Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Các yếu tố tác động đến phát triển bền vững doanh nghiệp thủy sản bạc liêu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 108 trang )

26
Chương 2

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH LÝ THUYẾT
ĐỀ NGHỊ VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC DOANH NGHIỆP
THỦY SẢN BẠC LIÊU

2.1 Giới thiệu
Trong chương 2 này, nghiên cứu sinh hệ thống các cơ sở lý thuyết liên quan
đến phát triển bền vững doanh nghiệp nhằm hình thành một mô hình lý thuyết đề
nghị nghiên cứu; cụ thể đầu tiên tìm hiểu từ khái niệm phát triển bền vững ở cấp độ
vĩ mô của quốc gia đến khái niệm phát triển bền vững ở cấp độ vi mô doanh nghiệp;
thứ hai hệ thống lại các mô hình lý thuyết nghiên cứu có liên quan đến phát triển
bền vững và mô hình lý thuyết được kiểm định các yếu tố bên trong và bên ngoài
tác động đến phát triển bền vững doanh nghiệp; cuối cùng mối liên hệ mô hình lý
thuyết được rút ra nghiên cứu và sau đó, nghiên cứu sinh có điều chỉnh, bổ sung
nhằm đề nghị mô hình lý thuyết phù hợp với lĩnh vực doanh nghiệp thủy sản và các
yếu tố tác động đến phát triển bền vững doanh nghiệp thủy sản Bạc Liêu.
2.2 Khái niệm về phát triển bền vững
Các vấn đề phát triển bền vững là một trường phái tư tưởng - tương tác với
mối quan hệ giữa con người, các tổ chức xã hội và tự nhiên có thể được tìm thấy
trong lịch sử phát triển. Giới học thuật và chính trị chuyên ngành - ở cấp độ của các
mối quan hệ và các tổ chức quốc tế - bắt đầu để giải quyết vấn đề này trong thế kỷ
20, tại một thời điểm khi các vấn đề liên quan đến sự tăng trưởng của dân số, tăng
trưởng kinh tế và tăng cường sử dụng nguồn tài nguyên không tái tạo phát sinh.
Trong khi định nghĩa cho phép hướng đến nắm bắt được ý chính của khái
niệm phát triển bền vững. Nhìn chung, các nguyên tắc liên quan đến phát triển bền
vững đã được đề xuất trong những năm qua, mặc dù tất cả các nguyên tắc đưa ra
một cái nhìn tổng quan về khái niệm phát triển bền vững cụ thể như sau.
Khái niệm phát triển bền vững được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ
Báo cáo Brundtland của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới - WCED (nay là


Ủy ban Brundtland). Báo cáo này khái niệm: Phát triển bền vững là “Sự phát triển
có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến


27
những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”. Nói cách khác, phát
triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và
môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh
tế - xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp,... phải bắt tay nhau
thực hiện nhằm mục đích dung hòa 3 lĩnh vực chính: kinh tế - xã hội - môi trường.
Khái niệm này có chứa hai thành phần cơ bản:
i. Các thành phần của nhu cầu, đó là tập trung vào các bộ phận người nghèo
của thế giới có nhu cầu như là một ưu tiên
ii. Các thành phần của sản xuất bền vững và tiêu thụ được xác định bởi các
công nghệ được sử dụng và tổ chức của xã hội.
Theo Ngân hàng thế giới (The World Bank Group); Phát triển bền vững là
khám phá một số các thách thức xã hội, kinh tế và môi trường là một phần của phát
triển bền vững bằng cách làm việc thông qua các mô hình học tập. Đi sâu vào các
vấn đề mà người dân trên khắp thế giới phấn đấu để cân bằng khi ra quyết định
thường rất khó khăn về phát triển.
 Các khái niệm phát triển bền vững được tiếp cận ngoài nước
Valentin and Spangenberg (2000); Nguyên tắc phát triển bền vững được cấu
trúc xung quanh 4 mệnh chuyên đề (cho mỗi kích thước, tức là kinh tế, xã hội, môi
trường và thể chế) và 6 liên kết chuyên đề (cho mỗi chiều kết nối). Nhưng đến khái
niệm của McWilliams & Siegel (2001) chỉ tạp trung vào một khía cạnh nguồn tài
nguyên quý hiếm và khả năng dẫn đến lợi thế cạnh tranh. Như phát triển bền vững
có thể tạo thành một nguồn tài nguyên quý, hiếm (sáng tạo), và khó bắt chước hoặc
khả năng dẫn đến lợi thế cạnh tranh. Còn Becker (2005) lại đưa ra ba đặc điểm
chung (khả năng phục hồi, tự túc và hợp tác) phát triển bền vững. Như hệ thống
phát triển bền vững được cho là có ba đặc điểm chung (khả năng phục hồi, tự túc và

hợp tác) lần lượt được chia thành ba chỉ tiêu để tạo điều kiện đo lường.
 Các khái niệm phát triển bền vững được tiếp cận trong nước
Khái niệm “Phát triển bền vững” được biết đến ở Việt Nam về mặt học thuật,
thuật ngữ này được giới khoa học nước ta tiếp thu nhanh. Đã có hàng loạt công
trình nghiên cứu liên quan đến khái niệm phát triển bền vững phải kể đến là công
trình do giới nghiên cứu trong nước tiến hành như: Lê Thế Giới và nhóm tác giả (số
5, tr 40.2010) đưa ra quy trình phát triển bền vững được dựa trên thành quả của 4


28
thành tố căn bản của tính bền vững: bền vững sinh thái, bền vững kinh tế, bền vững
xã hội và bền vững thể chế. Nhưng đến Trần Anh Phương (VNH3.TB5.2010) đề
cập đến 4 vấn đề phát triển bền vững nhưng ở khía cạnh mở rộng hơn. Phát triển
bền vững trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam và những tác động chính trị - xã hội.
Đề cập đến 4 vấn đề đó là: (1) Phát triển bền vững là yêu cầu cấp bách và xu thế tất
yếu của toàn cầu; Việt Nam trong tiến trình hội nhập, phát triển đã và đang tích cực
hưởng ứng xu thế này; (2) Một số thành tựu nổi bật về phát triển bền vững trong
lĩnh vực kinh tế của Việt Nam trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua; (3) Một số tác
động chính trị - xã hội cơ bản từ thành tựu phát triển bền vững trong lĩnh vực kinh
tế của Việt Nam; (4) Nền kinh tế Việt Nam vẫn còn một số biểu hiện chưa bền vững
nhưng chúng ta có thể vượt qua và vững tin vào tương lai nếu có các giải pháp phát
triển đúng đắn, năng động. Theo Nguyễn Ngọc Trân (2011) lại đưa ra mô hình phát
triển bền vững, chỉ bền vững khi nó bảo đảm cùng một lúc tăng trưởng kinh tế, công
bằng và tiến bộ xã hội, và môi trường được bảo vệ. Tăng trưởng kinh tế, thỏa được
công bằng và tiến bộ xã hội nhưng môi trường suy thoái, cạn kiệt, sẽ không có được
phát triển bền vững. Tăng trưởng kinh tế, bảo vệ được môi trường nhưng xã hội bị
phân hóa giàu nghèo, bị phân tầng về giáo dục, về hưởng thụ văn hóa quá mức, phát
triển cũng sẽ không thể có ổn định để phát triển. Xã hội công bằng, kết quả của các
thành tựu được chia đều cho mọi người, môi trường được bảo vệ nhưng kinh tế
không tăng trưởng thì mô hình tồn tại được nhưng sẽ không lâu dài, đặc biệt trong

một thế giới cạnh tranh quyết liệt và ngày càng có nhiều giao lưu. Cơ sở lý luận và
thực tế để xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững ở Việt Nam hiện
nay (Nguyễn Sinh Cúc, số 3, 2012). Phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách và xu
thế tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Vì vậy đã được các quốc
gia trên thế giới đồng thuận xây dựng thành Chương trình nghị sự cho từng thời kỳ
phát triển của lịch sử.
Nhìn chung, phát triển bền vững từ các khái niệm trên chỉ đề cập ở cấp độ vĩ
mô, thường đề cập trên phạm vi tổng quát của quốc gia và chủ yếu đề cập đến ba trụ
cột là kinh tế, xã hội và môi trường. Phải phát triển bền vững về kinh tế, giữ vững
ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh
tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri


29
thức. Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hoà với phát triển văn hóa, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Phát triển kinh tế-xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ
động ứng phó với biến đổi khí hậu. Nước ta có điều kiện phát triển nhanh và yêu
cầu phát triển nhanh cũng đang đặt ra hết sức cấp thiết. Phát triển bền vững là cơ sở
để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát
triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và
chính sách phát triển kinh tế-xã hội (Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội Việt Nam
2011-2020).
Rõ ràng khái niệm phát triển bền vững được sử dụng trong và ngoài nước
như một con đường để khắc phục rào cản đối với những lời kêu gọi về một sự công
bằng xã hội rõ ràng hơn, và những nhu cầu liên quan đến những chính sách phát
triển thịnh hành, và là một phương tiện nhằm huy động sự trợ giúp của những nhóm
môi trường của các nước đang phát triển và các nước công nghiệp. Cùng lúc đó khái
niệm phát triển bền vững đã được các tổ chức như Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền

tệ quốc tế chấp nhận và được thể chế hóa cùng với cách thức mà chính các tổ chức
này đã sử dụng các xu thế phát triển truyền thống trước đây như nhu cầu cơ bản,
công nghệ thích hợp, tham gia vào phát triển. Như vậy, từ khái niệm phát triển bền
vững ở trên cho thấy phát triển bền vững ở cấp độ vĩ mô của một quốc gia.
Bảng 2.1: So sánh kết quả phát triển truyền thống và phát triển bền
vững ở cấp độ vĩ mô
Diễn giải
Mục tiêu

