Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

SKKN sử dụng đồ dùng trực quan và các phương pháp tích cực trong việc giảng dạy môn GDCD ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.99 KB, 44 trang )

MỤC LỤC
Tóm tắt đề tài …………….………………….…………..Trang 2
A. Phần mở đầu..................................................... Trang 5
I. Lý do chọn đề tài....................................... …Trang 5
II. Đối tượng nghiên cứu.................................... Trang 7
III. Phạm vi nghiên cứu...................................... Trang 7
IV. Phương pháp nghiên cứu............................. Trang 8
B.Phần nội dung.................................................. Trang 10
1. Cơ sở lý luận……………………………………….Trang 9
2. Cơ sở thực tiễn……………………………………..Trang 10
3. Nội dung vấn đề……………………………………Trang 10
4. Kết quả thực hiện…………………………………..Trang 31
C. Phần kết luận............................................ …..Trang 33
- Bài học kinh nghiệm………………………………..Trang 33
- Hướng phổ biến, áp dụng đề tài ……………………Trang 33
- Tài liệu tham khảo …………………………………Trang 35

TÓM TẮT ĐỀ TÀI
TÊN ĐỀ TÀI: “ Sử dụng đồ dùng trực quan và các phương pháp tích cực


trong việc giảng dạy môn GDCD ở trường THCS”
A – MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
1. Khách quan :
- GDCD là một môn học có tầm quan trọng trong nhà trường THCS.
- Dạy học GDCD là tạo ra sự thống nhất giữa nhận thức và hành động, lời nói
và hành vi.
- Môn GDCD góp phần đào tạo ra những công dân có tri thức khoa học có năng
lực hoạt động.
2. Chủ quan:


- Sự xuống cấp và suy đồi đạo đức của một bộ phận công dân trong đó có tầng
lớp học sinh.
- Giáo viên bộ môn và học sinh ít quan tâm hoặc xem là môn phụ.
- Từ mục tiêu đổi mới phương pháp và sử dụng các kỹ thuật dạy học tích cực,
đồ dùng dạy học.
- Từ thực tế của địa phương và đơn vị…
II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU :
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm này nhằm tập trung nghiên cứu và tìm hiểu:
- Việc phối hợp sử dụng các kỹ thuật dạy học tích cực và khai thác đồ dùng dạy
học trong môn GDCD.
- Các phương pháp tổ chức thực hiện trong tiết học , giúp các em học sinh
phát triển kỹ năng, nâng cao ý thức học tập cho học sinh.
- Sự chuyển biến của học sinh trong quá trình thực hiện các phương pháp.
III. PHẠM VI NGHIÊM CỨU :
Chia làm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn I : Từ tháng 9/2011 đến tháng 11/2011( Đầu học kỳ I đến giữa học kỳ
I): Điều tra tìm hiểu thực tế nắm bắt tình hình và ý thức học tập của học sinh
( 192/86 nữ).
- Giai đoạn II: Từ tháng 11/2011 đến tháng 01/2012 ( Từ giữa học kỳ I đến cuối
học kỳ I): Áp dụng các phương pháp và giải pháp tổng hợp để thực hiện vào tiết
dạy, đánh giá sự chuyển biến trong nhận thức của học sinh. Đồng thời tiếp tục


có những giải pháp thật hiệu quả đưa ra kết quả so sánh, đối chiếu, khắc phục
những tồn tại theo từng thời điểm cụ thể.
- Giai đoạn III: Từ tháng 01/2012 đến cuối tháng 03/2012 (Từ đầu học kỳ II đến
giữa học kỳ II): Kết hợp so sánh đối chiếu, kiểm tra kết quả thực tế đề ra từng
giải pháp khắc phục tồn tại và hạn chế của học sinh đồng thời phát huy tối đa
hiệu quả đạt được. Vẽ biểu đồ để so sánh đối chiếu kết quả. Nắm các số liệu
thực tế và khả năng nhận thức của học sinh để đưa ra các biện pháp và giải

