Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm tại công ty cổ phần công nghệ gỗ Đại Thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.15 KB, 66 trang )

Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Bá Phước

LỜI MỞ ĐẦU
 Lý do chọn đề tài: Trong những năm gần đây, trên lĩnh vực sản xuất kinh
doanh, chúng ta đã có những tiến bộ nhất định, hàng hóa phong phú đa dạng. Một số
mặt hàng có sức cạnh tranh cao. Tuy nhiên phần lớn chất lượng hàng hóa chưa theo kịp
nhu cầu thị trường. Đây là nhược điểm cần phải nhanh chóng khắc phục để các doanh
nghiệp tồn tại và phát triển. Như thủ tướng Phan Văn Khải đã từng nói tại hội nghị chất
lượng năm 1997 “Chúng ta phải chấp nhận cạnh tranh và hội nhập bằng con đường
chất lượng”.
Để tăng cường khả năng cạnh tranh, một mặt các đơn vị kinh tế phải nâng cao
hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình, phải làm tốt công tác Marketing, mặt khác
phải không ngừng hoàn thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm. Chất lượng không tự
nhiên sinh ra mà phải được quản lý, giám sát một cách chặt chẽ. Chính vì vậy mà cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp trên thị trường ngày càng trở nên gay gắt và quyết liệt
hơn, chất lượng sản phẩm đang trở thành một yếu tố cơ bản quyết định sự thành bại
trong cạnh tranh, quyết định đến sự tồn tại và phát triển của từng doanh nghiệp nói
riêng cũng như sự tiến bộ hay tụt hậu của nền kinh tế nói chung.
Trong giai đoạn hiện nay, yêu cầu của người tiêu dùng về sản phẩm ngày càng
cao, sản phẩm không chỉ đẹp, rẻ, mà còn phải đạt chất lượng cao. Đây chính là chiến
lược hàng đầu để các doanh nghiệp nổ lực phấn đấu trong quá trình tìm kiếm, phấn
đấu, phát huy hết năng lực quản lý của mình cho việc sản xuất và cung ứng những sản
phẩm có chất lượng tốt để thỏa mãn kỳ vọng của khách hàng với giá thành hợp lý nhất.
Do đó việc đảm bảo và nâng cao chất lượng đang là vấn đề quan trọng, mang tầm vĩ
mô. Nó góp phần nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp và
nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tồn tại và phát
triển lâu dài trên thị trường.
Trải qua 19 năm tồn tại và phát triển, ngày nay công ty cổ phần công nghệ gỗ
Đại Thành đã trở thành công ty chủ lực của tỉnh về sản xuất kinh doanh đồ gỗ trong


nhà và ngoài trời. Sản phẩm của công ty đã được thị trường chấp nhận, chất lượng sản
phẩm ngày càng tiến bộ, đặc biệt là hàng xuất khẩu của công ty sang các nước trên thế
SVTH: Đặng Thanh Tùng

1


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Bá Phước

giới đã mang lại doanh thu không nhỏ cho công ty. Bên cạnh những thành công, việc
đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm luôn là mục tiêu quan trọng của công ty để
đáp ứng nhu cầu ngày càng khắt khe của khách hàng.
Với những lý do trên, cùng với những trải nghiệm thực tế tại công ty, em đã
chọn đề tài “ Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm tại công ty cổ
phần công nghệ gỗ Đại Thành” với mong muốn được góp phần nhỏ công sức của
mình vào trong công ty bằng kiến thức đã học trên trường, để đưa ra một số quan điểm,
biện pháp, phương hướng nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty, giúp cho
công ty nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
 Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng
sản phẩm để tiến hành phân tích chất lượng của công ty trong thời gian qua và đưa ra
những nhận xét đánh giá về hoạt động này. Trên cơ sở lý luận và những phân tích đánh
giá đó, tiến hành xây dựng các giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng sản
phẩm với giá cả thấp nhất trong thời gian tới.
 Phạm vi nghiên cứu: tại công ty cổ phần công nghệ gôc Đại Thành I , trên địa
bàn thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định.
 Phương pháp nghiên cứu: thông qua việc thống kê, tổng hợp số liệu để tiến
hành phân tích, so sánh, từ đó đưa ra những đánh giá và hệ thống các giải pháp nhằm
hoàn thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm tại công ty.

 Kết cấu của đề tài gồm có 2 chương
Chương I: Cơ sở lý luận về chất lượng sản phẩm của công ty cổ phần công nghệ
gỗ Đại Thành
Chương II: Thực trạng chất lượng sản phẩm tại công ty cổ phần công nghệ gỗ Đại
Thành.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Bá Phước đã tận tình hướng dẫn, giúp
đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Và toàn thể lãnh đạo, cán bộ công nhân viên của
công ty cổ phàn công nghệ gỗ Đại Thành đã tạo điều kiện cho em có nơi để thực tập
hoàn thành chuyên đề này một cách hoàn chỉnh.

SVTH: Đặng Thanh Tùng

2


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Bá Phước

Tuy nhiên kiến thức còn hạn chế, thời gian thì có hạn nên chuyên đề thực tập
này không thể tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến, chỉ
dẫn của các thầy cô và ban lãnh đạo công ty, để em có thể hoàn thiện hơn bài báo cáo
này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Bình Định, ngày 29 tháng 03 năm 2014
Sinh viên thực hiện
Đặng Thanh Tùng

SVTH: Đặng Thanh Tùng


3


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Bá Phước

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM CỦA CÔNG
TY CỔ PHẦN CÔNG NGHỆ GỖ ĐẠI THÀNH
1.1.

Khái quát chung về sản phẩm

1.1.1. Khái niệm về sản phẩm
Theo môn học quản trị chất lượng thì theo Marx: “ Sản phẩm là kết tinh của lao
động” . Theo tiêu chuẩn của hệ thống quản lý chất lượng về cơ sở và tự vựng ISO
9000:2000, sản phẩm được định nghĩa là “ kết quả của các hoạt động hay các quá
trình”. Như vậy, sản phẩm được tạo ra từ tất cả mọi hoạt động bao gồm từ những hoạt
động sản xuất ra vật phẩm vật chất cụ thể và các dịch vụ. Tất cả các tổ chức hoạt động
trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân đều tạo ra và cung cấp sản phẩm của mình
cho xã hội. Hơn nữa bất kỳ một yếu tố vật chất hoặc một hoạt động do tổ chức tạo ra
nhằm đáp ứng các yêu cầu nên trong và bên ngoài tổ chức đều được gọi là sản phẩm.
Quan niệm này đã phát triển khái niệm sản phẩm đến phạm vi rộng lớn, bao trùm mọi
kết quả từ hoạt động của các tổ chức, không kể được tiêu dùng nội bộ hay bên ngoài tổ
chức.
Khái niệm về sản phẩm theo Philip kotler ( môn marketing) thì sản phẩm là tất
cả những cái, những yếu tố có thể thỏa mãn nhu cầu hay ước muốn được đưa ra chào
bán trên thị trường với mục đích thu hút sự chú ý mua sắm, sử dụng hay tiêu dùng.
Trong tiêu chuẩn ISO 9001:2000, phần thuật ngữ lưu ý: “ Sản phẩm cũng có

nghĩa là dịch vụ”. Quan niệm này các dịch vụ cũng là những sản phẩm đã tương đối
thông dụng đối với giới kinh doanh ở các nước công nghiệp phát triển, nhưng vẫn còn
nhiều ngỡ ngàng, xa lạ đối với một số nước có nền kinh tế chậm phát triển
1.1.2. Phân loại sản phẩm
Để tạo điều kiện dễ dàng trong công tác quản lý và tổ chức sản xuất kinh doanh
trên thị trường, người ta phân loại sản phẩm thành những nhóm khác nhau. Trong một
nền kinh tế có thể phân chia thành hai nhóm lớn là sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch
vụ.

