự chuyển biến về chuyển giao công nghệ trong bảo quản và giảm tổn thất sau thu
hoạch trong khai thác hải sản; tăng cường năng lực giám sát, thông tin thị trường và


19
các biện pháp hỗ trợ phòng tránh rủi ro của thị trường. Cụ thể các doanh nghiệp
thủy sản tỉnh Bạc Liêu chưa quan tâm đến mục tiêu phát triển bền vững như: Tăng
trưởng doanh thu theo mong muốn của doanh nghiệp; Lợi nhuận đạt được như ý
muốn của doanh nghiệp; Thị phần ổn đinh và được mở rộng theo mong muốn của
doanh nghiệp; Nơi sản xuất, kinh doanh phù hợp với vùng nguyên liệu của doanh
nghiệp; Sự hài lòng hỗ trợ từ chính quyền địa phương.
1.4 Vấn đề nghiên cứu của luận án
Phát triển bền vững là một khái niệm nền tảng trong nghiên cứu quản lý
doanh nghiệp thông qua liên kết của nó với lợi thế cạnh tranh. Tiến bộ đáng kể đã
được thực hiện ở lĩnh vực này trong những năm gần đây, bao gồm cả việc di chuyển
từ định nghĩa hẹp của tính bền vững, của lợi thế cạnh tranh dựa trên hiệu suất kinh
tế vượt trội so với một sự công nhận tầm quan trọng của thực hiện kết nối với các
tác động kinh tế, xã hội và môi trường của doanh nghiệp (Harrison, Bosse, &
Phillips, 2010). Điều này đã được tranh luận từ quan điểm lý thuyết phát triển bền
vững doanh nghiệp từ các bên liên quan, trong đó xác định lại mục đích chính và
mục tiêu của doanh nghiệp là một phần của một hệ thống các bên liên quan ảnh
hưởng bởi các thiết lập và các mục tiêu doanh nghiệp (Freeman, 1984).
Khu vực đồng bằng sông Cửu Long là vùng kinh tế trọng điểm của chế biến,

xuất khẩu thủy sản và đóng góp lớn vào xuất khẩu thủy sản của cả nước. Điều này
đã góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản phát triển

, song tốc đô ̣

phát triển của xuất khẩu thủy sản trong thời gian qua đã gặp phải sự cạnh tranh gay
gắt trên thị trường thế giới, các rào cản kỹ thuật được các nước đưa ra nhằm hạn chế
xuất khẩu thủy sản của Việt Nam , đặc biệt là truyền thông phản ánh hàng thủy sản
qua các tổ chức quốc tế về bảo vệ môi trường thiên nhiên và sinh thái,... Ngoài ra,
các cơ sở sản xuất, kinh doanh tôm và các sản phẩm có chứa tạp chất (kể cả hộ dân
tham gia thu mua, sơ chế và đưa tạp chất vào tôm nguyên liệu) gây ảnh hưởng lớn
đến uy tín doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam. Hiện nay, các doanh nghiệp thủy sản
chưa giải quyết triệt để những tồn tại như lực lượng lao động chưa ổn định, người
quản lý, trách nhiệm sản phẩm, áp lực giải quyết về môi trường và còn đối mặt
nhiều thách thức như thiếu khách hàng, thị trường, thiếu nhu cầu các bên liên quan
trong hợp tác kinh doanh, thiếu chính sách hỗ trợ từ nhà nước và áp lực vấn đề xã


20
hội trong kinh doanh. Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp thủy sản tỉnh Bạc Liêu
cũng nằm trong xu hướng chung của doanh nghiệp thủy sản cả nước.
Đối với phát triển doanh nghiệp thủy sản cả nước nói chung và tỉnh Bạc Liêu
nói riêng là một lĩnh vực sản xuất hàng hóa, có thương hiệu uy tín, có khả năng
cạnh tranh cao trong hội nhập kinh tế quốc tế, trên cơ sở phát huy lợi thế của một
lĩnh vực sản xuất – khai thác tài nguyên tái tạo, lợi thế của nghề tôm, tạo sự phát
triển đồng bộ, đóng góp ngày càng lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước
cũng như tỉnh Bạc Liêu. Tuy nhiên, đóng góp của các doanh nghiệp thủy sản rất lớn
đối với phát triển kinh tế xã hội tỉnh Bạc Liêu. Nhưng hiện nay, phát triển doanh
nghiệp thủy sản Bạc Liêu chưa hướng đến phát triển bền vững, các doanh nghiệp
chỉ nghĩ đến lợi ích của họ về kinh tế chưa quan tâm đến môi trường, cộng đồng xã