pháp cụ thể cho tiết thực hành cuối học kỳ II.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Ở đề tài sáng kiến kinh nghiệm sử dụng một số phương pháp và hình thức tổ
chức thực hiện như: Kết hợp sử dụng đồ dùng trực quan với kỹ thuật khăn trải
bàn và sơ đồ tư duy; Tranh luận ủng hộ - phản đối; Kỹ năng đặt câu hỏi, động
não... cần phải khai thác tình hình thực tế đó để giáo dục cho học sinh xử lý tình
huống thể hiện qua cách (quan sát tranh ảnh, xem băng hình , sưu tầm và quay
chụp hình ảnh ,quay phim…..)
B – NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận:
Nghiên cứu các công văn chỉ đạo chuyên môn của ngành, sở, phòng ban.
Nắm chắc các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Công văn chỉ đạo chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy học và sử dụng các
kỹ thuật dạy học tích cực.
2. Cơ sở thực tiễn:
- Ý thức bảo vệ môi trường của học sinh.
- Sự quan tâm của phụ huynh, người dân và chính quyền địa phương.
- Bản thân giáo viên với giáo dục môi trường cho học sinh.
- Tình hình cơ sở vật chất và thiết bị dạy học ở trường với đặc thù bộ môn.
3. Nội dung vấn đề:
3.1. Kỹ thuật động não với tranh ảnh, sơ đồ, biểu đồ, bản đồ.
3.2. Kỹ thuật đặt câu hỏi với bảng thống kê, số liệu.
3.3. Tranh luận ủng hộ - phản đối với phim tư liêu, Video clip tình huống.
3.4. Kỹ thuật nêu gương người tốt với những câu chuyện có thật trong cuộc


sống, qua báo chí.
3.5. Lựa chọn kỹ thuật dạy học và đồ dùng theo yêu cầu sách giáo viên có sưu
tầm bổ sung phù hợp.
- Hoạt động giới thiệu bài .

- Tìm hiểu khái niệm, nội dung kiến thức cơ bản .
- Hoạt động củng cố, giáo dục cuối bài.
- Chuẩn bị tốt hệ thống câu hỏi phù hợp với đồ dùng dạy học.
C - KẾT LUẬN CHUNG
1. Bài học kinh nghiệm:
- Sử dụng kịp thời, tránh tùy tiện.
- Phải suy nghĩ tìm tòi phù hợp với lứa tuổi học sinh.
- Lựa chọn các cách thức tổ chức phù hợp với thực tế trường học và địa
phương.
- Hiểu và biết tường tận về kỹ thuật dạy học và đồ dùng dạy học.
- Phải xem kỹ thuật và đồ dùng dạy học là một loại hình kiến thức riêng biệt.
- Không được lạm dụng quá mức.
- Phải thường xuyên tự học tự tìm hiểu, tự nghiên cứu…
2. Hướng phổ biến áp dụng đề tài:
Qua việc nghiên cứu đề tài tôi nhận thấy có thể áp dụng cho bộ môn GDCD ở
các khối lớp trong trường THCS. Bên cạnh đó có thể áp dụng cho các môn thuộc
lĩnh vực KHXH: Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý …Trong những tiết thực hành ngoại
khóa, dã ngoại….
Bản thân cũng mong đề tài này được đồng nghiệp trong và ngoài trường tiếp tục
nghiên cứu ở nhiều khía cạnh và phát huy hơn nữa cho các năm học sau.


A. MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài.
1. Khách quan:
Môn GDCD (Giáo dục công dân) có vị trí quan trọng trong nhà trường THCS.
Môn học cung cấp cho học sinh một hệ thống chuẩn mực lối sống phù hợp với
yêu cầu của xã hội ở mức độ phù hợp với lứa tuổi, giúp học sinh biết sống hoà
nhập với cuộc sống hiện tại với tư cách là một công dân tích cực và năng động;
góp phần quan trọng để hình thành những phẩm chất cần thiết của nhân cách

con người Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
và tăng cường khả năng hội nhập trong xu thế phát triển và tiến bộ của thời đại.
Mặt khác dạy học môn GDCD phải nhằm tạo ra sự thống nhất giữa nhận thức và
hành động, giữa lới nói và hành vi. Như vậy, môn GDCD cần phải đảm bảo cung
cấp cho học sinh những phương thức ứng xử về đạo đức, pháp luật, văn hoá
trong cuộc sống, hình thành ở mỗi học sinh sự thống nhất giữa nhận thức và
hành động, hướng học sinh vào việc thực hành trong cuộc sống hàng ngày các
chuẩn mực và mẫu hành vi tích cực mà bài học đặt ra; khơi dậy trong học sinh ý
chí thể hiện sự thống nhất đó.
Cùng với những môn học khác, môn GDCD góp phần đào tạo những người
công dân mới vừa có tri thức khoa học vừa có năng lực hoạt động thực tiễn, có ý


thức trách nhiệm với bản thân, gia đình và đất nước. Từ đó các em thấy rõ trách
nhiệm của mình: Luôn luôn có ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp, Pháp
luật, biết tự rèn luyện bản thân để trở thành người công dân hữu ích cho quê
hương, đất nước.
Vì vậy, để phát huy tính tích cực của học sinh thì việc sử dụng có hiệu quả đồ
dùng dạy học là điều kiện hết sức quan trọng giúp học sinh chiếm lĩnh các giá trị,
các chuẩn mực đạo đức, pháp luật thông qua việc nắm tri thức, thực hành và rèn
luyện trong và ngoài giờ học.
2. Chủ quan:
Những năm gần đây, đạo đức của một bộ phận xã hội đang chiều hướng xuống
cấp, tội phạm của những người chưa thành niên có chiều hướng gia tăng, một
trong những nguyên nhân dẫn đến các em có lối sống buông thả, thiếu văn hoá,
phạm tội là do hiểu biết về các giá trị đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc
và pháp luật của các em còn hạn chế. Vì vậy giáo dục đạo đức, pháp luật trong
nhà trường có ý nghĩa đặc biệt quan trọng góp phần quan trọng trong việc giáo
dục và rèn luyện con người ý thức tuân theo những chuẩn mực của đạo đức xã
hội và tuân theo pháp luật.