SVTH: Đặng Thanh Tùng

4


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Bá Phước

• Nhóm sản phẩm vật chất: Là những vật phẩm mang các đặc tính lý, hóa
nhất định.
• Nhóm sản phẩm dịch vụ: Là các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, tư vấn, thông
tin…
Có nhiều căn cứ khác nhau để phân loại sản phẩm, như phân loại theo chức
năng, công dụng của sản phẩm, theo đặc điểm công nghệ sản xuất, theo nguyên liệu sử
dụng, theo thành phần hóa học… dưới gó độ quản lý chất lượng, người ta chủ yếu xem
xét cách phân loại căn cứ vào công dụng, chức năng của sản phẩm. trong số những sản
phẩm có cùng công dụng, người ta lại có thể chia thành các nhóm sản phẩm dựa theo
mục đích, lĩnh vực, đối tượng, điều kiện và thời gian sử dụng… Sản phẩm được phân
loại thành những nhóm nhỏ với những đòi hỏi cụ thể riêng biệt về giá trị sử dụng, yêu
cầu bảo quản, quản lý… Mỗi tổ chức phải có những giải pháp trọng tâm khác nhau để

đảm bảo cho sản phẩm sản xuất ra phù hợp với mục đích và yêu cầu của người sử
dụng.
1.1.3. Các thuộc tính của sản phẩm
Mỗi sản phẩm đều được cấu thành bởi rất nhiều các thuộc tính có giá trị sử dụng
khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của con người. Mỗi thuộc tính chất lượng của sản
phẩm thể hiện thông qua một tập hợp các thông số kinh tế - kỹ thuật phản ánh khả năng
đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Các thuộc tính này có quan hệ chặt chẽ với nhau
tạo ra một mức chất lượng nhất định của sản phẩm. Những thuộc tính chung nhất phản
ánh chất lượng sản phẩm bao gồm:
 Nhóm thuộc tính kỹ thuật phản ánh chức năng công dụng của sản phẩm được
quy định bởi các chỉ tiêu kết cấu vật chất, thành phần cấu tạo và các đặc tính về cơ, lý,
hóa của sản phẩm .
 Nhóm thuộc tính kỹ thuật công nghệ: Nhóm thuộc tính này rất đa dạng và
phong phú, các đặc tính về kỹ thuật có quan hệ hữu cơ với đặc tính công nghệ của sản
phẩm. Đây là nhóm có tính chất quan trọng nhất trong việc thẩm định, lựa chọn, nghiên
cứu, cải tiến, thiết kế sản phẩm mới. Việc nghiên cứu thành phần hóa học của nguyên
vật liệu, đến các tính chất cơ, lý, điện, hóa, sinh… giúp xây dựng quy trình chế tạo sản
SVTH: Đặng Thanh Tùng

5


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Bá Phước

phẩm, xác định các phương pháp bảo quản, mặt khác các đặc tính về phương pháp
công nghệ lại quyết định chất lượng của sản phẩm như: cấu trúc, kích thước, khối
lượng các thông số kỹ thuật, độ bền, độ tin cậy…
 Nhóm thuộc tính sinh thái: Sản phẩm phải đảm bảo các yêu cầu về môi

trường, không gây ô nhiễm môi trường khi sử dụng, phải đảm bảo tính an toàn, thuận
tiện trong sử dụng, vận chuyển, bảo dưỡng… Ngoài ra, sản phẩm còn thể hiện tính phù
hợp giữa sản phẩm với môi trường, với người sử dụng, đảm bảo vệ sinh cho người sử
dụng sản phẩm.
 Nhóm thuộc tính thẩm mỹ đặc trưng cho sự truyền cảm, sự hợp lý về hình
thức, dáng vẻ, kết cấu, kích thước, tính cân đối, màu sắc, trang trí, tính thời trang.
Thẩm mỹ là thuộc tính quan trọng, ngày càng được đề cao khi đánh giá chất
lượng sản phẩm. Những tính chất thẩm mỹ phải biểu hiện:
 Kiểu cách, kết cấu phù hợp với công dụng của sản phẩm, phù hợp với đối
tượng sử dụng và với môi trường.
 Hình thức trang trí phù hợp với từng loại sản phẩm, cái đẹp của sản phẩm
phải thể hiện được tính dân tộc, hiện đại, chống mọi kiểu cách bảo thủ, bắt chước.
 Tính thẩm mỹ của sản phẩm phải thể hiện sự kết hợp giữa giá trị sử dụng
và giá trị thẩm mỹ.
 Nhóm thuộc tính kinh tế - xã hội: Nhóm thuộc tính này quyết định mức độ
chất lượng của sản phẩm, phản ánh chi phí lao động xã hội cần thiết để chế tạo sản
phẩm, cũng như những chi phí để thỏa mãn nhu cầu. Đây cũng là thuộc tính quan trọng
khi thẩm định thiết kế sản phẩm được thể hiện qua các chỉ tiêu như: chi phí sản xuất
thấp, giá cả hợp lý, chi phí bảo dưỡng, lợi nhuận cao, khả năng sinh lợi lớn trong khi
sử dụng.
 Tuổi thọ của sản phẩm là yếu tố đặc trưng cho tính chất của sản phẩm giữ
được khả năng làm việc bình thường theo đúng tiêu chuẩn thiết kế trong một thời gian
nhất định trên cơ sở đảm bảo đúng các yêu cầu về mục đích, điều kiện sử dụng và chế
độ bảo dưỡng quy định.

SVTH: Đặng Thanh Tùng

6



Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Bá Phước

 Độ tin cậy của sản phẩm được coi là một trong những yếu tố quan trọng nhất
phản ánh chất lượng của một sản phẩm và đảm bảo cho tổ chức có khả năng duy trì và
phát triển thị trường của mình.
 Độ an toàn của sản phẩm trong sử dụng, vận hành sản phẩm, an toàn sức
khỏe đối với người tiêu dùng và môi trường là yếu tố tất yếu, bắt buộc phải có đối với
mỗi sản phẩm trong điều kiện tiêu dùng hiện nay.
 Mức độ gây ô nhiễm của sản phẩm được coi là một yêu vầu bắt buộc các nhà
sản xuất phải xem xét khi đưa sản phẩm của mình vào thị trường.
 Tính tiện dụng phản ánh những đòi hỏi về tính sẵn có, tính dễ vận chuyển,
bảo quản, dễ sử dụng của sản phẩm và khả năng thay thế khi có những bộ phận hư
hỏng.
Ngoài những thuộc tính hữu hình có thể đánh giá cụ thể mức chất lượng sản
phẩm, còn có những thuộc tính vô hình khác không biểu hiện cụ thể dưới dạng vật chất
nhưng lại có ý nghĩa rất quan trọng với khách hàng khi đánh giá chất lượng của một
sản phẩm, chẳng hạn tên, nhãn hiệu, danh tiếng của sản phẩm.
Hoặc một cách khác dưới góc độ kinh doanh có thể phân loại thành hai nhóm
thuộc tính sau:
• Thuộc tính công dụng – phần cứng (giá trị vật chất): Nói lên công dụng đích
thực của sản phẩm. Các thuộc tính nhóm này phụ thuộc vào bản chất, cấu tạo của sản
phẩm, các yếu tố tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ. Phần này chiếm khoảng 10 – 40%
giá trị sản phẩm.
• Thuộc tính được cảm thụ bởi người tiêu dùng – phần mềm (giá trị tinh thần):
Xuất hiện khi có sự tiếp xúc, tiêu dùng sản phẩm và phụ thuộc vào quan hệ cung cầu,
uy tín của sản phẩm, xu hướng, thói quen tiêu dùng, đặc biệt là các dịch vụ trước và
sau khi bán. Phần này chiếm khoảng 60 – 80% giá trị sản phẩm, thậm chí có thể lên tới
90% giá trị sản phẩm.