hội mà nơi doanh nghiệp đang hoạt động. Như vậy, phát triển bền vững doanh
nghiệp thủy sản tỉnh Bạc Liêu theo hướng giải quyết hài hòa mối quan hệ những tồn
tại bên trong doanh nghiệp như lực lượng lao động chưa ổn định, áp lực về quản lý,
trách nhiệm sản phẩm, áp lực giải quyết về môi trường và còn đối mặt nhiều thách
thức vào yếu tố bên ngoài như thiếu khách hàng, thị trường, thiếu nhu cầu các bên
liên quan trong hợp tác kinh doanh, chính sách hỗ trợ nhà nước và áp lực vấn đề xã
hội trong kinh doanh là vấn đề mà các doanh nghiệp cần quan tâm để hướng phát
triển bền vững. Phát triển bền vững doanh nghiệp là một chủ đề trên diện rộng, nhất
là các doanh nghiệp có nhiều hình thức, không chỉ về quy mô, lĩnh vực và không
gian kích thước mà còn về cách thức một doanh nghiệp được quản lý và điều hành,
tư cách pháp nhân và mục tiêu hoạt động. Tất cả các doanh nghiệp là một phần của
xã hội, họ hình thành và định hình bởi các cộng đồng nơi họ hoạt động.
Tuy nhiên, hiện nay có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học về lĩnh vực
phát triển bền vững doanh nghiệp. Nhưng tác giả sẽ mở rộng hướng nghiên cứu mới
đó là “Nghiên cứu các yếu tố tác động đến phát triển bền vững”. Do đó, phát triển
bền vững doanh nghiệp là một vấn đề mới ở Việt Nam và liên quan đến quy mô,
lĩnh vực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên rất rộng, cần có sự nghiên cứu
chuyên sâu hơn và thu hẹp ở từng lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nghiên cứu sinh
chọn đề tài “Các yếu tố tác động đến phát triển bền vững doanh nghiệp thủy sản
Bạc Liêu” làm luận án tiến sĩ của mình.


21
1.4.1 Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
 Mục tiêu nghiên cứu
Khi xác định được vấn đề nghiên cứu, phát triển bền vững doanh nghiệp sẽ
tác động từ yếu tố bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Do đó để khám phá các
yếu tố thành phần bên trong và bên ngoài doanh nghiệp có mối quan hệ đến phát
triển bền vững doanh nghiệp thủy sản tại tỉnh Bạc Liêu, nghiên cứu tập trung vào
một số mục tiêu cụ thể sau:

(1) Xác định các yếu tố có mối quan hệ tác động đến đến phát triển bền vững
các doanh nghiệp
(2) Xác định mô hình lý thuyết và kiểm định mô hình phát triển bền vững
doanh nghiệp
(3) Xác định hàm ý cho phát phát triển bền vững các doanh nghiệp thủy sản
Bạc Liêu
 Câu hỏi nghiên cứu
Để giải quyết mục tiêu nghiên cứu đặt ra, luận án thực hiện thông qua việc trả
lời các câu hỏi nghiên cứu sau:
(1) Xem xét các yếu tố nào có khả năng tác động đến phát triển bền vững
doanh nghiệp thủy sản?
(2) Mô hình lý thuyết nào phù hợp với phát triển bền vững các doanh nghiệp
thủy sản Bạc Liêu?
(3) Các doanh nghiệp thủy sản Bạc Liêu cần quan tâm đến yếu tố nào để phát
triển bền vững?
1.4.2 Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Xác định phần giới hạn của luận án liên quan đến đối tượng khảo sát và nội
dung nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu bao gồm những giới hạn về không gian của
đối tượng khảo sát, giới hạn quỹ thời gian để tiến hành nghiên cứu và giới hạn quy
mô nội dung được xử lý. Cơ sở đề xác định phạm vi và đối tượng nghiên cứu là:
- Phạm vi về nội dung là thể hiện tính cấp thiết và khoảng trống nghiên cứu;
xây dựng cơ sở lý thuyết về phát triển bền vững doanh nghiệp; Tìm hiểu cơ sở thực
tiễn của phát triển bền vững doanh nghiệp; Xác định mục tiêu và câu hỏi nghiên
cứu; Xây dựng phương pháp và quy trình nghiên cứu; Đặt ra 9 giả thuyết tác động
đến phát triển bền vững doanh nghiệp thủy sản và kết quả nghiên cứu chấp nhận giả


22
thuyết khoa học. Cuối cùng hàm ý cho phát triển bền vững doanh nghiệp thủy sản
Bạc Liêu trong thời gian tới.

