Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

KIẾN TRÚC VÀ LỄ HỘI CHÙA CỔ LỄ THỊ TRẤN CỔ LỄ, HUYỆN TRỰC NINH, NAM ĐỊNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.55 MB, 106 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ

NGUYỄN THỊ MƠ

KIẾN TRÚC VÀ LỄ HỘI CHÙA CỔ LỄ,
THỊ TRẤN CỔ LỄ, HUYỆN TRỰC NINH, NAM ĐỊNH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử văn hóa

Người hướng dẫn khoa học:
TS. Nguyễn Thị Tuyết Nhung

Hà Nội, 2016


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, tác giả xin trân trọng cảm ơn
Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa, quý Thầy, cô giáo khoa Lịch sử trường
Đại học sư phạm Hà Nội 2 và quý thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy đã giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình học tập.
Tác giả xin chân thành cảm ơn: Sở Văn hóa thông tin và du lịch tỉnh
Nam Định, Bảo tàng tỉnh Nam Định, Ban tuyên giáo tỉnh Nam Định, Thư
viện tỉnh Nam Định và Đại đức Thích Tâm Vượng – Giám viện chùa Cổ Lễ
cùng các sư thầy trong chùa đã tạo điều kiện thuận lợi trong suốt thời gian
thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô hướng dẫn :
T.S. Nguyễn Thị Tuyết Nhung, cô đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong
suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành khóa luận.
Tác giả cảm ơn tập thể lớp K38 A – CN Lịch Sử, trường Đại học sư


phạm Hà Nội 2 đã đóng góp ý kiến trong quá trình học tập và thực hiện
khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 11 tháng 5 năm 2016

Tác giả

Nguyễn Thị Mơ


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả của quá trình học tập
nghiên cứu của tôi cùng với sự giúp đỡ của các thầy cô trong khoa Lịch sử,
trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của cô
giáo – T.S. Nguyễn Thị Tuyết Nhung.
Trong quá trình làm khóa luận tôi có tham khảo những tài liệu có liên
quan đã được hệ thống trong mục Tài liệu tham khảo. Khóa luận không có sự
trùng lặp với khóa luận khác.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Tác giả

Nguyễn Thị Mơ


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................. 6
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................. 6
5. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu .................................... 6
6. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 7
7. Đóng góp của khóa luận ........................................................................ 7
8. Bố cục của đề tài .................................................................................... 7
Chương 1. KIẾN TRÚC CHÙA CỔ LỄ THỊ TRẤN CỔ LỄ, HUYỆN
TRỰC NINH, NAM ĐỊNH ............................................................................. 8
1.1. Tổng quan chung về thị trấn Cổ Lễ .................................................. 8
1.1.1. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên .................................................. 8
1.1.2. Tình hình kinh tế........................................................................... 9
1.1.3. Tình hình văn hóa - xã hội ........................................................ 13
1.2. Kiến trúc chùa Cổ Lễ ....................................................................... 15
1.2.1. Lịch sử hình thành chùa ............................................................ 15
1.2.2. Kiến trúc chùa ............................................................................. 18
1.2.3. Nhận xét kiến trúc chùa Cổ Lễ................................................... 33
Tiểu kết chương 1 ....................................................................................... 36
Chương 2. LỄ HỘI CHÙA CỔ LỄ, THỊ TRẤN CỔ LỄ, HUYỆN TRỰC
NINH, TỈNH NAM ĐỊNH ............................................................................ 37
2.1. Khái niệm Lễ hội ................................................................................. 38
2.1.1. Khái niệm “Lễ” .............................................................................. 38


2.1.2. Khái niệm “Hội” ............................................................................ 39
2.1.3. Khái niệm “Lễ hội”........................................................................ 40
2.2. Nguồn gốc lễ hội chùa Cổ Lễ.............................................................. 41
2.3. Lễ hội chùa Cổ Lễ ............................................................................... 49
2.4. Nhận xét những nét độc đáo, những giá trị của lễ hội chùa Cổ Lễ 59

2.5. Ảnh hưởng của lễ hội chùa Cổ Lễ ..................................................... 65
2.5.1. Ảnh hưởng tích cực ....................................................................... 65
2.5.2. Hạn chế .......................................................................................... 71
2.6. Những yêu cầu của việc bảo tồn và phát huy lễ hội chùa Cổ Lễ .... 73
2.7. Một số giải pháp đề xuất .................................................................... 79
Tiểu kết chương 2 ....................................................................................... 85
KẾT LUẬN .................................................................................................... 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 89


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Cùng với quá trình dựng nước và giữ nước, cha ông ta đã xây dựng nên
một nền văn hóa Việt ngàn đời với những tinh hoa được tích tụ và lắng đọng
qua từng thế hệ. Di tích lịch sử - văn hóa là những trang sử sống có sức thuyết
phục mọi người con đất Việt vì ở đó có lưu giữ những dấu ấn của lịch sử,
mang hơi thở của thời đại lưu truyền lại cho những thế hệ mai sau. Những di
tích lịch sử - văn hóa ấy được coi như một “Bảo tàng” về tri thức, điêu khắc,
nghệ thuật trang trí và những giá trị văn hóa phi vật thể. Việc gìn giữ những
di tích này không đơn thuần là gìn giữ những thành quả vật chất của người
xưa mà hơn hết đó còn là sự kế thừa, phát huy và sáng tạo ra những giá trị văn
hóa mới, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
Kiến trúc cổ là một bộ phận quan trọng cấu thành trong kho tàng Di sản
văn hóa dân tộc, các công trình kiến trúc cổ có khả năng biểu đạt những nét
chung nhất về các mặt khoa học kĩ thuật và văn hóa nghệ thuật của từng thời
đại. Khi xây dựng các công trình kiến trúc, con người luôn có khát vọng biểu
hiện cụ thể và chân thực những tư tưởng của thời đại trong công trình xây
dựng thông qua những hình tượng nghệ thuật và những phương pháp đặc thù
của tri thức dân gian. Chính vì vậy, các công trình kiến trúc không chỉ chứa