1.2.

Khái quát về chất lượng sản phẩm

1.2.1. Khái niệm về chất lượng

SVTH: Đặng Thanh Tùng

7


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Bá Phước

Chất lượng sản phẩm là một khái niệm đã xuất hiện từ lâu và được sử dụng rất
phổ biến trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Đây là một phạm trù rất rộng và
phức tạp, phản ánh tổng hợp các nội dung kỹ thuật, kinh tế và xã hội. Đứng ở những
góc độ khác nhau và tùy theo mục tiêu, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh có thể đưa ra
những quan niệm về chất lượng xuất phát từ sản phẩm, từ người sản xuất hay từ đòi hỏi
của thị trường.
Quan niệm siêu việt cho rằng: Chất lượng là sự tuyệt vời và hoàn hảo nhất của
sản phẩm. Quan niệm nay mang tính trừu tượng, chất lượng sản phẩm không thể xác
định một cách chính xác.
Theo quan niệm của các nhà sản xuất thì chất lượng là sự hoàn hảo và phù hợp
của một sản phẩm hay dịch vụ với một tập hợp các yêu cầu hoặc tiêu chuẩn: “Chất
lượng là tổng hợp những tính chất đặc trưng của sản phẩm thể hiện mức độ thỏa mãn
các yêu cầu định trước cho nó trong điều kiện kinh tế, xã hội nhất định”.
Tổ chức kiểm tra chất lượng châu Âu (European Organization for Quality
Control) cho rằng: “Chất lượng là mức phù hợp của sản phẩm đối với yêu cầu của

người tiêu dùng”.
Theo W.E.Deming: “Chất lượng là sự phù hợp với mục đích hoặc sự sử dụng”.
Những năm gần đây, một khái niệm chất lượng được thống nhất sử dụng khá
rộng rãi là định nghĩa trong tiêu chuẩn quốc tế ISO 8402:1994 do tôt chức Quốc tế về
tiêu chuẩn hóa đưa ra, đã được đông đảo các quốc gia chấp nhận (Việt Nam ban hành
thành tiêu chuẩn TCVN ISO 8402:1999): “Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một
thực thể (đối tượng) tạo cho thực thể( đối tượng) đó khả năng thảo mãn những nhu cầu
đã nêu ra hoặc tiềm ẩn”.
Theo ISO 9000:2000: “Chất lượng là mức độ của một tập hợp các đặc tính vốn
có của một sản phẩm, hệ thống hoặc quá trình thỏa mãn các yêu cầu của khách hàng và
các bên có liên quan”.
1.2.2. Sự hình thành chất lượng sản phẩm

SVTH: Đặng Thanh Tùng

8


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Bá Phước

Chất lượng là vấn đề tổng hợp, nó được hình thành qua nhiều giai đoạn và chịu
ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau. Chất lượng được tạo ra ở tất cả các giai đoạn
trong chu trình khép kín của sản phẩm.
Chu trình sản phẩm là tập hợp các qua trình tồn tại của sản phẩm theo thời gian,
từ khi nảy sinh nhu cầu và ý đồ sản xuất ra sản phẩm cho đến khi kết thúc sử dụng sản
phẩm. Chu trình sản phẩm được thể hiện qua vòng xoắn Juran.
Chu trình sản phẩm có thể được chia thành các giai đoạn chính: thiết kế, sản
xuất, lưu thông và sử dụng sản phẩm. các giai đoạn trong chu trình sản phẩm đều có ý

nghĩa đối với sự hình thành chất lượng.

Marketing

Hình 1.1. Vòng xoắn Juran
Bán
Dịch vụ

Tổ chức

sau bán

dịch vụ

Thỏa mãn nhu cầu
xã hội
Nhu cầu xã hội

Kiểm tra

Nghiên cứu
Thiết kế
Thẩm định

Sản xuất

Sản xuất thử

Marketing


Hoạch định thực hiện

 Giai đoạn nghiên cứu, thiết kế: Là giai đoạn giải quyết về mặt lý thuyết
phương án thỏa mãn nhu cầu. Chất lượng thiết kế giữ vai trò quyết định đối với chất
lượng sản phẩm. Chất lượng của thiết kế phụ thuộc vào kết quả nghiên cứu thị trường,
nghiên cứu các yêu cầu của người tiêu dùng.
 Giai đoạn sản xuất: Là giai đoạn thể hiện các ý đồ, yêu cầu của thiết kế, tiêu
chuẩn lên sản phẩm. Chất lượng ở khâu sản xuất kém sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất
SVTH: Đặng Thanh Tùng

9


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Bá Phước

lượng sản phẩm. Do đó, cần phải tổ chức kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ khâu sản xuất
theo định hướng phòng ngừa sai sót.
 Giai đoạn lưu thông và sử dụng sản phẩm: Quá trình này cũng có ảnh hưởng
lớn đến chất lượng sản phẩm. Sự ảnh hưởng đó biểu thị ở các mặt sau đây:
• Tổ chức lưu thông tốt sẽ giúp cho tiêu thụ sản phẩm nhanh chóng, giảm thời
gian lưu giữ, giúp cho người tiêu dùng lựa chọn được sản phẩm phù hợp và tốt hơn.
• Sử dụng là giai đoạn đánh giá được một cách đầy đủ, chính xác chất lượng
sản phẩm. Để đảm bảo chất lượng một cách thật sự trong tay người tiêu dùng đòi hỏi tổ
chức phải có những hoạt động bảo hành, hướng dẫn sử dụng, sữa chữa, cung cấp phụ
tùng thay thế… đồng thời phải nghiên cứu sản phẩm trong sử dụng, tích cực thu thập
những thông tin từ người tiêu dùng, trên cơ sở đó điều chỉnh, cải tiến chất lượng sản
phẩm của mình.
Như vậy, chất lượng được tạo ra ở tất cả các giai đoạn trong chu trình sản phẩm.

Để có được sản phẩm chất lượng cao, để đảm bảo chất lượng đầu ra cần thực hiện việc
quản lý trong tất cả các giai đoạn của chu trình sản phẩm, đặc biệt là từ giai đoạn
nghiên cứu, thiết kế.
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng. có thể chia thành hai nhóm yếu tố
chủ yếu , đó là nhóm yếu tố bên ngoài nà nhóm yếu tố bên trong tổ chức.
1.2.3.1. Nhóm các yếu tố bên ngoài
 Nhu cầu của nền kinh tế: Ở bất cứ trình độ nào, với mục đích sử dụng gì,
chất lượng sản phẩm bao giờ cũng bị chi phối, bị rang buộc bởi hoàn cảnh, điều kiện và
nhu cầu nhất định của nền kinh tế được thể hiện ở các mặt: nhu cầu của thị trường,
trình độ kinh tế, trình độ sản xuất, chính sách kinh tế của nhà nước.
Gồm có:
+ Nhu cầu thị trường.
+ trình độ kinh tế, trình độ sản xuất.
+ Chính sách kinh tế.