Hiệu quả

Phát triển truyền thống

Phát triển bền vững
Phát triển ổn định và lâu dài cần giải
quyết được 3 vấn đề trụ cột chính:
- Hiệu quả kinh tế
- Phát triển bền vững về kinh tế
- Công nghệ thích hợp
- Phát triển bền vững về xã hội
- Khai thác triệt để nguồn tài nguyên - Phát triển bền vững về môi trường
- Môi trường suy thoái, cạn kiệt
- Tăng trưởng kinh tế ổn định
- Xã hội bị phân hóa giàu nghèo, bị - Môi trường được bảo vệ
phân tầng về giáo dục
- Xã hội công bằng

Nguồn: tổng hợp từ nghiên cứu của Valentin and Spangenberg (2000), McWilliams
& Siegel (2001), Becker (2005) và Lê Thế Giới và nhóm tác giả (2010), Nguyễn Ngọc Trân
(2011), Nguyễn Sinh Cúc (2012)



30
Tóm lại, theo quan điểm của tác giả đề nghị: phát triển bền vững mang tính
khoa học và hoạt động phát triển bền vững không những đặt hiệu quả kinh tế mà
góp phần vào bảo vệ môi trường, giải quyết hài hòa giữa kinh tế và xã hội mới
hướng đến phát triển bền vững. Từ khái niệm phát triển bền vững ở cấp độ vĩ mô và
doanh nghiệp phù hợp các nguyên tắc của phát triển bền vững, chúng tôi hướng đến
tìm hiểu khái niệm phát triển bền vững ở cấp độ vi mô của doanh nghiệp.
2.3 Các nguyên tắc khái niệm phát triển bền vững phù hợp với phát triển bền
vững các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp ngày càng đóng góp rất đáng kể vào sự phát triển bền
vững của xã hội và trong nhiều thập kỷ qua, những nỗ lực để đạt được sự phát triển
bền vững có thể được nhìn thấy ngay cả trên cấp độ vi mô của các doanh nghiệp,
một khi các doanh nghiệp đã quyết định hướng phát triển bền vững hơn so với lợi
nhuận thuần túy, doanh nghiệp đề cập đến hiệu quả kinh doanh không chỉ về mặt
dịch vụ, sản phẩm được sản xuất và các lợi nhuận, mà còn về các hiệu ứng trên các
khía cạnh của con người và xã hội (Lilia Dvořáková, Jitka Zborková, 2014). Do đó,
điều cần thiết để thực hiện thay đổi trong cách tiếp cận truyền thống chuyển sang
cách tiếp cận theo xu hướng phát triển bền vững.
Trong trường hợp này, chúng ta cần thiết để phân biệt hai loại. Đầu tiên bao
gồm các doanh nghiệp phát triển theo truyền thống và các doanh nghiệp khác lại
chấp nhận phát triển bền vững. Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phù hợp với
nguyên tắc phát triển bền vững có nghĩa rằng doanh nghiệp đang trên con đường
hướng tới phát triển bền vững. Do đó sự phát triển bền vững là mục tiêu cuối cùng
của doanh nghiệp đang tìm kiếm. Khái niệm về phát triển bền vững có thể được vận
dụng trong phát triển doanh nghiệp trên cơ sở trách nhiệm của các khả năng liên kết
kinh tế, môi trường và xã hội.
Các doanh nghiệp bắt đầu nhận ra tầm quan trọng của một sự cân bằng giữa
các ưu tiên kinh tế, môi trường và xã hội. Để giữ cho phát triển bền vững, chúng ta

thực hiện các nguyên tắc phát triển bền vững vào các quá trình kinh doanh của
doanh nghiệp (khách hàng, chính phủ, các bên liên quan, xu hướng thị trường, an
sinh xã hội, nhân viên, chủ sở hữu/người quản lý, hiệu suất, lực lượng lao động, chủ
sở hữu/người quản lý, trách nhiệm sản phẩm, phòng chống ô nhiễm môi trường). Từ


31
đó, nghiên cứu sinh hướng đến tìm hiểu khái niệm phát triển bền vững doanh
nghiệp.
2.4 Khái niệm phát triển bền vững doanh nghiệp
Khái quát một số khái niệm về phát triển doanh nghiệp và hướng đến khái
niệm phát triển bền vững doanh nghiệp được thể hiện qua các nội dung sau:
Thứ nhất, khái niệm phát triển doanh nghiệp
Phát triển doanh nghiệp nhằm giúp cho các tổ chức trong việc đối phó với
môi trường bất ổn, cả trong nội bộ và bên ngoài doanh nghiệp, thường xuyên bằng
những nỗ lực để ứng phó thay đổi kế hoạch với môi trường bất ổn. Những nỗ lực
phát triển doanh nghiệp, cho dù được hỗ trợ bởi một chuyên gia bên ngoài hoặc tổ
chức chuyên nghiệp và tiến hành trên cơ sở liên tục, mang lại thay đổi kế hoạch
trong các tổ chức và các nhóm trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, chúng chỉ là một loại
thay đổi xảy ra trong các tổ chức, cho sự thay đổi có thể được cả hai kế hoạch và
không có kế hoạch và có thể xảy ra trong mọi chiều kích của môi trường kinh
doanh. Điển hình hai khái niệm phát triển doanh nghiệp.
Khan Atiqur Rahman (2004) cho rằng phát triển doanh nghiệp là ảnh hưởng
đến sự tăng trưởng của doanh nghiệp: thiếu các kỹ năng ở tất cả các cấp độ, thiếu tổ
chức công nghiệp, kích thước giới hạn của thị trường và tốc độ tăng trưởng thấp,
thiếu chính sách đúng đắn và mang tính xây dựng, trình độ công nghệ nghèo nàn.
Jahangir H. Khan (2012) phát triển doanh nghiệp là cách tiếp cận từ các phần
tử kết hợp bao gồm: kinh doanh, hỗ trợ tài chính, chính sách phù hợp và thể chế,
các mối liên kết, công nghệ phù hợp và mối quan hệ thị trường/nhu cầu cho các sản
phẩm.

Thứ hai, khái niệm phát triển bền vững doanh nghiệp
Theo Richard N. Andrews (2003). Mô hình bền vững doanh nghiệp (SEM)
cho rằng phát triển bền vững không chỉ là một vấn đề của hoạt động từ thiện, vị tha
và trách nhiệm đạo đức, nhưng một lợi ích chiến lược cốt lõi và cơ hội cho các
doanh nghiệp của mình. Richard N. Andrews còn mở rộng khái niệm “Một doanh
nghiệp bền vững là một doanh nghiệp tăng giá trị cho các cổ đông bằng cách đóng
góp nhiều hơn đối thủ cạnh tranh và trở thành các tiêu chí cho một doanh nghiệp


32
bền vững. Đóng góp cho phát triển bền vững từ yếu tố thành phần kinh tế, cung cấp
và cải thiện”.
Theo Bradley D. Parrish (2005); Phát triển bền vững doanh nghiệp có thể
được định nghĩa là một tổ chức góp phần phát triển bền vững, nơi “bền vững” được
hiểu như là một tương lai con người và “phát triển” được hiểu là một sự cải thiện
chất lượng trong điều kiện con người. Theo Jim Schorr (2006) lại đề xuất mô hình
mới cho phát triển bền vững: Lĩnh vực doanh nghiệp xã hội là ở một ngã tư; chúng
ta không thể mong đợi để hoạt động các doanh nghiệp hiện tại của chúng ta như là
trong dài hạn, vì vậy chúng ta phải tìm những giải pháp mới để phát triển bền vững
hoặc phải đối mặt với sự phá sản doanh nghiệp.
Phát triển doanh bền vững doanh nghiệp theo Parrish (2007) cho rằng doanh
nghiệp là một hệ thống xung quanh mà các bên liên quan cá nhân có liên quan và
hoạt động trong một hệ thống sinh thái - xã hội rộng lớn hơn. Các cá nhân, doanh
nghiệp và các hệ thống sinh thái - xã hội có tồn tại và mục đích nhu cầu. Các doanh
nghiệp bền vững tổ chức các hoạt động của mình để cả hai loại nhu cầu được đáp
ứng đồng thời cho các bên liên quan, tự các doanh nghiệp và hệ thống sinh thái-xã
hội.
Theo Quỹ châu Âu, Thiết kế phát triển bền vững doanh nghiệp nhỏ, cải thiện
sinh hoạt và điều kiện lao động: Phát triển bền vững doanh nghiệp là một doanh
nghiệp thúc đẩy cuộc sống bền vững thông qua bền vững sản xuất hàng hóa và dịch

vụ, cung cấp các giải pháp để hoàn thành các nhu cầu cơ bản để cải thiện đời sống
của người dân hiện tại và trong tương lai với tác động môi trường ít nhất có thể, sản
lượng kinh tế xã hội cao nhất có thể.
Sự thúc đẩy phát triển bền vững doanh nghiệp theo Báo cáo VI, Hội nghị
Lao động Quốc tế (2007): “Phát triển bền vững doanh nghiệp” có liên quan đến
cách tiếp cận chung để phát triển bền vững - các hình thức tiến bộ đáp ứng nhu cầu
hiện tại mà không ảnh hưởng đến khả năng của các thế hệ tương lai để đáp ứng nhu
cầu của họ - một cách tiếp cận được giả định quan điểm toàn diện, cân bằng và tích
hợp phát triển. Tuy nhiên, phát triển bền vững về nhiều hơn chỉ là vấn đề môi
trường, nó đòi hỏi sự tích hợp của tất cả ba trụ cột của phát triển - kinh tế, xã hội và
môi trường. Theo QU Feng geng (2007); Phát triển bền vững doanh nghiệp cần chú