- Phạm vi nghiên cứu của luận án được chọn là các doanh nghiệp thủy sản
đang hoạt động trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu.
- Phạm vi không gian nghiên cứu là 227 doanh nghiệp thủy sản và mang tính
đại diện cho 457 doanh nghiệp thủy sản đang hoạt động trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu.
- Phạm vi thời gian là quỹ thời gian hoàn tất công trình nghiên cứu của luận
án, tính từ giai đoạn bắt đầu nghiên cứu là năm 2011-2015.
- Đối tượng nghiên cứu của luận án chính là các yếu tố bên trong và bên ngoài
tác động đến phát triển bền vững doanh nghiệp thủy sản tại tỉnh Bạc Liêu.
- Đối tượng khảo sát những người quản lý các doanh nghiệp thủy sản đang
hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu.
Doanh nghiệp thủy sản là doanh nghiệp được thành lập theo ngành nghề mà
doanh nghiệp đăng ký kinh doanh như: Tôm đông lạnh; Chế biến hàng thuỷ sản;
Sản xuất chế biến hàng hải sản; Chế biến và bảo quản các mặt hàng thủy sản; Chế
biến thủy sản xuất khẩu; Nuôi trồng thuỷ sản nội địa; Bán buôn thủy sản; Khai thác
thuỷ sản biển; Sản xuất giống thuỷ sản.
1.4.3 Phương pháp nghiên cứu
1.4.4.1 Cơ sở thu thập dữ liệu
Luận án sử dụng các nguồn dữ liệu thứ cấp và sơ cấp để phục vụ cho quá
trình nghiên cứu như sau.
 Các dữ liệu thứ cấp sử dụng trong nghiên cứu được thu thập từ Phòng Đăng
ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư, Cục thống kế tỉnh Bạc Liêu, trên các
địa chỉ internet,…nghiên cứu của các công trình liên quan đến lĩnh vực phát triển
bền vững. Các dữ liệu trên chỉ phục vụ cho việc thống kê, đánh giá và tìm hiểu một
số tiêu chí có liên quan đến phát triển bền vững doanh nghiệp.
 Dữ liệu sơ cấp thông qua dàn bài thảo luận nhóm để thu thập được thông tin
trong quá trình thảo luận và sau đó thiết kế bảng câu hỏi phỏng vấn trực tiếp những
người quản lý doanh nghiệp thủy sản.
1.4.4.2 Phương pháp nghiên cứu
Ngày nay, có nhiều loại nghiên cứu mà các nhà khoa học hay sử dụng trong
nghiên cứu của mình đó là nghiên cứu hàn lâm và nghiên cứu ứng dụng. Trong



23
nghiên cứu hàn lâm với mục tiêu là phát triển lý thuyết mới, kết quả là đưa ra lý
thuyết, mô hình, luận điểm mới; còn nghiên cứu ứng dụng với mục tiêu là ứng dụng
lý thuyết vào thực tế và kết quả là dựa trên lý thuyết đưa ra các giải pháp hiệu quả.
Từ định hướng nghiên cứu, tác giả chọn hướng nghiên cứu cho đề tài luận án của
mình theo loại nghiên cứu ứng dụng tại thị trường tỉnh Bạc Liêu và có khám phá
các yếu tố mới. Do đó, các phương pháp nghiên trong luận án được sử dụng phương
pháp định tính và kết hợp với phương pháp định lượng.
 Nghiên cứu định tính
Luận án sử dụng phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn dựa vào các
công trình, luận án có liên quan đến phát triển bền vững doanh nghiệp nhằm làm cơ
sở lý luận, xác định một số tiêu chí đánh giá phát triển bền vững doanh nghiệp thủy
sản tỉnh Bạc Liêu thông qua dàn bài thảo luận nhóm, từ những người quản lý doanh
nghiệp thủy sản nhằm rút ra nguyên nhân các yếu tố bên trong và bên ngoài tác
động đến phát triển bền vững doanh nghiệp thủy sản tỉnh Bạc Liêu. Quy trình
nghiên cứu định tính:
 Thứ nhất là; Nghiên cứu dựa trên nguồn thông tin thứ cấp thông qua các
nghiên cứu đã công bố trên tạp chí ngoài nước và trong nước, một số yếu tác động
đến phát triển bền vững doanh nghiệp nhằm xác định các tiêu chí đánh giá hiệu quả
phát triển bền vững doanh nghiệp thủy sản.
Ở bước này giúp tác giả chuẩn bị nội dung xây dựng và hiệu chỉnh lại nội
dung bảng câu hỏi để xây dựng thang đo phù hợp. Bảng câu hỏi mà tác giả xây
dựng được tham khảo từ tổng hợp các công trình nghiên cứu ở trên.
 Thứ hai là; Điều tra, khảo sát thực tế. Tác giả đã tiến hành khảo sát những
người quản lý trong các doanh nghiệp thủy sản, các chuyên gia đang quản lý ở lĩnh
vực thủy sản thông qua bảng câu hỏi trực tiếp.
Kết quả thông tin thu thập đa dạng và phong phú, đáp ứng được yêu cầu cần
thiết cho việc nghiên cứu chính thức. Cuối cùng, nhóm được các thuộc tính yếu tố