SVTH: Đặng Thanh Tùng

10


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Bá Phước

• Nhu cầu của thị trường: Có thể khẳng định nhu cầu thị trường là điểm xuất
phát của quá trình quản lý chất lượng. Trước khi tiến hành thiết kế, sản xuất sản phẩm,
cần phải tiến hành nghiêm túc, thận trọng công tác điều tra nghiên cứu nhu cầu thị
trường, phân tích môi trường kinh tế xã hội, nắm bắt chính xác những yêu cầu chất
lượng cụ thể của khách hàng cũng như những thói quen tiêu dùng, phong tục tập quán,

văn hóa, lối sống, khả năng thanh toán của khách hàng… để có đối sách đúng đắn để
định hướng cho cải tiến và hoàn thiện chất lượng sản phẩm.
• Trình độ kinh tế, trình độ sản xuất: Đó là khả năng kinh tế (tài nguyên, tích
lũy, đầu tư…) và trình độ kỹ thuật (chủ yếu là trang thiết bị công nghệ và kỹ năng).
Đảm bảo chất lượng luôn là vấn đề nội tại của bản thân nền sản xuất, nhưng việc nâng
cao chất lượng không thể vượt ra ngoài khả năng cho phép của nền kinh tế. Cho nên,
muốn sản phẩm đầu ra có chất lượng thì phải trên cơ sở phát triển sản xuất, nâng cao
trình độ sản xuất, trình độ kinh tế.
• Chính sách kinh tế: Hướng đầu tư, hướng phát triển, loại sản phẩm nào đó
cũng như mức thỏa mãn các loại nhu cầu được thể hiện trong các chính sách kinh tế có
tầm quan trọng đặc biệt ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm.
 Sự phát triển của khoa học – kỹ thuật: Trong thời đại ngày nay, cùng với
đặc điểm là khoa học – kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thì trình độ chất
lượng của bất kỳ một sản phẩm nào cũng đều gắn liền và bị chi phối bởi sự phát triển
của khoa học kỹ thuật hiện đại, đặc biệt là sự ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ
thuật vào sản xuất. Hướng chính của việc áp dụng các kỹ thuật tiến bộ hiện nay là:
• Sáng tạo ra vật liệu mới hay vật liệu thay thế: Bằng nghiên cứu, ứng dụng
những thành tựu khoa học kỹ thuật xác lập các loại vật liệu mới có thể (đặc biệt là từ
các nguồn nguyên liệu có sẵn) hoặc thay thế cho sản phẩm cũ những duy trì được tính
chất cở bản của sản phẩm.
• Cải tiến hay đổi mới công nghệ: Với sản phẩm đã xác định, một công nghệ
nào đó chỉ cho phép đạt tới một chất lượng tối đa ứng với nó. Công nghệ chế tạo càng
tiến bộ, càng có khả năng tạo ra sản phẩm có chất lượng cao hơn.

SVTH: Đặng Thanh Tùng

11


Báo cáo thực tập tốt nghiệp


GVHD: Nguyễn Bá Phước

• Cải tiến sản phẩm cũ và chế thử sản phẩm mới: Bằng cách áp dụng những kỹ
thuật tiến bộ, cải tiến, nâng cao tính năng kỹ thuật hay giá trị sử dụng của các sản phẩm
hiện có, làm cho nó thỏa mãn mục đích và yêu cầu sử dụng một cách tốt hơn. Tùy từng
sản phẩm mà có nội dung cải tiến khác nhau, nhưng hướng chung là cải tiến nhằm ổn
định và nâng cao những chỉ tiêu cơ bản để đáp ứng những nhu cầu mới xuất hiện hoặc
thỏa mãn những nhu cầu cao hơn.
 Hiệu lực của cơ chế quản lý: Cơ chế quản lý vừa là môi trường, vừa là điều
kiện cần thiết tác động đến phương hướng, tốc độ cải tiến sản phẩm. Thông qua cơ chế
và các chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước tạo điều kiện thuận lợi và kích thích:
• Tính độc lập, tự chủ, sáng tạo, trong việc cải tiến chất lượng sản phẩm của các
doanh nghiệp.
• Hình thành môi trường thuận lợi cho việc huy động các nguồn lực, các công
nghệ mới, tiếp thu, ứng dụng những phương pháp quản lý chất lượng hiện đại.
• Hỗ trợ nguồn vốn đầu tư, thay đổi trang thiết bị công nghệ, tiếp thu và ứng
dụng những phương pháp quản trị chất lượng hiện đại.
• Đảm bảo sự bình đẳng trong sản xuất kinh doanh của các tổ chức trong nước,
tạo sự cạnh tranh lành mạnh, công bằng giữa các doanh nghiệp, xóa bỏ sức ỳ, xóa bỏ
tâm lý ỷ lại, không ngừng phát huy sáng kiến cải tiến hoàn thiện sản phẩm, , kiên quyết
loại bỏ những doanh nghiệp sản xuất hàng giả, hàng nhái.
• Nhà nước quy định các tiêu chuẩn về chất lượng tối thiểu mà các doanh
nghiệp cần đạt được thong qua việc đăng ký chất lượng để sản xuất.
• Hiệu lực của cơ chế quản lý còn là đòn bẩy quan trọng trong việc quản lý chất
lượng sản phẩm, đảm bảo cho sự phát triển ổn định quá trình sản xuất, đảm bảo uy tín
và quyền lợi của nhà sản xuất và người tiêu dùng.
 Điều kiện tự nhiên: Điều kiện tự nhiên có thể làm thay đổi tính chất cơ lý, hóa,
của sản phẩm qua:
• Khí hậu, các tia bức xạ mặt trời có thể làm thay đổi màu sắc, mùi vị của sản

phẩm hay các loại nguyên vật liệu để sản xuất ra sản phẩm.