33
trọng đến mối quan hệ năng lực ngành công nghiệp, công nghệ, năng lực phát triển
thể chế và thị trường và sự tương tác của chúng để thực hiện phát triển bền vững
của doanh nghiệp Trung Quốc. Để nhận ra sự phát triển bền vững của doanh
nghiệp, chúng ta phải chú trọng đến việc lựa chọn và định hướng công nghiệp, đổi
mới công nghệ, cải cách thể chế và bồi dưỡng năng lực phát triển thị trường, để tiến
tới hình thành hiệp lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống doanh nghiệp với sự trợ
giúp của hội nhập, kiến nghị tương tác hiệp lực của bốn năng lực như công nghiệp,
kỹ thuật, phát triển thể chế và thị trường, để nuôi dưỡng và khả năng phát triển bền
vững của doanh nghiệp liên tục.
Đối với doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh phát triển bền vững thì thuộc rất
nhiều lĩnh vực khác nhau về sản xuất, kinh doanh, theo Kris Law (2010) nghiên cứu
các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển bền vững các công ty công nghệ cao sản xuất
tại Đài Loan. Đối với lĩnh vực doanh nghiệp thủy sản cũng nằm trong khái niệm
chung về phát triển bền vững và các hoạt động đều đáp ứng nhu cầu của doanh
nghiệp, các bên liên quan trong việc bảo vệ môi trường, xã hội, trách nhiệm sản
phẩm, công tác an sinh xã hội và chính sách của nhà nước sẽ là cần thiết cho doanh

nghiệp trong tương lai. Kent Fairfield, Joel Harmon & Scott Behson (2011); Khái
niệm tích hợp phát triển bền vững doanh nghiệp là các mối liên kết giữa ảnh hưởng
bên ngoài và hạn chế nội bộ, quá trình điều khiển quyết định tính bền vững, cho
phép tổ chức cơ bản, phương thức bền vững và hiệu quả.
Chỉ số Dow Jones bền vững thế giới (DJSI) của Prabodha C. Acharya &
Sudipta Das (2013); Phát triển bền vững là khả năng của doanh nghiệp phát triển
thịnh vượng trong một môi trường kinh doanh toàn cầu siêu cạnh tranh và thay đổi.
Các doanh nghiệp dự đoán và quản lý các cơ hội và rủi ro kinh tế, môi trường, xã
hội hiện tại và tương lai bằng cách tập trung vào chất lượng, đổi mới và năng suất
sẽ nổi lên như các nhà lãnh đạo rằng có nhiều khả năng để tạo ra một lợi thế cạnh
tranh và giá trị các bên liên quan trong dài hạn. Còn nghiên cứu Parisa Salimzadeh,
Jerry Courvisanos and Raveendranath Ravi Nayak (2013) đưa ra mô hình lý thuyết
phát triển bền vững doanh nghiệp nhỏ và vừa của Úc, kết quả nhóm hai yếu tố bên
trong và yếu tố bên ngoài doanh nghiệp.


34
Như vậy, trái ngược với quan điểm hẹp, quan điểm phát triển doanh nghiệp
truyền thống đã miêu tả về các mối quan hệ đầu vào - đầu ra tuyến tính đã tập trung
hoàn toàn vào việc tối đa hóa giá trị kinh tế ngắn hạn, xuất hiện một cách tiếp cận
mới tích hợp để phát triển bền vững doanh nghiệp có một cái nhìn toàn diện hơn và
lâu dài. Cam kết phát triển bền vững là một trong những đặc điểm nổi bật của nền
kinh tế hiện đại. Các doanh nghiệp phải tham gia vào các hoạt động bền vững để
được tồn tại trong nền kinh tế hiện đại. Họ cần phải thực hiện các nguyên tắc kinh
doanh bền vững trong hoạt động hàng ngày của họ để giảm chi phí, quản lý rủi ro,
phát triển sản phẩm và dịch vụ, cải thiện cơ sở hạ tầng kinh doanh và cấu trúc
(Azapagic, 2003). Phát triển bền vững doanh nghiệp có thể hoạt động như một công
cụ để tạo thuận lợi cho sự chuyển đổi của truyền thống sang hiện đại.
Bảng 2.2: So sánh kết quả phát triển doanh nghiệp truyền thống và phát
triển bền vững doanh nghiệp

Diễn giải

Mục tiêu

Hiệu quả

Phát triển doanh nghiệp
truyền thống

Phát triển bền vững doanh nghiệp

- Sự bền vững là mục tiêu cuối cùng
- Khai thác triệt để nguồn lực
của phát triển doanh nghiệp
- Hiệu quả kinh doanh
- Trách nhiệm với xã hội
- Lợi nhuận cuối cùng
- Trách nhiệm với môi trường
- Hiệu quả kinh doanh là cuối - Tăng trưởng ổn định và bền vững
cùng
- Bảo vệ được môi trường
- Lợi nhuận là chính
- Cộng đồng xã hội được quan tâm

Nguồn: tổng hợp từ nghiên cứu Khan Atiqur Rahman (2004), Jahangir H.
Khan (2012) và Richard N. Andrews (2003), Bradley D. Parrish (2005), Parrish
(2007), Kris Law (2010), Kent Fairfield, Joel Harmon & Scott Behson (2011),
Parisa Salimzadeh, Jerry Courvisanos and Raveendranath Ravi Nayak (2013).
Theo quan điểm của nghiên cứu sinh về phát triển bền vững ở cấp độ vi mô
của doanh nghiệp được đề nghị như sau: “phát triển bền vững là khả năng doanh

nghiệp giải quyết mối quan hệ bởi các yếu tố môi trường bên trong và môi trường
bên ngoài tác động đến phát triển bền vững doanh nghiệp”. Yếu tố bên trong (Lực
lượng lao động; Chủ sở hữu (người quản lý); Trách nhiệm sản phẩm; Phòng chống
ô nhiễm môi trường); Yếu tố bên ngoài (Khách hàng; Xu hướng thị trường; Thiếu
nhu cầu các bên liên quan; Chính sách hỗ trợ nhà nước và An sinh xã hội). Nhằm


35
hướng đến vận dụng khái niệm phát triển bền vững ở cấp độ vi mô của doanh
nghiệp vào nghiên cứu lĩnh vực doanh nghiệp thủy sản tại tỉnh Bạc Liêu.
2.5 Cách tiếp cận mô hình lý thuyết phát triển bền vững doanh nghiệp
Cơ sở tiếp cận các mô hình lý thuyết nhằm góp phần đánh giá một cách toàn
diện hơn khía cạnh phát triển bền vững trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của
các doanh nghiệp, nghiên cứu sinh xin giới thiệu tóm tắt các công trình nghiên cứu,
các bộ tiêu chí được sử dụng rộng rãi trên thế giới có liên quan đến luận án. Bởi
ngay từ đầu, khi định hướng nghiên cứu của nghiên cứu sinh là theo nghiên cứu ứng
dụng với mục tiêu ứng dụng lý thuyết và mô hình nghiên cứu vào thực tế, kết quả là
dựa trên lý thuyết đưa ra hàm ý cho phát triển bền vững doanh nghiệp thủy sản tỉnh
Bạc Liêu. Các mô hình lý thuyết có liên quan đến luận án như sau:
Theo nghiên cứu của Richard N. Andrews (2003) đề xuất mô hình lý thuyết
phát triển bền vững doanh nghiệp: Những ảnh hưởng tài chính quốc tế và đầu tư,
kết quả cho thấy mô hình bền vững doanh nghiệp cung cấp một tập sáng tạo của các
mệnh đề như thế nào các doanh nghiệp kinh doanh có thể tạo ra lực lượng năng
động hướng tới một xã hội bền vững hơn. Đây được xem là một bước đầu tiên
nghiên cứu về lĩnh vực bền vững doanh nghiệp, kết quả hữu ích sẽ được hỗ trợ cho
các sáng kiến báo cáo hàng năm bắt buộc và so sánh các tác động về kinh tế, xã hội
và môi trường của tất cả các công ty giao dịch công khai; Bước thứ hai sẽ được triệu
tập thảo luận giữa các nhà lãnh đạo phát triển bền vững trong cộng đồng tài chính
quốc tế và đầu tư riêng của mình, để xác định điểm đòn bẩy hứa hẹn nhất, phù hợp
với giới thiệu tiêu chuẩn bền vững một cách rõ ràng hơn vào tài chính và quyết định

