Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG KHAI THÁC DU LỊCH CUỐI TUẦN Ở VƯỜN QUỐC GIA BA VÌ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.25 KB, 14 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Có thể nói du lịch đã và đang trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống
văn hoá - xã hội và là một trong những hoạt động kinh tế – xã hội sôi động nhất của mỗi quốc
gia trên thế giới. Ngày nay du lịch còn đóng vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời
sống kinh tế - xã hội, nó không chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu giải tỏa về thể xác mà cả về tinh
thần cho người đi du lịch cũng như đem lại những lợi ích kinh tế to lớn cho địa phương đó.
Cuộc sống ngày càng phát triển, các đô thị ngày càng phát triển, mức sống của người
dân được cải thiện thì nhu cầu tìm về những điểm du lịch có môi trường tự nhiên trong lành,
yên tĩnh, có cảnh quan đẹp để nghỉ ngơi, vui chơi giải trí vào những ngày nghỉ ngày càng tăng
cao, nhất là vào khoảng thời gian cuối tuần.
Nằm tại vùng ngoại ô thành phố Hà Nội, khu vực Vườn Quốc gia Ba Vì chính là khu
vực có điều kiện thuận lợi về cả tài nguyên du lịch lẫn nguồn khách du lịch ổn định. Các điểm
du lịch như:hồ Suối Hai, vườn quốc gia Ba Vì, Khoang Xanh - Suối Tiên, Ao Vua,... đã sớm
được xây dựng thành các điểm du lịch cuối tuần phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi của người dân Hà
Nội và các đô thị lân cận. Đó đều là những điểm có sự kết hợp của khí hậu trong lành, mát
mẻ, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp,
Mục đích của đề tài là tìm hiểu tiềm năng và thực trạng hoạt động du lịch cuối tuần ở
Vườn Quốc gia Ba Vì. Và đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động du lịch cuối tuần
ở khu vực Ba Vì.

1.
2.
3.

Bố cục nội dung chia làm 3 phần:
Phân tích tiềm năng khai thác du lịch cuối tuần ở Vườn Quốc gia Ba Vì.
Phân tích thực trạng khai thác du lịch cuối tuần ở Ba Vì.
Một số kiến nghị.


PHẦN NỘI DUNG


1 . PHÂN TÍCH TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG KHAI THÁC DU LỊCH CUỐI
TUẦN Ở VƯỜN QUỐC GIA BA VÌ
1.1. Giới thiệu khái quát về Vườn Quốc gia Ba Vì.
Ngày 16 tháng 01 năm 1991, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (Nay là Chính phủ) ban
hành Quyết định số 17/CT phê duyệt luận chứng kinh tế thành lập khu rừng cấm quốc gia Ba
Vì. Đến ngày 18 tháng 12 năm 1991 Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (Nay là Chính phủ) ban
hành Quyết định số 407/CT về việc đổi tên rừng cấm quốc gia Ba Vì thành Vườn quốc gia Ba
Vì.
Tháng 5 năm 2003 Vườn quốc gia Ba Vì được Chính phủ quyết định mở rộng quy
hoạch sang tỉnh Hoà Bình. Hiện nay, tổng diện tích của vườn 10.814,6 ha thuộc địa giới hành
chính của 16 xã thuộc 3 huyện của TP Hà Nội và 2 huyện của tỉnh Hòa Bình cách trung tâm
Thủ đô 60 km về phía Tây.
Toạ độ địa lý: Từ 200 55′ đến 210 07′ vĩ độ bắc Từ 105016′ đến 105025′ kinh độ đông. Bao
gồm 3 phân khu: Đó là phân khu bảo vệ nghiêm ngặt trên cốt 400 và phân khu phục hồi sinh
thái dưới cốt 400, phân khu dịch vụ hành chính. Vùng đệm: Vùng đệm Vườn quốc gia Ba Vì
có diện tích trên 35.000 ha thuộc địa phận 16 xã miền núi thuộc huyện Ba Vì, Thạch Thất,
Quốc Oai của TP Hà Nội và Lương Sơn và Kỳ Sơn của tỉnh Hòa Bình.
Mục tiêu, nhiệm vụ: Vườn quốc gia Ba Vì là đơn vị sự nghiệp có thu, có chức năng là trồng,
bảo tồn và phục hồi tài nguyên thiên nhiên, di tích lịch sử, nghiên cứu khoa học kết hợp với
tham quan, học tập và du lịch:
- Bảo tồn toàn bộ hệ sinh thái tự nhiên còn nguyên vẹn của rừng cấm.
- Trồng mới, phục hồi, bảo vệ rừng, các nguồn gen động, thực vật quý hiếm, các đặc
sản rừng và các di tích lịch sử văn hoá, cảnh quan.
- Tổ chức nghiên cứu thực nghiệm, nghiên cứu cơ bản với mục đích phục vụ bảo tồn.
- Tổ chức các hoạt động dịch vụ khoa học, giáo dục hướng nghiệp và tham quan du
lịch.
Cơ quan / cấp quản lý: Vườn quốc gia Ba Vì trực thuộc Tổng cục Lâm Nghiệp – Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý.
Các giá trị đa dạng sinh học: Vườn quốc gia Ba Vì với 3 kiểu rừng: Rừng kín thường xanh
mưa ẩm á nhiệt đới; rừng kín thường xanh hỗn giao cây lá rộng và cây lá kim á nhiệt đới và

kiểu rừng lá rộng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới trên núi thấp. Núi Ba Vì với 2 đai cao nên hệ
thực vật nơi đây khá phong phú và đa dạng, đã ghi nhận 1209 loài thực vật bậc cao thuộc 99
họ, 472 chi. Theo kết quả điều tra bổ sung mới nhất, Khu hệ động vật có xương sống
(ĐVCXS) ở VQG Ba Vì thống kê được 342 loài. Trong đó, có 65 loài thú, 169 loài chim, 30