SVTH: Đặng Thanh Tùng

12


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Bá Phước

• Mưa, gió, bão có thể làm cho sản phẩm bị ố, mốc. Độ ẩm cao và quá trình oxi
hóa mạnh gây ra rỉ sét… làm biến đổi hoặc giảm chất lượng của sản phẩm.
• Vi sinh vật, côn trùng chủ yếu tác động vào quá trình lên men, độ tươi sống hay
an toán vệ sinh thực phẩm.
 Các yếu tố về phong tục, tập quán, thói quen tiêu dùng: Ngoài các yếu tố
mang tính khách quan vừa nêu trên, các yếu tố về phong tục tập quán, thói quen tiêu
dùng cũng ảnh hưởng mạnh đến chất lượng sản phẩm mà các nhà sản xuất phải cố
gắng đáp ứng.
Sở thích tiêu dùng của từng nước, từng dân tộc, từng tôn giáo, từng độ tuổi,
không hoàn toàn giống nhau. Do đó các doanh nghiệp phải tiến hành điều tra, nghiên
cứu nhu cầu sở thích của từng thị trường cụ thể nhằm thỏa mãn những yêu cầu về số
lượng và chất lượng.
1.2.3.2. Nhóm các yếu tố bên trong
Trong phạm vi một tổ chức, chúng ta đặc biệt chú ý đến 4 yếu tố cơ bản ảnh
hưởng đến chất lượng sản phẩm (được biểu thị bằng quy tắc 4M), đó là:
 Nguyên vật liệu (Materials): Nguyên vật liệu là một yếu tố tham gia trực tiếp
cấu thành thực thể của sản phẩm. Những đặc tính của nguyên liệu sẽ được đưa vào sản
phẩm vì vậy chất lượng của nguyên liệu ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của sản
phẩm sản xuất ra. Muốn có sản phẩm đạt chất lượng (theo yêu cầu của thị trường, thiết

kế…) thì nguyên vật liệu để chế tạo ra sản phẩm phải đảm bảo những yêu cầu về chất
lượng. Mặc khác, phải đảm bảo cung cấp cho cơ sở sản xuất những nguyên vật liệu
đúng số lượng, đúng chất lượng, đúng kỳ hạn. Như vậy cơ sở sản xuất mới chủ động
ổn định quá trình sản xuất và thực hiện đúng kế hoạch, chất lượng đã đề ra.
 Các yếu tố về kỹ thuật – công nghệ - thiết bị (Machines): Máy móc và công
nghệ luôn là một trong những yếu tố cơ bản có tác động mạnh mẽ nhất đến chất lượng
của sản phẩm, nó quyết định đến việc hình thành chất lượng của sản phẩm. Nhiều
doanh nghiệp đã coi công nghệ là chìa khóa của sự phát triển.
Ngoài yếu tố kỹ thuật – công nghệ cần phải chú ý đến việc lựa chọn thiết bị.
Kinh nghiệm từ thực tế đã cho thấy kỹ thuật và công nghệ được đổi mới nhưng thiết bị
SVTH: Đặng Thanh Tùng

13


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Bá Phước

lạc hậu, cũ kỹ khó có thể tạo ra sản phẩm chất lượng cao phù hợp với nhu cầu của
khách hàng. Cho nên nhóm yếu tố về kỹ thuật – công nghệ - thiết bị có mối quan hệ
tương quan khá chặt chẽ, không những góp phần vào việc nâng cao chất lượng sản
phẩm mà còn tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trên thương trường, đa dạng hóa
chủng loại nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng, tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao.
 Các yếu tố phương pháp tổ chức quản lý (Methods): Quản trị chất lượng là
một trong những nhân tố cơ bản góp phần đẩy nhanh tốc độ cải tiến, hoàn thiện chất
lượng sản phẩm của các doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, các cán bộ quản lý tạo ra sự phối
hợp đồng bộ nhịp nhàng giữa các khâu, các yếu tố của quá trình sản xuất nhằm mục
đích cao nhất là hoàn thiện chất lượng sản phẩm. Trình độ của cán bộ quản lý sẽ ảnh
hưởng đến khả năng xác định chính sách, mục tiêu chất lượng và cách thức tổ chức chỉ

đạo thực hiện chương trình kế hoạch chất lượng. Cán bộ quản lý phải biết cách làm cho
mọi công nhân hiểu được việc đảm bảo và nâng cao chất lượng không phải là riêng của
bộ phận sản xuất mà còn là nhiệm vụ chung của toàn doanh nghiệp. Đồng thời công tác
quản lý chất lượng tác động mạnh mẽ đến công nhân sản xuất thông qua chế độ khen
thưởng hay xử phạt để từ đó nâng cao ý thức lao động và tinh thần cố gắng hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao. Vì vậy, chất lượng của hoạt động quản lý chính là sự phản ánh
chất lượng hoạt động của doanh nghiệp.
 Nhóm yếu tố con người (Men): Đây là nhân tố có ảnh hưởng quyết định đến
chất lượng của sản phẩm. Dù trình đô công nghệ có hiện đại đến đâu thì nhân tố con
người vẫn được coi là nhân tố căn bản nhất tác động đến hoạt động quản lý và nâng
cao đến chất lượng sản phẩm. Bởi người lao động chính là người sử dụng máy móc
thiết bị để sản xuất ra sản phẩm, bên cạnh đó có rất nhiều tác động, thao tác phức tạp
đòi hỏi kỹ thuật khéo léo, tinh tế mà chỉ có con người mới làm được.
• Đối với cán bộ lãnh đạo các cấp cần có nhận thức mới về việc nâng cao chất
lượng sản phẩm để có những chủ trương, chính sách đúng đắn về chất lượng sản phẩm
thể hiện trong mối quan hệ sản xuất và tiêu dùng, các biện pháp khuyến khích tinh thần
vật chất, quyền ưu tiên cung cấp nguyên vật liệu, giá cả…

SVTH: Đặng Thanh Tùng

14


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Bá Phước

• Đối với cán bộ công nhân viên trong một đơn vị kinh tế cần phải có nhân
thức rằng việc nâng cao chất lượng sản phẩm là trách nhiệm của mọi thành viên, là sự
sống còn, là quyền lợi của bản thân đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp và

cũng là chính bản thân mình.
Ngoài 4 yếu tố cơ bản trên, chất lượng còn chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố khác
như Information (thông tin), Environment (môi trường), Measurement (đo lường),
System (hệ thống)…
Sơ đồ 1.2. Các nhân tố bên trong ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm

(Men)
Lãnh
đạo
cán bộ
công
nhân
viên.
Người
tiêu
dùng

(Materials)
Nguyên vật liệu.
năng lượng

(Machines)
Kỹ thuật, công
nghệ

Chất
lượng
sản
phẩm


(Methods)
Phương pháp tổ
chức quản lý

1.2.4. Hệ thống các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm được phản ánh thông qua một hệ thống các chỉ tiêu cụ thể.
Những chỉ tiêu chất lượng đó chính là các thông số kinh tế - kỹ thuật và các đặc tính
riêng của các sản phẩm, phản ánh tính hữu ích của sản phẩm. Các chỉ tiêu này không
tồn tại một cách độc lập mà có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Khi đề cập đến chỉ tiêu chất lượng sản phẩm, người ta thường phân biệt ra hai hệ
thống chỉ tiêu chất lượng.
 Hệ thống chỉ tiêu xác định nghiên cứu, xác định chất lượng trong chiến
lược phát triển kinh tế

SVTH: Đặng Thanh Tùng

15


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Bá Phước

Trong chiến lược phát triển kinh tế của doanh nghiệp, một trong những vấn đề
chủ yếu phải xác định được chiến lược sản phẩm trong một thời gian nhất định, mà nội
dung quan trọng là phải nghiên cứu một số chỉ tiêu chất lượng nhằm:
-

Kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm.


