Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO GIÁ TRỊ sản PHẨM TRONG MARKETING LÃNH THỔ ở TỈNH THÁI NGUYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.53 KB, 81 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA MARKETING

NCS. Phạm Công Toàn

CHUYÊN ĐỀ 3:
CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO GIÁ TRỊ SẢN PHẨM
TRONG MARKETING LÃNH THỔ Ở TỈNH THÁI NGUYÊN

CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ VÀ KẾ HOẠCH HOÁ KINH TẾ
QUỐC DÂN
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH (MARKETING)
MÃ CHUYÊN NGÀNH: 62.34.05.01

Hướng dẫn khoa học:
Hướng dẫn 1: GS, TS. Trần Minh
Đạo
Hướng dẫn 2: PGS, TS. Vũ Trí Dũng


Các giải pháp nâng cao giá trị sản phẩm trong marketing lãnh thổ ở tỉnh Thái Nguyên

MỤC LỤC

2


NCS. Phạm Công Toàn

Khoá 26 (2005 - 2008)



LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết và mục tiêu của vấn đề nghiên cứu
Cạnh tranh thu hút đầu tư phát triển giữa các quốc gia, vùng lãnh
thổ và các địa phương trong phạm vi quốc gia ngày càng trở nên gay
gắt trong xu hướng phát triển hiện nay.
Các nhà đầu tư, trong chuyên đề này còn sử dụng thuật ngữ khác
để thay thế là khách hàng trong marketing lãnh thổ, ngày càng lựa
chọn khắt khe hơn địa điểm đầu tư nhằm tìm kiếm những cơ hội kiếm
lời cao hơn.
Sản phẩm lãnh thổ là sức hút của địa phương đối với doanh
nghiệp. Bằng việc tiêu dùng sản phẩm lãnh thổ, các nhà đầu tư gia
tăng được giá trị và sức sinh lời của vốn đầu tư đã bỏ ra. Lựa chọn
được vùng lãnh thổ có sản phẩm mang lại giá trị sinh lời cao luôn là
sự mong mỏi của các nhà đầu tư.
Do vậy, các vùng lãnh thổ, các quốc gia và các địa phương cần
không ngừng nỗ lực đưa ra những sản phẩm lãnh thổ có giá trị đối với
các nhà đầu tư nhằm thu hút sự chú ý và sự sẵn sàng đầu tư của họ
nhằm phát triển kinh tế-xã hội của vùng lãnh thổ.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Chuyên đề tập trung nghiên cứu những sản phẩm của lãnh thổ có
khả năng thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư ở tỉnh Thái Nguyên.
Đồng thời, chuyên đề cũng nghiên cứu và đánh giá một số
chương trình xúc tiến đầu tư mà tỉnh Thái Nguyên đã thực hiện trong
thời gian qua.
3


Các giải pháp nâng cao giá trị sản phẩm trong marketing lãnh thổ ở tỉnh Thái Nguyên


- Phạm vi nghiên cứu
Chuyên đề chỉ nghiên cứu số liệu trong phạm vi không gian tỉnh
Thái Nguyên với khoảng thời gian 10 năm, 1996-2005.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp đánh giá so sánh và nghiên cứu tài liệu sẽ được sử
dụng chính thức trong phạm vi của chuyên đề này.
Với những mục đích như vậy, chuyên đề “Các giải pháp nâng
cao giá trị sản phẩm trong marketing lãnh thổ ở tỉnh Thái Nguyên” sẽ
đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao giá trị cho sản phẩm lãnh thổ
mà tỉnh Thái Nguyên có khả năng cung cấp nhằm thu hút sự đầu tư
của các nhà đầu tư tốt hơn trong giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội
hiện nay.
Trong chuyên đề này, các thuật ngữ “vùng”, “lãnh thổ” và “địa
phương” sẽ được dùng thay thế cho nhau để phù hợp với từng nội
dung của vấn đề nghiên cứu. Do vậy, các thuật ngữ “marketing
vùng”, “marketing lãnh thổ” và “marketing địa phương” cũng sẽ
được thay thế trong những vấn đề nghiên cứu một cách phù hợp, trong
đó, thuật ngữ marketing lãnh thổ được sử dụng ở phương diện tổng
quát nhất.
Chuyên đề được hoàn thành với sự hướng dẫn của GS,TS. Trần
Minh Đạo và PGS,TS. Vũ Trí Dũng - Khoa Marketing, Trường Đại
học Kinh tế quốc dân.
Nội dung của chuyên đề được trình bày trong ba phần chính sau:
Phần 1. Đánh giá một số chương trình xúc tiến đầu tư mà tỉnh
Thái Nguyên đã thực hiện trong thời gian qua