bên trong và yếu tố bên ngoài doanh nghiệp.
 Nghiên cứu định lượng
Nghiên cứu định lượng được thực hiện dựa trên kết quả nghiên cứu định tính
được xác định các yếu bên trong và yếu tố bên ngoài tác động đến phát triển bền
vững doanh nghiệp thủy sản tỉnh Bạc Liêu, sử dụng phượng pháp định lượng nhằm


24
kiểm định lại kết quả nghiên cứu định tính, xem xét các thuộc tính yếu tố bên trong
và yếu tố bên ngoài nào còn tác động đến phát triển bền vững doanh nghiệp thủy
sản tỉnh Bạc Liêu thì giữ lại và yếu tố nào không tác động đến phát triển bền vững
doanh nghiệp sẽ bị loại. Như vậy, phương pháp nghiên cứu định lượng thực hiện
thông qua các bước sau.
 Bước 1: Xây dựng thang đo
Qui trình xây dựng thang đo trong luận án được dựa vào các bộ tiêu chí trên
và kết quả nghiên cứu định tính để điều chỉnh biến quan sát từ thang đo nguyên
thủy, và bổ sung mới thang đo an sinh xã hội. Trên cơ sở này một tập biến quan sát
được xây dựng để đo lường các yếu tố tác động đến phát triển doanh nghiệp thủy
sản tỉnh Bạc Liêu.
 Bước 2: Nghiên cứu định lượng
Đối với nghiên cứu bằng nghiên cứu định lượng được phỏng vấn trực tiếp,
phỏng vấn bằng thư với bảng câu hỏi để nắm bắt thông tin, thu thập dữ liệu về tác
động của biến phụ thuộc và các biến độc lập. Trên cơ sở nghiên cứu nhằm kiểm
định lại độ tin cậy của thang đo các yếu tố tác động đến sự phát triển bền vững
doanh nghiệp thủy sản tỉnh Bạc Liêu. Phương pháp đánh giá thang đo được sử dụng
công cụ hệ số tin cậy (Cronbach’s alpha, ký hiệu là α), phân tích yếu tố khám phát
EFA và phân tích hồi quy bội để tìm những thuộc tính yếu tố bên trong và yếu tố
bên ngoài tác động trực tiếp đến sự phát triển bền vững doanh nghiệp thủy sản Bạc
Liêu.
1.5 Kết quả thảo luận và đóng góp mới của luận án

Luận án sẽ đem lại một số kết quả thảo luận và đóng góp cho các nhà nghiên
cứu Việt Nam tham khảo bộ thang đo phát triển bền vững doanh nghiệp; các doanh
nghiệp thủy sản tỉnh Bạc Liêu có định hướng phát triển bền vững hơn, đồng thời
phát triển bền vững ngoài lợi ích của doanh nghiệp mà còn lợi ích của kinh tế, môi
trường sống và cộng đồng xã hội; các cơ quan quản lý nhà nước tại tỉnh Bạc Liêu sử
dụng kết quả để xây dựng chiến lược phát triển bền vững doanh nghiệp đang hoạt
động trong lĩnh vực thủy sản, cụ thể đóng góp mới của luận án như sau.
 Sự đóng góp mới về yếu tố an sinh xã hội được bổ sung vào nhóm yếu tố bên
ngoài doanh nghiệp, để mở rộng an sinh xã hội từ quan điểm về khái niệm đưa vào
thang đo phát triển bền vững doanh nghiệp.


×