Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI VÀ SỰ VẬN DỤNG HỌC THUYẾT TRÊN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.1 KB, 20 trang )

HỌC VIỆN KỸ THUẬT MẬT MÃ
KHOA LÝ LUẬN – CHÍNH TRỊ

ĐỀ TÀI

HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ SỰ VẬN
DỤNG HỌC THUYẾT TRÊN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY

Môn học: TRIẾT HỌC

HÀ NỘI, 2014


MỤC LỤC
MỤC LỤC.......................................................................................................2
LỜI NÓI ĐẦU................................................................................................3
Chương 1. HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI .................5
1.1. SẢN XUẤT VẬT CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG
XÃ HỘI.............................................................................................................6
1.2. LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT.........................8
1.3. CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG........................10
Chương 2. SỰ VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ
HỘI TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY................13
2.1. NHẬN THỨC LẠI VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
13
2.2. NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN XUẤT PHÁT ĐỂ
XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA.......................................15
Chương 3. KẾT LUẬN.................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................20


2


LỜI NÓI ĐẦU
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là lý luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật
lịch sử do C. Mác xây dựng lên. Nó có vị trí quan trọng trong triết học Mác. Lý
luận đó đã được thừa nhận Lý luận khoa học và là phương pháp luận cơ bản trong
việc nghiên cứu lĩnh vực xã hội. Nhờ có lý luận hình thái kinh tế - xã hội, lần đầu
tiên trong lịch sử loài người, Mác đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong, nội tại
của sự phát triển xã hội, chỉ rõ được bản chất của từng chế độ xã hội. Lý luận đó
giúp chúng ta nghiên cứu một cách đứng đắn và khoa học sự vận hành của xã hội
trong giai đoạn phát triển nhất định cũng như tiến trình vận động lịch sử nói chung
của xã hội loài người.
Song, ngày nay đứng trước sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu, lý luận đó đang được phê phán từ nhiều phía. Sự phê phán đó
không phải từ phía kẻ thù của chủ nghĩa Mác mà còn cả một số người đã từng
đi theo chủ nghĩa Mác. Họ cho rằng lý luận, hình thái kinh tế - xã hội của chủ
nghĩa Mác đã lỗi thời trong thời đại ngày nay. Phải thay thế nó bằng một lý
luận khác, chẳng hạn như lý luận về các nền văn minh. Chính vì vậy làm rõ
thực chất lý luận hình thái kinh tế - xã hội, giá trị khoa học và tính thời đại
của nó đang là một đòi hỏi cấp thiết.
Đối với Việt Nam, trong những năm gần đây, nền kinh tế có sự thay đổi
và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Để đạt những thành tựu ấy chúng ta không
thể quên được bước ngoặt lịch sử trong cơ chế chuyển đổi nền kinh tế đất
nước, mà cột mốc của nó là Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã làm
thay đổi bộ mặt kinh tế Nhà nước.
Đối với nước ta, đi lên từ một nền kinh tế tiểu nông, muốn thoát khỏi
nghèo nàn lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ của nước phát triển thì tất
yêú cần phải đổi mới. Đây là một đề không mới nhưng nó đề cập đến những
vấn đề cấp thiết của nước ta hiện nay, đụng chạm trực tiếp đến cơ sở hạ tầng

và kiến trúc thượng tầng của nước ta. Nó giúp chúng ta rất nhiều trong việc
đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng định: "Xây
dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại,
cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc
3


phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”.
Mục tiêu đó là sự cụ thể hoá học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội và
hoàn cảnh cụ thể của xã hội Việt Nam. Nó cũng là mục tiêu của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.
Chính vì vậy mà bài tiều luận này sẽ trình bày về đề tài "Học thuyết về
hình thái kinh tế - xã hôi và sự vận dụng học thuyết trên trong thời kỳ úa
độ lên CNXH ở Việt Nam". Đây là một đề tài hay, có nội dung phức tạp và
rộng.

4


CHƯƠNG 1. HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
Chúng ta đều biết, trong lịch tư tưởng nhân loại trước Mác đã có không
ít cách tiếp cận, khi nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội. Xuất phát từ
những nhận thức khác nhau, với những ý tưởng khác nhau mà có sự phân chia
lịch sử tiến hoá của xã hội theo những cách khác nhau. Chúng ta cũng đã quen
với khái niệm thời đại đồ đá, thời đại đồ đồng, thời đại cối xay gió, thời đại
máy hơi nước ….và gần đây là các nền văn minh: văn minh nông nghiệp, văn
minh công nghiệp, văn minh hậu công nghiệp.
Dựa trên những kết quả nghiên cứu lý luận và tổng thể quá trình lịch

sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã vận dụng phép biện chứng duy vật để
nghiên cứu lịch sử xã hội, đưa ra quan điểm duy vật về lịch sử và đã hình
thành nên học thuyết "hình thái kinh tế - xã hội".
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử
dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ
sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực
lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng
trên quan hệ sản xuất ấy. Với từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định thì ở
những giai đoạn đó sẽ tồn tại các mặt đối lập, các quan hệ sản xuất, lực lượng
sản xuất, lực lượng lao động sinh hoạt khác nhau với phong tục tập quán của
các nước trên thế giới cũng khác nhau. Trình độ phát triển khác nhau, mỗi
nước có một nền sản xuất, nền kinh tế khác nhau. Nhưng cuối cùng thì đó sẽ
là một kiến trúc thượng tầng được hình thành trong hình thái kinh tế - xã hội
đó nó cũng có những kết cấu và chức năng cùng các yếu tố cấu thành hình
thái kinh tế - xã hội.
Là biểu hiện tập trung của quan niệm duy vật về lịch sử, học thuyết
hình thái kinh tế- xã hội nghiên cứu lịch sử xã hội trên cơ sở xem xét lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng,
tức toàn bộ các yếu tố cấu trúc thành bộ mặt của thời đại: Chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật …..Do đó, nó chỉ ra bản chất của quá trình
phát triển của xã hội loài người. Loài người đã trải qua năm hình thái kinh tế xã hội theo trật tự từ thấp đến cao đó là: Hình thái kinh tế cộng sản nguyên
thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và ngài nay đang quá độ
lên hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
5


Hình thái kinh tế - xã hội có tính lịch sử, có sự ra đời phát triển và diệt
vong. Chế độ xã hội lạc hậu sẽ mất đi, chế độ xã hội mới cao hơn sẽ thay thế.
Đó là khi phương thức sản cũ đã nên lỗi thời, hoặc khủng hoảng do mâu
thuẫn của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất quá lớn không thể phù hợp

thì phương thức sản xuất này sẽ bị diệt vong và xuất hiện một phương thức
sản xuất mới hoàn thiện hơn, có quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản
xuất. Như vậy bản chất của sự thay thế trên là phụ thuộc vào mối quan hệ
biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
Xã hội không phải là tổng hợp của những hiện tượng sự kiện rời rạc,
những cá nhân riêng lẻ mà xã hội là một chính thể toàn vẹn có cơ cấu phức
tạp, trong đó có những mặt cơ bản nhất là lực lượng sản xuất, quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt đó có vai trò nhất định và tác động
đến các mặt khác tạo nên sự vận động của xã hội. Chính tính toàn vẹn đó
được phản ánh bằng tổng thể các mặt của hình thái kinh tế - xã hội.
Tổng thể hình thái kinh tế xã hội bao gồm nhiều mặt, mỗi mặt lại có
những thế mạnh riêng lẻ và phải dựa vào những thế mạnh đó để nghiên cứu,
tìm tòi và phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
1.1. SẢN XUẤT VẬT CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI ĐỜI
SỐNG XÃ HỘI
Lịch sử phát triển của xã hội loài người từ khi hình thành đến nay đã
trải qua các giai đoạn phát triển cao thấp khác nhau, tương ứng với mỗi giai
đoạn đó là một hình thái kinh tế - xã hội cụ thể, sự vận động và thay thế lẫn
nhau của các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử là do các qui luật khách
quan chi phối đặc biệt là bị chi phối bởi qui luật về sự phù hợp của quan hệ
sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Do đó C.Mác viết
“Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình
lịch sử tự nhiên”.
Trong đời sống hàng ngày những điều tất yếu mà xã hội nào cũng cần
có đó là sản xuất vật chất, sản xuất vật chất có vai trò rất lớn trong cuộc sống
con người, nó là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào
tự nhiên, cải biên các dạng vật chất của tự nhiên để tạo ra của cải vật chất cho
đời sống xã hội. Đó là quá trình hoạt động có mục đích, nhằm cải biến những
6