loài bò sát, 27 loài lưỡng cư. Hiện nay giới nghiên cứu đã phát hiện được 552 loài côn trùng
thuộc 364 giống, 65 họ, 14 bộ. Trong đó có 7 loài được ghi trong sách đỏ Việt Nam như Bọ
ngựa xanh thường (Mantis religiosa); Cà cuống (Lethocerus indicus); Bướm khế (Attacus
atlas); Ngài mặt trăng (Actias selene); Bướm rồng đuôi trắng (Lamproptera curius); Bướm
phượng Hêlen (Troides helena), Bướm đuôi kiếm (Graphium antiphates). aqHệ côn trùng ở
Vườn đã tạo nên sự phong phú, đa dạng loài và làm nổi trội giá trị thiên nhiên của Vườn.
2.2. Tiềm năng phát triển du lịch cuối tuần của Vườn Quốc gia Ba Vì.
2.2.1. Tài nguyên du lịch.
2.2.1.1 Tài nguyên du lịch tự nhiên.
Địa hình:
Cấu trúc địa hình Ba Vì không phức tạp,độ cao nghiêng dần từ Tây Bắc xuống Đông
Nam với độ dốc trung bình là 25°.Càng lên cao thì độ dốc càng lớn,từ cốt 400 m trở lên độ dốc
trung bình là 35° và có nhiều vách đá lộ dựng đứng.Vùng núi Tản Viên nổi lên với ba đỉnh núi
cao nhất:Đỉnh Vua (1270m),đỉnh Tản Viên (1227m),đỉnh Ngọc Hoa (1131m) ngoài ra còn có
các đỉnh Hang Hùm (776m), Gia Đế (714m) ...
Khối núi Ba Vì gồm có hai dải chính:
- Dải theo hướng Đông-Nam:Từ suối Ổi đến cầu Bật,qua đỉnh Tản viên và
Hang Hùm dài 9km.
- Dải theo hướng Tây Bắc-Đông Nam:từ Yên Sơn qua đỉnh Tản Viên đến núi
Quyết dài 11km.
Địa hình núi ở Ba Vì từ cốt 400m trở lên là nơi có khí hậu trong lành, mát mẻ.Đặc biệt
có hệ sinh thái nguyên sinh thuộc vườn Quốc gia Ba Vì chưa bị bàn tay con người khai thác
nên có ý nghĩa lớn đối với các hoạt động du lịch nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái và cả du lịch
cuối tuần.

Vùng đồi,gò xung quanh núi Ba Vì là địa hình đặc trưng của khu vực. Đây cũng là
dạng địa hình đáng chú ý đối với du lịch cuối tuần.Địa hình đồi gò có dạng bát úp như đồi Vai
(113m), đồi Đùm...Ở đây,do đặc điểm vốn có của tự nhiên và do sự khai phá của con người có
giới hạn nên còn tồn tại ít nhiều thảm thực vật nguyên sinh.
Do xâm thực của các dòng nước từ núi Tản Viên đổ xuống như thác trong mùa mưa,
vùng đồi đã bị chia xẻ thành nhiều khe khoét sâu tạo điều kiện thuận lợi để xây dựng các hồ
nước nhân tạo như hồ Suối Hai (900ha)...hồ này được xây dựng cho mục đích thuỷ lợi,nhưng
cũng có ý nghĩa khai thác du lịch rất lớn đặc biệt đối với du lịch cuối tuần.
Nhìn chung, Vườn Quốc gia Ba Vì là khu vực có địa hình tương đối đa dạng làm nền
tảng cho cảnh quan tự nhiên,tạo ra nhiều phong cảnh đẹp có sự kết hợp của cảnh hùng vĩ núi
non cùng với nét trữ tình của sông nước, ao, hồ và xen vào đó là cảnh trung du, đồng bằng với
những làng quê thanh bình.
Khí hậu.


Nhiệt độ trung bình năm là 23,39°C,tháng lạnh nhất là tháng 1 (16,52°C) tháng nóng
nhất là tháng 7 (28,69°C).Tại cốt 400m nhiệt độ trung bình là 20,6°C, tại cốt 1000m nhiệt độ
không khí trung bình năm chỉ 16,1°.Độ ẩm trung bình ở khu vực tăng lên đáng kể theo độ
cao,ở cốt 400m là 86,1%, lên đến cốt 1000m là 92,0%, hầu như khí hậu ẩm ướt quanh năm đặc
biệt là từ tháng 1 đến tháng 4.
Theo chỉ số đó,hàng năm ở Ba Vì có 6 tháng từ tháng 11-3 là có điều kiện tốt về nhiệt
độ.6 tháng còn lại từ tháng 4-10 có nhiệt độ trung bình cao trên 23°C đặc biệt là tháng 6,7 có
khi nhiệt độ tối cao lên tới 32°C.Điều này ảnh hưởng tới điều kiện sống và hoạt động của con
người.Tuy nhiên trên sườn núi Ba Vì,càng lên cao nhiệt độ giảm càng nhanh,lên 100m giảm
khoảng 0,5-0,6°,đến lưng chừng núi ở độ cao 400-600m nhiệt độ trung bình đã thấp hơn vùng
đồng bằng 2,5 - 3,0°C và lên cao quá 1000m thì nhiệt độ thấp hơn 6-7°C.Đây chính là sức hút
lớn đối với du khách vào mùa hè.
Mùa mưa kéo dài 6 tháng từ tháng 5 đến tháng10 và tập trung đến 85% tổng lượng
mưa toàn năm đặc biệt là ba tháng 7,8,9.Tuy vậy,số ngày có mưa không có sự cách biệt lớn
giữa mùa khô và mùa mưa.Nên có thể nói,mưa trong mùa thường là mưa rào,mưa giông,trong