đầu tư; Thứ ba, cộng đồng tài chính và đầu tư có thể nói ra với một tiếng nói chung
đối với các khoản trợ cấp, giảm thuế, các ưu đãi khác của chính phủ làm bóp méo
thị trường tài chính và đầu tư đối với phát triển bền vững, chẳng hạn như những ưu
đãi các nhiên liệu hóa thạch, kinh doanh nông nghiệp và công nghiệp khai khoáng
khác; Cuối cùng, một bước thứ tư sẽ là một sáng kiến rất cơ bản hơn, các nhà lãnh
đạo của cộng đồng tài chính và đầu tư, thiết kế cơ chế cho việc giúp đỡ người nghèo
tham gia một cách công bằng, bền vững hơn trong cả sản xuất và sử dụng sự giàu có
của thế giới. Điều này cho thấy, kết quả nghiên cứu Richard N. Andrews được xem
là tiền đề cho các nghiên cứu tiếp theo về sự phát triển bền vững doanh nghiệp. Đối


36
với nghiên cứu về phát triển bền vững doanh nghiệp: Ứng dụng với lý thuyết hiệp
lực (QU Feng geng 2007) kết quả nghiên cứu phát triển bền vững doanh nghiệp cần
chú trọng đến mối quan hệ năng lực ngành công nghiệp, công nghệ, năng lực phát
triển thể chế, thị trường và sự tương tác của chúng để thực hiện phát triển bền vững
của doanh nghiệp Trung Quốc. Đối với nghiên cứu của Joel Harmon, Kent D.
Fairfield, Scott Behson (2009) thì đề xuất mô hình lý thuyết: “Một phân tích so
sánh của chiến lược phát triển bền vững doanh nghiệp (tổ chức): Những tiền đề và
hiệu suất kết quả nhận thức của người Mỹ và người quản lý không phải Mỹ”. Kết
quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố mô tả các mối tương quan giữa các biện pháp
được sử dụng trong nghiên cứu này như: Thực tiễn phát triển bền vững; Tiến trình
điều khiển bền vững; Khởi động thực hiện; Các chất hạn chế bền vững; Cải thiện
hiệu suất.
Như vậy có thể thấy, kết quả cung cấp hỗ trợ cho kỳ vọng của nghiên cứu
rằng: (a) Phương thức bền vững đang tích cực liên quan đến cải thiện hiệu suất công
ty; (b) Khởi động thực hiện được tích cực liên quan đến việc thực hiện phương thức
bền vững; (c) Các điều khiển ra quyết định bền vững đang tích cực liên quan đến cả
hai khởi động thực hiện và phương thức bền vững, và (d) Các chất hạn chế để phát
triển bền vững của công ty có liên quan đến tiêu cực với điều khiển bền vững, khởi

động và thực tiễn phát triển bền vững. Từ đó, mối liên hệ tiếp cân các mô hình lý
thuyết phát triển bền vững doanh nghiệp được nghiên cứu và rút ra từ ba mô hình lý
thuyết phát triển bền vững doanh nghiệp cụ thể như sau.
2.5.1 Mô hình lý thuyết các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển bền vững doanh
nghiệp công nghệ sản xuất cao tại Đài Loan
Theo Kris Law, 2010 đề xuất mô hình lý thuyết và kết quả nghiên cứu các
yếu tố ảnh hưởng đến phát triển bền vững doanh nghiệp: Các doanh nghiệp công
nghệ sản xuất cao tại Đài Loan. Kết quả cho thấy rằng các công ty sản xuất công
nghệ cao công nhận tích cực thúc đẩy ảnh hưởng của các yếu tố phát triển bền vững
từ quản lý, nội bộ và bên ngoài doanh nghiệp. Mô hình đề xuất nghiên cứu các yếu
tố quan trọng ảnh hưởng đến việc áp dụng các nguyên tắc phát triển bền vững. Các
yếu tố nội bộ (bên trong): Hệ thống; Các biện pháp; Nhu cầu để thúc đẩy; Nâng cao


37
hiệu suất. Các yếu tố bên ngoài: Luật, quy định; Áp lực xã hội; Xu hướng thị
trường; Cạnh tranh.
Các yếu tố thúc đẩy có thể ảnh hưởng đến quản lý phát triển bền vững doanh
nghiệp như một phần của kế hoạch chiến lược của mình bằng cách đầu tư đủ nguồn
lực. Vì vậy, mô hình đưa ra giả thuyết sau:

Yếu tố thúc đẩy (MIE)
Quản lý
- Chiến lược/chính sách
- Tư duy

-

Các yếu tố nội bộ
Hệ thống;

Các biện pháp;
Nhu cầu để thúc đẩy;
Nâng cao hiệu suất

-

Các yếu tố bên ngoài
Luật, quy định;
Áp lực xã hội;
Xu hướng thị trường;
Cạnh tranh

Sẵn sàng để áp dụng chiến lược
phát triển bền vững
Quản lý và các biện pháp

Phát triển bền vững
Phát
triển
bền vững
doanh
nghiệp
doanh nghiệp

Mô hình 2.1: Các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc áp dụng phát triển
bền vững doanh nghiệp
Nguồn: Trích từ Kris M. Y. Law, 2010
Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng các doanh nghiệp sản xuất công nghệ cao
công nhận tích cực thúc đẩy ảnh hưởng của các yếu tố phát triển bền vững doanh
nghiệp từ yếu tố quản lý, các yếu tố nội bộ và yếu tố bên ngoài, trong khi quản

lý/chủ sở hữu doanh nghiệp cảm nhận được mức độ sẵn sàng phát triển bền vững
chỉ ở mức hợp lý. Điều này chứng minh cho giả thuyết (H1): Có một mối tương
quan giữa các yếu tố tạo động lực (động lực từ quản lý) và sự sẵn sàng của người
quản lý doanh nghiệp. Các doanh nghiệp công nghệ cao nhận thức của sự phát triển
bền vững, và họ thường đánh giá cao các yếu tố nội bộ như động cơ thúc đẩy. Các
kết quả hơn nữa biện minh cho giả thuyết thiết lập trước đó (H2): Có một mối tương
quan giữa các yếu tố tạo động lực và sự sẵn sàng phát triển bền vững của các doanh
nghiệp công nghệ cao.


38
Đánh giá chung mô hình lý thuyết các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển bền
vững doanh nghiệp: Các doanh nghiệp công nghệ cao sản xuất tại Đài Loan. Kết
quả nghiên cứu cho thấy các doanh nghiệp công nghệ cao Đài Loan đang hướng đến
sự phát triển bền vững. Tóm tắt các yếu tố thúc đẩy thông qua phát triển bền vững
“các yếu tố bên trong” cho giá trị cao nhất trong khi “quản lý” và “yếu tố bên
ngoài” là tương đối thấp hơn. Điều này có thể được hiểu là các nhận thức về phát
triển bền vững được chủ yếu là do các biện pháp hỗ trợ và cơ sở hạ tầng. Trong số
các biến quan được liệt kê dưới “yếu tố bên trong” thể hiện như: Hỗ trợ tài chính
đầy đủ, Kiến thức và chuyên môn, nhu cầu để nâng cao uy tín được coi là các yếu tố
thúc đẩy phát triển bền vững doanh nghiệp nhất.
Tuy nhiên, mô hình lý thuyết này tập trung vào nghiên cứu các doanh nghiệp
công nghệ cao của Đài Loan, nếu vận dụng mô hình này vào nghiên cứu các doanh
nghiệp ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long hoặc doanh nghiệp ở một địa phương
trong khu vực là không phù hợp. Do các doanh nghiệp ở các tỉnh trong khu vực chỉ
tập trung sản xuất, kinh doanh một số mặt hàng nuôi trồng thủy sản, chế biến thủy
sản xuất khẩu,… Khi vận dụng mô hình lý thuyết phát triển bền vững doanh nghiệp
sản xuất công nghệ cao tại Đài Loan sẽ không phù hợp cho nghiên cứu phát triển
bền vững doanh nghiệp thủy sản tỉnh Bạc Liêu. Nhưng một số yếu tố bên trong và
bên ngoài doanh nghiệp có thể phù hợp mở rộng cho nghiên cứu phát triển bền

vững doanh nghiệp thủy sản tỉnh Bạc Liêu. Như vậy, nghiên cứu sinh hướng đến
tìm hiểu mô hình lý thuyết thứ hai.
5.2.2 Mô hình lý thuyết hợp nhất việc thực hiện của các tổ chức ảnh hưởng đến
phát triển bền vững doanh nghiệp
Tiếp cận các công trình nghiên cứu và đề xuất về mô hình lý thuyết. Theo kết
quả nghiên cứu của Sarah Elena Windolph (2011) thì đề xuất mô hình lý thuyết
“Đánh giá phát triển bền vững của doanh nghiệp thông qua xếp hạng: những thách
thức và nguyên nhân của chúng”. Nguyên nhân của những thách thức và xác định ai
trong số họ là độc quyền đánh giá cụ thể. Kết quả nghiên cứu cho rằng xếp hạng là
một cách tiếp cận phù hợp để đánh giá phát triển bền vững của công ty, nhưng các
bước nhất định phải được thực hiện để tăng độ tin cậy của họ thông qua kết quả
nghiên cứu: Đo lường của công ty phát triển bền vững, đánh giá tính bền vững của