4



NCS. Phạm Công Toàn

Khoá 26 (2005 - 2008)

Phần 2. Những cơ sở để đề xuất giải pháp nâng cao giá trị sản
phẩm lãnh thổ ở tỉnh Thái Nguyên
Phần 3. Đề xuất một số giải pháp mang tính chiến lược nhằm
nâng cao giá trị sản phẩm lãnh thổ ở tỉnh Thái Nguyên với mục tiêu
thu hút đầu tư ngày càng hiệu quả hơn trong giai đoạn phát triển kinh
tế - xã hội hiện nay

5


Các giải pháp nâng cao giá trị sản phẩm trong marketing lãnh thổ ở tỉnh Thái Nguyên

PHẦN 1
ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ CHƯƠNG TRÌNH XÚC TIẾN ĐẦU TƯ
MÀ TỈNH THÁI NGUYÊN ĐÃ THỰC HIỆN TRONG THỜI
GIAN QUA
1. Đánh giá hiện trạng hoạt động xúc tiến đầu tư của tỉnh
Thái Nguyên trong giai đoạn 2001-2005
1.1 Các hình thức hoạt động xúc tiến đầu tư đã thực hiện
1.1.1 Các biện pháp thực hiện
- Phát hành rộng rãi các tài liệu quảng bá đầu tư như: sách tiềm
năng và cơ hội; sách giới thiệu các cơ chế chính sách khuyến khích
đầu tư; sách giới thiệu các khu công nghiệp nhỏ và giá thuê đất; các tờ
gấp giới thiệu chính sách đầu tư, giới thiệu tiềm năng thương mại du
lịch, khu công nghiệp Sông Công và một số huyện thành.
- Xây dựng danh mục 45 các dự án kêu gọi đầu tư và đề cương

sơ bộ.
- Sản xuất đĩa VCD giới thiệu tỉnh Thái Nguyên.
-

Xây

dựng

website

của

tỉnh

Thái

Nguyên

().
- Thực hiện các hoạt động truyền thông: báo, tạp chí chuyên san,
phóng sự truyền hình, phát thanh...
- Tổ chức Hội thảo Xúc tiến đầu tư tại Hà Nội, Hội thảo đầu tư
vùng Việt Bắc.
- Tổ chức Diễn đàn doanh nghiệp, các hội thảo trong tỉnh và các
huyện thành.
6


NCS. Phạm Công Toàn


Khoá 26 (2005 - 2008)

- Tổ chức và tham gia các hội chợ triển lãm đầu tư toàn quốc,
vùng, tỉnh ngoài và trong tỉnh.
- Tiếp xúc các nhà đầu tư nước ngoài.
- Tham quan học tập một số tỉnh bạn, nước bạn (Hàn Quốc).
1.1.2 Đánh giá kết quả thực hiện
Tuy có nhiều hình thức hoạt động nhưng hiệu quả chưa cao, lý
do:
- Tính chuyên nghiệp chưa cao.
- Hoạt động chưa có tầm chiến lược lâu dài, rời rạc và lúng túng
trong tổ chức cũng như nội dung thực hiện.
- Kinh phí đầu tư quá hạn hẹp, lại không chủ động xây dựng kế
hoạch trước.
1.2 Hệ thống tổ chức tham gia hoạt động xúc tiến đầu tư
Tham gia hoạt động xúc tiến đầu tư có nhiều tổ chức của tỉnh,
bao gồm:
- Các Ban chỉ đạo của tỉnh: Ban chỉ đạo Đề án cải thiện môi
trường đầu tư; Ban chỉ đạo Giải quyết nhanh các yêu cầu xúc tiến đầu
tư; Ban chỉ đạo Hội nhập kinh tế quốc tế;
- Cơ quan thường trực: Sở Kế hoạch và Đầu tư (thường trực về
xúc tiến đầu tư); Sở Thương mại & Du lịch (thường trực về xúc tiến
thương mại và du lịch).
- Chân rết thực hiện là các phòng ban các Sở và một số trung
tâm như: Trung tâm Tư vấn và Xúc tiến đầu tư; Trung tâm Xúc tiến
Thương mại và Du lịch; Trung tâm Hỗ trợ doanh nghiệp; Trung tâm
Xúc tiến việc làm. Ngoài ra còn một số trung tâm và hiệp hội liên
quan như Trung tâm Thông tin công nghệ; Trung tâm Thông tin Tài
7