đựng những giá trị về mặt kiến trúc và nghệ thuật mà còn là một bức thông
điệp về văn hóa, tư tưởng của người xưa truyền lại cho thế hệ sau.
Kiến trúc cổ Việt Nam phong phú và đa dạng về loại hình, trong đó ngôi
chùa là sản phẩm văn hóa Phật giáo, là một loại hình tiêu biểu. Phật giáo du
nhập vào nước ta khoảng đầu công nguyên. Cũng từ đây, các ngôi chùa đã
dần được dựng lên trong những khoảng thời gian khác nhau và trên những
không gian khác nhau. Về sau, cùng với sự phát triển của Phật giáo, các ngôi
chùa đã mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình tới tận làng xã chứ không chỉ
1


bó hẹp với không gian của những ngôi chùa gắn liền với tầng lớp quý tộc,
quan lại. Người Việt xưa có câu “Đất vua chùa làng”, điều này cho thấy rằng
ở nước ta cũng như ở một số nước phương Đông khác, trong thời kì trung đại,
toàn bộ đất đai trong nước đều thuộc quyền sở hữu của nhà vua nhưng ngôi
chùa thì lại thuộc về cộng đồng làng xã. Ngôi chùa đôi khi còn được biết đến
như một sợi dây để cố kết cộng đồng, củng cố tinh thần đoàn kết, gắn bó cùng
với cư dân địa phương. Được xây dựng trong nhiều thời kì khác nhau cùng
với đó là kiểu cách kiến trúc, trang trí, tượng thờ…mang những giá trị độc
đáo, chùa Việt Nam thực sự trở thành một bảo tàng kiến trúc, hội họa và điêu
khắc cổ Việt Nam.
Chùa Cổ Lễ là một trong những di tích cổ có quy mô tương đối lớn nằm
tại thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Đây là ngôi chùa còn lưu
giữ được nhiều nét kiến trúc độc đáo cho dù đã trải qua sự tàn phá của chiến
tranh cũng như những biến động của lịch sử. Hiện nay, ngôi chùa còn bảo tồn
được nhiều giá trị vật thể và phi vật thể hết sức quý báu. Giá trị vật thể được
biểu hiện cụ thể thông qua không gian kiến trúc, cảnh quan và một số di vật
(gậy tích, trống đồng, túi đựng đồng….) cùng với các giá trị tâm linh có ý
nghĩa biểu đạt sâu sắc.
Mặt khác cứ vào khoảng trung tuần tháng 9 âm lịch, chùa Cổ Lễ lại long

trọng tổ chức Lễ hội chùa Cổ Lễ thu hút đông đảo khách thập phương về
chung vui nhằm tưởng nhớ tới thiền sư Nguyễn Minh Không - một vị quốc sư
thời Lý được tôn thờ ở đó. Thiền sư Nguyễn Minh Không là một người dị
thường, có nhiều tài năng xuất chúng, là một danh nhân uyên thâm, một
lương y nổi tiếng khắp vùng đồng bằng sông Hồng. Có khá nhiều tài liệu đã
đề cập đến, đã nhiên cứu về di tích chùa Cổ Lễ, tuy nhiên việc nghiên cứu
một cách sâu sắc về giá trị kiến trúc và lễ hội chùa Cổ Lễ còn đang là một vấn
đề chưa được quan tâm thỏa đáng.
2


Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Trực Ninh - nơi có di sản văn hóa chùa
Cổ Lễ, đề tài này sẽ giúp chúng tôi hiểu sâu sắc hơn về giá trị kiến trúc và lễ
hội quê hương. Không chỉ vậy còn tìm ra những giá trị tích cực để giữ gìn và
phát huy nhằm hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực góp phần làm lành mạnh
hóa các hoạt động của lễ hội, hướng vào các giá trị đạo đức truyền thống của
dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng bền vững. Vì vậy, người viết quyết
định lựa chọn đề tài “Kiến trúc và lễ hội chùa Cổ Lễ, thị trấn Cổ Lễ, huyện
Trực Ninh, Nam Định” làm khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành lịch sử văn
hóa.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Liên quan đến vấn đề: “ Kiến trúc và lễ hội chùa Cổ Lễ, thị trấn Cổ
Lễ, huyện Trực Ninh, Nam Định” có thể kể đến một số công trình nghiên
cứu tiêu biểu sau:
Trong cuốn “ Việt điện U linh” của tác giả Lý Tế Xuyên, nhà xuất
bản Văn học công bố năm 2002. Có ghi lại: “… Năm Bính Thìn (1136),
Thần Tông đã 21 tuổi bỗng phát bệnh, mình mọc đầy lông biến hình như
con hổ. Các danh sư trong nước đến chữa rất nhiều, bệnh vẫn không khỏi.
Minh Không và Giác Hải nghe tin biết là đúng với lời trước, liền đặt ra
câu ca dao cho trẻ con hát: “Muốn chữa Lý cửu trùng, phải tìm Nguyễn

Minh Không…” [28; tr. 167 – 168]. Ở đây, tác giả mới chỉ đề cập một cách
khái quát về công lao của Nguyễn Minh Không chữa khỏi bệnh cho vua Lý
Thần Tông mà chưa đi sâu tìm hiểu về cuộc đời của đức Thánh Nguyễn
chứa đầy yếu tố ly kỳ với phép đi mây về gió, kỳ tích phi thường.
Cuốn “Đại Việt sử kí toàn thư” của tác giả Ngô Sĩ Liên, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội công bố năm 1998, viết : “… Xưa ở làng Đàm Xá, huyện Đại
Hoàng (còn có tên là Gia Viễn), đất Trường An có người tên là Nguyễn Chí
Thành ở chùa Quốc Thanh, hiệu là Minh Không Quốc sư, lúc ít tuổi đi du
3


học, gặp Đạo Hạnh, họ được Đạo giáo, trải hơn mười năm…”. [12 ; tr.874]
Trong tác phẩm đã ca ngợi sự nghiệp kỳ vĩ của thiền sư Nguyễn Minh Không
như tu thiền đắc đạo đi mây về gió, niệm chú cho chim lạ rơi xuống đất, ngả
nón làm thuyền vượt sông cả…Như vậy từ xưa đến nay, không ít sách vở kể
cả chính sử và dã sử, thư tịch, bi ký đã nói về Đức Thánh Tổ - vị quốc sư
đáng kính Nguyễn Minh Không, húy Chí Thành hiệu Không Lộ sinh tại Đàm
Xá, Gia Viễn, Ninh Bình. Nhưng tuy nhiên, tác phẩm lại chưa đi sâu tìm hiểu
về Nguyễn Minh Không một trong tam Thiên Thánh Tổ thực sự có công với
dân với nước, người được quốc đảo dân cầu, đền đài chùa chiền khắp nơi thờ
phụng trong đó có chùa Cổ Lễ huyện Trực Ninh. Mối liên quan giữa nhân vật
lịch sử này và lễ hội chùa Cổ Lễ ra sao thì cũng chưa được nói tới nhiều.
Cuốn “ Chăm việc đạo lo việc đời ” của tác giả Đinh Thế Hinh, in tại
văn phòng khu Di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long, Hà Nội năm
2010, có dẫn: “…qua Đò Quan, theo đường 21, cách thành phố Nam Định
15km về phía Nam là thị trấn Cổ Lễ, huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Hà” [7 ; tr.
215]… “Qua những truyền thuyết, những trang lịch sử phong phú ghi chép
trong các sách: Lĩnh Nam chích quái, Thiền uyển tập anh, Nam ông mộng
lục, Đại Nam nhất thống chí… có thể khẳng định, chùa Cổ Lễ do thiền sư
Nguyễn Minh Không xây dựng vào khoảng thế kỉ XII” [8, tr. 215].