39
doanh nghiệp, xếp hạng, xã hội, đầu tư chịu trách nhiệm (SRI). Nhưng đối với
nghiên cứu của (Christine Byrch, Professor Markus J. Milne, Professor Richard K.
Morgan, Professor Kate Kearins, 2011) lại đề xuất mô hình lý thuyết “liên quan ý
nghĩa của phát triển bền vững doanh nghiệp để thực hành kinh doanh”. Kết quả
nghiên cứu phản ứng doanh nghiệp để phát triển bền vững đã ở một số khu, được
đánh giá tích cực, có một nền văn hóa mở rộng và mở rộng mô tả những gì có nghĩa
là phát triển bền vững cho doanh nghiệp, làm thế nào cần được thực hiện, làm thế
nào nó đã được thực hiện thông qua năm yếu tố như: xã hội; chủ nghĩa cá nhân ;
sinh thái học ; hiê ̣n thực ; tương lai học. Tuy nhiên, việc thực hiện phát triển bền
vững của doanh nghiệp đã được đơn giản, hầu hết các hoạt động trong báo cáo này
là các dự án mà lợi nhuận tài chính đã được thực hiện từ sáng kiến môi trường, phản
ánh một con người quá yếu hoặc quan điểm đòi hỏi ít hoặc cải cách thay đổi hiện
trạng. Nhưng năm 2012 cũng có một công trình nghiên cứu của Stefan Schaltegger;
Christian Herzig; Oliver Kleiber; Jan Müller (2012) đề xuất mô hình lý thuyết “tầm
nhìn của phát triển bền vững bao trùm ba chiều - các khía cạnh kinh tế, sinh thái và

xã hội - và tìm cách tích hợp chúng”. Mục tiêu phát triển bền vững đối mặt với các
doanh nghiệp kinh doanh với bốn thách thức phát triển bền vững: (1) Thách thức
sinh thái: tăng hiệu quả sinh thái; (2) Thách thức xã hội: tăng hiệu quả xã hội; (3)
Thách thức kinh tế để quản lý môi trường và xã hội: nâng cao hiệu quả sinh thái
hoặc xã hội tính hiệu quả; (4) Thách thức hội nhập: cùng nhau đưa ba thách thức
đầu tiên và tích hợp môi trường và xã hội quản lý trong quản lý kinh tế theo định
hướng thông thường. Nhưng các công trình này cho thấy chưa phù hợp khi vận
dụng vào nghiên cứu lĩnh vực phát triển bền vững doanh nghiệp thủy sản tại tỉnh
Bạc Liêu. Riêng đối với Kent Fairfield, Joel Harmon & Scott Behson (2011) đã kế
thừa mô hình nghiên cứu của Joel Harmon (2009) để mở rộng mô hình lý thuyết
“Việc thực hiện của các tổ chức ảnh hưởng đến phát triển bền vững doanh nghiệp:
một mô hình hợp nhất”. Tích hợp doanh nghiệp bền vững là các mối liên kết giữa
ảnh hưởng bên ngoài doanh nghiệp, quá trình điều khiển quyết định tính bền vững,
cho phép tổ chức cơ bản, các hạn chế nội bộ (bên trong doanh nghiệp), phương thức
bền vững và hiệu suất phát triển bền vững doanh nghiệp. Bắt đầu từ mô hình, dự
kiến rằng việc sử dụng rộng rãi hơn của môi trường và xã hội phương thức bền
vững chịu trách nhiệm sẽ mang lại cải thiện hiệu suất lớn hơn. Kỳ vọng này dựa


40
trên các bằng chứng tích cực từ các nghiên cứu phát triển bền vững doanh nghiệp
(Mô hình 2.2). Như vậy, mô hình lý thuyết và kết quả kiểm định đạt như sau:
1) Tổ chức thực hiện phương thức bền vững ở mức độ nhiều sẽ chứng minh cải
thiện hiệu suất tốt hơn so với không thực hiện phương thức phát triển bền
vững.
2) Các tổ chức thực hiện các vấn đề phát triển bền vững là tiến trình điều khiển
quyết định quan trọng hơn sẽ thực hiện phương thức bền vững mở rộng hơn
so với các tổ chức mà họ không thực hiện.
3) Các hạn chế nội bộ doanh nghiệp sẽ có tác động tiêu cực đến việc thực hiện
các phương thức phát triển bền vững, trực tiếp và gián tiếp làm suy yếu cộng

với tiến trình điều khiển quyết định.
4) Cho phép nền tảng mạnh sẽ ảnh hưởng tích cực thực hiện các phương thức
bền vững, trực tiếp cộng gián tiếp bằng cách tăng cường tiến trình điều khiển
quyết định và giảm dần các hạn chế nội bộ.
5) Các tổ chức thực hiện phương thức bền vững thông qua ảnh hưởng đến mức
độ tác động tích cực hay tiêu cực của họ trên khả năng nền tảng tổ chức,
trình điều khiển quyết định và các hạn chế nội bộ doanh nghiệp.
Quyết định điều khiển:
Quyết định điều khiển:
Các vấn đề hoạt động môi trường;
Các vấn đề hoạt động môi trường;
Ngoài các bên liên quan / vấn đề thị
Ngoài các bên liên quan / vấn đề thị
trường; Lực lượng lao động;
trường; Lực lượng lao động;
Danh tiếng/Sáng tạo/tuân thủ các vấn
Danh tiếng/Sáng tạo/tuân thủ các vấn
đề.
đề.

Những
Nhữngảnh
ảnh
hưởng
hưởngtừtừbên
bênngoài:
ngoài:
Thiếu
nhu
cầu

các
Thiếu nhu cầu cácbên
bênliên
liên
quan;
Bất
lợi
cạnh
quan; Bất lợi cạnhtranh
tranh

Khả
Khảnăng
năngnền
nềntảng:
tảng:
Trung
Trungtâm
tâmtrong
trongchiến
chiếnlược
lượckinh
kinh
doanh;
Quản

hỗ
trợ
doanh; Quản lý hỗ trợhàng
hàngđầu;

đầu;
Giá
trị
Giá trị

Thực
Thựchành:
hành:
Tích
Tíchhợp;
hợp;Hiệu
Hiệuquả
quảsinh
sinhthái;
thái;
Nhân
viên/đạo
đức;
Nhân viên/đạo đức;cải
cảithiện
thiệnnhận
nhận
thức
thức

Hiệu suất
Hiệu suất
phát triển bền vững:
phát triển bền vững:
Tăng trưởng doanh thu của doanh

Tăng trưởng doanh thu của doanh
nghiệp; Lợi nhuận của doanh nghiệp;
nghiệp; Lợi nhuận của doanh nghiệp;
Thị phần của doanh nghiệp;
Thị phần của doanh nghiệp;
Sự hài lòng khách hàng của
Sự hài lòng khách hàng của
doanh nghiệp
doanh nghiệp

Các
Cáchạn
hạnchế
chếnội
nộibộ
bộ

Mô hình 2.2: Mô hình khái niệm liên kết tất cả các biến tác động đến phát
triển bền vững doanh nghiệp trong nghiên cứu.