-

Kéo dài thời gian cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong và ngoài nước

với những sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác.
Trong hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu xác định chất lượng sản phẩm của chiến
lược phát triển doanh nghiệp thường có các nhóm chỉ tiêu sau:
• Chỉ tiêu công dụng: Đó chính là những đặc tính cơ bản của sản phẩm đưa
lại những lợi ích nhất định về giá trị sử dụng, tính hữu ích của chúng đáp ứng được
những đòi hỏi cần thiết của người tiêu dùng như: giá trị dinh dưỡng, độ bền, thời gian
sử dụng….
• Chỉ tiêu công nghệ: Đây là nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho quy trình chế tạo
sản phẩm có chất lượng cao, tiết kiệm nguyên vật liệu, giảm chi phí, hạ giá thành sản
phẩm…
• Chỉ tiêu thống nhất hóa: Đặc trưng cho tính lắp ráp của các linh kiện, các
phụ tùng. Nhờ có tác dụng thống nhất hóa mà các chỉ tiêu, các bộ phận, hình thành một
cách ngẫu nhiên lộn xộn, trở thành những dãy thông số kích thước thống nhất, hợp lý.
• Chỉ tiêu độ tin cậy: Đặc trưng cho tính chất của sản phẩm, đảm bảo các
thông số kỹ thuật làm việc trong khoảng thời gian nhất định.
• Chỉ tiêu kích thước: Thể hiện sự gọn nhẹ, thuận tiện trong sử dụng, trong
vận chuyển.
• Chỉ tiêu về sáng chế và phát minh: Tôn trọng năng lực trí tuệ, khuyến khích
các hoạt động sang tạo, áp dụng có hiệu quả thành tựu khoa học kỹ thuật vào sự nghiệp
phát triển của doanh nghiệp.
• Chỉ tiêu an toàn: Đảm bảo cho tính an toàn trong sản xuất cũng như khi sử
dụng sản phẩm, đảm bảo sức khỏe cũng như tính mạng của người tiêu dùng. Đây là chỉ
tiêu đặc biệt quan trọng đối với sản phẩm.

SVTH: Đặng Thanh Tùng


16


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Bá Phước

• Chỉ tiêu về lao động học: Đặc trưng cho quan hệ giữa con người với sản
phẩm trong hoàn cảnh thuận lợi nhất.
• Các chỉ tiêu về tuổi thọ: Thể hiện thời gian tồn tại có ích của sản phẩm trong
quá trình đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
• Chỉ tiêu tiêu sinh thái: Thể hiện mức độ độc hại của việc sản xuất sản phẩm
tác động đến môi trường.
• Chỉ tiêu chi phí, giá cả: Đặc trưng cho hao phí xã hội cần thiết để tạo nên
sản phẩm.
• Chỉ tiêu tính dễ vận chuyển: Đó là khả năng bố trí, sắp xếp các container.
Tiêu chuẩn đảm bảo dễ vận chuyển bằng đường sắt, đường sông, đường hàng không,
đường biển.
 Hệ thống chỉ tiêu đánh giá chất lượng sản phẩm trong sản xuất kinh
doanh
Tùy theo mục đích sử dụng, chất lượng sản phẩm hàng hóa có thể chia làm 4
nhóm cơ bản:
• Nhóm chỉ tiêu sử dụng: Đây là nhóm chỉ tiêu chất lượng mà người tiêu dùng
khi mua hàng thường quan tâm, đánh giá chất lượng của sản phẩm hàng hóa.
Nhóm chỉ tiêu sử dụng bao gồm:
+ Thời gian sử dụng (tuổi thọ, độ bền).
+ Mức độ an toàn trong sử dung.
+ Khả năng sữa chữa, bảo dưỡng, thay thế các chi tiết.
+ Hiệu quả sử dụng (sinh lợi, tiện lợi)
• Nhóm chỉ tiêu kỹ thuật - công nghệ: Đây là nhóm chỉ tiêu mà cơ quan

nghiên cứu, thiết kế, sản xuất, kinh doanh thường dùng để đánh giá giá trị dử dụng của
sản phẩm hàng hóa. Những chỉ tiêu này thường được quy định trong các văn bản tiêu
chuẩn, hợp đồng gia công mua bán…
• Nhóm chỉ tiêu hình dáng, trang trí thẩm mỹ: Nhóm này bao gồm các chỉ tiêu
về hình dáng sản phẩm, tính chất các đường nét, sự phối hợp của các yếu tố tạo hình,
màu sắc, tính thời trang, tính thẩm mỹ.
SVTH: Đặng Thanh Tùng

17


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Bá Phước

• Nhóm các chỉ tiêu về kinh tế: Các chỉ tiêu về kinh tế bao gồm: chi phí sản
xuất, giá thành, chi phí cho quá trình sử dụng… đây là những chỉ tiêu có tính tổng hợp
khá quan trọng mà trước đây quan điểm “kỹ thuật thuần túy” thường ít chú ý kiểm tra
đánh giá chất lượng sản phẩm hàng hóa.
Khi kiểm tra, xác định chất lượng của một sản phẩm hàng hóa chụ thể, cần căn
cứ vào các đặc điểm sử dụng và nhiều yếu tố tình hình sản xuất, quan hệ cung cầu, điều
kiện của mỗi doanh nghiệp… mà chọn những chỉ tiêu chủ yếu và những chỉ tiêu bổ
sung thích hợp.
1.2.5 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng sản phẩm
Mỗi loại sản phẩm cụ thể có những chỉ tiêu mang tính trội và quan trọng hơn
những chỉ tiêu khác. Vì vậy các doanh nghiệp càn phải quyết định lựa chọn những chỉ
tiêu nào quan trọng nhất để sản phẩm của mình mang được sắc thái riêng, dễ dàng phân
biệt được với những sản phẩm khác đồng loại trên thị trường. Để đánh giá, phân tích
tình hình thực hiện chất lượng giữa các bộ phận, giữa các thời kỳ sản xuất ta còn có các
chỉ tiêu so sánh như sau:

Tỷ lệ sai hỏng để phân tích tình hình sai hỏng trong sản xuất:
Dùng thước đo hiện vật để tính, ta có công thức:
Số lượng sản phẩm sai hỏng
Tỷ lệ sai hỏng =

x 100%
Số lượng sản

Số lượng sản

phẩm sai hỏng + phẩm tốt
Trong đó số sản phẩm sai hỏng bao gồm cả sản phẩm hỏng có thể sữa chữa
được và sản phẩm hỏng không thể sữa chữa được.
Nếu dùng thước đo giá trị để tính ta có công thức:

Chi phí về sản phẩm hỏng
Tỷ lệ sai hỏng =

x 100%
Giá thành công xưởng của sản

SVTH: Đặng Thanh Tùng

18


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Bá Phước
phẩm hàng hóa


Trong đó chi phí sản phẩm hỏng bao gồm: Chi phí về sản phẩm hỏng sữa chữa
được và chi phí về sản phẩm hỏng không sữa chữa được.
Trên cơ sở tính toán về tỷ lệ sai hỏng đó, ta có thể so sánh giữa kỳ này với kỳ
trước hoặc năm này với năm trước. Nếu tỷ lệ sai hỏng kỳ này so với kỳ trước mà nhỏ
hơn nghĩa là chất lượng kỳ này tốt hơn kỳ trước và ngược lại.
Dùng thứ hạng chất lượng sản phẩm: Để so sánh thứ hạng chất lượng sản phẩm
của kỳ này so với kỳ trước ta căn cứ vào mặc công dụng, thẩm mỹ, và các chỉ tiêu về
mặc cơ, lý, hóa của sản phẩm. Nếu thứ hạng kém thì được bán với mức giá thấp, còn
nếu thứ hạng cao thì sẽ được bán với giá cao. Để đánh giá thứ hạng chất lượng sản
phẩm ta có thể sử dụng phương pháp giá đơn vị bình quân.
n

Công thức:

P =

∑ Qi.Pki
i =1

n

∑ Qi
i =1

Trong đó: P: giá đơn vị bình quân
Pki: giá đơn vị kỳ gốc của thứ hạng i
Qi: số lượng sản phẩm sản xuất của thứ hạng i
Theo phương pháp này, ta tính giá đơn vị bình quân của kỳ phân tích với kỳ kế
hoạch. Sau đó so sánh giá đơn vị bình quân của kỳ phân tích so với kỳ kế hoạch, nếu

giá đơn vị bình quân kỳ phân tích cao hơn kỳ kế hoạch ta kết luận doanh nghiệp hoàn
thành kế hoạch chất lượng sản phẩm và ngược lại.
1.3 Tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng sản phẩm
 Nâng cao chất lượng sản phẩm là tăng uy tín của công ty, giữ được khách hàng
cũ, thu hút khách hàng mới, mở rộng thị trường, tạo sơ sở cho sự phát triển lâu dài của
công ty. Nâng cao chất lượng sản phẩm đồng nghĩa với nâng cao tính hữu ích của sản
phẩm, thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng, đồng thời giảm chi phí trên một đơn vị
sản phẩm nhờ hoàn thiện quy trình, đổi mới, cải tiến các hoạt động, giảm lãng phí về
phế phẩm hoặc sản phẩm phải sữa chữa.

SVTH: Đặng Thanh Tùng

19


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Bá Phước

 Nâng cao chất lượng sản phẩm còn làm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm,
tạo điều kiện cho doanh nghiệp đi sâu, tìm tòi, nghiên cứu các tiến bộ khoa học kỹ
thuật và ứng dụng nó vào quá trình sản xuất kinh doanh. Tạo uy tín cho công ty khi
thâm nhập thị trường, mở rộng thị trong nước và quốc tế, khắc phục được tình trạng
sản xuất ra không tiêu thụ được dẫn đến trì truệ sản xuất, thiếu việc làm, đời sống công
nhân khó khăn. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp tiến hành đầu tư đổi mới công nghệ nhằm
giảm lao động sống, tiết kiệm nguyên vật liệu và nâng cao năng lực sản xuất. Do vậy,
giảm được chi phí, hạ giá thành sản phẩm, từ đó giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu
kinh của mình là nâng cao lợi nhuận, đây đồng thời cũng là điều kiện để doanh nghiệp
tồn tại và phát tiển. Khi công ty đạt được lợi nhuận cao có điều kiện để ổn định sản
xuất. Khi sản xuất ổn định và lợi nhuận ổn định, công ty có điều kiện bảo đảm việc làm

cho người lao động, tăng thu nhập cho họ, làm cho họ tin tưởng và gắn bó với công ty,
đóng góp hết sức mình để sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng tốt , giúp công ty
sản xuất kinh doanh ngày càng có hiệu quả.
 Hiệu quả kinh tế, sự thành công của một doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào
sự phát triển sản xuất có năng suất cao, tiêu thụ với khối lượng lớn mà còn được tạo
thành bởi sự tiết kiệm, đặc biệt là tiết kiệm nguyên vật liệu, thiết bị và lao động trong
quá trình sản xuất. Muốn làm được điều này, chỉ có thể thực hiện bằng cách luôn nâng
cao chất lượng sản phẩm với mục tiêu “Làm đúng ngay từ đầu” sẽ hạn chế được chi
phí phải bỏ ra cho những phế phẩm. Việc làm này không những đem lại lợi ích kinh tế
cho doanh nghiệp mà còn tác động tích cực đến nền kinh tế của đất nước, thông qua
việc tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, giảm bớt những vấn đề về ô nhiễm môi trường.
 Chất lượng sản phẩm là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện chiến lược Marketing,
mở rộng thị trường, tạo uy tín và danh tiếng cho sản phẩm của doanh nghiệp. Khẳng
định vị trí của sản phẩm đó trên thị trường. Từ đó, người tiêu dùng sẽ tin tưởng vào
nhãn mác của sản phẩm và sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp làm cơ sở cho sự tồn
tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp, nếu có thể sẽ mở rộng thị trường ra nước
ngoài. Chính điều này đã tạo động lực to lớn buộc các doanh nghiệp ngày càng phải
hoàn thiện để phục vụ khách hàng được tốt nhất.
SVTH: Đặng Thanh Tùng

20


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Bá Phước

 Chất lượng sản phẩm không chỉ làm tăng uy tín của nước ta trên thị trường quốc
tế mà còn là cách để tăng cường nguồn thu nhập ngoại tệ cho đất nước thông qua việc
xuất khẩu sản phẩm đạt chất lượng cao ra nước ngoài.

 Đối với nền kinh tế quốc dân, việc tăng chất lượng sản phẩm đồng nghĩa với
việc người dân được tiêu dùng những sản phẩm có chất lượng tốt hơn với tuổi thọ lâu
dài hơn, góp phần làm giảm đầu tư chi phí cho sản xuất sản phẩm và hạn chế và được
phế thải gây ô nhiễm môi trường. Do vậy, chất lượng đã và luôn là yếu tố quan trọng
số một đối với cả doanh nghiệp và người tiêu dùng.

CHƯƠNG II

SVTH: Đặng Thanh Tùng

21


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Bá Phước

GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN
CÔNG NGHỆ GỖ ĐẠI THÀNH
2.1. Giới thiệu chung về công ty cổ phần công nghệ gỗ Đại Thành
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển công ty cổ phần công nghệ gỗ Đại
Thành
2.1.1.1. Tên và địa chỉ công ty
• Tên công ty: Công ty cổ phần công nghệ gỗ Đại Thành.
• Tên giao dịch quốc tế: DaiThanh Furniture JSC
• Trụ sở chính: 90 Tây Sơn – Phường Quang Trung – TP Quy Nhơn – Tỉnh
Bình Định.
• Điện thoại: 0563.846839
• Fax


: 0563.847267



Email

:



Web

: www.daithanhfurniture.com

• Văn phòng đại diện: Lầu 3, số 86 Lê Duẩn, Quận 1, TP hồ Chí Minh.
• Mã số thuế: 4100266610
• Ngân hàng mở tài khoản: Ngân hàng Ngoại thương.
• Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số: 3503000161 do Sở kế hoạch và
đầu tư tỉnh Bình Định cấp ngày 25/10/2007.
2.1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của công ty
Công ty được thành lập và phát triển theo giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh số 3502000177 ngày 23/06/1995, do Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Định cấp
dưới loại hình công ty TNHH.
Cùng với sự phát triển của công ty và tầm nhìn chiến lược, chủ doanh nghiệp
quyết định chuyển từ công ty TNHH sang công ty cổ phần. Công ty cổ phần công nghệ
gỗ Đại Thành chính thức ra đời với giấy phép kinh doanh số 3503000161 do sở kế
hoạch đầu tư Bình Định cấp ngày 25/10/2007.