Tác giả viết tiếp: “ Từ xa du khách đã nhìn thấy một tòa bảo tháp trầm
mặc vươn lên nền trời xanh cao lồng lộng, đó là tháp chùa Cổ Lễ. Chùa Cổ
Lễ ngự trên khoảng đất phía Nam thị trấn Cổ Lễ, hướng về phía đất Phật Tây
Thiên. Cổ Lễ huyền bí, thiêng liêng, cổ kính qua các thời kì còn lưu truyền lại
trong dân gian. Và Cổ Lễ biểu tượng văn minh dân tộc gặp gỡ văn minh nhân
loại, kiến trúc phương Đông kết hợp hài hòa kiến trúc phương Tây còn đó
như một chứng tích lịch sử. Nhiều học giả và du khách từ phương xa tới
không thể không quan tâm tới quá trình hình thành di tích lịch sử này. Từ thời

4


nhà Lý, Cổ Lễ đã là nơi trên bến dưới thuyền sầm uất, thịnh vượng…”. [8 ,
tr.215]. Trong tác phẩm tác giả đã nêu lên những nét chung nhất về lịch sử
hình thành và kiến trúc chùa Cổ Lễ , nhưng việc đi sâu nghiên cứu để làm toát
lên những giá trị của lễ hội chùa cũng như nét độc đáo trong kiến trúc thì chưa
được quan tâm một cách thỏa đáng.
Ngoài ra, vấn đề tìm hiểu và kiến trúc và lễ hội chùa Cổ Lễ cũng được đề
cập rải rác trong một số công trình khác. Tiêu biểu như: Nguyễn Đổng Chi
(1994) với cuốn “ Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam” - Tập 4 (Nhà xuất
bản Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh). Trần Mạnh Thường (chủ biên) với “
Đình chùa lăng tẩm nổi tiếng Việt Nam”, (Nhà xuất bản Văn hóa thông
tin,1998)…
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đã nêu lên những nét khái quát nhất về
thiền sư Nguyễn Minh Không hoặc chùa Cổ Lễ. Tuy vậy, việc tìm hiểu những
giá trị độc đáo, những đặc điểm riêng biệt trong nghệ thuật kiến trúc chùa và
những giá trị tích cực của lễ hội chùa Cổ Lễ thì chưa được nói tới nhiều.
Công trình nghiên cứu “Lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số
ở miền Bắc Việt Nam” của Hoàng Lương được Nxb Văn hóa Dân tộc công
bố năm 2002, đã dành riêng một phần về khái niệm chung về lễ hội truyền

thống của các dân tộc thiểu số ở miền Bắc. Qua tác phẩm tác giả kết luận đối
với các dân tộc của nước ta nói chung và ở miền bắc nói riêng, lễ được thực
hiện chủ yếu liên quan đế việc cầu mùa, người an vật thịnh. Nghi lễ là những
sinh hoạt tinh thần của các cá nhân hay tập thể, là sinh hoạt của cả cộng đồng
người trong đời sống tôn giáo tín ngưỡng. Trong hội có thể tìm thấy những
biểu tượng điển hình của sự thể hiện tâm lý cộng đồng, những đặc trưng của
văn hóa dân tộc, quan niệm, cách ứng xử với môi trường tự nhiên và môi
trường xã hội của các cá nhân và cả cộng đồng người. Những hoạt động diễn
ra trong hội luôn phản ánh và thể hiện một phần lịch sử địa phương nhất định.
Trong công trình “ 60 lễ hội truyền thống ở Việt Nam” được nhà xuất
5


bản Khoa học xã hội phát hành năm 2005. Tác phẩm này đã đề cập đến lễ hội
chùa Cổ Lễ tỉnh Nam Định một cách khái quát về lịch sử hình thành và phát
triển, về Thiền sư Nguyễn Minh Không, về kiến trúc độc đáo của chùa Cổ
Lễ… Qua đây thì ta có một cái nhìn cơ bản về một phần trong nội dung lễ hội
chùa Cổ Lễ Nam Định. Do đặc trưng là công trình nghiên cứu tổng thể nhiều
lễ hội nên các nhà nghiên cứu chưa có điều kiện tìm hiểu sâu về từng lễ hội
nhưng đây cũng là một công trình quan trọng giúp người viết có những nguồn
tư liệu phục vụ cho đề tài của mình.
Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa và lễ hội khác mà
người viết đã thu thập được trong quá trình nghiên cứu. Đặc biệt với thuận lợi
là một người con của quê hương Nam Định đã giúp cho người viết có điều
kiện đi thực địa để có thêm nguồn tư liệu phong phú và có giá trị khoa học
phục vụ cho đề tài của mình.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là làm rõ về nghệ thuật kiến trúc cũng như lễ hội
chùa Cổ Lễ. Trong chừng mực nhất định, đề tài mong muốn tìm giải pháp,
định hướng bảo tồn, phát huy hiệu quả của các giá trị di tích nhằm thỏa mãn

văn hóa tâm linh của con người.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài sẽ tập trung làm rõ sự ra đời và quá trình tồn tại của chùa Cổ Lễ.
Mô tả và phân tích nghệ thuật kiến trúc chùa Cổ Lễ.
Chỉ ra những đặc điểm riêng biệt trong nghệ thuật kiến trúc chùa Cổ Lễ.
Phân tích các đặc trưng tiêu biểu của lễ hội chùa Cổ Lễ.
5. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là kiến trúc và lễ hội chùa Cổ Lễ thị trấn Cổ Lễ,
huyện Trực Ninh, Nam Định.
Phạm vi nghiên cứu:
6


Về thời gian: đề tài tiếp cận nghiên cứu những giá trị của di tích lịch sử
chùa Cổ Lễ tại thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, Nam Định từ năm 1986 đến
nay, trên cơ sở đó tìm ra các giá trị truyền thống trong quá khứ để khẳng định
những giá trị vốn có của lễ hội chùa Cổ Lễ hiện nay.
Về không gian: Lấy di tích lịch sử văn hóa chùa Cổ Lễ tại thị trấn Cổ Lễ,
huyện Trực Ninh, Nam Định để khảo sát, nghiên cứu.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài của mình, tác giả đã sử dụng nhiều nguồn tư liệu
khác nhau như: tư liệu thành văn, tư liệu điền dã, tư liệu phỏng vấn…
Về phương pháp nghiên cứu, người viết sử dùng hệ thống phương pháp
liên ngành, các phương pháp nghiên cứu văn hóa, lịch sử, điền dã, xã hội
học….
7. Đóng góp của khóa luận
Đề tài sẽ là nguồn tư liệu tham khảo trung thực và có giá trị cho những
nhà nghiên cứu văn hóa, nghiên cứu lễ hội đặc biệt là lễ hội chùa Cổ Lễ. Là
tài liệu phục vụ cho giảng dạy, học tập về lịch sử văn hóa địa phương.

8. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của
khóa luận được kết cấu thành 2 chương:
-

Chương 1: Kiến trúc chùa Cổ Lễ thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh,

Nam Định
-

Chương 2: Lễ hội chùa Cổ Lễ thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, Nam

Định

7


NỘI DUNG
Chương 1
KIẾN TRÚC CHÙA CỔ LỄ THỊ TRẤN CỔ LỄ,
HUYỆN TRỰC NINH, NAM ĐỊNH

1.1. Tổng quan chung về thị trấn Cổ Lễ
1.1.1. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên
Thị trấn Cổ Lễ là một thị trấn thuộc huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Thị trấn được thành lập theo quyết định số 2/QD - HDBT ngày 10 tháng 1
năm 1984 trên cơ sở chia tách xã Chính Nghĩa cũ thành thị trấn Cổ Lễ và xã
Trực Chính, huyện Nam Ninh, tỉnh Hà Nam Ninh.
Thị trấn Cổ Lễ có diện tích là 4,93 km2 và dân số là 10331 người (năm
2007). Đây là một vùng đất văn hiến, có truyền thống yêu nước và cách mạng

ở vào địa thế cận lộ, cận giang (có quốc lộ 21 ở phía Tây và gần sông Hồng ở
phía Bắc), Cổ Lễ giáp với các xã Hồng Phong, Vũ Thư, Thái Bình và các xã
Trực Chính, Phương Định, Liêm Hải, Trung Đông đều thuộc Trực Ninh và xã
Nam Thanh, huyện Nam Trực. Đây là nơi giao lưu thuận lợi và lại là trung
tâm của huyện Trực Ninh nên thị trấn Cổ Lễ hội tụ đầy đủ các yếu tố “thiên
thời, địa lợi, nhân hòa” trong thời kì hội nhập và phát triển.
Về cấu trúc địa hình: thị trấn Cổ Lễ thuộc vùng đồng bằng sông Hồng
nên địa hình của vùng tương đối bằng phẳng, mặt bằng ruộng đất có độ
nghiêng từ Bắc xuống Nam nhưng cốt đất ở phía Bắc lại đột ngột thấp hẳn
xuống. Hầu hết ruộng đất ở vùng này xưa kia chỉ cấy được một vụ chiêm, từ
tháng 6 âm lịch trở đi tất cả ruộng nương, đường xá đều ngập chìm trong
nước, nhân dân đi lại phải dùng đò. Người dân nơi đây thường ca thán rằng:
“Đồng người tám nếp trổ bông
Đồng ta chỉ có rêu, rong, má đề”
8


Hoặc
“Được đồng Sồng no lòng thiên hạ
Trăm cái tội không bằng lỗ lội làng Kênh”
[1, tr.12]
Ngày nay, với đường lối phát triển nông nghiệp của Đảng, công tác trị
thủy được đặc biệt chú trọng, ruộng đất tại Cổ Lễ đã được cấy hai, ba vụ
quanh năm xanh tốt. Được sông Hồng và sông Ninh Cơ hằng năm đem phù sa
về bồi đắp nên đất đai của vùng này rất màu mỡ. Sông Ninh chảy vắt ngang
qua thị trấn vừa có tác dụng tưới tiêu cho đồng ruộng vừa tạo điều kiện cho
giao thông đường thủy trên bến dưới thuyền tấp nập.
Về khí hậu của huyện Trực Ninh nói chung và thị trấn Cổ Lễ nói riêng là
khí hậu đặc trưng của vùng đồng bằng sông Hồng, đó là khí hậu nhiệt đới gió
mùa. Khí hậu được chia làm hai mùa rõ rệt, mùa hè nóng, mưa nhiều từ tháng

5 đến tháng 10, mùa đông khô và lạnh từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt
độ trung bình trong năm khoảng 22 - 24 độ C, chênh lệch nhiệt độ giữa ngày
và đêm khoảng 8 - 10 độ C. Độ ẩm không khí 85 - 90%, mùa hè nhiệt độ rất
cao, cao nhất là 38,5 - 39,5 độ C, những ngày dịu mát nhiệt độ trung bình
khoảng từ 24 - 25 độ C, nhiệt độ trung bình mùa đông khoảng là 20 độ C,
nhiệt độ thấp nhất không dưới 4,5 độ C.
Với vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên thuận lợi, bằng phẳng, nguồn nước
và khí hậu thuận lợi nên nơi đây đã thu hút được sự sinh tụ của con người.
Trong quá trình đó văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần đã được sản sinh ra và
trở thành những giá trị bất diệt của đời sống cộng đồng.
1.1.2. Tình hình kinh tế
Buổi đầu, cư dân sinh sống chủ yếu dựa vào việc đánh bắt cá tôm và san
gò, lấp vũng thành những cánh đồng trồng lúa, cây hoa màu. Năm này qua
năm khác với cuộc sống dần ổn định, cùng với những chân ruộng lúa xanh
tốt, ở vùng đất bãi ven sông Hồng, sông Ninh, người dân Cổ Lễ xưa nay biết

9


tận dụng ưu thế của vùng đất bãi để trồng dâu nuôi tằm, kéo kén, ươm tơ đã
gắn bó chặt chẽ với người dân nơi đây ngay từ thuở ban đầu.
Trải qua bao năm dài gian nan vất vả, tận lực cùng công sức mồ hôi khai
thiên lập địa tạo dựng xóm làng, một miền quê trù phú, dân cư quần tụ đông
vui đã hình thành với tính chất là nơi hội tụ của nhiều thành phần dân cư. Các
dòng họ cũng đem theo về những nét văn hóa độc đáo và những nghề thủ
công đa dạng. Những nghề thủ công ban đầu mang tính chất tự cấp tự túc
phục vụ cho sinh hoạt của từng gia đình như nghề đắp đất, đục, đẽo, đan
nát…cùng với năm tháng với đôi tay khéo léo của người dân nơi đây, những
nghề thủ công ngày càng phát triển mạnh mẽ trở thành những ngành nghề
truyền thống với nhiều mặt hàng tinh xảo, đặc biệt là ngành chăn tằm, ươm