Các giải pháp nâng cao giá trị sản phẩm trong marketing lãnh thổ ở tỉnh Thái Nguyên

nguyên và Môi trường; Trung tâm Hỗ trợ phát triển bền vững; Hội
doanh nghiệp trẻ; Hội doanh nghiệp nhỏ và vừa; Câu lạc bộ nữ doanh
nghiệp.
* Đánh giá tồn tại: Các đơn vị, tổ chức đều có chức năng và
nhiệm vụ được tỉnh giao trong đó có phần liên quan tới hoạt động xúc
tiến đầu tư. Tuy vậy, do chưa có một chương trình định hướng cho
hoạt động của các đơn vị nên chưa quy tụ được hoạt động của các đơn
vị, chưa phối hợp và phát huy được triệt để sự tham gia của các đơn
vị; còn thiếu một quy chế phối hợp giữa các đơn vị trong hoạt động
xúc tiến đầu tư chung của tỉnh.
1.3 Xây dựng thể chế chính sách nhằm hỗ trợ hoạt động xúc
tiến đầu tư
Trong thời gian qua, UBND tỉnh Thái Nguyên đã ban hành các
văn bản tạo hành lang pháp lý và khuyến khích hoạt động đầu tư, bao
gồm:
- Quyết định phê duyệt Đề án cải thiện môi trường đầu tư.
- Ban hành 12 văn bản quy phạm pháp luật về quy định, quy chế.
- Phê chuẩn 11 quy trình liên quan đến cải thiện môi trường đầu
tư, trong đó có một số chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài, ưu
đãi khuyến khích đầu tư trong nước, khuyến khích đầu tư trong khu
công nghiệp.
- Quyết định phê duyệt 3 quy hoạch về chương trình phát triển.
* Đánh giá: Nói chung đã ban hành nhiều cơ chế chính sách
trong các lĩnh vực, đã áp dụng một số. Tuy nhiên việc phổ biến một
cách công khai, rộng rãi chưa nhiều; áp dụng còn hạn hẹp, cứng nhắc,

8



NCS. Phạm Công Toàn

Khoá 26 (2005 - 2008)

thời gian tiến hành các thủ tục chưa nhanh, còn rườm rà, còn nhiều
đầu mối làm cho nhà đầu tư ngại đầu tư vào tỉnh.
1.4 Ngân sách dành cho hoạt động xúc tiến đầu tư:
Ngân sách dành cho hoạt động này còn rất hạn hẹp, đó là:
- Mới chỉ giải quyết cho Đề án cải thiện môi trường đầu tư theo
kế hoạch từng năm (khoảng 100 triệu), phần kinh phí cho xúc tiến
thương mại và các hoạt động của các ngành mang tính lồng ghép.
- Chưa có quỹ xúc tiến đầu tư dành cho kế hoạch ngân sách cấp
hàng năm thường xuyên cho hoạt động xúc tiến đầu tư.
1.5 Hiệu quả thu hút các dự án đầu tư kể từ sau Hội nghị xúc
tiến đầu tư
Kể từ sau Hội nghị xúc tiến đầu tư của tỉnh Thái Nguyên tổ chức
ở Hà Nội năm 2004, hiệu quả đạt được là rất đáng kể (chi tiết xem tại
phụ lục 1).
- Các dự án ký kết hợp tác thoả thuận tại Hội nghị được triển
khai đạt khoảng 6.000 tỷ đồng.
- Thêm một số dự án mới với số vốn hơn 1.000 tỷ đồng.
- Nhiều nhà đầu tư biết đến tỉnh Thái Nguyên, tìm hiểu và
đặt vấn đề đầu tư vào tỉnh.
- Các Sở, Ban, ngành, các tổ chức, các đơn vị tích cực hơn, chủ
động hơn trong phối hợp vận động đầu tư.
- Sự thân thiện giữa Lãnh đạo tỉnh với các doanh nghiệp, nhà
đầu tư được cải thiện rõ rệt.
- Các chương trình trọng điểm của tỉnh được chú ý đầu tư, công