một thời gian ngắn,do đó ít ảnh hưởng đến hoạt động du lịch cuối tuần.Ảnh hưởng hơn cả tới
hoạt động này là các hiện tượng thời tiết đặc biệt như mưa bão hay mưa phùn kéo dài.Mùa bão
trùng với mùa mưa,bão thường mang theo lượng mưa lớn trên núi bởi vậy gây ra nhiều cơn lũ
lớn đột ngột đổ về theo các con suối rất nguy hiểm...
Tài nguyên nước:
Điều kiện thủy văn của hai sườn Đông và Tây của núi Ba Vì cũng có những nét
riêng,do ảnh hưởng của điều kiện khí hậu của mỗi sườn khác nhau.Sườn phía Tây có lượng
mưa nhỏ hơn sườn phía Đông nên mạng lưới khe suối ở sườn Tây thường ngắn và dốc,diện
tích lưu vực nhỏ mô-đuyn dòng chảy chỉ là 33,3 l/s/km 2.Trái lại sườn phía Đông có lượng mưa
lớn hơn nên các con suối ở đây có dòng chảy dài,rộng hơn, độ dốc nhỏ hơn và diện tích lưu
vực lớn hơn, mô-đuyn dòng chảy đạt 42,65 l/s/km2.
Trong khu vực núi Ba Vì,có rất nhiều dòng suối dài tạo cảnh quan đẹp và hấp dẫn
như:suối Ao Vua bắt nguồn từ độ cao 800m dài 8,2 km,suối Hoóc Cua bắt nguồn từ độ cao
400m,dài 1,5km,suối Hương bắt nguồn từ độ cao 400m dài 2,5km,suối Ổi bắt nguồn từ độ cao
1100m dài 8km và suối Tiên-Khoang Xanh.
Sự tập trung phong phú hệ động thực vật dọc theo hai bờ suối.Đây chính là những
điểm có khả năng thu hút khách du lịch rất lớn đặc biệt là giới trẻ và có ý nghĩa đối với việc
phát triển du lịch cuối tuần của khu vực.Tuy nhiên,khó khăn lớn nhất ảnh hưởng tới phát triển
du lịch ở các con suối là vào mùa mưa,thường có nhiều cơn mưa lớn, ngắn gây ra lượng nước
lớn tập trung đổ từ trên núi xuống tạo ra các cơn lũ đột ngột theo các con suối rất nguy hiểm
đối với khách du lịch.
Tiềm năng cho phát triển du lịch cuối tuần ở các hồ nước là rất lớn. Các hồ này được
xây dựng trước hết cho mục đích thuỷ lợi,trong năm mức nước trong hồ có sự thay đổi để điều


tiết thuỷ lợi,nên có nhiều thời kỳ mưa ít mà hồ phải xả nước phục vụ việc chống hạn cho sản
xuất,làm mức nước hồ xuống rất thấp
Sườn Đông Nam núi Ba Vì có nguồn nước khoáng (nước khoáng Thuần Mỹ) có nhiệt
độ 30-31°C, độ khoáng 1g/kg, chứa Sunfua-hyđro có khả năng chữa bệnh ngoài da, có thể
khai thác trên 37 năm với sản lượng 10 –20 triệu chai/1 năm.

Tóm lại, Vườn Quốc gia Ba Vì có tiềm năng phong phú về các dạng nước mặt và nước
ngầm.Đặc biệt có nhiều dạng có giá trị đối phát triển du lịch cuối tuần. Bên cạnh đó cần quan
tâm tới việc cung cấp nước vào mùa khô và chống ô nhiễm nguồn nước để khỏi ảnh hưởng tới
môi trường chung và đảm bảo cho hoạt động du lịch ở đây.
Sinh vật.
Loài cây đặc hữu của núi Ba vì là các loại Song, Mây và quần thể cây thuốc thiên
nhiên rất phong phú.
Các thảm cỏ Tranh, Lau Lách chiếm một diện tích lớn trên sườn núi, dưới độ cao 100m
thì đồi cỏ chiếm ưu thế. Rừng trồng thì phần lớn là Bạch đàn, Thông, Mỡ, Phi lao.Độ che phủ
chung của toàn vùng là 10-12%
Ở đây hệ thống động vật cũng rất đa dạng,với 114 loài chim thuộc 40 họ,17 bộ;bò sát
có 42 loài thuộc 12 họ,3 bộ; trong đó có 12 loài quý hiếm;lưỡng cư có 27 loài thuộc 6 họ, 1
bộ;thú có 44 loài thuộc 23 họ,9 bộ,trong đó có 12 loài quý hiếm. Ngoài ra, còn có 86 loài côn
trùng trong 17 họ và 9 bộ.
Tuy vậy điều cần quan tâm ở đây chính là ý thức bảo vệ của con người trong hoàn cảnh
hiện nay khi mà càng ngày các loài quý hiếm đều dần bị đánh bắt.Chúng ta cần quan tâm tới
những vấn đề bảo vệ nghiêm ngặt những nguồn tài nguyên đó.Nó sẽ giúp cho môi trường sinh
thái được bảo vệ và điều đó nó sẽ thúc đẩy du lịch phát triển hơn.
2.2.1.2. Tài nguyên du lịch nhân văn
Tỉnh Hà Tây cũ nói chung và Ba Vì nói riêng là một vùng đất cổ, là cái nôi của nền văn
minh lúa nước Sông Hồng, nơi hình thành nên nhà nước Việt đầu tiên, một vùng địa linh nhân
kiệt với núi Tản-sông Đà và huyền thoại Sơn Tinh-Thuỷ Tinh vang dội hàng ngàn năm nay.
Lịch sử văn hiến lâu đời để lại cho Ba Vì một kho tàng tài nguyên nhân văn phong phú và đặc
sắc. Nguồn tài nguyên này bao gồm các di tích lịch sử-văn hoá,lễ hội cổ truyền,các làng nghề
truyền thống.
Di tích lịch sử - văn hoá.
Các di tích lịch sử của Ba Vì nói riêng và Hà Tây nói chung tuy được đánh giá cấp nhà
nước song những di tích này không được bảo vệ và trùng tu. Mấy năm gần đây được sự quan
tâm của nhà nước cũng đã phần nào phát triển được du lịch hướng đến những cảnh quan và
đặc biệt đó chính là thăm quan di tích lịch sử.

Điều đáng nói ở đây đó là việc chúng ta cần giải quyết nhanh chóng những vướng mắc
đó để phát triển tốt hơn về du lịch nói riêng và các ngành khác nói chung để làm sạch sẽ cảnh
quan thiên nhiên thu hút khách đến ngày một đông hơn.