vật liệu tự nhiên làm cho nó thích hợp với nhu cầu của con người, sản xuất vật
chất thực hiện trong quá trình lao động, chính trong quá trình lao động mà
mỗi người phải liên kết với nhau để làm và mọi người làm là lực lượng sản
xuất sinh ra từ đây. Quan hệ sản xuất cũng sinh ra khi mọi người dựa vào
nhau để làm ra của cải vật chất. Các nhà triết học của xã hội duy tâm giải
thích nguyên nhân, động lực phát triển của xã hội từ ý thức tư tưởng của con
người hay từ một lực lượng siêu tự nhiên nào đó. Ngày nay nhiều nhà xã hội
học tư sản giải thích sự phát triển của xã hội theo quan điểm kỹ thuật. Họ
không nói đến các quan hệ kinh tế - xã hội, nguồn gốc sản sinh và thay thế
các chế độ xã hội khác nhau trong lịch sử.
+ Ăng - ghen viết: Mác là người đầu tiên “đã phát hiện ra quy luật phát
triển của lịch sử loài người”, nghĩa là tìm ra các sự thật giản đơn là trước hết
con người cần phải ăn uống, ở và mặc, trước khi có thể lo đến chuyện chính
trị khoa học, tôn giáo.
+ Con người phải sản xuất của cải vật chất, đó là yêu cầu khách quan
của sự sinh tồn xã hội. Xã hội không thể thoả mãn nhu cầu của mình bằng
những cái đã có sẵn trong tự nhiên, để duy trì và ngày càng nâng cao đời sống
của mình con người phải tiến hành sản xuất ra của cải vật chất. “Nếu không
có sản xuất thì xã hội sẽ diệt vong”. Vì thế, sản xuất sản xuất của cải vật chất
là một điều kiện cơ bản của mọi xã hội, là một hành động lịch sử mà hiện nay
cũng như ngàn năm trước đây người ta vẫn phải tiến hành từng ngày, từng giờ
cốt để duy trì cuộc sống của con người.
+ Để sản xuất ra của cải vật chất thì phải cần đến lực lượng sản xuất vì
sản xuất vật chất không những là cơ sở cho sự sinh tồn của xã hội, mà còn là
cơ sở để hình thành nên tất cả các hình thức quan hệ xã hội khác. Dù bất cứ
một hệ thống vật chất nào cũng đều có những kiểu quan hệ nhất định giữa các
yếu tố cấu thành nó. Trong đời sống xã hội, tất cả các quan hệ xã hội về nhà
nước, chính trị,pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật... đều hình thành và phát triển
trên cơ sở sản xuất. Trong quá trình sản xuất nhất định con người đồng thời

sản xuất và tái sản xuất ra những quan hệ xã hội của mình.
+ Trong quá trình sản xuất vật chất, con nguời luôn luôn tìm cách làm
giảm nhẹ hoạt động lao động và nâng cao hiệu quả của lao động, do đó đã
không ngừng cải tiến công cụ lao động, áp dụng những thành tựu mới vào sản
7


xuất, thúc dẩy lực luợng sản xuất phát triển. Sự phát triển lực lượng sản xuất
đến một giai đoạn nhất dịnh sẽ làm thay đổi mối quan hệ giữa nguời với
nguời trong quá trình sản xuất. Do quan hệ sản xuất thay đổi đã làm thay đổi
các quan hệ xã hội khác giữa nguời với nguời, từ đó đã chuyển xã hội lên một
giai đoạn phát triển mới cao hơn.
+ Phương thức sản xuất là nhân tố quyết định sự phát triển xã hội.
Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, con nguời một mặt phải quan hệ
với tự nhiên, mặt khác phải quan hệ với nhau - đó là hai mặt lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, hai mặt tạo thành phương thức sản xuất. Sự tác
động biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã tạo thành
quy luật chung chi phối sự tồn tại và phát triển của xã hội loài nguời - quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình dộ phát triển của lực
lượng sản xuất (sẽ được trình bày trong phần tiếp theo).
1.2. LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT
Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong
quá trình sản xuất, là biểu hiện trình độ trinh phục tự nhiên của con người
trong giai đoạn lịch sử nhất định. Lịch sử sản xuất là một thể thống nhất hữu
cơ giữa tư liệu sản xuất (đặc biệt là công cụ lao động) với người lao động, với
kinh nghiệm và kỹ năng nghề nghiệp. Lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết
định phương thức sản xuất.
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình
sản xuất vật chất thể hiện ở quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ
tổ chức quản lý trao đổi hoạt động với nhau và quan hệ phân phối sản phẩm.

Trong quan hệ sản xuất quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vị trí quyết
định các quan hệ khác. Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, song nó được
hình thành một cách khách quan không phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của
con người. Quan hệ sản xuất mang tính ổn định tương đối với bản chất xã hội
và tính phương pháp đa dạng trong hình thức biểu hiện.
Giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có mối quan hệ biện
chứng với nhau biểu hiện ở chỗ:
Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi phát triển. Sự
biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và sự phát triển của lực
8


lượng sản xuất mà trước hết là công cụ. Lực lượng sản xuất phát triển dẫn đến
mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất hiện có và xuất hiện đòi hỏi khách
quan, phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế bằng quan hệ sản xuất mới.
Quan hệ sản xuất vốn là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất (phù hợp)
nhưng do mâu thuẫn của lực lượng sản xuất (đông) với quan hệ sản xuất (ổn
định tương đối) quan hệ lại trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất (không phù hợp).
Tuy nhiên quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối với lực
lượng sản xuất thể hiện trong nội dung sự tác động trở lại với lực lượng sản
xuất, quy định mục đích xã hội của sản xuất, xu hướng phát triển của quan hệ
lợi ích, từ đó hình thành những yếu tố tồn tại thúc đẩy và kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động trở lại nói trên của quan hệ sản xuất
bao giờ cũng thông qua các quy luật kinh tế - xã hội đặc biệt là quy luật kinh
tế cơ bản.
Sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất
như sự thống nhất giữa hai mặt đối lập tạo nên chỉnh thể của sản xuất xã hội.
Tác động qua lại biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất
được Mác - Anghen khái quát thành quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản

xuất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất quyết
định sự hình thành và biến đổi của quan hệ sản xuất. Khi không thích ứng với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất sẽ
kìm hãm thậm chí phá hoại sự phát triển của lực lượng sản xuất, mâu thuẫn
của chúng tất yếu sẽ nảy sinh. Biểu hiện của mâu thuẫn này trong xã hội là
mâu giữa các giai cấp đối kháng.
Lịch sử đã chứng minh rằng do sự phát triển của lực lượng sản xuất,
loài người đã bốn lần thay đổi quan hệ sản xuất gắn liền với bốn cuộc cách
mạng xã hội, dẫn đến sự ra đời nối tiếp nhau của các hình thái kinh tế xã hội.
Vào giai đoạn cuối cùng của xã hội phong kiến ở các nước Tây Âu lực lượng
sản xuất đã mang những yếu tố xã hội hoá gắn với quan hệ sản xuất phong
kiến. Quan hệ sản xuất phong kiến chật hẹp không chứa đựng được nội dung
mới của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất của Tư bản chủ nghĩa ra đời
thay thế quan hệ sản xuất phong kiến. Trong lòng nền sản xuất tư bản, lực
lượng sản xuất phát triển, cùng với sự phân công lao động và tính chất xã hội
9


hoá công cụ sản xuất đã hình thành lao động chung của người dân có tri thức
và trình độ chuyên môn hoá cao. Sự lớn mạnh này của lực lượng sản xuất dẫn
đến mâu thuẫn gay gắt với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Giải quyết
mâu thuẫn đó đòi hỏi phải xáo bỏ quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa,
xác lập quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Theo Mác,
do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phát triển sản
xuất của mình và do đó thay đổi phát triển sản xuất làm ăn cuả mình, loài
người thay đổi quan hệ sản xuất của mình.
Phù hợp có thể hiểu là cả ba mặt của quan hệ sản xuất phải thích ứng
với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phải
tạo được điều kiện sản xuất và kết hợp với tối ưu giữa tư liệu sản xuất và sức
lao động, bảo đảm trách nhiệm từ sản xuất mở rộng. Mở ra sau những điều

kiện thích hợp cho việc kích thích vật chất, tinh thần với người lao động.
Vậy quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là quy luật chung của sự phát triển xã hội. Do tác
động của quy luật này, xã hội phát triển kế tiếp nhau từ thấp đến cao của các
phương thức sản xuất, hay chính là của các hình thái kinh tế - xã hội. Quy luật
cốt lõi này như sợi chỉ đỏ xuyên suốt dòng chảy tiến hoá của lịch sử không
chỉ những lĩnh vực kinh tế mà cả các lĩnh vực ngoài kinh tế, phi kinh tế.
1.3. CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng xã hội, những thiết
chế tương ứng và những quan hệ nội tảng của thượng tầng, đó là những quan
điểm tư tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học
và các thể chế tương ứng như Nhà nước Đảng phái, giáo hội và các đoàn thể
quần chúng.
Kiến trúc thượng tầng được hình thành trên tổng hợp toàn bộ những
quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một chế độ xã hội nhất định
người ta gọi đó là cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng bao gồm những quan hệ sản xuất đang giữ địa vị thống
trị nền kinh tế nhóm những quan hệ sản xuất tàn dư và những quan hệ sản
xuất mới là quan hệ mần mống của xã hội.

10


Bất kỳ một cơ sở hạ tầng nào cũng bao gồm những thành phần kinh tế
khác nhau, mỗi thành phần kinh tế này đều gắn liền với một kiểu quan hệ sản
xuất trong đó quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chi phối các
thành phần kinh tế khác. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, giai cấp này nảy
sinh từ cơ sở hạ tầng, từ mâu thuẫn và xung đột kinh tế. Đó chính là cơ sở nảy
sinh giai cấp đối kháng trong kiến trúc thượng tầng, giai cấp thống trị về kinh
tế sẽ thống trị và thiết lập cả sự thống trị về mặt tư tưởng đối với xã hội, trong