tác quy hoạch được chú trọng hơn.
* Những hạn chế còn tồn tại từ kết quả đầu tư:
- Số dự án đầu tư nước ngoài, tỉnh ngoài thu hút vào tỉnh còn rất
ít. Các dự án đều có quy mô nhỏ.
- Triển khai các dự án đều rất chậm phần lớn là do ách tắc ở
khâu giải phóng mặt bằng.
- Một số dự án đang thực thi muốn mở rộng đầu tư nhưng thực
hiện chậm vì chưa được thuận lợi về các điều kiện hạ tầng: điện, nước,
đường giao thông, dịch vụ bưu chính viễn thông.
1.2 Chương trình xúc tiến đầu tư của tỉnh giai đoạn 20062010
(Chi tiết xem tại phụ lục 2)
1.2.1 Nội dung chương trình
9


Các giải pháp nâng cao giá trị sản phẩm trong marketing lãnh thổ ở tỉnh Thái Nguyên

1.2.1.1 Hoàn thiện các quy hoạch, cơ chế chính sách
- Rà soát và hoàn thiện các quy hoạch các khu công nghiệp; đô
thị, khu dân cư; khu du lịch; vùng nguyên liệu.
- Hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư trong và ngoài
Khu công nghiệp.
- Xây dùng Quy chế phối hợp hoạt động xúc tiến đầu tư.
- Ban hành Quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo giải quyết nhanh
các yêu cầu xúc tiến đầu tư.
1.2.1.2 Củng cố và tăng cường hệ thống tổ chức hoạt động
xúc tiến đầu tư
- Có phân công lãnh đạo trực tiếp chỉ đạo công tác xúc tiến đầu
tư từ tỉnh đến các sở ban ngành các cấp chính quyền địa phương.
- Có hệ thống cán bộ đầu mối xúc tiến đầu tư từ tỉnh đến các sở

ban ngành, các huyện thành, thị xã.
- Phân công cơ quan đầu mối xúc tiến đầu tư để triển khai
chương trình xúc tiến đầu tư của tỉnh.
- Tăng cường biên chế (ít nhất là 5-10 cán bộ cho một đơn vị)
hoạt động sự nghiệp ổn định ở các trung tâm liên quan trực tiếp hoạt
động xúc tiến đầu tư.
- Tăng cường hoạt động của Ban chỉ đạo, tổ chuyên viên giải
quyết nhanh.
- Tổ chức và hoạt động thường xuyên Ban tư vấn liên ngành đề
xuất với tỉnh ra nhanh chủ trương đầu tư phù hợp.
- Toàn bộ hệ thống tổ chức nêu trên đều hoạt động theo quy chế
phối hợp do UBND tỉnh ban hành và chỉ đạo thực hiện.
1.2.1.3 Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật
- Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho các trung tâm Xúc
tiến đầu tư, Xúc tiến Thương mại và Du lịch... (bố trí nhà văn phòng
làm việc, phương tiện ô tô đi lại, thiết bị văn phòng…).
- Đầu tư mở văn phòng đại diện tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh kể cả ở nước ngoài.
1.2.1.4 Nâng cao năng lực cán bộ
- Cử cán bộ tham dự các khoá đào tạo ngoại ngữ, quản lý, tin
học trong nước và nước ngoài để trở thành chuyên gia giỏi.
- Tổ chức thường xuyên tại tỉnh các lớp đào tạo, tập huấn luật,
chính sách, kỹ năng hợp tác đầu tư, …
1.2.1.5 Tiếp tục cải cách hành chính
- Triệt để thực hiện chế độ một cửa, một đầu mối, rút ngắn thời
gian giải quyết các thủ tục đầu tư, cung cấp thông tin.
10


NCS. Phạm Công Toàn


Khoá 26 (2005 - 2008)