Phần lớn các di tích trong vùng đều được xây dựng ở những nơi có cảnh quan đẹp,liền
kề với các điểm tài nguyên du lịch tự nhiên trong Vườn Quốc gia nên có thể kết hợp thăm
quan ngắm cảnh và các hoạt động vui chơi giải trí khác.
Lễ hội.
Ba Vì là nơi có vị trí đẹp để phát triển du lịch- nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng là một trong 12 vùng văn hoá của cả nước.Đây là quê hương của hội làng,hội vùng,là cái nôi
gắn liền với lễ hội nông nghiệp và lịch sử.
-Hội làng Thượng Khê - Ba Vì (2-7 tháng giêng).
-Hội làng Cẩm Đái và Tòng Lệnh – Ba Vì (12- tháng giêng).
-Hội Miếu Mèn – Ba Vì (10-13 tháng giêng).
Như chúng ta đã biết nhắc đến Ba Vì là chúng ta nhớ đến truyền thuyết Sơn Tinh-Thuỷ
Tinh. Chính vì vậy mà ở đây có nhiều hội đền thờ trên thánh núi Ba Vì: hội rước tiếng hú, hội
đền Thượng-Trung-Hạ thờ Tản Viên Sơn Thánh trên núi Ba Vì.
Tóm lại, Ba Vì có nguồn tài nguyên nhân văn phong phú, đa dạng. Kết hợp được
những tài nguyên này với nhóm tài nguyên tự nhiên của Vườn Quốc gia Ba Vì sẽ tạo ra được
những điểm du lịch cuối tuần hấp dẫn thúc đẩy phát triển du lịch cuối tuần ở nơi đây.
2.2.2. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch.
2.2.2.1. Cơ sở hạ tầng
Giao thông vận tải.
Ba Vì có vị trí địa lý rất thuận tiện,là nút giao lưu của nhiều tuyến đường quan trọng:
đường ngược Việt Bắc, Tây Bắc, đường vào Thanh, Nghệ; đường xuôi đồng bằng ven biển và
là cửa ngõ phía Tây của thủ đô Hà Nội,của xứ Đoài thuộc kinh kỳ Thăng Long xưa, cho nên ở
đây sớm hình thành mạng lưới giao thông tương đối hoàn chỉnh.
Đường bộ.
Nếu phân loại đường theo chất lượng khai thác thì loại đường xuống cấp,xấu và rất xấu
chiếm 65%,trung bình 30% và tốt chỉ đạt 7% điều này là yếu tố cản trở cho phát triển du lịch ở

Ba Vì do vậy cần được quan tâm nâng cấp cải tạo lại chất lượng đường.
Phương tiện giao thông
Việc thông đường thì thông thường tưởng chừng như rất đơn giản nhưng lại vô cùng
khó khăn đối với một huyện thuộc vùng bán địa Ba Vì. Hiện nay cơ sở hạ tầng giao thông của
huyện chưa được xây dựng xây dựng đồng bộ.Các tuyến đường dẫn đến các điểm du lịch tuy
đã được Nhà nước quan tâm đầu tư một cách cơ bản nhưng muốn thu hút được nhiều nguồn
lực hơn nữa thì vẫn cần phải được nâng cấp thường xuyên. Có như vậy mới tạo điều kiện thúc
đẩy các ngành kinh tế khác cùng phát triển.
Mạng lưới điện.
Trạm điện 110/35/10kv -2+16,MVA Sơn Tây là nguồn điện cho Ba Vì. Lưới điện phát
triển dưới 3 cấp điện áp 35kv,10kv và 6kv.Tại các điểm du lịch trong khu vực,khả năng cung
cấp điện là tương đối tốt,nhưng bên cạnh đó tại một số thôn,bản khả năng cung cấp điện thấp
do mạng lưới truyền tải điện chưa đủ khả năng đáp ứng đầy đủ nhu cầu điện năng.


Khả năng cung cấp nước.
Khả năng cung cấp nước cho sinh hoạt và du lịch tương đối đầy đủ,tuy nhiên cần quan
tâm đến khả năng cung cấp nước vào mùa khô.
2.2.2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch.
Cơ sở lưu trú.
Cơ sở lưu trú của vùng chưa cao do tình trạng đầu tư chưa hiệu quả chính vì vậy nên
có nhiều điểm du lịch Ba Vì hầu như chỉ phục vụ khách trong nước chứ chưa thu hút được
khách nước ngoài nhiều vì nhiều lý do an toàn vệ sinh thực phẩm là lý do đầu tiên khi ta hỏi
họ về du lịch Việt Nam nói chung. Tình trạng này không khả quan khi du lịch Việt Nam ngày
càng mở rộng thì các ngành cần có đầu tư mới cho môi trường lương thực thực phẩm an toàn
Tính đến đầu năm 2007ở 11 điểm của Ba Vì đã có 171 buồng trong đó có 165 buồng khép
kín,tổng diện tích buồng 3.600 m 3,ngoài ra có 30 nhà sàn. Doanh thu từ lưu trú chỉ chiếm
24,2% tổng doanh thu du lịch của cả vùng.
Cơ sở phục vụ ăn uống.
Ở hầu hết các điểm du lịch trong khu vực đều có các quầy bar và phòng ăn lớn có sức

chứa khoảng 100 người mỗi phòng. Trong khuôn viên Vườn Quốc gia Ba Vì có một phòng sức
chứa 100 người, hồ Suối Hai có 2 phòng ăn có thể chứa 200 người. Ngoài ra còn phục vụ ăn
uống tại các nhà sàn có phong cảnh đẹp, thoáng mát.
Các món ăn ở đây chưa được phong phú, trình độ chế biến chưa cao, chưa đảm bảo về
chất lượng, các món đặc sản giá vẫn tương đối cao và vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm và đồ
uống chưa được thực sự quan tâm. Các điểm du lịch chỉ chủ yếu phục vụ ăn uống cho khách đi
theo đoàn,còn phần lớn khách lẻ tự trang bị đồ ăn nên doanh thu từ ăn uống chưa khai thác hết
khả năng, còn tương đối khiêm tốn chỉ chiếm khoảng 7,5% trong tổng doanh thu du lịch của
cả khu vực.
Hội trường, phòng họp.
Phòng hội thảo tại vườn Quốc gia Ba Vì được bố trí trên gác 2 của nhà sàn. Nhìn
chung các phòng hội thảo được bố trí đẹp,môi trường xung quanh thoáng đãng sạch sẽ. Tuy
nhiên nhìn chung, diện tích của phòng còn hạn chế và thiếu các trang thiết bị.
Khu vui chơi, giải trí.
Trong năm vừa qua, nhiều điểm ở Vườn Quốc gia Ba Vì như: Ao Vua, Khoang Xanh,
Thác Đa...đã đầu tư xây dựng các khu vui chơi thể thao nước như:hồ tạo sóng ,hồ bơi ,bể bơi,
hệ thống làn trượt nước, hồ câu cá,...
Tại các điểm du lịch đã đáp ứng phần nào nhu cầu về giải trí của du khách nhưng các
cơ sở này còn tương đối nghèo nàn và rất đơn điệu về loại hình.
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC DU LỊCH CUỐI TUẦN TẠI VƯỜN
QUỐC GIA BA VÌ