đó hệ tư tưởng chính trị và bộ máy quản lý nhà nước có vị trí quan trọng nhất.
1.3.1. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng được thể hiện
ở một số mặt:
Cơ sở hạ tầng nào thì kiến trúc thượng tầng đó (giai cấp nào giữ vị trí
thống trị về mặt kinh tế thì đồng thời cũng là giai cấp thống trị xã hội về tất cả
các lĩnh vực khác).
Quan hệ sản xuất nào thống trị cũng sẽ tạo ra kiến trúc thượng tầng
tương ứng. Mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn giữa các tập đoàn trong xã hội và
đời sống tinh thần của họ đều xuất phát trực tiếp và gián tiếp từ mâu thuẫn
kinh tế, từ những quan hệ đối kháng trong cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng thay đổi thì nhất định sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự thay
đổi về kiến trúc thượng tầng. Quá trình đó diễn ra ngay trong những hình thái
kinh tế xã hội cũng như khi chuyển tiếp từ hình thái này sang hình thái kinh tế
xã hội khác. Trong xã hội có giai cấp mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng được biểu
hiện là mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị.
Khi hạ tầng cũ bị xoá bỏ thì kiến trúc thượng tầng cũ cũng mất đi và
thay thế vào đó là kiến trúc thượng tầng mới được hình thành từng bước thích
ứng với cơ sở hạ tầng mới. Sự thống trị của giai cấp cũ đối với xã hội cũ bị
xoá bỏ, thay vào đó bằng hệ tư tưởng thống trị khác và các thể chế tương ứng
của giai cấp thống trị mới. Đương nhiên không phải "khi cơ sở hạ tầng thay
đổi thì lập tức sẽ dẫn đến sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng". Trong quá
trình hình thành và phát triển của kiến thượng tầng mới, nhiều yếu tố của kiến
trúc thượng tầng cũ còn tồn tại gắn liền với cơ sở kinh tế đã nảy sinh ra nó. Vì

11


vậy giai cấp cầm quyền cần phải biết lựa chọn một số bộ phận hợp lí để sử
dụng nó xây dựng xã hội mới.

1.3.2. Tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của kiến trúc thượng
tầng với cơ sở hạ tầng
Các bộ phận của kiến trúc thượng tầng không phụ thuộc một chiều vào
cơ sở hạ tầng mà trong quá trình phát triển, chúng có tính độc lập tương đối
trong quá trình vận động phát triển và tác động mạnh mẽ đối với cơ sở hạ
tầng. Chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thượng tầng là đấu tranh thủ tiêu
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ, xây dựng bảo vệ củng cố và phát
triển cơ sở hạ tầng mới. Trong xã hội có giai cấp nhà nước là yếu tố có tác
động mạnh nhất đối với cơ sở hạ tầng, các yếu tố khác của kiến trúc thượng
tầng cũng đều tác động đến cơ sở hạ tầng nhưng đều bị nhà nước pháp luật
chi phối.
Trong điều kiện ngày nay vai trò của kiến trúc thượng tầng không giảm
đi mà ngược lại tăng lên và tác động mạnh đến tiến trình lịch sử. Trái lại kiến
trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa bảo vệ cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa nhằm
xây dựng xã hội mới, chính mục đích đó quyết định tính tích cực càng tăng
của kiến trúc thượng tầng của chủ nghĩa xã hội.
Tác động của kiến trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng được thể hiện
trong hai trường hợp trái ngược nhau nếu kiến trúc thượng tầng phù hợp với
quan hệ kinh tế tiến bộ thì sẽ thúc đẩy sự phát triển xã hội. Ngược lại nếu kiến
trúc thượng tầng là cơ sở của những quan hệ kinh tế lỗi thời thì sẽ kìm hãm sự
phát triển kinh tế xã hội, những sự tác động kìm hãm đó chỉ là tạm thời sớm
muộn cũng bị cách mạng khắc phục về cơ bản, bản chất giữa cơ sở hạ tầng và
cơ sở thượng tầng chính là bản chất giữa kinh tế và chính trị trong đó kinh tế
đóng vai trò quyết định còn chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế và có
tác dụng mạnh mẽ trở lại. Cần tránh khuynh hướng quá thổi phồng hoặc hạ
thấp vai trò của kiến trúc thượng tầng, nếu tuyệt đối hoá vai trò của kiến
thượng tầng thì sẽ rơi vào tả khuynh còn ngược lại sẽ rơi vào hữu khuynh.