tơ, dệt vải. Chính vì vậy mà thế kỉ XIX, sau khi hoàn thành xâm lược nước ta,
ngay trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất cùng với việc thành lập công
ty bông vải sợi Bắc Kỳ và mở rộng sản xuất, một số nhà tư bản Pháp đã phát
hiện ra tiềm năng của vùng nông thôn Trực Ninh. Ở đây, có đội ngũ thợ thủ
công với tay nghề khá, có vùng đất bãi phù hợp với việc trồng dâu nuôi tằm,
kéo tơ nên các nhà tư bảnPháp đã liều đầu tư khuyến khích phát triển nghề
này. Huyện Trực Ninh nói chung và thị trấn Cổ Lễ nói riêng đã trở thành vành
đai nguyên liệu cung cấp cho công ty bông vải sợi Bắc Kỳ và từ đây nghề
chăn tằm ươm tơ dệt vải phát triển thịnh đạt.
Sản xuất lưu thông nhộn nhịp khiến cho bộ mặt kinh tế của thị trấn Cổ
Lễ trong thế kỉ XIX biến đổi rất nhanh chóng, trung tâm buôn bán Cổ Lễ hình
thành ngày càng mở mang thu hút các thương nhân từ Hà Nội, Hải Phòng, Hà
Đông thường xuyên về mua bán tơ lụa, vải, sợi. Qua trung tâm này và hàng
chục chợ ở các thôn xã, các mặt hàng và sản vật nổi tiếng của Trực Ninh như
gạo tám xoan, gà Nhang Cát, hàng thêu ren Trung Lao… đã thu hút người
mua và theo chân họ đi muôn nơi.

10


Những năm gần đây mức tăng trưởng kinh tế hằng năm của thị trấn Cổ
Lễ đạt bình quân hơn 10%, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh và phù hợp với
mô hình phát triển thị trấn. Trong đó công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ngành nghề chiếm tỷ trọng 43,6%, dịch vụ - thương mại chiếm tỷ trọng 48,4%
và sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng 8%. Tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống 9%
theo tiêu chí mới, riêng trong năm 2010 những kết quả về phát triển kinh tế xã hội của thị trấn khá toàn diện. Tổng doanh thu công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp hơn 119 tỷ đồng, đạt 113% kế hoạch [ 29; tr. 2 – 3].
Ngoài ra trong những năm qua thị trấn đã đầu tư xây dựng những công
trình của địa phương và có những công trình của nhà nước được đầu tư trên
địa bàn phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Các công trình đầu tư
của Nhà nước là Dự án cải tạo nâng cấp quốc lộ 21, Dự án trùng tu, tôn tạo di

tích lịch sử - văn hóa - du lịch chùa Cổ Lễ, Dự án cống số 2,…với vốn đầu tư
lớn. Việc xây dựng với tốc độ nhanh và đảm bảo chất lượng, các công trình
phúc lợi cũng như xây dựng cụm công nghiệp tập trung, khu dân cư. Điều đó
đã tạo nên diện mạo mới cho một thị trấn năng động và phát triển, từng bước
hội nhập với kinh tế vùng và kinh tế cả nước.
Nhìn chung cơ cấu kinh tế của huyện Trực Ninh đã và đang chuyển đổi
tích cực theo hướng khai thác thế mạnh trọng tâm về phát triển công nghiệp tiểu thủ công nghiệp, làng nghề. Tận dụng thuận tiện của hệ thống giao thông
đường bộ, đường thủy để quy hoạch phát triển các lĩnh vực thương mại, dịch
vụ, vận tải. Chú trọng công tác bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng giáo
dục, chăm sóc sức khỏe nhân dân, thực hiện xóa đói giảm nghèo và xây dựng
nông thôn mới. Đến năm 2020, Trực Ninh là huyện phát triển ở mức trung
bình khá của tỉnh Nam Định.
Khuyến khích và tạo thuận lợi đẩy mạnh phát triển các ngành nghề
huyện đã có nền tảng và lợi thế theo hướng chú trọng đổi mới trang thiết bị, tổ
11


chức và quản lý sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh
tranh của sản phẩm trên thị trường. Phấn đấu tăng trưởng giá trị sản xuất công
nghiệp (giá năm 2010) bình quân thời kỳ 2015 - 2020 đạt 16 %năm, thời kỳ
2021 - 2030 khoảng 14 % năm, trong đó trọng tâm là ngành nghề sau:
- Công nghiệp dệt may: Là ngành sản xuất truyền thống và chủ lực của
huyện, do đó định hướng tập trung đổi mới thiết bị công nghệ để sản xuất
những sản phẩm có đặc thù riêng (lụa tơ tằm), sản phẩm là nguyên phụ liệu
cho ngành dệt may (sợi, vải các loại…) và sản phẩm may xuất khẩu.
- Công nghiệp cơ khí: tập trung vào cơ khí đóng mới, sửa chữa tàu
thuyền vận tải cỡ nhỏ và trung bình, công cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp,
xây dựng, thủy lợi, xe máy, gia công cơ khí…Tạo điều kiện thuận lợi phát
triển các cơ sở cơ khí đóng mới, sửa chữa tàu thuyền ven sông Ninh Cơ.
Mở rộng phát triển dệt may ở các địa bàn trọng điểm (thị trấn Cổ Lễ,

Trực Chính, Phương Định…). Duy trì ổn định sản xuất của các làng nghề
truyền thống (dệt Cự Trữ, Phú Ninh, Ươm tơ Cổ Chất, thêu ren Trung Lao…)
Trên địa bàn huyện có quốc lộ 21, quốc lộ 37B và nhiều tuyến đường
tỉnh lộ chạy qua là điều kiện thuận lợi để quy hoạch hình thành các điểm
thương mại - dịch vụ, kinh doanh xăng dầu hiện đại trên tuyến.
Khuyến khích phát triển thương mại rộng khắp trên địa bàn toàn huyện
đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân, nhất là tại các vị trí đầu mối
như đầu cầu Lạc Quần, thị trấn Cổ Lễ, Trực Nội, Trực Phú…
Cải tạo, nâng cấp một số chợ đầu mối trọng điểm tiêu biểu là chợ thị trấn
Cổ Lễ đảm nhận chức năng là các trung tâm phân phối hàng hóa tổng hợp cho
toàn huyện.
Liên kết đưa các điểm di tích lịch sử văn hóa, làng nghề của huyện (chùa
Cổ Lễ, làng nghề dệt Cự Trữ…) vào truyến du lịch tham quan.