- Đẩy mạnh cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư, cung cấp thông tin,
hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, tạo thuận lợi cho quá trình triển khai
dự án.
- Công khai quy trình thực hiện các thủ tục hành chính.
- Thực hiện thân thiện với doanh nghiệp và nhà đầu tư. Thay đổi
phong cách làm việc của khối quản lý nhà nước từ yêu cầu, kiểm tra,
giám sát sang đáp ứng, giúp đỡ và hướng dẫn cho các nhà đầu tư và
doanh nghiệp.
1.2.1.6 Đổi mới phương thức hoạt động xúc tiến đầu tư
- Tổ chức thường xuyên với tính chuyên nghiệp cao các sự kiện:
hội thảo, hội chợ, triển lãm, tiếp xúc các nhà đầu tư.
- Sử dụng tư vấn, chuyên gia Việt kiều, nước ngoài để biên soạn
các tài liệu ấn phẩm quảng bá đầu tư có hiệu quả, phù hợp với nhu cầu
của các nhà đầu tư: Tập bản đồ quy hoạch, sách giới thiệu tiềm năng
và cơ hội, các tờ gấp, đĩa VCD, DVD...
- Thực hiện tích cực, đẩy mạnh công tác truyền thông, thông tin
thường xuyên trên các phương tiện: Đài truyền hình, truyền thanh,
báo, tạp chí.
- Xây dựng dữ liệu thông tin đầu tư (các quy hoạch, bản đồ,
vùng nguyên liệu, số liệu thống kê, giá đất…) để cung cấp cho các nhà
đầu tư và vận động dự án.
- Sử dụng website để quảng bá đầu tư, diễn đàn trao đổi với các
nhà đầu tư trên mạng.
- Ưu tiên ngân sách đầu tư cho công tác quy hoạch và xây dựng
cơ sở hạ tầng, giải phóng mặt bằng, chuẩn bị sẵn quỹ đất cho các dự
án đầu tư triển khai đáp ứng nhanh và thuận lợi.
- Xây dựng khoảng 50 dự án đầu tư träng điểm và vận động đầu

tư theo dự án xây dựng.
- Xây dựng mối quan hệ thường xuyên với các tổ chức quốc tế,
các hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài, Việt kiều, các đại sứ quán,
tham tán thương mại tại Việt Nam.
- Tổ chức các cuộc tiếp xúc, tìm kiếm các nhà đầu tư, tổ chức đi
vận động đầu tư trong và ngoài nước.
- Tiến tới mở văn phòng đại diện của tỉnh ở một số trung tâm
đầu tư lớn và nước ngoài.
1.2.2 Tổ chức thực hiện
1.2.2.1 Tiến độ thực hiện

11


Các giải pháp nâng cao giá trị sản phẩm trong marketing lãnh thổ ở tỉnh Thái Nguyên

- Năm 2006: Thực hiện hoàn chỉnh nội dung 1, 2; thu hút vốn
đầu tư 2.000 - 3.000 tỷ đồng, thực hiện một bước các nội dung 3, 4, 5,
6.
- Năm 2007: Thực hiện hoàn chỉnh nội dung 3, 4; thu hút vốn
đầu tư 3.000 - 4.000 tỷ đồng, tiếp tục thực hiện hoàn thiện nội dung 5,
6.
- Năm 2008: Thực hiện hoàn chỉnh nội dung 5, 6 thu hút vốn đầu
tư 4.000-5.000 tỷ đồng.
- Năm 2009-2010: Nâng cấp các hoạt động của 6 nội dung, thu
hút 5.000-6.000 tỷ đồng, đánh giá tổng kết chương trình.
1.2.2.2 Phân công phối hợp thực hiện
- Thành lập Ban chỉ đạo Chương trình xúc tiến đầu tư của tỉnh
hoạt động theo quy chế riêng. Một đồng chí Lãnh đạo UBND tỉnh làm
Trưởng Ban chỉ đạo, Lãnh đạo Sở Kế hoạch & Đầu tư là Phó Ban

thường trực. Tổ chuyên viên giúp việc do Giám đốc Trung tâm Tư vấn
và Xúc tiến đầu tư là tổ trưởng.
- Cơ quan thường trực là Sở Kế hoạch và Đầu tư, làm nhiệm vụ
tham mưu và giúp UBND tỉnh chỉ đạo thực hiện chương trình. Đơn vị
đầu mối thực hiện chương trình là Trung tâm Tư vấn và Xúc tiến đầu
tư.
- Cơ quan phối hợp chính: Các Sở: Thương mại và Du lịch, Tài
chính, Công nghiệp, Xây dựng, Tài nguyên và Môi trường, Nông
nghiệp và PTNT, Ban quản lý các KCN, Văn phòng UBND tỉnh.
- Các cơ quan thành viên tham gia là các UBND các huyện,
thành thị có nhiệm vụ: Chủ động đề xuất các dự án vận động đầu tư
của ngành, địa phương mình; xây dựng kế hoạch hoạt động xúc tiến
đầu tư hàng năm, phối hợp tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư, tạo
điều kiện cho các nhà đầu tư triển khai dự án, tổng kết đánh giá hoạt
động xúc tiến đầu tư hàng năm của đơn vị.
1.2.2.3 Kinh phí hoạt động xúc tiến đầu tư
- Kinh phí cấp cho hoạt động xúc tiến đầu tư từ nguồn ngân sách
của tỉnh.
- Kinh phí cấp thường xuyên hàng năm theo kế hoạch chương
trình được duyệt.
- Trung tâm Xúc tiến đầu tư là đơn vị chịu trách nhiệm xây dựng
kế hoạch chương trình, sử dụng và quyết toán ngân sách nhà nước
hàng năm.
- Năm 2006 tạm cấp 800 triệu đồng cho hoạt động Xúc tiến đầu
tư. Từ năm 2007 trở đi sẽ cấp theo kế hoạch chương trình được duyệt.
12