12



CHƯƠNG 2. SỰ VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI
KINH TẾ - XÃ HỘI TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
Dựa trên cơ sở những lý luận chung trên, phần tiếp theo của đề tài xin
phép được đi sâu vào vấn đề "sự vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội
trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam hiện nay".
2.1. NHẬN THỨC LẠI VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ
“Chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra,
không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ
nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xoá bỏ trạng thái hiện nay.
Những điều kiện của phong trào ấy là kết quả của những tiền đề hiện đang tồn
tại” dựa vào sự phân tích trực tiếp những mâu thuẫn của xã hội tư sản trong
giai đoạn đầu phát triển của nó, dựa vào triển vọng của phong trào công nhân,
Mác và Ăngghen đã đưa ra dự đoán về sự phát triển của xã hội loài người
trong tương lai, tất yếu phải tiến đến hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ
nghĩa, mà chủ nghĩa xã hội là giai đoạn thấp của hình thái ấy. Tất nhiên dự
đoán khoa học của các ông mới chỉ cho phép phác hoạ được những đường nét
chủ yếu về xã hội tương lai ấy. Lênin cũng chỉ rõ: “Chúng ta không hề coi lý
luận của mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm, trái lại
chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những
người xã hội chủ nghĩa phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không
muốn trở thành lạc hậu với cuộc sống”.
Đáng tiếc là trong nhiều năm qua, đối với chúng ta, lý luận về chủ
nghĩa xã hội không những không được bổ sung, phát triển cho phù hợp với sự
phát triển của thực tiễn, mà lại được giải thích một cách máy móc, giáo điều
và được áp dụng một cách dập khuôn làm cho chủ nghĩa xã hội hiện thực ở
nhiều nước bị biến dạng, dẫn đến khủng hoảng và tan rã. Hậu quả đó do nhiều
nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do chúng ta mắc phải những sai

lầm chủ quan duy ý chí, không tôn trọng các quy luật khách quan. Thực tiễn
của đời sống đó đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại đời sống kinh tế xã hội,

13


tiến hành đổi mới một cách toàn diện, sâu sắc cả lý luận và thực tiễn của chủ
nghĩa xã hội.
Lịch sử đã chứng minh không phải nước nào cũng phải tuần tự trải qua
các hình thái kinh tế xã hội đã có trong lịch sử. Viêc bỏ qua một hình thái
kinh tế xã hội nào đó do những yếu tố bên trong quyết định, song đồng thời
còn tuỳ thuộc ở sự tác động của từng nhân tố bên ngoài. Cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ đang tạo ra bước ngoặt phát triển của loài người, đánh
dấu đỉnh cao mới của sự phát triển trí tuệ, mở ra một nền văn minh mới tác
động sâu sắc cuộc sống của các dân tộc, tạo ra cho các nước chậm phát triển
thời cơ mới nhưng cũng có nhiều thách thức mới trên con đường lựa chọn con
đường xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn lac hậu, làm cho
đất nước ngày càng phồn vinh.
Đảng ta chỉ rõ: “Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư
bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất
thấp” (xét về tính chất và trình độ). Biểu hiện ở hai đăc trưng cơ bản: một là,
lực lượng sản xuất rất thấp quy định tính tất yếu kinh tế – xã hội ta chưa đầy
đủ, chưa chín mồi trong sự phát triển tự nhiên, nội tại của nó, hai là tồn động
nhiều tàn dư quan hệ xã hội, ý thức tư tưởng tâm lý do chế độ thực dân,
phong kiến cũ để lại. Đó là những khó khăn trở ngại trong bước chuyển tiếp
lịch sử từ một xã hội kém phát triển sang một xã hội hiện đại phù hợp với
những chuẩn mực và giá trị của nền văn minh nhân loại và của tiến bộ xã hội.
Điều cần chú ý là có thể bỏ qua chế độ tư bản, quá độ lên chủ nghĩa xã
hội nhưng không thể bỏ qua việc chuẩn bị những tiền đề cần thiết, nhất là tiền
đề về kinh tế cho sự quá độ ấy. Nói cách khác, có thể bỏ qua chế độ tư bản

chủ nghĩa nhưng phải tiến hành sao cho sự bỏ qua này không hề vi phạm tiến
trình lịch sử - tự nhiện của sự phát triển. Do đó cần có sự phát triển nhất định
nhân tố tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ là một yêu cầu khách quan.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa, không có nghĩa là gạt bỏ tất cả quan hệ sở hữu cá thể, tư nhân
chỉ còn lại chế độ công hữu và tập thể, trái lại tất cả những gì thuộc về sở hữu
tư nhân góp phần vào sản xuất kinh doanh thì chấp nhận nó như một bộ phận
tự nhiên của quá trình kinh tế xây dựng chủ nghĩa xã hội, khuyến khích mọi
hình thức kinh tế để phát triển sản xuất và nâng cao cuộc sống của nhân dân.
14