Bên cạnh đó trước đây, phần lớn giáo viên dạy bộ môn này là giáo viên chủ
nhiệm hoặc những giáo viên những bộ môn khác được phân công giảng dạy nên
họ không có điều kiện và ít quan tâm đến việc đầu tư cho bài giảng, chưa có
kiến thức sâu rộng và kinh nghiệm khai thác và sử dụng kênh hình trong các tiết
dạy. Do đó hiệu quả giờ dạy đạo đức, pháp luật chưa cao, các em hiểu biết về
các chuẩn mực đạo đức, pháp luật còn mơ hồ.
Những năm gần đây, phần lớn giáo viên dạy bộ môn này đã được đào tạo chính
qui, được phân công chuyên giảng dạy bộ môn này, nên họ rất quân tâm đến
việc đầu tư cho từng tiết dạy, đặc biệt là họ rất quan tâm đến việc sử dụng đồ
dùng trực quan và áp dụng các phương tiện hiện đại trong giảng dạy môn
GDCD. Chính vì lẽ đó mà chất lượng và hiệu quả giờ dạy đạo đức, pháp luật
được nâng cao hơn trước.
Môn GDCD ở trường THCS trước đây thường bị coi làm môn học phụ nên các
giờ học thường diễn ra một cách đơn điệu, khô khan, phương pháp chủ yếu là


phương pháp thuyết trình. Trong giờ học, học sinh được hoạt động ít, thụ động,
giờ học không gây hứng thú, đồ dùng dạy học ít được sử dụng hoặc sử dụng
một cách hình thức. Nên đó chưa phải là là phương pháp tích cực vì học sinh
chưa thực sự có cơ hội để thể hiện thái độ, lập trường của cá nhân mình. Những
giờ học như vậy, học sinh ít có khả năng sáng tạo.
Tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả giờ dạy theo yêu cầu đổi mới phương
pháp dạy học. Với định hướng “ lấy học sinh làm trung tâm” giáo viên cần đa
dạng hoá các phương pháp dạy học đảm bảo hiệu quả cao và học sinh tích cực,
chủ động trong học tập.Vì vậy việc dạy đạo đức, pháp luật giáo viên không chỉ
sử dụng phương pháp thuyết trình, đàm thoại mà còn phải sử dụng các kỹ tthuật
dạy học và đồ dùng trực quan. Tức là sử dụng các phương tiện, đồ dùng dạy
học nhằm minh hoạ cho nội dung bài giảng (Như: tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ, băng
hình, băng tiếng, bảng số liệu, thống kê…). Thông qua các đồ dùng trực quan
học sinh có thể tiếp thu tri thức thiết lập mối quan hệ giữa nội dung kiến thức với

thực tế cuộc sống. Các em biết vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống, vào
trong vấn đề cụ thể hàng ngày. Cho nên giờ học đạo đức, pháp luật rất sôi nổi,
chất lượng giờ dạy được nâng cao, học sinh nắm bắt các chuẩn mực của đạo
đức, pháp luật chắc và nhanh.
Trong những năm gần đây công tác bồi dưỡng chỉ đạo chuyên môn của
Phòng giáo dục và Đào tạo ngày càng chặt chẽ hơn, các cụm chuyên môn được
quan tâm, sinh hoạt tương đối hiệu quả. Bên cạnh đó, tại đơn vị, công tác chỉ
đạo đổi mới phương pháp được thống nhất từ Ban giám hiệu đến các tổ, nhóm
và từng cá nhân, đặc biệt là sử dụng đồ dùng dạy học có kết hợp các phương
tiện hiện đại sẽ góp phần nâng cao chất lượng giờ dạy nhiều hơn, mỗi giáo viên
dạy Giáo dục công dân đều xác định rằng:“ Muốn cho giờ dạy đạo đức, pháp
luật không bị khô cứng và tẻ nhạt phải sử dụng các kỹ thuật dạy học hiện đại kết
hợp với đồ dùng trực quan” giúp học sinh nắm vững kiến thức theo nguyên lí:“
Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực
tiễn. Đó là con đường biện chứng của nhân thức chân lý, của sự nhận thức hiện
thực khách quan” (Lê nin).
Mặt khác, trong những năm gần đây nhà trường đã từng bước trang bị các