NCS. Phạm Công Toàn


Khoá 26 (2005 - 2008)

1.2.2.4 Thưởng khuyến khích thu hút đầu tư
Thực hiện thưởng khuyến khích thu hút dự án đầu tư được triển
khai thực thi theo mức bình quân 01 triệu đồng /10 tỷ đồng thu hút.

13


Các giải pháp nâng cao giá trị sản phẩm trong marketing lãnh thổ ở tỉnh Thái Nguyên

PHẦN 2
NHỮNG CƠ SỞ ĐỂ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO GIÁ
TRỊ SẢN PHẨM LÃNH THỔ Ở TỈNH THÁI NGUYÊN
2.1 Những cở sở khách quan
2.1.1 Yêu cầu của bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
Kinh tế nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường từ năm
1986 kể từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, năm 1986. Công cuộc chuyển
đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế với xuất phát điểm gần
như bằng không khiến kinh tế nước ta gặp không ít khó khăn. Nhưng
thực sự, nền kinh tế nước ta chỉ thực sự khởi sắc và có bước ngoặt của
sự phát triển khi Hoa Kỳ chính thức xóa bỏ cấm vận đối với Việt Nam
sau 20 năm (1975-1995). Kể từ đó đến nay, Việt Nam đã tham gia
nhiều tổ chức khu vực và quốc tế dưới nhiều vai trò khác nhau, bao
gồm: ASEAN, AFTA,...
Tháng 11năm 2006, Việt Nam đã trở thành thành viên chính
thức của tổ chức Thương mại kinh tế Thế giới (WTO). Sự kiện này
đánh dấu một mốc quan trọng trong lịch sử kinh tế Việt Nam. Cũng từ
nay, kinh tế Việt Nam nhận được sự bình đẳng trên tất cả phương diện
kinh tế (theo điều ước đã ký kết). Người tiêu dùng trong nước có

nhiều cơ hội được dùng hàng hóa có nguồn gốc từ các quốc gia trên
thế giới. Các doanh nghiệp trong nước, một mặt có thêm nhiều cơ hội
kinh doanh trên thị trường quốc tế, một mặt phải đối mặt với sự cạnh
tranh khốc liệt.

14


NCS. Phạm Công Toàn

Khoá 26 (2005 - 2008)

2.1.2 Sự tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế - xã hội của các địa
phương lân cận và trong toàn quốc
Đi cùng với sự hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, dòng vốn
đầu tư của nước ngoài cũng ồ ạt chảy vào Việt Nam thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Kinh tế đất nước phát triển kéo theo kinh tế - xã hội
của các địa phương cũng đòi hỏi phải phát triển theo. Trong đó, sự
đóng góp của dòng đầu tư nước ngoài chảy vào địa phương là rất đáng
kể và đòi hỏi mỗi địa phương phải có những nguồn lực phù hợp đủ để
đón nhận những sự đầu tư đó.
Kinh tế địa phương phát triển kéo theo sự phát triển của xã hội.
Văn hóa được du nhập và hình thành nên sự đa dạng của văn hóa bản
địa. Người dân đã được hưởng lợi rất nhiều từ sự phát triển này, bên
cạnh đó cũng là sự “xâm lược” văn hóa, làm lu mờ đi phần nào hình
ảnh nét văn hóa của địa phương.
Giữa các địa phương có sự phát triển không đồng đều, và điều
này cũng là một sự tất yếu bởi nguồn lực cũng như tiềm lực phát triển
của mỗi địa phương là không giống nhau. Nhưng cũng chính từ sự
phát triển không đều này dẫn đến sự đòi hỏi vươn lên của các địa
phương có sự phát triển kinh tế - xã hội thấp hơn. Tuy nhiên, sự vươn