12


1.1.3. Tình hình văn hóa - xã hội
Làng xã đã được khẳng định gắn liền với kỷ cương về nét văn hóa làng
xã, cộng đồng, từng làng có hương ước để giữ gìn nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Đối
với người cao tuổi hương ước quy định cả cộng đồng phải tôn trọng, có ngày
yến lão trong năm để chúc thọ các bậc cao niên. Trong mỗi gia đình, dòng họ
phải giữ gìn nề nếp, gia phong, tôn kính ông, bà, cha, mẹ, người phụ nữ lấy
công, dung, ngôn, hạnh làm chuẩn mực. Gạt bỏ những hủ tục phong kiến,
hương ước thật sự là kỷ cương giữ gìn nếp làng, xã Trực Ninh nói chung và
Cổ Lễ nói riêng dưới thời phong kiến.
Mang nặng phong tục tập quán của cư dân nông nghiệp, đời sống tâm
linh của người dân Cổ Lễ gắn liền với việc tôn thờ trời đất và thờ cúng tổ tiên,
gắn với quá trình hình thành làng, xã. Đạo Phật cũng hình thành và trong buổi
đầu là đạo duy nhất thống trị đời sống tâm linh của người dân nơi đây. Khắp

mọi làng đều xây chùa thờ Phật, các tín đồ lấy vô ngã vị tha, từ bi hỷ xả làm
tâm niệm sống. Những chùa ở nơi đây không chỉ là nơi thờ cúng thần Phật mà
ở đó là những công trình kiến trúc tuyệt tác của người dân xứ này.
Xây dựng từ thời Lý, chùa Thần quang tức Thần Quang Tự ở thị trấn Cổ
Lễ, huyện Trực Ninh, Nam Định thờ Phật và đại thiền sư Nguyễn Minh
Không uyên thâm về giáo lý và y học. Tháp chùa Cổ Lễ là một trong những
công trình kiến trúc hết sức độc đáo thể hiện óc thẩm mỹ tinh tế và bàn tay tài
hoa của những người thợ Trực Ninh. Chùa Thần Quang được Nhà nước xếp
hạng di tích lịch sử văn hóa và là một trong những danh lam nổi tiếng của tỉnh
Nam Định. Hàng năm chùa Cổ Lễ được tổ chức vào tháng 9 âm lịch thu hút
đông đảo người dân tham gia cũng như khách du lịch.
Cùng với các chùa thờ Phật, các làng còn tôn vinh những người có công
với dân, với nước, với làng làm Đức ông, Đức bà, Thành hoàng và xây dựng
đền để thờ mẫu và các thần linh trong tín ngưỡng dân gian.
13


Trong thời kì đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, nhiều đình, chùa
ở nơi đây trở thành nơi hội họp của cán bộ, đảng viên, nơi che giấu cán bộ, tài
liệu cách mạng. Các đình chùa đó không những là nơi gửi gắm niềm tin, khát
vọng của nhân dân mà còn gắn liền với vận mệnh dân tộc trong thời kì gian
nan, ác liệt, nhiều cơ sở đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa như chùa
Cổ Lễ.
Ngoài ra huyện còn tập trung nâng cao chất lượng dân số và nguồn nhân
lực, duy trì mức sinh hợp lý để ổn định quy mô dân số. Đẩy mạnh công tác
đào tạo nghề gắn với giới thiệu việc làm, tăng cường liên kết giữa các cơ sở
đào tạo nghề và nơi sử dụng lao động.
Tiếp tục củng cố và nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả giáo dục và
đào tạo, xây dựng trường chuẩn quốc gia (đến năm 2020 có 50% trường tiểu
học đạt chuẩn quốc gia mức độ 2; 100% trường THCS và THPT đạt chuẩn

quốc gia). Xây dựng trường THCS Đào Sư Tích đạt tiêu chuẩn cơ sở giáo dục
chất lượng cao.
Đẩy mạnh công tác y tế, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, thực
hiện có hiệu quả chương trình y tế quốc gia. Tiếp tục nâng cao cơ sở vật chất,
thiết bị, chất lượng khám chữa bệnh của Bệnh viện đa khoa Trực Ninh. Phấn
đấu đến năm 2020 tỷ lễ xã đạt chuẩn quốc gia về y tế trên 90%.
Nâng cao chất lượng phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa với xây dựng nông thôn mới. Phấn đấu đến năm 2020 có 85% thôn,
xóm đạt tiêu chuẩn làng văn hóa, 85% gia đình văn hóa, 100% thôn, xóm có
nhà văn hóa.
Đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia tập luyện thể dục thể thao, xây
dựng trung tâm văn hóa, thể thao huyện, bao gồm: thư viện, nhà văn hóa thiếu
nhi, nhà thi đấu đa năng [ 29; tr. 4 – 5].
Huyện Trực Ninh nói chung và thị trấn Cổ Lễ nói riêng ngày nay đã và
14


đang từng bước trên con đường phát triển. Cùng với những điều kiện tự nhiên
tương đối thuận lợi thì trên tất cả các lĩnh vực của đời sống như lĩnh vực văn
hóa - xã hội có sự chuyển dịch tích cực, an ninh trật tự, an toàn xã hội được
giữ vững, kinh tế dần ổn định đã đáp ứng nhu cầu và nâng cao chất lượng
cuộc sống của người dân. Từ đây thì những giá trị văn hóa vật chất và văn hóa
tinh thần đã được sản sinh ra và trở thành những giá trị bất diệt của đời sống
cộng đồng.
1.2. Kiến trúc chùa Cổ Lễ
1.2.1. Lịch sử hình thành chùa
Chùa Cổ Lễ tên tự là chùa “Thần Quang” thuộc thị trấn Cổ Lễ, huyện
Trực Ninh, tỉnh Nam Định, một danh lam thắng cảnh nổi tiếng của nền văn
hóa miền châu thổ sông Hồng. Lịch sử chùa Cổ Lễ gắn liền với sự tích của
Thiền sư Nguyễn Minh Không, Lý Quốc sư là tên gọi chứa danh pháp lý cao

nhất của thiền sư và tên gọi này chỉ rõ ông là người có chức vị đứng đầu của
giới cao tăng dưới triều đại nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Vào thế kỉ XII,
thiền sư Nguyễn Minh Không đã tu luyện thành chính quả và xây dựng nên
ngôi chùa này.
Những tư liệu lịch sử ghi chép trong các sách: Lĩnh nam chích quái,
Thiền uyển tập anh, Đại nam nhất thống chí, Nam ông mộng lục …cho biết:
Chùa Thần Quang do Quốc sư Nguyễn Minh Không xây dựng từ thế kỉ XII
thời Lý. Bài minh khắc trên chuông đồng đúc năm 1799 niên hiệu Cảnh Thịnh
còn lưu lại tại chùa có câu (dịch): “Chân cảnh trời nam, Thánh Tổ đản giáng,
dựng chùa Thần Quang”.
Trải qua những biến cố thăng trầm của lịch sử và thời gian, ngôi chùa ba
tầng, bảy mái làm bằng gỗ lim nguyên ở hữu hạn sông Hồng đã vĩnh viễn lùi
vào quá khứ do trận đại hồng thủy năm Tân Hợi (1611). Nhân dân Cổ Lễ đã
dựng lên ba chùa (mỗi làng một chùa) ở các vị trí như ủy ban nhân dân huyện,
15