phương tiện phục vụ cho giảng dạy như máy tính, mạng Internet, máy chiếu nên
việc sưu tầm tư liệu như tranh ảnh rất thuận tiện. Vì vậy, mỗi giáo viên đều suy
nghĩ, tìm tòi để làm sao nâng cao chất lượng sử dụng đồ dùng trực quan trong
giảng dạy bộ môn GDCD nhằm đem lại hiệu quả cao trong việc dạy và học bộ
môn này.
Từ những cơ sở thực tiễn trên đây đòi hỏi phải có sự thay đổi về phương
pháp dạy học. Muốn làm được điều đó, giáo viên phải là những người tổ chức,
điều khiển các hoạt động học tập, hạn chế tối đa sự độc thoại của thầy bằng
cách sử dụng đồ dùng dạy học một cách trực quan, phong phú, tạo ra sự hấp
dẫn trong tiết học, học sinh chủ động tiếp cận đồ dùng dạy học, phân tích, đánh
giá từ đó rút ra nội dung bài học. Như vậy học sinh có cơ hội tối đa phát triển

tính độc lập, sáng tạo, chủ động tiếp thu kiến thức, nâng cao nhận thức, rèn
luyện kỹ năng, còn người giáo viên chỉ là người tổ chức tiết học thành môi
trường để học sinh học mà thôi.
II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU :
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm này nhằm tập trung nghiên cứu và tìm hiểu:
- Việc phối hợp sử dụng các kỹ thuật dạy học tích cực và khai thác đồ dùng dạy
học trong môn GDCD.
- Các phương pháp tổ chức thực hiện trong tiết học, giúp các em học sinh
phát triển kỹ năng, nâng cao ý thức học tập cho học sinh.
- Sự chuyển biến của học sinh trong quá trình thực hiện các phương pháp.
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU :
Từ quá trình tìm hiểu nghiên cứu được tham gia các lớp tập huấn. Nắm được
các tài liệu của các ngành chức năng và thực tế giảng dạy trên lớp cũng như ở
địa phương, việc kiểm tra đánh giá trước, trong và sau tiết học môn GDCD tại
trường THCS Nguyễn Bá Phát. Thông qua việc thực hiện các kỹ thuật dạy học
và đồ dùng dạy học bằng nhiều hình thức và phương pháp khác nhau qua tiết
học. Như vậy đó là một quá trình có sự phối hợp chặt chẽ để thực hiện có hiệu
quả. Quá trình đó được chia làm các giai đoạn sau:
- Giai đoạn I : Từ tháng 9/2011 đến tháng 11/2011( Đầu học kỳ I đến giữa học kỳ
I): Điều tra tìm hiểu thực tế nắm bắt tình hình và ý thức học tập của học sinh


( 192/86 nữ).
- Giai đoạn II: Từ tháng 11/2011 đến tháng 01/2012 ( Từ giữa học kỳ I đến cuối
học kỳ I): Áp dụng các phương pháp và giải pháp tổng hợp để thực hiện vào tiết
dạy, đánh giá sự chuyển biến trong nhận thức của học sinh. Đồng thời tiếp tục
có những giải pháp thật hiệu quả đưa ra kết quả so sánh, đối chiếu, khắc phục
những tồn tại theo từng thời điểm cụ thể.
- Giai đoạn III: Từ tháng 01/2012 đến cuối tháng 03/2012 (Từ đầu học kỳ II đến
giữa học kỳ II): Kết hợp so sánh đối chiếu, kiểm tra kết quả thực tế đề ra từng

giải pháp khắc phục tồn tại và hạn chế của học sinh đồng thời phát huy tối đa
hiệu quả đạt được. Vẽ biểu đồ để so sánh đối chiếu kết quả. Nắm các số liệu
thực tế và khả năng nhận thức của học sinh để đưa ra các biện pháp và giải
pháp cụ thể cho tiết thực hành cuối học kỳ II.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :
GDCD là một môn học không chỉ là việc tiếp thu kiến thức mà còn phải biết vận
dụng liên hệ mở rộng ở thực tế, xử lý được các tình huống diễn ra trong đời
sống hằng ngày. Đòi hỏi ở học sinh một quá trình rèn luyện vận dụng thuần thục
và trở thành kỹ năng, hình thành năng lực phẩm chất nhân cách và ý thức cho
học sinh.
Ở đề tài sáng kiến kinh nghiệm sử dụng một số phương pháp và hình thức tổ
chức thực hiện như: Kết hợp sử dụng đồ dùng trực quan với kỹ thuật khăn trải
bàn và sơ đồ tư duy; Tranh luận ủng hộ - phản đối; Kỹ năng đặt câu hỏi, động
não... cần phải khai thác tình hình thực tế đó để giáo dục cho học sinh xử lý tình
huống thể hiện qua cách (quan sát tranh ảnh, xem băng hình , sưu tầm và quay
chụp hình ảnh ,quay phim…..)

B. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận:
Kỹ thuật dạy học tích cực là thông qua các hoạt động của giáo viên và học sinh
nhằm rèn luyện phương pháp tự học, kích thích sự đam mê tăng cường sự hợp
tác, giao tiếp chia sẻ kinh nghiệm đồng thời tạo ra môi trường học tập thoải mái


cho học sinh… Kết hợp sự đánh giá của thầy và tự đánh giá của trò.
Đồ dùng dạy học ở đây được hiểu là những phương tiện, thiết bị vật chất được
sử dụng trong quá trình dạy học như Tư liệu, tranh, ảnh, bản đồ, biểu đồ, sơ đồ,
bảng thống kê, số liệu, phim tình huống, phim tư liệu, trò chơi… Ngoài ra, ta có
thể sử dụng một số đồ dùng thông thường trong gia đình, trong sinh hoạt: Dùng
để sắm vai, chơi trò chơi; Thông báo hay trình bày thông tin, giới thiệu vào bài,

minh họa, giải thích, mô tả trực quan. Tổ chức và tiến hành các hoạt động, kết
thúc bài học và giáo dục học sinh.
Tác dụng của phối hợp các kỹ thuật dạy học và đồ dùng trực quan:
Tạo điều kiện để thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, loại trừ khuynh
hướng dạy chay làm cho các giờ học khô khan, mang tính chất lý thuyết, áp đặt
đối với học sinh.
Làm tăng tính hấp dẫn đối với nội dung học tập, gây hứng thú học tập ở học
sinh.
Làm cho việc học trở nên dễ dàng hơn, thuận lợi hơn, đây là nguồn cung cấp
các chất liệu để học sinh khai thác nội dung học tập một cách tích cực, tự giác.
Trong dạy học đổi mới, học sinh hoạt động dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Nếu không có các kỹ thuật và đồ dùng, thiết bị dạy học thì việc tổ chức các hoạt
động của học sinh sẽ gặp rất nhiều khó khăn, do đó kết quả học tập không đạt
yêu cầu mong muốn.
Mỗi hoạt động dạy học được xây dựng trên cơ sở vận dụng một phương pháp
dạy học cụ thể, có phương tiện dạy học phù hợp để hỗ trợ cho hoạt động đó. Vì
vậy sử dụng phương tiện dạy học phải đúng lúc, đúng chỗ, kịp thời, tránh đưa ra
một cách tuỳ tiện.
Một yêu cầu rất quan trọng là sử dụng kỹ thuật và đồ dùng dạy học phải có tác
dụng kích thích học sinh tư duy, suy nghĩ, tìm tòi, không phải chỉ như một
phương tiện minh hoạ nội dung bài học. Khi sử dụng thiết bị, phương tiện dạy
học là giáo viên cung cấp cho học sinh những chất liệu cần thiết để học sinh tìm
tòi, tự kiến tạo tri thức, kỹ năng trên cơ sở làm việc với nguồn thông tin từ các
phương tiện dạy học mà giáo viên trình bày, giới thiệu, học sinh phải có ý kiến
nhận xét, đánh giá về nội dung, tính chất sự việc, rút ra kết luận bài học cần


thiết.
Mặt khác, đổi mới phương pháp dạy học không chỉ là đổi mới phương tiện và
không có nghĩa là dùng nhiều phương tiện dạy học, mà điều quan trọng là sử