lên này là không ngừng bởi các địa phương đã phát triển vẫn tiếp tục
phát triển cao hơn nữa đòi hỏi các địa phương khác cũng phải nỗ lực
nhiều hơn để theo kịp nếu như không muốn bị bỏ lại quá xa. Đóng góp
cho sự phát triển đó tất yếu có sự đầu tư từ phía các nhà đầu tư từ bên
ngoài, và địa phương là đối trọng để đón nhận sự đầu tư đó.
2.1.3 Sự đa dạng hóa và phát triển không ngừng của nhiều
ngành kinh tế truyền thống và ngành kinh tế mới ở Việt Nam
15


Các giải pháp nâng cao giá trị sản phẩm trong marketing lãnh thổ ở tỉnh Thái Nguyên

Nếu như trước đây, nền kinh tế Việt Nam chỉ biết đến những
ngành thuộc lĩnh vực Nông nghiệp và Công nghiệp, trong đó Nông
nghiệp (trồng lúa thuần túy) và Công nghiệp nặng (luyện kim, cán
thép) chiếm tỷ trọng lớn, thì trong những năm gần đây, đặc biệt sau
khi Hoa Kỳ xóa bỏ cấm vận, kinh tế nước ta đã được biết đến những
ngành mới thuộc lĩnh vực Dịch vụ (Công nghệ thông tin, hàng không).
Đồng thời, các ngành trong các lĩnh vực Nông nghiệp và Công nghiệp
cũng ngày càng đa dạng hơn và thu hút ngày càng nhiều lao động
tham gia.
Những ngành kinh tế truyền thống như cán thép, luyện kim giờ
đây đã có uy tín trên thị trường với những thương hiệu mạnh như
Tisco, Hòa Phát. Sản phẩm của ngành cũng đa dạng và đạt tiêu chuẩn
chất lượng quốc tế có thể xuất khẩu.
Nông nghiệp cũng đã dạng ngành nghề với việc trồng cấy các
giống lúa cao sản có giá trị xuất khẩu. Những cây chồng, vật nuôi
ngày càng cho sản lượng và chất lượng cao.
Các ngành thuộc lĩnh vực Dịch vụ cũng ngày càng đa dạng và
hiện đại. Đặc biệt là các ngành ngân hàng - tài chính, viễn thông, điện

lực, công nghệ thông tin, hàng không và du lịch.
Sự phát triển của các ngành nghề đã thúc đẩy xã hội cũng phát
triển theo. Nó tạo cho kinh tế - xã hội quốc gia nói chung và kinh tế xã hội địa phương nói riêng những cơ hội và vận mệnh mới trên con
đường hội nhập với kinh tế khu vực và kinh tế quốc tế.
2.1.4 Sự đánh giá của các nhà đầu tư về môi trường kinh
doanh của địa phương

16


NCS. Phạm Công Toàn

Khoá 26 (2005 - 2008)

Trong những năm gần đây, trước nhu cầu đầu tư phát triển của
các vùng lãnh thổ, làn sóng đầu tư đã ồ ạt đổ vào các quốc gia. Cùng
với đó là sự đòi hỏi của các nhà đầu tư thì việc có được những đánh
giá về môi trường đầu tư của vùng lãnh thổ nào đó là rất cần thiết để
các nhà đầu tư có thể đưa ra quyết định đầu tư có lợi nhất.
Hàng năm, Diễn đàn kinh tế thế giới xếp hạng năng lực cạnh
tranh quốc gia để xếp hạng các quốc gia về môi trường đầu tư dựa trên
một số tiêu chuẩn nhất định. Việt Nam luôn được đánh giá không cao
ở Diễn đàn này.
Cùng với đó, kể từ năm 2005, trong nước cũng thực hiện đánh
giá môi trường đầu tư của các địa phương nhằm công khai với các nhà
đầu tư về môi trường đầu tư của các địa phương tại Việt Nam. Tuy
nhiên, Thái Nguyên luôn chỉ nằm trong vị trí xếp hạng trung bình về
môi trường đầu tư. Nó cũng thể hiện chất lượng sản phẩm lãnh thổ của
tỉnh Thái Nguyên chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư. Việc tìm cách
cải thiện môi trường đầu tư, hay hiểu theo cách khác là nâng cao giá