Đối với lĩnh vực du lịch dịch vụ Ba Vì chủ trương tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động
theo cơ chế thị trường đáp ứng yêu cầu của sự phát triển .Bên cạnh đó tăng cường quản lý
mạng lưới kinh doanh xây dựng các chợ mới.Với ngành du lịch huyện kêu gọi đầu tư quản lý
chặt chẽ các điểm du lịch theo quy hoặch đã duyệt.Khi các dự án du lịch được hoàn thiện và
đưa vào sử dụng dự báo hàng tuần sẽ có hàng nghìn du khách trong và ngoài nước đén đây
nghỉ ngơI vui chơi.Qua đó doanh thu từ du lịch dịch vụ sẽ tăng lên hàng trăm lần ,giải quyết
công việc ăn việc làm và thu nhập ổn định cho 1.600 đến 6.000 dân

Ngành du lịch đã có những đầu tư lớn để phát triển cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật du
lịch:năm 2001 tổng vốn đầu tư là 105 tỉ đồng,năm 2007 đạt 130 tỉ đồng
Từ những đầu tư này,khu vực đã thu hút được lượng khách đến thăm quan nghỉ ngơi ngày
một tăng.Tốc độ tăng bình quân hàng năm đạt 21,7%.Doanh thu du lịch của vùng cũng có
những bước tăng năm 2007 đạt trên 40 tỉ đồng(đón gần 1 triệu lượt khách đến thăm quan)
Tuy đã thu được những kết quả quan trọng như vậy, nhưng du lịch Ba Vì vẫn tồn tại nhiều
vấn đề cần quan tâm hơn nữa về cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch, về môi
trường, về sự kết hợp giữa các ban ngành ....
Vườn Quốc gia Ba Vì.
Theo kế hoạch lễ hội được tổ chức tại khu vực có 400 của Vườn Quốc gia Ba Vì vào trung
tuần tháng 4 với nhiều tiết mục đặc sắc như: đón nhận bằng di tích lịch sử văn hoá và kiến trúc
nghệ thuật cấp Quốc gia cho cụm di tích đền Thượng đền Trung ,đền Hạ khai trương mùa du
lịch và các tiết mục văn nghệ do các khu du lịch giới thiệu Lễ hội du lịch Ba Vì sẽ mở đầu cho
mùa du lịch hấp dẫn của huyện năm 2008
Với vị trí địa lý nằm trong địa phận huyện Ba Vì tỉnh Hà Tây được quyết định thành
lập:quyết định số 17-CT ngày 16/01/1991 của chủ tịch hội đồng bộ trưởng về việc thành lập và
phê chuẩn luận chứng kinh tế kỹ thuật Rừng cấm quốc gia Ba Vì.QĐ số 407-CT ngày
18/12/1991 của chủ tịch hội đồng bộ trưởng về việc sửa đổi tên thành Vườn quốc gia Ba Vì
giao bộ Lâm nghiệp quản lý
Vườn Quốc gia Ba Vì được thành lập năm 1997 với diện tích7,377ha,thuộc xã Tản Lĩnh,huyện
Ba Vì,Hà Tây,cách Hà Nội 60km về phía Tây và được coi là" lá phổi xanh"của Hà Nội.Vườn
nằm trong toạ độ địa lý:21°01- 21°07 vĩ Bắc;108°15- 105°251 kinh độ Đông,được chia làm
hai phân khu chức năng:phân khu bảo tồn nguyên vẹn từ cốt 400m trở lên và phân khu phục
hồi sinh thái từ cốt 400m trở xuống cốt 100m.Dưới cốt 100m là vùng đệm,có tổng diện tích là
14,144ha.
Về khí hậu,Vườn Quốc gia Ba Vì là nơi có khí hậu lý tưởng cho hoạt động du lịch.Khí hậu ở
đây thuộc loại khí hậu nhiệt đới ẩm có hai mùa rõ rệt,mùa đông lạnh và khô,mùa hè nóng ẩm,
mưa nhiều.Nhiệt độ trung bình từ độ cao 700m trở lên chỉ khoảng 18°C.Đây là nhiệt độ rất
thích hợp cho du lịch nên từ thời kỳ Pháp thuộc,họ đã cho xây dựng ở độ cao 400m và 800m
khu nghỉ mát cho giới quân sự với hàng chục biệt thự mà nay chỉ còn lại vết tích đổ nát.

Về thực vật ở đây có 812 loài thực vật bậc cao thuộc 427 chi,98 họ,trong đó có 200 loài cây
thuốc,hàng trăm loài rau rừng và quần thể Phong Lan đẹp,một số loài thực vật quý hiếm
như:Bách Xanh, Lát Hoa,Thông Đỏ,Sam Bông.Hệ động vật ở Ba Vì cũng rất đa dạng,với 114
loài chim,42 loài bò sát,27 loài lưỡng cư và 44 loài thú.Trong đó có nhiều loài động thực vật