bệnh viện huyện và cồn Mưỡu bây giờ, vẫn lấy tên là Thần Quang Tự thờ
Phật và Quốc sư Minh Không. Năm 1630 dân ấp Keo cũ gồm hai làng Hành
Cung và Dũng Nhuệ phải dời đi hai nơi. Dân làng Dũng Nhuệ dời sang tả
ngạn sông Hồng (thuộc đất Thái Bình ngày nay), đời Tự Đức đổi thành làng
Dũng Mỹ, sau khi an cư dân làng đã tiến hành xây dựng lại ngôi chùa lấy tên
là chùa Keo. Còn dân làng Hành Cung chuyển cư về đông nam hữu ngạn sông
Hồng lập ấp xây chùa (Chùa Keo Hành Thiện). Làng Hành Cung sau đổi là
làng Hành Thiện đời Minh Mệnh (1820 - 1840).
Năm 1902 sư tổ Phạm Quang Tuyên được nhân dân Cổ Lễ đón về, Sư là
một thiền sư đạo cao đức cả, một trí thức uyên bác, có biệt tài kiến trúc chùa
tháp. Sư muốn có một ngôi chùa mới tương xứng với tầm vóc lịch sử của
miền đồng bằng sông Hồng nên cụ bắt tay ngay vào việc chuẩn bị xây chùa.
Khi đã có chiếu chỉ xây chùa cụ về bàn với nhân dân và hương hào lý bá

trong làng việc xin đất làm chùa, được nhân dân ủng hộ, chính quyền cấp đất
ở ngay vị trí gần chùa cũ nơi đất thiêng tụ linh tụ khí, tụ nhân tụ đức. Có đất
rồi, cụ chuẩn bị làm gạch nung vôi để xây chùa và bàn với xã quy ba ngôi
chùa vào một (tam tự quy nhất tự) cho to đẹp phong cảnh.
Tự sư cụ đã hô hào đào ao vượt thổ lấy đất làm gạch. Vì vậy nên trong
khuôn viên chùa có nhiều hồ, hai bên còn có sông nhỏ thông với sông Cổ lễ
để ngôi chùa tách khỏi khu dân cư cho thanh tịnh và nằm gọn trong cái võng
sơn thủy hữu tình. Từ mảnh đất Cổ Lễ có hình chữ “Thiện”, vào năm 1914 1919 đã nổi lên một quần thể kiến trúc nghệ thuật nguy nga, bề thế: nào chùa
chính, nào tháp Cửu phẩm Liên Hoa, nào sông, nào núi, nào cầu…sơn thủy
hữu tình, như dộng như lăng, như một thế gian thu nhỏ. Đặc biệt ngôi chùa
chính, ngắm nhìn các vòm mái như thể hàng trăm ngọn tháp ghép lại, tượng
trưng cho một phù đồ tháp, một kiến trúc độc đáo khác với các chùa tháp ở
Việt Nam.
16


“Ý rằng tạo hóa là riêng
Xây chùa ta hẳn khác miền Đông Tây” [ 24]
Điều đáng chú ý là xây dựng một công trình lớn như vậy mà không hề có
thiết kế cũng không có cả phác họa, tất cả đồ án và tiến trình xây dựng đều
được sắp xếp trong bộ não siêu việt của nhà sư. Các du khách trong ngoài
nước đến tham quan đều hết sức thán phục vị: “ Thiền sư - kiến trúc sư”.
Tiếp gót sư phụ, năm 1936 hòa thượng Phạm Thế Long xây dựng thêm
nhà Hội quán, đền Thánh, đền Mẫu, tháp Sư tổ…, cùng năm ấy hòa thượng
chủ trì đúc quả chuông đồng lớn nặng 9 tấn, trong chiến tranh chuông phải
giấu kín dưới lòng hồ, hòa bình lập lại mới được kéo lên, đặt trên cầu cuốn
trước của chùa. Năm 1997 một gia đình tín chủ đã thành tâm tiến cúng xây
dựng một tòa “ Kim chung Bảo các” uy nghiêm cổ kính, chuông lớn hiện treo
trên đó.
Chùa Cổ Lễ, nơi danh lam thắng cảnh linh ứng, thế mà ngày 21- 5 1950, thực dân Pháp tàn bạo đã bắn 52 phát đạn bác vào chùa, làm đổ nát

nhiều công trình, chúng còn cướp đi 9 pho tượng đồng, phá hủy 12 pho tượng
gỗ…dã man hơn chúng còn cài mìn vào tháp Cửu phẩm toan hủy diệt di tích,
dân làng Cổ Lễ cảnh giác, phát hiện, đấu tranh buộc chúng phải từ bỏ ý định
phá hoại ngôi bảo tháp này.
Trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp từ 1945 - 1975, chùa
Cổ Lễ là nơi có nhiều nhà sư tạm biệt của Thiền, cởi áo cà sa ra trận, diệt giặc
cứu nước. đó là những nghĩa cử cao đẹp biểu hiện chữ Đạo chữ Đời hòa làm
một. Chùa Cổ Lễ được Nhà nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam xếp
hạng “Di tích lịch sử văn hóa quốc gia” theo Quyết định số 28/QD – VH ngày
18/01/1988.

17


1.2.2. Kiến trúc chùa
1.2.2.1. Không gian cảnh quan
Trực Ninh là một vùng quê có truyền thống hiếu học từ lâu đời. Đây còn
là mảnh đất của những di tích lịch sử, những lễ hội hàng năm thu hút hàng
ngàn vạn du khách thập phương. Mặc dù là ngôi chùa nhỏ, nhưng với kiến
trúc “gần giống như một thánh đường Thiên chúa giáo” [ 14, tr.10], ngôi chùa
Cổ Lễ, huyện trực Ninh, tỉnh Nam Định đã thu hút rất đông lượt khách đến
vãn cảnh cũng như về tham dự trong mùa lễ hội.
Qua Đò Quan theo đường 21 cách thành phố Nam Định 15 km về phía
Nam, chùa Cổ Lễ tọa lạc trên khoảng đất phía đông nam thị trấn Cổ Lễ,
hướng về phía Tây Thiên đất Phật, nay thuộc huyện Trực Ninh, tỉnh Nam
Định. Chùa còn có tên gọi là chùa “Thần Quang”, là một danh lam thắng cảnh
của nền văn hóa miền châu thổ sông Hồng, xây dựng từ thế kỉ XII thời Lý.
Bài minh khắc trên chuông nhỏ đúc năm 1799 - niên hiệu Cảnh Thịnh còn lưu
giữ tại chùa, có câu: “Chân cảnh trời Nam, Thánh Tổ đản giáng, dựng chùa
Thần Quang”.