dụng phương tiện dạy học một cách hợp lý, có hiệu quả, tránh lạm dụng hoặc sử
dụng một cách hình thức, tránh xu hướng sử dụng tràn lan, không có chủ đích rõ
rệt, cần được khai thác một cách triệt để.
2. Cơ sở thực tiễn:
Dạy đạo đức, pháp luật cũng như tất cả các môn học khác là phải sử dụng các
kỹ thuật dạy học và đồ dùng trực quan để minh hoạ cho nội dung bài giảng.
Trong các tiết dạy đạo đức, pháp luật hiện nay rất đa dạng và phong phú trong
giai đoạn hiện nay khi khoa học công nghệ đang phát triển, mạng Intenet dang
được sử dụng ngày càng rộng rãi. Vì vậy, trong một tiết dạy giáo viên có thể sử
dụng nhiều kỹ thuật và đồ dùng trực quan khác nhau vào những mục đích khác
nhau nhằm làm cho bài giảng thêm hấp dẫn, đạt hiệu quả cao. Từ thực tiễn
giảng dạy tôi thấy cần phải chuẩn bị như sau:
Muốn sử dụng các kỹ thuật dạy học và đồ dùng trực quan đạt hiệu quả
cao trong mỗi bài dạy đạo đức, pháp luật, người giáo viên dạy GDCD phải chuẩn
bị rất kỹ. Do những đồ dùng trực quan sử dụng trong các tiết dạy đạo đức, pháp
luật ít có sẵn nên việc chuẩn bị đồ dùng cho một tiết dạy khá công phu đòi hỏi
giáo viên phải có sự đầu tư về mặt thời gian, công sức, trí tuệ và lòng nhiệt tình.
Trước hết người giáo viên phải xác định xem trong tiết dạy này cần sử dụng các
kỷ thuật nào? loại đồ dùng gì? Bảng, phấn, giấy, bút, thước; tư liệu, tranh ảnh,
bản đồ, biểu đồ, sơ đồ; phiếu học tập, bảng phụ…hay các loại phương tiện kỹ
thuật nghe nhìn như máy băng đĩa ghi âm, máy chiếu các bản in, máy băng đĩa
hình, các phương tiện đa chức năng như máy tính, máy chiếu, các phần mềm
dạy học trên máy vi tính…
Khi đã xác định được bài dạy này cần sử dụng những loại nào thì người giáo
viên sẽ bắt tay vào công việc chuẩn bị và tiến hành thực hiện.
3. Nội dung vấn đề:
Mục tiêu của đề tài này là tìm ra những cách thức tổ chức hiệu quả nhất trong
việc thực hiện đề tài:“ Sử dụng đồ dùng trực quan và phương pháp dạy học



tích cực trong việc giảng dạy môn GDCD trường THCS” nhằm hình thành ý
thức cho học sinh hoàn thiện kỹ năng thành thạo giúp học sinh năng động sáng
tạo hơn trong học tập. Mỗi cách thức tổ chức đều có mặt tích cực và hạn chế
riêng, phù hợp với từng đối tượng học sinh và đòi hỏi những điều kiện thực hiện
riêng. Vì vậy cần lựa chọn và sử dụng kết hợp các cách thức tổ chức phù hợp
với nội dung của tiết học, trình độ nhận thức của học sinh, năng lực, sở trường
của giáo viên, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của lớp, của trường. Từ mục tiêu
nghiên cứu đó bản thân tôi đã áp dụng và thử nghiệm các cách thức tổ chức lớp
học và tiến hành tiết dạy như sau:
Ví dụ 1: Khi dạy tiết ngoại khóa : “An toàn giao thông” tôi thấy ở bài này cần
phối hợp sơ đồ KWL và sơ đồ tư duy, khăn trải bàn với các đồ dùng sau:


Máy vi tính.



Máy chiếu Projector.



Hình vẽ các biển báo, đèn tín hiệu….



Phiếu học tập, bảng phụ, bút dạ.



Băng hình, tranh ảnh về các tình huống đi đường




Thông tin, số liệu, hình ảnh về tình hình trật tự ATGT.
Từng bài dạy giáo viên cần biết trong phòng đồ dùng của nhà trường đã có
những đồ dùng nào, nếu thiếu thì tiến hành làm và sưu tầm, cố gắng vận động
học sinh cùng tham gia: vẽ tranh, sưu tầm tranh ảnh, tìm số liệu, khi cần có thể
tự quay hoặc nhờ đồng nghiệp quay những đoạn phim tư liệu ngắn hoặc các
tình huống.

Biển báo nguy hiểm
chỉ dẫn

Biển báo cấm

Biển báo


Đi hàng ba, hàng tư

Đá bóng dưới

lòng đường

Tuyên truyền An toàn giao thông

Cảnh sát giao thông

làm nhiệm vụ
Khi đã có những đồ dùng cần sử dụng, tôi tiến hành nghiên cứu thật kỹ phân loại

từng ký hiệu trên bản đồ, hình vẽ, tìm hiểu chi tiết nội dung, ý nghĩa của từng
bức tranh, hình vẽ, ý nghĩa của những số liệu bằng sơ đồ để khi lên lớp giảng
dạy được tốt. Trong quá trình sưu tầm tư liệu tôi cố gắng tích lũy và sắp xếp
chúng theo từng chủ đề khác nhau như: chủ đề về An toàn giao thông, phòng