được ghi vào sách đỏ Việt Nam như Bách Xanh,Thông Đỏ,6 loài chim,12 loài bò sát,ếch,nhái
và 12 loài thú
Tham quan Vườn quốc gia Ba Vì du khách có thể thám hiểm cả những thác nhỏ khuất sâu
trong núi lên Cổng trời hay dừng lại ở độ cao 800m để ngắm Vườn lan,lách cây rừng tìm nét
hoang sơ của những phế tích ghi dấu cuộc kháng chiến chống Pháp như:nhà thờ cổ,cô nhi viện
nhà nghỉ cao cấp của quan chức cấp cao của Pháp nhà tù chính trị đặc biệt là khu di tích lịch
sử tại cốt 600m đánh dấu trận đánh cực kỳ táo bạo của trung đoàn Ba Vì ngày 31/12/1951 đã
cắt đứt phòng tuyến Sông Đà của địch tạo đà cho chiến dịch Hoà Bình năm 1952
Tại đây nhiều công ty du lịch của tư nhân đã được hình thành và đã nhận háng trăm hecta
rừng để quản lý bảo vệ cho việc phát triển du lịch.Do được đầu tư kinh phí và bảo vệ tốt nên
sau một thời gian ngắn rừng đã phục hồi và phát triển tốt hơn các khu vực nằm ngoài khu du
lịch
Hơn 10 năm qua ban quản lý vườn và nhân dân đã trồng tái sinh được trên 2000 ha rừng,năm
2007 trồng được nhiều nhất từ trước tới nay.vì vậy hiện nay toàn bộ rừng Ba Vì đã được phủ
xanh trong đó có 2752 ha rừng nguyên sinh được bảo tồn nguyên vẹn và 8279 ha rừng phục
hồi sinh thái.Vườn đã bảo tồn được hệ thống thực vật đa dạng phong phú không nơI nào có
được với 812 loài thực vật bậc cao trong đó có các loại cây quý hiếm như bách xanh,thông
tre,phỉ 3 mũi,vàng tâm, lim xanh…cùng với nhiều loài thực vật đặc hữu của Ba Vì đồng thời
bảo vệ và tạo môi trường sống an toàn cho 45 loài thú quý hiếm và 140 loài chim sinh sống
Các điểm tham quan chủ yếu ở Vườn Quốc gia Ba Vì gồm:
- Cốt 400m: ở đây có khu nuôi thú và chim bán hoang dã,vườn ươm các loài cây rừng,vườn
thực vật và tàn tích các ngôi biệt thự cũ thời Pháp.
- Cốt 600m: Du khách có thể ngắm cảnh quan sông Đà,các bản làng ở chân núi,thăm quan dấu
vết của một sân bay trực thăng và nhiều ngôi biệt thự cũ của Pháp.

- Cốt 800m: Tham quan rừng tự nhiên với một số loài thực vật đặc hữu của vườn như:Thông
Tre,Cà Lồ,Bồi Lồi,khám phá tàn tích các ngôi biệt thự cũ, trại cô nhi viện và nhà thờ thời
Pháp.
- Đỉnh Tản Viên: Ngắm cảnh quan Sông Đà, các làng bản chân núi phía Tây, tham quan rừng
tự nhiên với các loài thực vật đặc hữu của vườn như Bách Xanh và nhiều loài cây vùng khí
hậu Á nhiệt đới; thăm và lễ ở đền Thượng-thờ Tản Viên Sơn Thánh (Sơn Tinh)
- Đỉnh Vua: Ngắm cảnh quan các hồ nước, các làng bản đồng ruộng ở chân núi phía ĐôngBắc, tham quan rừng tự nhiên, thăm và lễ ở đền thờ Bác Hồ.
Lượng khách.(liên kết với cả vùng Sơn Tây-Ba Vì)
-Khách quốc tế: Chủ yếu là những cán bộ,công nhân viên của các đại sứ quán,các tổ chức
quốc tế tại Việt Nam,chỉ có rất ít khách du lịch thuần tuý.Theo khảo sát lượng khách quốc tế
đến vườn năm 2001 là 400 lượt khách chiếm khoảng 0,8% khách quốc tế đến toàn vùng Sơn
Tây - Ba Vì.


-Khách nội địa: Chủ yếu là khách tham quan nghỉ dưỡng cuối tuần từ Hà Nội và một số nơi
lân cận. Năm 2001 lượng khách đến vườn là khoảng 42.000 lượt bằng 2,9% tổng khách nội địa
của toàn tỉnh và khoảng 12,9% của khu vực..
Doanh thu:Doanh thu từ khách du lịch quốc tế còn thấp,chỉ chiếm 5-7% so với doanh thu từ
khách quốc tế của toàn khu vực,còn lại chủ yếu là doanh thu thu từ khách du lịch nội địa
thông qua việc thuê phòng khoảng 20 triệu đồng/tháng,từ việc vui chơi giải trí như bơi lội.
Trong đó cơ cấu doanh thu được phân bổ khoảng 30% đối với lưu trú, 25% đối với ăn uống,
20% về thắng cảnh còn lại doanh thu từ các dịch vụ khác. Năm 2001 doanh thu của vườn đạt
hơn 1 tỉ đồng, nộp ngân sách Nhà nước đạt 85 triệu đồng.
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch của vườn.
Cơ sở lưu trú:Ở độ cao 400m trung tâm của vườn, có 6 nhà nghỉ gồm 26 phòng đạt tiêu
chuẩn phòng nội địa giá thuê 120.000 đồng/1người/đêm và 80.000 đồng/3 tiếng.
Cơ sở ăn uống: Có một nhà ăn (cốt 400m) có sức chứa một trăm người phục vụ các món ăn
đặc sản của vùng.
- Có một phòng hội trường trên nhà sàn có thể cho 60 người sử dụng.
Cơ sở vui chơi, giải trí. Có một bể bơi rộng 200m2 lát gạch men,nước tương đối sạch và được

khử trùng cẩn thận,1 sân tennis gần vườn nuôi chim đạt tiêu chuẩn quốc tế với giá 120.000
đồng/giờ.
Số lượng lao động tại vườn:Ngoài nhân viên khác,ban dịch vụ du lịch của Vườn Quốc gia Ba
Vì có 23 lao động,trong đó có 7 công chức do ban quản lý vườn quản lý.Tỷ lệ có tay nghề
chiếm 20% còn lại chưa qua đào tạo hoặc đào tạo ngắn hạn về du lịch.Thu nhập bình quân đầu
người hàng tháng khoảng 360.000 đồng
Các hoạt động vui chơi giải trí:
- Leo núi (treking) ngắm cảnh rừng, làng bản và các di tích .
- Khám phá thiên nhiên dọc theo các con suối, thác nước.
-Tham quan các vườn nuôi chim,thú,vườn ươm cây,vườn Phong Lan.
- Bơi lội, chơi tennis.
- Cắm trại và các hoạt động giao lưu văn hoá với cộng đồng dân tộc địa phương, thưởng thức
các món đặc sản.
Hiện trạng khai thác du lịch của vườn còn chưa cân xứng với tiềm năng vốn có nên cần được
quan tâm đầu tư cho phát triển du lịch hơn nữa.
Định hướng phát triển du lịch sinh tháI gắn với bảo tồn đa dạng sinh học của VQG Ba Vì đến
năm 2015 đã được xác định:khai thác tiềm năng môI trường sinh tháI tự nhiên của rừng đặc
dụng với việc đầu tư cơ sở hạ tầng để kinh doanh dịch vụ du lịch sinh tháI và hướng nghiệp
thông qua du lịch sinh tháI để giáo dục và nâng cao ý thức cho cộng đồng và khách du lịch
tham gia bảo vệ môI trường,tăng cường khả năng bảo vệ nghiêm ngặt hệ sinh thái tài nguyên
bảo tồn tính đa dạng của Ba Vì.Nhưng trên thực tế tiềm năng để phát triển du lịch sinh tháI
VQG Ba Vì chưa được đánh giá đầy đủ và chưa gắn với công tác bảo tồn đa dạng sinh học tại