Vậy nước ta chọn lựa con đường xã hội chủ nghĩa không qua giai đọan
phát triển tư bản với ý nghĩa là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đặc biệt là về
mặt chính trị của chế độ đó - tức không thể hình thành một hệ thống chính trị
của giai cấp tư sản, trong đó đa số sống phụ thuộc vào lợi ích và quyền lực
của thiểu số. Để xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, chúng ta
chủ trương một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước nhằm phát huy mọi tiềm năng của các thành phần
kinh tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất để xây dựng cơ sở kinh tế của
chủ nghĩa xã hội, từng bước xã hội hoá xã hội chủ nghĩa. Trong thực tế nền
sản xuất đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trên cơ sở lực lượng sản xuất
phát triển. Quá trình đó được thực hiện không phải bằng sự tước đoạt, gò ép
theo chủ nghĩa hình thức như trước đây mà được thể hiện từng bước thông
qua hỗn hợp các hình thức sở hữu như công ty cổ phần, chủ nghĩa tư bản nhà
nước, các hình thức hợp tác xã... để dần hình thành các tập đoàn kinh doanh
lớn, trong đó các đơn vị quốc doanh là nòng cốt. Tức là chúng ta chỉ bỏ qua
những gì mà xã hội mới có thể thay thế vào những quan hệ xã hội cũ đem laị
hiệu quả kinh tế xã hội cao hơn. Chúng ta không chủ trương gạt bỏ cái cũ để
có cái mới mà thực hiện chuyển hoá cái cũ thành cái mới.

2.2. NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN XUẤT PHÁT
ĐỂ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
- Muốn xây dựng hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thì phải
coi thực hiện công cuộc đổi mới là quá trình vừa làm việc vừa học tập vừa rút
kinh nghiệm bởi vì chưa bao giờ có sẵn một mô hình để căn cứ vào đó mà chủ
động vạch ra một chương trình đổi mới cụ thể, chi tiết trên từng lĩnh vực.
- Coi trọng vai trò và bản chất nhà nước, thể hiện đầy đủ quyền lực và
nguyện vọng của nhân dân. Thiết lập nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền lực
của nhân dân được khẳng định và được thực hiệc bằng pháp luật mang tính
công khai, bình đẳng, dân chủ và tiến bộ. Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa
phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý nhà nước.
Ngày nay chỉ có phát huy sức mạnh làm chủ của nhân dân mới có thể chống
tiêu cực, chống suy thoái, chống tham nhũng có hiệu quả nhằm củng cố Đảng
làm trong sạch bộ máy nhà nước lành mạnh hoá các quan hệ xã hội.
15


- Thực hiện những biến đổi mang tính cách mạng trên cả ba lĩnh vực,
lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thường tầng. Trong đó phải
ra sức phát triển lực lượng sản xuất là nhiệm vụ trung tâm hàng đầu tạo tiền
đề kinh tế vững chắc cho sự ra đời của phương thức sản xuất xã hội chủ
nghĩa. Phát triển lực lượng sản xuất trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ đang diễn ra dồn dập, mạnh mẽ đòi hỏi chúng ta phải có chính
sách quan niệm mới về công nghiệp hóa không phải là ưu tiên xây dựng cơ sở
vật chất với những ngành công nghiệp truyền thống theo kiểu công nghiệp
hoá cổ điển mà lựa chọn những ngành công nghiệp thích hợp, xây dựng kết
cấu hạ tầng cơ cở vật chất kỹ thuật hệ thống thông tin tạo tiềm năng nhanh
chóng ứng dụng công nghệ mới. Giải phóng và khai thác nhanh mọi khả năng
của lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
phong phú và đa dạng tạo ra nguồn sản phẩm và nguồn tích luỹ đó là nhiệm

vụ hàng đầu hiện nay. Như trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII của
Đảng đã khẳng định là: Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ
sở vật chất kỹ thuật hiện đại. Cơ cấu kinh tế lập hiến, quan hệ sản xuất tiến
bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất
và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc dân giàu nước mạnh xã hội
công bằng văn minh, và nước ta đã chuyển sang một thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đây là những nhận định rất quan trọng đối với
những bước đi tiếp theo trong sự nghiệp đổi mới.
- Phải khắc phục quan niệm bỏ qua chủ nghĩa tư bản một cách giản
đơn, khai thác sử dụng tối đa chủ nghĩa tư bản làm khâu "trung gian" để
chuyển nền sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội như Lênin đã chỉ ra. Chủ
trương phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và việc sử dụng các thành
phần hình thức kinh tế trung gian quá độ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta mà Đại hội VI vạch ra là đúng đắn. Đại hội VII của Đảng
cũng chỉ rõ: "… phù hợp với sự phát triển lực lượng sản xuất thiết lập từng
bước quan hệ sản xuất từ xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về
hình thức sở hữu phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng sản xuất chủ nghĩa tiến hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý Nhà
nước". Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
của kinh tế quốc doanh. Thực hiện nhiều hình thức phân phối theo kết quả lao
16


động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu. Đó là một trong những phương hướng cơ
bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ đất nước ta. Ngoài ra
cần phải xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới,
hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản
phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.
- Tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng
văn hoá phát huy nhân tố con người, con người vừa là mục tiêu, vừa là động

lực để xây dựng một xã hội văn minh. Giải phóng cá nhân để giải phóng xã
hội, kết hợp sức mạnh cá nhân với sức mạnh cộng đồng là động lực quan
trọng của chủ nghĩa xã hội. Phát triển nền giáo dục, đào tạo, nâng cao trình độ
mọi mặt, sử dụng nhân lực một cách đầy đủ, hiệu quả với những chính sách
đãi ngộ thoả đáng, tạo môi trường môi trường cho hoạt động tự do sáng tạo
cho mọi sáng kiến cá nhân, khai thác triệt để yếu tố con người và vì con
người.
- Những nguyên tắc phương pháp luận nói trên là tổng hợp các quan
điểm cơ bản nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong đó cần chú
trọng cả ba mặt: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, và kiến trúc thượng
tầng – những bộ phận cấu thành của hình thái kinh tế – xã hội mới.