Từ thế kỉ XII đến nay, trải qua chín thế kỷ với biết bao thăng trầm, ngôi
chùa vẫn trường tồn. Chùa Cổ Lễ (Thần Quang Tự) hiện nay do Thượng tọa
Thích Tâm Vượng trụ trì.
Chùa Cổ Lễ ngày nay được xây dựng tháng 11 năm 1902 bởi hòa thượng
Phạm Quang Tuyên. Hòa thượng đã hạ giải ba chùa nhỏ ở làng Cổ Lễ về hợp
thành một chùa lớn và đã trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo do thời tiết cũng
như những biến cố thăng trầm của lịch sử, chiến tranh tàn phá. Khuôn viên
chùa có nhiều hồ, hai bên chùa có sông nhỏ thông với sông Cổ Lễ tạo thành
thế tay ngai. Ngôi chùa xây dựng trên mảnh đất được thiết kế hình chữ
“Thiện” nằm gọn trong cái võng sơn thủy hữu tình. Chùa ngoài thờ Phật và
cũng thờ thiền sư Nguyễn Minh Không - người đã từng chữa cho vua Lý
18


Thần Tông khỏi bệnh hiểm nghèo. Bức tượng tạc Ngài bằng gỗ đàn hương
trắng là một bảo vật, một cổ vật. Đặc biệt hơn, bức tượng được giữ gìn khá
thần bí, nằm trên gác cao, được bao bọc bằng kính mờ, ít ai được ngắm dung
nhan tượng. Một năm chỉ mang ra một lần làm lễ tắm tượng trước ngày lễ
khánh đản Đức Thánh Tổ (từ ngày 19 đến 20 tháng 9 âm lịch).
Trải qua bao thăng trầm của thời gian, liên tục xây dựng và tu sửa, chùa
Cổ Lễ ngày nay là một quần thể nhiều công trình kiến trúc khác nhau, trải
rộng theo hướng đông tây, trên một diện tích khoảng mười mẫu theo trật tự từ
ngoài vào trong chùa được kiếm trúc như sau: cổng chùa, tháp Cửu phẩm
Liên Hoa, cầu cuốn, tam quan, nhà hội quán, đền Thánh, đền Mẫu, hai cây
cầu núi, chùa chính (chính cung), nhà Tổ, nhà khách, phòng tăng, pháp
đường, kho bếp, vườn tháp,…
Chùa Cổ Lễ là sự hòa nhập các yếu tố kiến trúc cổ truyền trong đền,
đình, chùa, miếu của Việt Nam với các kiến trúc gô - tích của châu Âu. Chính
vì vậy, chùa thờ Phật nhưng lại mang dáng dấp của một thánh đường Thiên
chúa giáo. Thể hiện rõ nét nhất là ở gian chính điện thờ Phật rất cao, tường và

trần đều có những bức bích họa. Nhưng điều thú vị của chùa không chỉ có thế
mà còn nằm ở sự huyền linh của tháp Cửu phẩm Liên Hoa - một công trình
kiến trúc được ví như đại diện cho mỹ thuật Phật giáo Việt Nam. Ai đã từng
tới thăm chùa Cổ Lễ ngày nay không thể nhận thấy sự khác biệt rất lớn và rõ
rệt về kiến trúc so với các ngôi chùa cổ Việt Nam khác. Nếu như chùa cổ Việt
Nam thường thấp và trải rộng bề ngang với khung gỗ lim vững chắc thì chùa
Cổ Lễ không những rộng mà còn rất cao với kiến trúc mái vòm kiên cố.
1.2.2.2. Bố cục mặt bằng tổng thể
Khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam, ngoài việc xây dựng chùa chiền thì
tháp cũng là một bộ phận kiến trúc quan trọng đối với Phật giáo. Tháp là loại

19


kiến trúc nhiều tầng, có xu hướng vươn lên trên không trung, là đặc trưng của
kiến trúc Phật giáo. Ban đầu, tháp chỉ là một biểu tượng về đạo, là nơi để các
tín đồ làm lễ tưởng niệm đức Phật. Về sau, tháp dần biến thành hai loại tháp
chính: tháp thờ Phật (9 thường có xá lị của đức Phật), tháp mộ (tháp để hài cốt
của các nhà sư, tín đồ). Tháp có nguồn gốc từ Tây Tạng lan rộng ra Nhật Bản,
tói Việt Nam với hình thức tháp quay (tháp chùa Ninh Phúc - Bút Tháp ở Bắc
Ninh, tháp cửu phẩm ở Hải Dương hoặc Hưng Yên). Tháp có nhiều loại kiến
trúc khác nhau và tháp ở chùa Cổ Lễ thuộc tháp thờ Phật.
Đứng trước chùa, vươn lên trên nền trời giữa những cây cổ thụ bốn mùa
xanh tươi là tháp Cửu phẩm liên hoa rất độc đáo. Tháp mang tên Cửu phẩm
liên hoa bởi đây là công trình tháp bao gồm chín tầng hoa sen liên kết mà
thành, mang ý nghĩa chín tầng trời Phật - một đặc thù tín ngưỡng của đạo
Phật Thích Ca1. Tầng trên cùng thờ Phật A Di Đà - đức Phật chủ thế giới Tây
phương Cực Lạc - thế giới không có chỗ cho sự khổ đau mà chỉ có niềm hạnh
phúc, sự yên vui. Sau khi vượt khỏi chín tầng trời thể hiện qua chín tầng tháp,
mỗi tầng biểu thị một sự trần ai, lụy tục thì sẽ đến được cõi yên vui.

Những vị cao niên trong làng cho biết, trụ trì Phạm Quang Tuyên xây
tháp rất công phu. Tháp được lựa chọn xây dựng trên một hồ nước, móng
được gia cố bằng năm mươi cây gỗ lim lớn. Khi bắt tay vào xây dựng tháp,
mặc dù bị đổ trong lần đầu tiên, lần thứ hai nhân dân xã Trung Lao lên rừng
lấy gỗ gặp một ông cụ đầu râu tóc bạc gửi mười hai bè gỗ lim về xuôi cho
chùa Cổ Lễ, số gỗ này sẽ được dùng để đóng cọc móng. Với sự quyết tâm của
vị đại sư và lòng dân nên lần thứ hai tháp đã xây dựng thành công, tháp đứng
vững đến tận ngày nay.
Tháp có hình bát giác, xây giữa hồ lớn, với kích thước 22,85m x 18,35m.
Nền tháp thể hiện là một con rùa giữa mặt hồ đầu hướng vào trong chùa, đuôi

1

Xem thêm: Hình ảnh 2 trong phần phụ lục.

20


×