VQG.Các sản phẩm du lịch ở VQG Ba Vì hiện mới mang màu sắc của du lịch sinh thái.Để
phát triển các loại hình du lịch sinh tháI ban quản lý vườn cần thiết kế một số sản phẩm dịch
vụ phù hợp với điều kiện thực tế của vườn như các dịch vụ chữa bệnh bằng thuốc nam,trồng
cây thu gom rác tổ chức các chương trình du lịch nghiên cứu sự đa dạng sinh học quan sát đời
sống hoang dã của động thực vật…hướng tới việc khuyến khích du lịch bảo vệ môi trường
Một số kết luận.

-Tài nguyên du lịch của các điểm phong phú,đa dạng nhưng chưa có sự nghiên cứu đánh giá tỉ
mỉ,chính xác cho từng điểm để đầu tư phát triển du lịch cuối tuần.
-Chưa đa dạng hoá các sản phẩm du lịch,do đó khách thường tập trung theo mùa,gây ảnh
hưởng xấu đến nguồn tài nguyên du lịch và hoạt động kinh doanh.
- Mạng lưới giao thông trong khu vực còn yếu kém,nhiều đoạn đường nối các điểm du lịch và
trong khu du lịch là đường hẹp,đường xấu,chưa được đầu tư xây dựng.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối nghèo nàn:Cơ sở lưu trú chưa đảm bảo chất lượng quốc
tế,không đa dạng; cơ sở ăn uống chưa cung cấp được những món ăn hợp vệ sinh;cơ sở vui
chơi giải trí nhìn chung còn thiếu thốn, chưa hấp dẫn nên thời gian ở điểm du lịch của khách
còn thấp,chưa tận dụng được hết khả năng chi tiêu của khách.
-Hầu hết các điểm du lịch chưa có cơ sở y tế,trạm cấp cứu,bộ phận cứu hộ.
-Các trạm thông tin liên lạc,điện thoại còn ít, chưa đảm bảo thông tin liên lạc kịp thời.
- Vấn đề môi trường chưa thực sự quan tâm, thiếu các khu vệ sinh công cộng sạch sẽ,rác thải
chưa được thu gom và vấn đề ô nhiễm nguồn nước xảy ra.
- Các điểm du lịch chưa có các hoạt động Marketing quảng bá mạnh để thu hút khách.
- Các công ty du lịch, điểm du lịch còn thiếu cán bộ được đào tạo chuyên môn, tổ chức kinh
doanh du lịch.
- Hiện nay, theo các số liệu thu thập được thì lượng khách quốc tế đến khu vực chủ yếu đến
chơi golf tại khu du lịch hồ Đồng Mô, nhưng lượng khách tập trung nhiều nhất là tại điểm du
lịch Ao Vua
********
Ba Vì là khu vực có điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý,tài nguyên du lịch để phát triển du
lịch nói chung và du lịch cuối tuần nói riêng.Tuy nhiên để khai thác du lịch cuối tuần có hiệu
quả cần có sự đầu tư hợp lývề cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuận du lịch,đồng thời cần
phải nâng cao công tác quản lý và có sự liên kết của các ngành, các cấp, đẩy mạnh hoạt động
marketing, quảng bá du lịch.
3 . MỘT SỐ SUY NGHĨ VÀ KIẾN NGHỊ PHÁT TRIỂN DU LỊCH CUỐI TUẦN Ở BA
VÌ.
Qua tìm hiểu khả năng và thực trạng phát triển hoạt động du lịch cuối tuần ở Ba Vì cũng như
tình hình khai thác du lịch tại vườn quốc gia Ba Vì,có thể thấy rằng hoạt động du lịch cuối

tuần ở Ba Vì đã có những bước tăng trưởng rõ rệt. Tuy vậy, sự phát triển vẫn chưa tương xứng
với tiềm năng và còn bộc lộ một số tồn tại về cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch,
về công tác quản lý, điều hành phát triển du lịch...


Dự kiến đến 2010 khách quốc tế đến Ba Vì chiếm khoảng 35% và đến năm 2020 chiếm
khoảng 60% tổng số khách quốc tế đến Hà Tây và dự kiến khách nội địa đến năm 2010 chiếm
40% và đến năm 2020 là 50% tổng số khách nội địa đến Hà Tây (Nguồn : Viện Nghiên cứu
Phát triển Du lịch)
Mục tiêu phát triển của huyện Ba Vì đặt ra là phát triển ngành du lịch với tốc độ phát triển
hàng năm đạt 60-70%.
Để đạt được ngành du lịch Ba Vì cần có những giải pháp cụ thể và đỏi hòi phải có sự cố gắng
lớn của các ngành, các cấp, cán bộ và nhân viên vùng du lịch, đặc biệt là các đơn vị hoạt động
kinh doanh du lịch.
Một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy phát triển du lịch cuối tuần ở Ba Vì
Để phát triển du lịch sinh tháI Ban quản lý cần có kế hoạch giám sát môI trường thông qua
việc kiểm tra định kỳ các nguồn gây tác động môI trường đặc biệt là việc kiểm tra việc xử lý
rác thảI nước thảI của các doanh nghiệp du lịch đang hoạt động xung quanh vườn,Cần hình
thành cơ chế bắt buộc các doanh nghiệp khai thác thắng cảnh du lịch phảI có trách nhiệm trích
lợi nhuận từ hoạt động dùng cho việc bảo tồn đa dạng sinh học tu bổ cảnh quan giáo dục ý
thức khi hướng dẫn khách tham quan.Các doanh nghiệp đang nhận khoán quản lý bảo vệ môI
trường của VQG Ba Vì cần xây dựng đề án tổ chức kinh doanh du lịch trong đó xác định rõ
nội dung hoạt động dịch vụ theo hướng cộng đồng gắn với phát triển du lịch bảo vệ môI
trường sinh thái
Để phù hợp với chủ trương của Chính phủ hiện nay và đảm bảo tính thống nhất có khả năng
huy động vốn từ người lao động để mở rộng đầu tư nâng cấp hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ
thuật,cạnh tranh cao và lành mạnh,biện pháp tốt nhất là tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp
nhà nước theo hình thức cổ phần hoá.
Xây dựng các quy chế,chính sách quản lý,khai thác du lịch cuối tuần đi đôi với việc tuyên
truyền giáo dục văn hoá nâng cao dân trí cho cộng đồng địa phương và khách du lịch.