SVTH: Đặng Thanh Tùng


22


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Bá Phước

Công ty cổ phần công nghệ gỗ Đại Thành có đầy đủ tư cách pháp nhân. Trụ sở
chính đặt tại số 90 Tây Sơn, TP Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định. Ngành nghề kinh doanh.
Ngành nghề kinh doanh chính sản xuất, chế biến gỗ và lâm sản khai thác để xuất khẩu
và tiêu thụ nội địa. Sản phẩm chính là bàn, ghế các loại.
Từ ngày thành lập cho đến nay, quá trình kinh doanh của công ty ngày càng
phát triển, sản phẩm ngày càng đa dạng, chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng
cao. Khi mới thành lập, công ty chỉ có 150 lao động chính và thuê thêm lao động mùa
vụ, nhưng hiện nay công ty có 2762 cán bộ công nhân viên.
Tổng vốn kinh doanh: 261.001.160.007 đồng
Trong đó: Vốn tự có:
Vốn đi vay:
Tổng tài sản:

46.160.876.868 đồng
214.840.283.139 đồng
261.001.160.007 đồng

Trong đó: tài sản ngắn hạn: 204.089.669.162 đồng
Tài sản dài hạn: 56.911.490.845 đồng
Ban đầu công ty chỉ có Đại Thành I chuyên sản xuất nội thất xuất khẩu.Có
tổng diện tích khoảng 4.5ha, diện tích nhà xưởng 30.000m 2, giải quyết trên 600 công
nhân trực tiếp sản xuất. Dây chuyền, thiết bị máy móc hiện đại, nguyên liệu gỗ ổn định.
Công suất thiết kế 50 cont 40 feet/tháng. Chuyên sản xuất đồ gỗ trong nhà như: nội thất

phòng khách, phòng ăn, phòng ngủ…, với chất lượng cao về kết cấu kỹ thuật, thẩm mỹ
về kiểu dáng. Với nguyên liệu gỗ như: gỗ Sồi Mỹ, Eu, gỗ Xoan Mộc. Đồ gỗ trong nhà
chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, Úc, Châu Âu.
Sau đó diện tích công ty đã mở rộng quy mô với việc xây thêm nhà máy Đại
Thành II ra đời vào tháng 02/2004 đặt tại dốc Ông Phật, thuộc khu công nghiệp Phú
Tài, TP Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định. Chuyên sản xuất đồ gỗ ngoài trời xuất khẩu. Có
tổng diện tích 10.5ha, diện tích nhà xưởng 60.000m 2, giải quyết trên 1200 công nhân
trực tiếp sản xuất. Công suất thiết kế 100 cont 40 feet/tháng. Trong mỗi nhà máy có
nhiều phân xưởng, hệ thống sản xuất và kho thành phẩm.
Công ty hiện là hội viên của hiệp hôi sản xuất – xuất nhập khẩu gỗ và lâm sản
tỉnh Bình Định (thành lập ngày 24/09/1998), là hội viên chính thức của phòng Thương
SVTH: Đặng Thanh Tùng

23


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Nguyễn Bá Phước

mại và Công nghệ Việt Nam ngày 10/10/2003, là thành viên mạng lưới kinh doanh lâm
sản Việt Nam ngày 18/02/2008, là thành viên vủa hội Mỹ nghệ chế biến gỗ thành phố
Hồ Chí Minh.
Bảng 2.1. Công ty đã được một số danh hiệu sau
Năm
2004 - 2007

Thành tích
Đạt danh hiệu “Doanh nghiệp xuất khẩu uy tín” bốn năm liên tiếp do


2007

bộ trưởng bộ công thương trao tặng bằng khen và cúp
- Hội mỹ nghệ và chế biến gỗ thành phố Hồ Chí Minh tặng giấy ghi
nhận những đóng góp tích cực cho các hoạt động năm 2007.

2008

- Đạt giải thưởng “ Doanh nghiệp hội nhập và phát triển”
- Đạt danh hiệu “ Cúp vàng tóp 100 thương hiệu Việt hội nhập
WTO”, do liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam trao tặng.
- Đạt biểu tượng vàng vì sự nghiệp văn hóa doanh nghiệp Việt Nam

Mục đích và phát triển
Hoạt động sản xuất và kinh doanh của công ty cổ phần công nghệ gỗ Đại Thành
phát triển về quy mô và đạt kết quả thiết thực là do sự nổ lực tâm huyết với nghề của
toàn bộ tập thể cán bộ công nhân viên trong công ty, dưới lãnh đạo điều hành của ban
tổng giám đốc thông qua việc nghiên cứu thị trường mạnh dạn đầu tư cả về chiều sâu
lẫn chiều rộng để tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, hạ giá thành… đồng thời đẩy
mạnh công tác tìm kiếm thị trường cho cả đầu ra lẫn đầu vào, nắm bắt nhu cầu chính
xác và hợp lý. Khẩn trương xây dựng năng lực và tăng cường khả năng cạnh tranh, chủ
động đương đầu với những khó nhăn.
Mục tiêu phát triển tiếp theo:
 Nâng cao uy tín hơn nữa, trở thành đối tác tin cậy của khách hàng.
 Nâng cao năng lực điều hành quản lý, khoa học kỹ thuật… hướng đến phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao để hợp tác tốt hơn cho khách hàng.
 Xây dựng doanh nghiệp vững mạnh thông qua các chính sách ổn định, nâng
cao chất lượng cuộc sống và gia tăng thu nhập cho cán bộ, công nhân viên, củng cố
tinh thần đoàn kết, tinh thần xây dựng, lòng nhiệt tình sáng tạo.


SVTH: Đặng Thanh Tùng

24


Báo cáo thực tập tốt nghiệp
2.1.2.

GVHD: Nguyễn Bá Phước

Chức năng và nhiệm vụ của công ty cổ phần công nghệ gỗ Đại Thành

2.1.2.1. Chức năng của công ty
Công ty tăng kim ngạch xuất khẩu hàng năm cho tỉnh nhà, đảm bảo lợi nhuận
cho doanh nghiệp, góp phần công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Công ty cổ phần công nghệ gỗ Đại Thành được quyền sử dụng vốn, đất đai và
các nguồn lực khác do các thành viên sáng lập đóng góp để đạt được mục tiêu kinh
doanh trên nguyên tắc phát triển và bảo toàn vốn.
2.1.2.2. Nhiệm vụ của công ty
Để tồn tại và phát triển lâu dài trên thị trường, công ty phải có nghĩa vụ:
 Tổ chức thực hiện kinh doanh theo đúng pháp luật và quy định của nhà
nước.
 Xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh và chịu trách
nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
 Quản lý đội ngũ cán bộ, công nhân viên, phân phối thu nập hợp lý, chăm lo
đời sống vật chất, tinh thần cho toàn thể cán bộ công nhân viên.
 Thực hiện nghiêm chỉnh về bảo vệ môi trường, an toàn về lao động.
 Thực hiện tốt về nghĩa vụ đối với nhà nước.
 Để cạnh tranh và phát triển trên thị trường trong điều kiện mới, ban lãnh
đạo của công ty phải đề cao công tác tìm kiếm thị trường, phân tích đánh giá thị trường

để từ đó điều chỉnh, từng bước đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ lao động và
phương thức tổ chức quản lý kinh doanh để đạt được hiệu quả cao phù hợp với bối
cảnh thị thị trường hiện tại, đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường và của khách hàng.
 Đồng thời nghiên cứu và sáng tạo các loại mẫu mã hàng hóa, nâng cao chất
lượng sản phẩm và áp dụng chính sách giá cả hợp lý để ngày càng nâng cao uy tín của
khách hàng.
 Công ty phải bảo tồn và phát triển nguồn vốn nhằm tạo hiệu quả cho quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy tổ chức của công ty
2.1.3.1. Số cấp quản lý của công ty
SVTH: Đặng Thanh Tùng

25


×