41
Nguồn: từ Kent Fairfield, Joel Harmon & Scott Behson, 2011
Kết quả nghiên cứu của mô hình tích hợp phát triển bền vững doanh nghiệp
xuất hiện để mở rộng những gì các nhà nghiên cứu trước đây đã thực hiện, bởi tập
hợp chủ yếu là các dòng lý thuyết khác nhau và kết quả thực hiện được kết nối liên
quan đến tiền đề phát triển bền vững doanh nghiệp. Đặc biệt, mô hình lý thuyết giúp
cho chúng ta thấy rõ hơn tác động trực tiếp và gián tiếp chung về việc thực hiện các
phương thức phát triển bền vững doanh nghiệp ảnh hưởng từ các yếu tố bên trong
và bên ngoài doanh nghiệp. Mô hình lý thuyết có kết quả nghiên cứu phù hợp với

các dữ liệu và chứng minh giá trị tiên đoán trong các yếu tố dự báo của mô hình.
Quan trọng nhất, mô hình tích hợp này có thể được sử dụng như một hướng dẫn cho
các nghiên cứu trong tương lai về kinh doanh, lãnh đạo, và các vấn đề ra quyết định
có thể ảnh hưởng đến việc xây dựng thành công và thực hiện phát triển bền vững
doanh nghiệp. Ngoài ra, mô hình lý thuyết này được nghiên cứu tập trung chủ yếu
từ các công ty đa quốc gia, công ty xuyên quốc gia và các công ty lớn ở Mỹ. Khi xét
về quy mô, trình độ phát triển doanh nghiệp ở Mỹ sẽ khác xa đối với quy mô và
trình độ phát triển doanh nghiệp ở Việt Nam, doanh nghiệp ở Việt Nam phần lớn là
các loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm trên 97% (Cục Phát triển doanh
nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2011). Nếu vận dụng mô hình lý thuyết hợp nhất
việc thực hiện của các tổ chức ảnh hưởng đến phát triển bền vững doanh nghiệp ở
Mỹ vào nghiên cứu các doanh nghiệp ở Việt Nam sẽ tìm ẩn nhiều rủi ro, không phù
hợp về quy mô và trình độ phát triển doanh nghiệp. Nhưng có một số yếu tố bên
trong và bên ngoài doanh nghiệp nếu được điều chỉnh, vận dụng vào nghiên cứu các
doanh nghiệp ở Việt Nam sẽ phù hợp, như điển hình nghiên cứu các yếu tố phát
triển bền vững doanh nghiệp thủy sản tại tỉnh Bạc Liêu. Tiếp theo nghiên cứu sinh
trình bày sơ lược mô hình lý thuyết thứ ba sẽ vận dụng vào nghiên cứu phát triển
bền vững doanh nghiệp thủy sản tỉnh Bạc Liêu.
5.2.3 Mô hình lý thuyết phát triển bền vững trong doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
khu vực Australia
Trước hết, tìm hiểu một số mô hình lý thuyết được nghiên cứu trong năm
2013, các công trình nghiên cứu được xem là điển hình nhất và được mở rộng hơn ở
lĩnh vực nghiên cứu về phát triển bền vững doanh nghiệp như: Prabodha Acharya &


42
Sudipta Das (2013) công bố “Chỉ số Dow Jones bền vững thế giới (DJSI)” theo chỉ
số DJSI sử dụng một cách tiếp cận tốt nhất để lựa chọn các nhà lãnh đạo từ trên tất
cả các ngành công nghiệp dựa trên tiêu chuẩn bền vững để đánh giá doanh nghiệp
phát triển bền vững thông qua 6 yếu tố: 1. Kinh tế (tình hình kinh tế, hiện diện thị

trường, tác động kinh tế); 2. Môi trường (tài liệu; năng lượng; nước; đa dạng sinh
học; thải, nước thải và phế thải; sản phẩm & dịch vụ; tuân thủ luật); 3. Xã hội (việc
làm; những quan hệ lao động/quản lý; sức khỏe & an toàn; đào tạo và giáo dục); 4.
Nhân quyền (đầu tư và mua sắm thực hành; không phân biệt; tự do hội và thương
lượng tập; lao động trẻ em; cưỡng bức và bắt buộc lao động); 5. Sự giao thiệp (cộng
đồng; tham nhũng; chính sách công; tuân thủ); 6. Trách nhiệm sản phẩm (sức khỏe
khách hàng và an toàn; sản phẩm và dịch vụ dán nhãn; truyền thông tiếp thị; tuân
thủ). Theo Maurizio Zollo (2013) thì lại nghiên cứu ở một khía cạnh khác và đề
xuất mô hình lý thuyết như: “Sau cái gì và tại sao: Sự hiểu biết tiến triển tổ chức đối
với mô hình phát triển bền vững doanh nghiệp”, kết quả sự hiểu biết của các tổ chức
doanh nghiệp, từ cách chuyển đổi sang doanh nghiệp bền vững hơn mô hình đòi hỏi
việc xác định các sáng kiến mà qua đó sự thay đổi xảy ra nhằm đạt được nguyện
vọng thực hiện ở cấp độ kinh tế, xã hội và môi trường. Sáng kiến thay đổi là lần đầu
tiên phân tích về một số thuộc tính lý thuyết quan trọng. Như mức độ sâu mà các nỗ
lực thay đổi nhằm mục đích để đạt được các yếu tố tinh tế nhất và cơ bản của doanh
nghiệp, chẳng hạn như mục đích chia sẻ, chứ không phải là hạn chế tham vọng của
mình đến các yếu tố sắp xếp cấu trúc (như việc tạo ra một bộ phận phát triển bền
vững) hoặc hiện vật mang tính biểu tượng (như: báo cáo phát triển bền vững doanh
nghiệp). Riêng công trình nghiên cứu của Parisa Salimzadeh, Jerry Courvisanos and
Raveendranath Ravi Nayak (2013) đưa ra khung lý thuyết nghiên cứu “Phát triển
bền vững trong doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực Australia: Một khung phân
tích”, kết quả nhóm hai yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài doanh nghiệp. Ngoài
ra, kết quả nghiên cứu cho thấy các mối quan hệ giữa phát triển bền vững doanh
nghiệp và những yếu tố này thách thức phải đối mặt trong việc ứng dụng các
nguyên tắc phát triển bền vững. Các sức mạnh và tầm quan trọng của các mối quan
hệ tiềm năng cũng sẽ được điều tra thực tế từ doanh nghiệp. Hơn nữa, dựa trên mô
hình lý thuyết, các doanh nghiệp sẽ được xếp hạng theo cam kết của doanh nghiệp


43

với phát triển bền vững cũng như tương đồng và khác biệt của doanh nghiệp về tính
bền vững.
Mô hình lý thuyết phát triển bền vững trong doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu
vực Australia của Parisa Salimzadeh, Jerry Courvisanos and Raveendranath Ravi
Nayak (2013) được xem là mô hình thuyết phát triển bền vững doanh nghiệp hoàn
chỉnh hơn và phù hợp tình hình phát triển doanh nghiệp như ở Việt Nam, phần lớn
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam chiếm trên 97%, đồng thời cũng phù hợp hơn
so với mô hình lý thuyết của Kris M. Y. Law (2010) và Kent Fairfield, Joel Harmon
& Scott Behson (2011). Cách tiếp cận mô hình này cũng được xem là mô hình nền
tảng của nghiên cứu trong luận án, nhưng nghiên cứu sinh có kế thừa các yếu tố,
điều chỉnh và bổ sung mới từ mô hình lý thuyết của Parisa Salimzadeh, Jerry
Courvisanos and Raveendranath Ravi Nayak (2013).
Yếu tố bên trong (nội bộ)

Hiệu suất

- Sự công bố của báo cáo
- Các biện pháp đánh giá tích hợp
- Đào tạo về môi trường
- Hiệu quả dử đụng tài nguyên

Nhân viên

- Quản lý nguồn nhân lực
- Trao quyền nhân viên
- Làm việc theo nhóm và hệ thống
khen thưởng
- Nhân viên tín ngưỡng

Chủ sở hữu/người

quản lý
- Mức độ hiểu biết và kinh nghiệm
- Cung cấp các điều kiện an toàn
- Chi phí thực hiện
- Chủ sở hữu/người quản lý niềm tin
- Động lực

Phát triển bền vững trong
doanh nghiệp nhỏ và vừa
của Úc

- Công cụ đánh giá
- Tiêu chuẩn
- Quy trình

Chính phủ

- Áp lực khách hàng
- Xây dựng thương hiệu
- Giá trị thương hiệu

Khách hàng

- Tham gia của các bên liên
quan

Các bên liên quan

Yếu tố bên ngoài


Mô hình 2.3: Khung lý thuyết phát triển bền vững doanh nghiệp nhỏ và vừa
của Úc


44
Nguồn: Trích từ Parisa Salimzadeh, Jerry Courvisanos and Raveendranath
Ravi Nayak, 2013
Nhìn chung, ba mô hình lý thuyết và kết quả kiểm định mô hình ở trên liên
quan đến phát triển bền vững doanh nghiệp, nghiên cứu sinh kế thừa và khám phá,
rút ra một số nhận xét từ những vấn đề có liên quan đến các yếu tố ảnh hưởng và
mối quan hệ đến phát triển bền vững doanh nghiệp để làm nền tảng cho nghiên cứu
tiếp theo của mình.
Do đó, xét về tính đặc thù ở các thị trường có nền kinh tế mới chuyển đổi
như Việt Nam; nền kinh tế thị trường có cấu trúc đa sở hữu. Các chủ thể sở hữu và
các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường là độc lập và bình đẳng với nhau
trước pháp luật, cả trong hoạt động kinh doanh. Nhưng mỗi hình thức sở hữu và
mỗi chủ thể sở hữu lại có vai trò, vị thế và chức năng đặc thù trong sự vận hành của
nền kinh tế thị trường. Khi vận dụng mô hình nghiên cứu có sẵn cần phải chọn lộc
những kết quả nào phù hợp với đặc điểm tình hình phát triển kinh tế của Việt Nam.
Cụ thể áp dụng vào nghiên cứu các yếu tố bên ngoài và bên trong tác động đến phát
triển bền vững doanh nghiệp ở một địa phương, sau đó sàn lộc lại các yếu tố để làm
nền tảng cho nghiên cứu phát triển bền vững doanh nghiệp thủy sản, đặc biệt nghiên
cứu sinh tiến hành nghiên cứu phạm vi thu hẹp lại đối với những doanh nghiệp
thuộc lĩnh vực sản xuất, chế biến và kinh doanh xuất khẩu thủy sản tại tỉnh Bạc
Liêu.
Như vậy, qua một số gợi ý và những vấn đề còn hạn chế trong nghiên cứu
cần được mở rộng phạm vi mô hình lý thuyết phát triển bền vững doanh nghiệp
nhằm để tổng quát lý thuyết hơn, cùng với các đề tài đã nghiên cứu ở nhiều khía
cạnh khác nhau có liên quan đến lĩnh vực phát triển bền vững doanh nghiệp. Bảng
2.3 Tóm tắt tiếp cận các yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài tác động đến phát

triển bền vững doanh nghiệp.
Một số chủ đề gợi ý thực hiện nghiên cứu tiếp theo: Các yếu tố tác động đến
phát triển bền vững doanh nghiệp thủy sản và một tầm nhìn chung của mô hình phát
triển bền vững doanh nghiệp. Việc vận dụng của cả hai yếu tố bên ngoài và bên
trong doanh nghiệp tác động đến việc thực hiện phát triển bền vững doanh nghiệp