Thực hiện quản lý Nhà nước về du lịch trong tất cả các lĩnh vực đúng theo những quy
định,quy chế nội quy mà luật pháp về du lịch đã ban hành.
Tiến hành những quy hoạch chi tiết và xác định rõ ranh giới các khu du lịch cụ thể trên địa
bàn.
Tổ chức khai thác hiệu quả các nguồn tài nguyên du lịch song song với việc bảo vệ môi
trường sinh thái, cảnh quan cho các khu du lịch, đảm bảo cho sự phát triển bền vững.
Đề nghị Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh cho phép sử dụng đất kinh doanh du lịch.Trên cơ sở những
dự án đầu tư,tôn tạo,tờ trình xin qũy đất làm các công trình công cộng,các cơ sở hạ tầng,đường
giao thông,trạm điện,bãi đỗ xe,bãi tắm...
Đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch là nền tảng cho sự vươn
xa và tăng sức hấp dẫn của điểm du lịch.
Cần thiết phải có một chiến lược nghiên cứu thị trường,Marketing và quảng cáo sao cho hoạt
động kinh doanh du lịch có hiệu quả cao nhất.


-Điểm du lịch vườn Quốc gia Ba Vì sẽ hướng tới thị trường khách quốc tế,khách tham
quan,nghiên cứu môi trường sinh thái như: các nhà nghiên cứu,các viện nghiên cứu,học
sinh,sinh viên...
Sau khi đã tiến hành phân đoạn thị trường và xác định thị trường mục tiêu cho khu vực và
từng điểm cần phải phân tích đặc điểm của thị trường khách mục tiêu để tìm ra các hình thức
tiếp cận hiệu quả nhất.Cuối cùng là lựa chọn một chiến lược Marketing hỗn hợp cho khu vực
và từng điểm.
-Biên soạn và phát hành những ấn phẩm chứa đựng những thông tin du lịch về Ba Vì như:
sách chỉ dẫn du lịch,tờ rơi,tờ brochure,bản đồ,áp phíc...giới thiệu với khách về những sản
phẩm,dịch vụ du lịch có trong khu vực và những thông tin cần thiết cho khách như những
điểm lưu trú,hệ thống các điểm tham quan du lịch,nhà hàng,khách sạn...và địa chỉ các điểm
cung cấp thông tin cho khách.
- Thực hiện các chương trình quảng cáo thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như:Ti
vi, đài, tạp chí, internet...
- Tham gia các hội chợ du lịch tổ chức hàng năm của tỉnh và cả nước để giới thiệu và tiếp thị

những sản phẩm du lịch tới các đại lý,các hãng lữ hành,tới khách du lịch...
- Tổ chức các cuộc hội thảo với các nhà văn,nhà báo,các đại lý lữ hành và khách du lịch ngay
tại các điểm du lịch.Tạo cơ hội xây dựng hình ảnh tốt về khu vực.
- Thực hiện các chương trình khuyến mại như: giảm giá các dịch vụ,sản phẩm mới,giảm giá
dịch vụ cho khách quen...
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Ngành du lịch cần có sự đầu tư,phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật
du lịch nhằm phát triển du lịch tương xứng với tiềm năng như ở vườn quốc gia Ba Vì,Suối
Mơ,khu vực hồ Suối Hai…Tuy nhiên phảI gắn khai thác du lịch với bảo vệ môI trường cảnh
quan nhằm mục đích khai thác lâu dài
Ngành du lịch phảI kết hợp với các cấp quản lý nhà nước để nâng cao trình độ dân trí của
nhân dân địa phương,từ đó nâng cao nhận thức về những lợi ích của việc phát triển du lịch,tạo
thuận lợi cho đầu tư phát triển du lịch trên địa bàn
Nâng cao công tác quản lý nhà nước về du lịch nhất là trong lĩnh vực quản lý quy hoạch đất
đai,xây dựng và nộp ngân sách nhà nước.Kết hợp với việc phát triển các ngành kinh tế khác
gắn với du lịch của địa phương,như trồng cây ăn quả,cây đặc sản,làng nghề…để phục vụ
khách du lịch
Nhà nước nên có những chính sách ưu đãI cho phát triển du lịch nói chung và du lịch cuối
tuần ở Ba Vì nói riêng.Tạo thuận lợi cho việc thuê đất,đầu tư phát triển du lịch,đồng thời có
thể hỗ trợ về vốn cho các dự án phát triển du lịch,hỗ trợ trong việc quảng cáo,tuyên truyền.


* Tài liệu tham khảo
1.Phạm Trung Lương,Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam, NXB Giáo Dục, 2000.
2.Nguyễn Thu Mai, Marketing các tuyến điểm du lịch, Khoa Du lịch – Viện Đại học Mở Hà
Nội, 11/2000.
3.Các vườn Quốc gia Việt Nam, NXB Nông nghiệp, 2001.
4.Địa lý Hà Tây, NXB Giáo dục, 1994.
5.Sơn Tinh và Vùng văn hoá cổ Ba Vì, Sở văn hoá thông tin Hà Tây, 1997.




×