chống tệ nạn xã hội, phòng ngừa lây nhiễm HIV/AIDS, Thanh niên, Hôn nhân gia
đình, Hội nhập quốc tế, Bộ máy Nhà nước, Các chuẩn mực đức. Trong từng chủ
đề có các thể loại tư liệu khác nhau: Phim tư liệu, tình huống, tranh ảnh, mẫu
chuyện… những tư liệu này không chỉ dạy học ở lớp 9 mà còn những lớp khác
tùy theo chủ đề để lựa chọn. Việc sắp xếp này cũng giúp cho giáo viên dễ dàng
trong việc lấy dùng khi cần thiết, giáo viên có thể trình chiếu trực tiếp, thiết kế
giáo án điện tử hoặc photo ra giấy để dạy.
Để làm được những điều đã trình bày thi người giáo viên phải có những
am hiểu tình hình chính trị xã hội chủa địa phương, đất nước, phải cập nhật
thông tin trên đài truyền hình, đài phát thanh, báo chí, trên mạng Internet để kịp
thời bổ sung những tranh ảnh, bài viết, số liệu mới để đảm bảo tính chính xác,
cập nhập của bài giảng.
Muốn sử dụng tốt các kỹ thuật và đồ dùng trực quan có hiệu quả, trước hết
người giáo viên cần xác định loại kỹ thuật và phương tiện cần sử dụng, tác dụng
của nó đối với bài giảng.
3.1.Kỹ thuật động não với tranh ảnh, sơ đồ, biểu đồ, bản đồ:
Những đồ dùng trực qua này sẽ có tác dụng gây ấn tượng sâu sắc trong ký ức
mỗi học sinh. Nếu người giáo viên sử dụng tốt các phương tiện đó sẽ giúp cho
học sinh phát triển được óc quan sát, trí tưởng tượng, khả năng tư duy liên hệ
thực tế. Nó còn giúp học sinh nhớ kỹ, hiểu sâu những điều thu nhận được.
Ví du 1: khi dạy bài 4: Bảo vệ hòa bình (GDCD 9) chúng ta có thể giới
thiệu đến học sinh những bức tranh.
Khi xem những bức ảnh này học sinh sẽ hình dung được:



Hậu quả to lớn của chiến tranh.



Ngày nay chiến tranh vẫn xảy ra nhiều nơi trên thế giới



Trách nhiệm của cộng đồng thế giới, mỗi quốc gia, mỗi con người phải
làm gì để ngăn chặn chiến tranh, bảo vệ hòa bình.


Mỹ ném bom nguyên tử Nhật bản

Hậu quả của chiến

tranh

Bảo vệ trật tự xã hội

Bảo vệ Tổ Quốc


Biểu tình vì hòa bình

Vẽ tranh vì hòa

bình
Ví du 2: Khi dạy bài 17: Nhà nước CH XHCN Việt Nam (Lớp 7); bài

18: Bộ máy Nhà nước cấp cơ sở (Lớp 7); Bài 20: Hiến pháp nước CH XHCN
Việt Nam (Lớp 8), giáo viên có thể giới thiệu các sơ đồ sau, nhằm giúp học sinh
hiểu được một cách dễ dàng cơ cấu tổ chức Nhà nước ta từ trung ương đến địa
phương:
- Cơ quan quyền lực Nhà nước CH XHCN Việt Nam.
- Tổ chức bộ máy nhà nước CH XHCN Việt Nam.
- Cơ cấu tổ chức cơ quan hành chính nhà nước CH XHCN Việt Nam.
- Cơ cấu tổ chức cơ quan xét xử nước CH XHCN Việt Nam
- Cơ cấu tổ chức cơ quan kiểm sát nước CH XHCN Việt Nam.







Ví dụ 3: Khi dạy bài: Ngoại khóa: “An toàn giao thông” giáo viên có thể
đưa ra “Biểu đồ so sánh tai nạn giao thông theo từng tháng năm 2009 và 2010”
Mục đích: Nhằm giúp học sinh so sánh tình hình tai nạn giao thông 2 năm
gần nhất về số người chết theo từng tháng (có so sánh cùng thời điểm của 2
năm 2009, 2010) từ đó có cái nhìn khái quát về tình hình tai nạn giao thông cả
nước.


Biểu đồ so sánh tai nạn giao thông theo từng tháng năm 2008 và 2009:
Ví dụ 4: Khi dạy bài: Ngoại khóa: “Nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc” (lớp 9) giáo
viên có thể giới thiệu “Bản đồ hành chính Việt Nam”:
Qua bản đồ giúp học sinh hiểu được:
- Đất nước ta, vị trí tiếp giáp với nước ngoài, một phần đất nước ngoài biển khởi
(Hoàng Sa, Trường Sa)