45
thủy sản Bạc Liêu còn liên quan đến khuyến khích các hoạt động thân thiện với môi
trường.
Bảng 2.3: Tóm tắt tiếp cận các yếu tố tác động đến phát triển bền vững
doanh nghiệp
Tả giả

Yếu
tố 1

Yếu
tố 2





Yếu
tố 3

Yếu
tố 4


Yếu
tố 5

Yếu
tố 6

Yếu
tố 7

Robert, Hart (1995)
Jun Ma (2012), Kris Law
(2010)
Kent, Joel, Scott (2011)



Joel Harmon (2009)














Lou, Helmut (2013)
Parisa, Jerry and
Raveendranath (2013)

Yếu Yếu
tố 8 tố 9













Nguồn: tổng hợp nghiên cứu của tác giả
Ghi chú các yếu tố: yếu tố 1 (Khách hàng), yếu tố 2 (Xu hướng thị trường),
yếu tố 3 (Thiếu nhu cầu các bên liên quan), yếu tố 4 (Chính sách hỗ trợ nhà nước),
yếu tố 5 (An sinh xã hội), yếu tố 6 (Lực lượng lao động/nhiên viên), yếu tố 7 (Người
quản lý/Chủ sở hữu), yếu tố 8 (Trách nhiệm sản phẩm), yếu tố 9 (Phòng chống ô
nhiễm môi trường).
2.6 Sự hình thành mô hình lý thuyết đề nghị phát triển bền vững các doanh
nghiệp thủy sản Bạc Liêu
Từ các công trình nghiên cứu về mô hình lý thuyết và kết quả nghiên cứu
liên quan đến phát triển bền vững doanh nghiệp. Kris Law (2010) đưa ra mô hình
nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển bền vững: Các công ty công nghệ

cao sản xuất tại Đài Loan (yếu tố quản lý, yếu tố nội bộ và yếu tố bên ngoài). Kent
Fairfield, Joel Harmon, Scott Behson (2011) kiểm định một mô hình hợp nhất: Ảnh
hương việc thực hiện tổ chức phát triển bền vững doanh nghiệp; và Sarah Elena
Windolph (2011) lại đo lường doanh nghiệp phát triển bền vững thông qua mối
quan hệ đánh giá tính bền vững của doanh nghiệp, xếp hạng, xã hội, đầu tư chịu
trách nhiệm. Maurizio Zollo (2013) đưa ra câu hỏi. Sau cái gì và tai sao: Hiểu biết
sự tiến triển tổ chức đối với mô hình bền vững doanh nghiệp, đến Parisa
Salimzadeh, Jerry Courvisanos và Raveendranath Ravi Nayak (2013) lại đưa ra
khung lý thuyết phát triển bền vững doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực Úc: Một


46
khung lý thuyết phân tích yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài. Như vậy, trên cơ sở
các lý thuyết phát triển bền vững doanh nghiệp đã được hệ thống từ các mô hình lý
thuyết trên. Nghiên cứu sinh đề xuất mô hình lý thuyết phát triển bền vững doanh
nghiệp thủy sản Bạc Liêu (mô hình 2.2). Đối với một lý thuyết khoa học chúng ta
có nhiều định nghĩa khác nhau. Nhưng theo Kerlinger (1986), một lý thuyết khoa
học là “một tập của những khái niệm, đinh nghĩa và giả thuyết trình bày có hệ thống
thông qua các mối quan hệ giữa các khái niệm, nhằm mục đích giải thích và dự báo
các hiện tượng khoa học”.
Mặc dù có một số nghiên cứu độc lập về thái độ đối với phát triển bền vững
trong doanh nghiệp nhỏ và vừa của Úc, kết quả đã cung cấp một sự hiểu biết toàn
diện về các hoạt động môi trường bền vững thực tế tại các doanh nghiệp trong khu
vực. Để lấp đầy khoảng trống này, đề xuất nhằm góp phần thu hẹp khoảng cách
kiến thức thông qua việc xác định các rào cản đối với phát triển bền vững có thể
được thực hiện bởi các doanh nghiệp nhỏ trong khu vực để thúc đẩy một con đường
chuyển đổi sang một mô hình kinh doanh bền vững hơn mà có thể được áp dụng
cho khu vực Australia. Nó có thể được sử dụng như một cơ sở cho việc ứng dụng
rộng rãi trong các khu vực khác, nơi cũng là rào cản đáng kể. Trong nghiên cứu
này, một khuôn khổ sáng tạo được phát triển và trình bày rằng sẽ đưa vào xem xét

các yếu tố bên trong và bên ngoài ảnh hưởng đến việc áp dụng các nguyên tắc phát
triển bền vững trong doanh nghiệp nhỏ trong khu vực Úc. Nhóm yếu tố bên trong
và yếu tố bên ngoài doanh nghiệp được nghiên cứu sinh kế thừa, điều chỉnh từ
khung lý thuyết phát triển bền vững doanh nghiệp vừa và nhỏ của Parisa
Salimzadeh, Jerry Courvisanos và Raveendranath Ravi Nayak (2013). Kế thừa
nhóm yếu tố bên ngoài (gồm ba yếu tố: khách hàng, chính phủ, các bên liên quan)
và bổ sung thêm hai yếu tố mới (xu hướng thị trường, an sinh xã hội); yếu tố bên
trong (gồm ba yếu tố: nhân viên, chủ sở hữu/người quản lý, hiệu suất) được kế thừa
hai yếu tố (lực lượng lao động, chủ sở hữu/người quản lý) và bổ sung thêm hai yếu
tố mới (trách nhiệm sản phẩm, phòng chống ô nhiễm môi trường) từ kết quả nghiên
cứu trên, riêng bốn yếu tố được nghiên cứu sinh bổ sung mới cho phù hợp đặc trưng
của doanh nghiệp thủy sản tỉnh Bạc Liêu.


47
Sự phát triển bền vững doanh nghiệp được đặc trưng bởi số lượng lớn các
yếu tố ảnh hưởng. Sự đa dạng đánh giá của hệ thống đáng các yếu tố có thể ảnh
hưởng đến những phát triển bền vững doanh nghiệp. Mục đích nghiên cứu là để
cung cấp các cơ sở trong tương lai, căn cứ để thực hiện thay đổi từ cách tiếp cận
phát triển bền vững doanh nghiệp, điều chỉnh các mối quan hệ đến doanh nghiệp
thủy sản từ các yếu tố bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Từ các công trình
nghiên cứu hiện ở trên về mô hình lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm của các yếu
tố có mối quan hệ đến phát triển bền vững doanh nghiệp, các tác giả đã xác định
nhóm các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững doanh nghiệp (Diana
Sergeevna Kandaurova, Svetlana Igorevna Ashmarina, Anna Sergeevna Zotova,
2015).
Tóm lại, các mô hình lý thuyết hướng đến đánh giá các yếu tố bên trong và
bên ngoài doanh nghiệp tác động đến phát triển bền vững doanh nghiệp. Mặc dù nó
đã được thiết kế để đánh giá tác động của các yếu tố bên trong và bên ngoài doanh
nghiệp. Chỉ có ba mô hình lý thuyết, Kris Law (2010) và Kent Fairfield, Joel

Harmon, Scott Behson (2011) có nghiên cứu thực nghiệm, còn mô hình lý thuyết
Parisa Salimzadeh, Jerry Courvisanos và Raveendranath Ravi Nayak (2013) chưa
nghiên cứu thực nghiệm. Tuy nhiên mô hình lý thuyết này được kế thừa từ các mô
hình lý thuyết trước đó đã nghiên cứu thực nghiệm. Trong thực tế, nếu sử dụng mô
hình lý thuyết có sẵn sẽ tìm ẩn nhiều rủi ro, do trình độ thị trường phát triển khác
nhau. Ví dụ trình độ phát triển thị trường của Úc khác với trình độ phát triển thị
trường Việt Nam. Kinh tế Úc là nền kinh tế phát triển còn nền kinh tế Việt Nam là
kinh tế mới chuyển đổi sang kinh tế thị trường và trình độ của nền kinh tế mới phát
triển. Nhưng nhìn chung, mô hình lý thuyết phát triển bền vững trong doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở khu vực Australia vận dụng vào nghiên cứu loại hình doanh nghiệp
Việt Nam là phù hợp, phần lớn loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
chiếm trên 97%. Do đó, việc vận dụng mô hình lý thuyết của Parisa Salimzadeh,
Jerry Courvisanos và Raveendranath Ravi Nayak (2013) vào thị trường Việt Nam,
cụ thể như địa phương tỉnh Bạc Liêu cần phải nghiên cứu định tính các yếu tố bên
trong và bên ngoài doanh nghiệp, đồng thời loại bỏ một số yếu tố không phù hợp và
điều chỉnh, bổ sung mới một số yếu tố nhằm phù hợp tại địa phương nghiên cứu.