17


CHƯƠNG 3. KẾT LUẬN
Học thuyết hình thái kinh tế xã hội là nền tảng chính của mọi quốc gia
trên thế giới vì nó chính là nền tảng kinh tế - xã hội của mọi nước, mà trong
đó những yếu tố để hình thành nên hình thái kinh tế - xã hội bao gồm lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng, sinh hoạt, văn hoá xã
hội... là nhân tố chính của hình thái kinh tế xã hội.
Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên
của loài người của năng lực thực tiễn của con người. Lực lượng sản xuất làm
ra tư liệu sản xuất cho xã hội, từ lực lượng sản xuất này sẽ nảy sinh ra quan hệ
sản xuất là quan lệ giữa người và người trong quá trình sản xuất, và cũng
thuộc lĩnh vực đời sống vật chất của xã hội, tư liệu lao động là xương cốt bắp
thịt của sản xuất, trong quá trình lao động thì công cụ lao động luôn được cải
tiến. Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động phát triển của các
hình thái kinh tế- xã hội thì quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất có vai trò quyết định nhất. Từ lực

lượng sản xuất sẽ hình thành nên một tổng thể đó là kiến trúc thượng tầng bao
gồm toàn bộ những quan điểm tư tưởng xã hội, những thiết chế tương ứng và
những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất
định và đều có đặc điểm riêng, có quy luật phát triển riêng nhưng không tồn
tại tách rời nhau mà liên hệ tác động qua lại lẫn nhau và nảy sinh trên cơ sở hạ
tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng.
Vậy xây dựng hình thái kinh tế xã hội ở Việt Nam thì nhất thiết các yếu
tố lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng, sinh hoạt,
văn hoá... không thể thiếu một yếu tố nào được mà nó phải gắn bó, liên kết
cùng nhau trên con đường phát triển của đất nước. Biết tìm ra những phương
pháp có hiệu quả phù hợp với đất nước như xây dựng nền sản xuất hàng hoá
nhiều thành phần, xây dựng hệ thống chính trị theo nguyên tắc nhân dân lao
động, mở rộng giao lưu quốc tế... sẽ làm cho hình thái kinh tế nước ta phát
triển hơn. Chính những điều đó sẽ có ý nghĩa rất tốt đối với các mặt trong
tổng thể hình thái kinh tế xã hội của nước ta. Nó sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế
lực lượng lao động sẽ có việc làm và không bị dư thừa, đời sống văn minh
lịch sự, thu nhập quốc dân tăng thì tổng thể hình thái kinh tế - xã hội của nước

18


ta sẽ phát triển, nó sẽ thúc đẩy nền kinh tế của nước ta đi lên. Muốn vậy nước
ta phải thực hiện tốt đường lối đổi mới toàn diện mà Đảng đã đề ra.
Khái quát lại, xây dựng hình thái kinh tế - xã hội chủ nghĩa ở nước ta là
xây dựng một hệ thống quan hệ xã hội theo yêu cầu phát triển không ngừng
của lực lượng sản xuất hiện đại. Xây dựng một hệ thống chính trị làm chủ của
nhân dân lao động hoạt động theo nguyên tắc tất cả từ con người và vì con
người.
Chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa đảng ta vẫn tiếp tục truyền
thống tốt đẹp đó của mình. Lúc sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh

phải xuất phát từ đặc điểm của nước ta là xuất phát từ nền kinh tế yếu kém
tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua tư bản chủ nghĩa - để xây dựng lí luận và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cố tổng bí thư Lê Duẩn đã chỉ
rõ chúng ta phải nắm chắc cái chủ yếu trong chủ nghĩa Mác - Lênnin là
phương pháp duy vật biện chứng để suy nghĩ về những vấn đề của cách mạng
Việt Nam.
Như vậy hình thái kinh tế xã hội ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến công cuộc
đổi mới của nước ta trong thời đại mới.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Giáo trình triết học Mác - Lê nin, nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia (Năm
1999)
[2] Giáo trình triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không
chuyên ngành triết học), Bộ Giáo dục và Đào tạo, (Năm 2005)
[3]

20



×