- Xác định được vùng trời, vùng biển, những tất đất thiêng liêng của Tổ Quốc
Hình thành ý thức công dân, nghĩa vụ đối với đất nước
Ví dụ 5: Khi dạy bài: Ngoại khóa “An toàn giao thông” giáo viên có thể
giới thiệu “Lược đồ mạng lưới giao thông đường sắt Việt Nam” để :
- Giới thiệu mạng lưới giao thông đường sắt ở Việt Nam và đặc điểm của
đường sắt nước ta: Hầu hết các đường bộ đều giao cắt với đường sắt trên cùng
một mặt phẳng (đoạn đường đó gọi là đường ngang). Ở nước ta có khoảng hơn
1000 đoạn đường như vậy, trên các đoạn đường đó thường xảy ra tai nạn vô
cùng nguy hiểm.
- Tìm những biện pháp đảm bảo an toàn khi đi qua đoạn đường bộ giao cắt với
đường sắt.
- Biết bảo vệ tài sản trên đường sắt, tránh việc ném đá lên tàu, đảm bảo an toàn
tại địa phương nơi tàu đi qua


Đường bộ giao với đường sắt

Bản đồ hành chính

Việt nam
3.2. Kỹ thuật đặt câu hỏi với bảng thống kê, số liệu:
Bảng thống kê, số liệu ấy sẽ là những minh chứng có sức thuyết phục
nhất, sinh động nhất về thực tiễn cuộc sống. Giúp học sinh có cái nhìn thực tế,
thiết thực so với lý thuyết chung chung, Từ đó các em nắm bài vững, hiểu bài
sâu.
Ví dụ 1: Khi dạy bài Ngoại khóa: “An toàn giao thông” giáo viên có thể
đưa ra “Bảng thống kê tình hình tai nạn giao thông” và đặt câu hỏi cho học sinh:


Tai nan giao thông để lại những tổn thất to lớn như thế nào?




Tình hình tai nạn giao thông diễn biến phức tạp như thế nào?.



Em hãy đề ra những giải pháp góp phần hạn chế tai nạn giao thông?
Tai nạn giao thông

Năm 2008

( Toàn quốc)
Số vụ
11.522
Số người chết
10.397
Số người bị thương
7413
Tai nạn giaothôngNăm 2008

Năm 2009

Năm 2010

12.492
11.516
7914
Năm 2009


11.449
10.633
6723
Năm 2010

Tỉ lệ tăng, giảm so với năm
trước
Giảm 4,4%
Giảm 4,0%
Giảm 8,1%
Tỉ lệ tăng, giảm so với năm


( TP Đà Nẵng)
trước
Số vụ
158
114
213
Tăng 30,3%
Số người chết
115
105
149
Tăng 17,3%
Số người bị thương
24
68
163
Tăng 41,12%

Bảng thống kê tình hình tai nạn giao thông của cả nước và TP Đà Nẵng.
Ví dụ 2 : Khi dạy bài 14: “ Phòng, chống nhiễm HIV/ AIDS” (GDCD 8) giáo
viên có thể giới thiệu “Bảng thống kê tình hình nhiễm HIV/AIDS ở Việt Nam”
nhằm giúp học sinh:
Thấy được nguy cơ, mức độ lây lan nhanh chóng của đại dịch HIV/AIDS ở nước
ta đối với tất cả mọi người, không phân biệt độ tuổi, giới tính, tầng lớp
Thấy được sự nguy hiểm của căn bệnh thế kỉ. Có ý thức phòng ngừa và
tuyên truyền mọi người phòng chống sự lây lan của HIV/AIDS.
Tránh phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS.
Cả nước
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Số người nhiễm HIV
104. 111
128.367
138.191
Số bệnh nhân AIDS
17. 289
25.219
29.575
Số người tử vong vì AIDS
10. 071
14.042
41.544
Bảng thống kê tình hình nhiễm HIV/AIDS ở Việt Nam.

Năm 2009
156.307
34.110

21.633

3.3. Tranh luận ủng hộ - phản đối với phim tư liêu, Video clip tình huống:
Hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, việc tìm những
thước phim tư liệu, phóng sự điều tra, Video clip tình huống không còn qua khó
khăn đối với người giáo viên, những tư liệu này có rất nhiều trên Iternet. Điều
quan trọng là người giáo viên phải biết lựa chọn cho phù hợp với từng bài học,
vừa mang tính giáo dục cao.
Trong quá trình giảng dạy của mình, tôi đã cố gắng sưu tầm, sắp xếp các loại tư
liệu này thành những chuyên mục, các đoạn phim có thể sử dụng dạy nhiều lớp
khác nhau với cùng một chủ đề sau đó trình chiếu cho học sinh xem , học sinh
tranh luận nêu quan điểm ủng hộ hay phản đối..
Ví dụ 1: Khi dạy bài “Lý tưởng sống của thanh niên” (GDCD 9) tôi sẽ cho học
sinh xem đoạn Video clip hình ảnh về Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc, Video
clip về “Thanh niên tình nguyện” đi đến vùng sâu, vùng xa, Video clip về thanh
thiếu niên ăn chơi hư hỏng, đánh bạc đua xe…nhằm giúp học sinh:

Năm 2010
180.312
42.399
36.101


×