48
Đây sẽ là nội dung của mô hình lý thuyết đề nghị nghiên cứu. Mô hình lý thuyết
được nhóm từ yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài sẽ tác động đến phát triển bền
vững doanh nghiệp thủy sản tỉnh Bạc Liêu, thể hiện các khái niệm có liên quan đến
hai nhóm thuộc tính yếu tố bên trong và bên ngoài doanh nghiệp (Mô hình 2.4).
F1
Khách hàng

F2
Xu hướng thị
trường


F3
Thiếu nhu cầu các
bên liên quan

F4
Chính sách hỗ trợ
Nhà nước

F5
An sinh xã hội

Yếu tố bên ngoài

Phát triển bền vững doanh
nghiệp thủy sản

Yếu tố bên trong
(nội bộ)

F6
Lực lượng lao động

F7
Chủ sở hữu (người quản
lý)

F8
Trách nhiệm sản phẩm

F9

Phòng chống ô nhiễm
môi trường

Mô hình 2.4: Đề nghị mô hình lý thuyết các yếu tố tác động đến phát
triển bền vững doanh nghiệp thủy sản Bạc Liêu
2.6.1 Yếu tố bên ngoài doanh nghiệp
Yếu tố bên ngoài doanh nghiệp có mối quan hệ tác động trực tiếp đến phát
triển bền vững doanh nghiệp là các thành phần của yếu tố bên ngoài có ảnh hưởng
đến doanh nghiệp cụ thể như: Khách hàng; Xu hướng thị trường; Thiếu nhu cầu các
bên liên quan; Chính sách hỗ trợ nhà nước và An sinh xã hội.
 Khách hàng
Trong khuôn khổ mối quan hệ phát triển bền vững, cung cấp một ống kính lý
thuyết hiệu quả và có thể giúp làm sáng tỏ những đặc thù của doanh nghiệp nhỏ liên
quan đến chương trình khách hàng. Nó đã giúp tái khái niệm bản chất của công ty,


49
khuyến khích mới các bên liên quan xem xét bên ngoài, vượt ra ngoài truyền thống
cổ đông, khách hàng, nhân viên và các nhà cung cấp, và hợp pháp hóa lần lượt các
hình thức mới của sự hiểu biết quản lý và hành động, mối quan hệ các bên liên quan
đang ngày càng được công nhận như là một khía cạnh quan trọng của sự khác biệt
trong trường hợp của các doanh nghiệp nhỏ (Jun Ma, 2012).
Từ góc độ yếu tố bên ngoài, chính phủ, khách hàng và các bên liên quan là
ba nhóm người ảnh hưởng đến việc thực hiện phát triển bền vững trong khu vực
doanh nghiệp nhỏ. Áp lực khách hàng để áp dụng phát triển bền vững cũng là một
yếu tố ảnh hưởng lớn. Điều này hoạt động thông qua giá trị thị trường của sản
phẩm, dịch vụ bền vững và xây dựng thương hiệu của các sản phẩm và dịch vụ.
Ứng dụng của cả ba yếu tố này ảnh hưởng đến việc thực hiện phát triển bền vững
của khách hàng (Parisa Salimzadeh, Jerry Courvisanos and Raveendranath Ravi
Nayak, 2013). Yếu tố khách hàng thông qua ba biến quan sát như: Áp lục Khách

hàng, Xây dựng thương hiệu, Giá trị thị trường. Khách hàng của doanh nghiệp cũng
có thể đóng một vai trò quan trọng bởi ảnh hưởng đến phát triển bền vững doanh
nghiệp. Trước hết cần tập trung và ưu tiên cải thiện khả năng của doanh nghiệp
trong việc thực hiện những sản phẩm có trách nghiệm với khách hàng một cách
chính xác và thân thiện.
Các vấn đề liên quan đến nghiên cứu trong nước và ngoài nước có liên quan
đến yếu tố khách hàng. Theo kết quả một cuộc khảo sát do ERC Việt Nam phối hợp
với CIMIGO thực hiện (29/6/2012) với hơn 78% khách hàng cho rằng các công ty
nước ngoài có dịch vụ chăm sóc khách hàng tốt hơn các doanh nghiệp Việt Nam.
Một yếu tố quan trọng quyết định thành công của các doanh nghiệp này chính là
dịch vụ khách hàng luôn được chú trọng và đảm bảo chất lượng. Tuy nhiên, đối với
nhiều doanh nghiệp Việt Nam, dịch vụ chăm sóc khách hàng vẫn chưa được chú
trọng. Tỉ lệ đó cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam cần chú trọng hơn vào việc
nâng cao chất lượng dịch vụ để giữ được lòng trung thành của khách hàng đối với
sản phẩm và dịch vụ mà mình cung cấp.
Việc áp dụng nghiên cứu yếu tố khách hàng thuộc nhóm bên ngoài doanh
nghiệp nghiên cứu đối với loại hình doanh nghiệp thủy sản, tác giả cho rằng là phù
hợp và chỉ tập trung phân tích yếu tố khách hàng như; khách hàng tin tưởng cung
cấp nguyên liệu đầu vào cho doanh nghiệp, khách hàng tin tưởng vào sản phẩm của


50
doanh nghiệp, khách hàng tin tưởng vào mối quan hệ lâu dài với doanh
nghiệp,…tạo nên mối quan hệ đến phát triển bền vững doanh nghiệp, trong trường
hợp nghiên cứu doanh nghiệp thủy sản tại thị trường tỉnh Bạc Liêu. Như vậy, giả
thuyết đầu tiên đặt ra như sau:
Giả thuyết H1: Khách hàng có mối quan hệ tác động dương đến phát triển
bền vững doanh nghiệp thủy sản
 Xu hướng thị trường
Xu hướng thị trường đã được đưa ra đối với môi trường kinh doanh, và khu

vực tư nhân đã không còn được xem như là một hỗn hợp của các doanh nghiệp
phân loại chủ yếu theo kích thước mà còn là một hệ thống tích hợp của thị trường
sản phẩm và dịch vụ quản lý bởi một khung pháp lý đáp ứng với những thay đổi
trong nhu cầu, một phần mô hình xuất hiện, liên quan cuối cùng với năng lực cạnh
tranh quốc gia. Mô hình chấp nhận cải thiện môi trường đầu tư, tập trung chủ yếu
vào việc tăng cường các cơ hội, ưu đãi và điều kiện thu hút đầu tư và thúc đẩy sự
phát triển chính thức, thường các doanh nghiệp lớn hơn, và với phương pháp tiếp
cận từ dưới lên quan tâm đến việc tạo ra xu hướng thị trường, đặc biệt về đảm bảo
rằng cơ hội đạt cho các thị trường nhằm mở rộng kinh doanh của doanh nghiệp
(Báo cáo VI, Hội nghị Lao động Quốc tế, 2007). Làm cho thị trường hoạt động và
cải thiện môi trường kinh doanh không chỉ đơn giản là về giải thoát lực lượng thị
trường. Đó là một cách tiếp cận nhận ra rằng thị trường hiệu quả cần tổ chức hiệu
quả, và thị trường có thể không luôn luôn được để lại cho mình để phân bổ nguồn
lực một cách hiệu quả. Nếu thị trường không làm việc, thất bại thị trường được cho
là xảy ra. Có bốn lĩnh vực rộng lớn của thất bại thị trường tiềm năng: cung cấp hàng
hóa công cộng; lạm dụng quyền lực thị trường; ngoại tác tích cực và tiêu cực, và
thông tin bất đối xứng. Trong mỗi trường hợp, chính phủ có vai trò trong việc đảm
bảo thị trường hoạt động tốt hơn và lợi ích công cộng rộng lớn hơn. Theo QU Feng
geng (2007) nhận định khả năng phát triển thị trường: khả năng phát triển thị trường
của doanh nghiệp là sức mạnh chi phối mà doanh nghiệp có được ảnh hưởng và chi
phối hành động của các bên quan tâm liên quan và được thực hiện bằng phương tiện
kinh doanh đáng tin cậy, mối quan hệ tiếp thị, hoạt động thương hiệu, tiện ích công
cộng, liên minh chiến lược và đẩy nhanh sự phát triển bền vững các doanh nghiệp.


×