trị sản phẩm lãnh thổ luôn là bài toán được đặt ra đối với chính quyền
và nhân dân tỉnh Thái Nguyên trước yêu cầu của sự phát triển.
2.2 Những cơ sở của yêu cầu phát triển từ bên trong
2.2.1 Tiềm năng của tỉnh chưa được phát huy
2.2.1.1 Điều kiện tự nhiên
Thái Nguyên có diện tích đất tự nhiên không lớn với 3.541,1
km2, chiếm 1,13% diện tích cả nước. Có vị trí địa lý tương đối thuận
lợi: phía Bắc giáp tỉnh Bắc Kạn; phía tây giáp tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên
Quang; phía Đông giáp tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang; phía Nam giáp thủ
đô Hà Nội.
17


Các giải pháp nâng cao giá trị sản phẩm trong marketing lãnh thổ ở tỉnh Thái Nguyên

Địa hình đa dạng, có nhiều dãy núi cao chạy theo hướng Bắc Nam, thấp dần xuống phía Nam và chấm dứt ở đèo Khế. Cấu trúc
vùng núi phía Bắc chủ yếu là đá phong hoá mạnh (castơ) tạo thành
nhiều hang động, thung lũng nhỏ. Phía Tây Nam có dãy Tam Đảo với
đỉnh cao nhất 1.590m, các vách núi dựng đứng và kéo dài theo hướng
Tây Bắc - Đông Nam. Ngoài hai dãy núi kể trên, tỉnh còn có dãy Ngân
Sơn (bắt đầu từ Bắc Kạn chạy theo theo hướng Đông Bắc - Tây Nam
đến huyện Võ Nhai) và dãy núi Bắc Sơn chạy theo hướng Tây Bắc Đông Nam.
Khí hậu của Thái Nguyên chia làm 4 mùa: xuân, hạ, thu, đông.
Lượng mưa trung bình khoảng 200 mm/năm, cao nhất vào tháng 8
(400 mm) và thấp nhất vào tháng 1 (dưới 50 mm). Nhiệt độ chênh
lệch giữa tháng nóng nhất (tháng 6: 28,9oC) với tháng lạnh nhất (tháng
1: 15,2oC) là 13,7oC. Tổng số giờ nắng trong năm dao động trong
khoảng 1.300 - 1.750 giờ, phân phối tương đối đều cho các tháng
trong năm.
Tổng lượng mưa khá lớn, khoảng 6,4 tỷ m 3/năm. Theo thời gian,

lượng mưa tập trung khoảng 87% vào mùa mưa, trong đó riêng tháng
8 lượng mưa chiếm gần 30% tổng lượng mưa cả năm, vì vậy thường
gây ra những trận lũ lớn. Vào mùa khô, đặc biệt là tháng 12, lượng
mưa trong tháng chỉ bằng 0,5% lượng mưa cả năm.
Thái Nguyên có 2 sông chính là sông Công và sông Cầu, trong
đó:
Sông Cầu nằm trong hệ thống sông Thái Bình, có lưu vực 3.480
km2, bắt nguồn từ huyện Chợ Đồn (Bắc Kạn), chảy theo hướng Bắc Đông Nam. Hệ thống thuỷ nông sông Cầu (trong đó có đập dâng Thác
18


NCS. Phạm Công Toàn

Khoá 26 (2005 - 2008)

Huống) đảm bảo nước tưới cho 24 nghìn ha lúa 2 vụ của các huyện
Phú Bình (Thái Nguyên) và Hiệp Hoà, Tân Yên (Bắc Giang). Và
Sông Công có lưu vực 951 km2, bắt nguồn từ vùng núi Ba Lá (huyện
Định Hoá), chạy dọc theo chân núi Tam Đảo, nằm trong vùng mưa
lớn nhất của tỉnh. Dòng sông đã được ngăn lại ở Đại Từ, tạo thành Hồ
Núi Cốc, có mặt nước rộng khoảng 25km 2, dung lượng 175 triệu m3
nước, có tác dụng điều hoà dòng chảy và chủ động tưới tiêu nước cho
hơn 10 nghìn ha lúa 2 vụ, hoa màu, cây công nghiệp và cung cấp nước
sinh hoạt cho thành phố Thái Nguyên và thị xã Sông Công.
Ngoài ra, tỉnh còn có nhiều sông nhỏ thuộc hệ thống sông Kỳ
Cùng và sông Lô. Theo đánh giá của các cơ quan chuyên môn, trên
các con sông chảy qua tỉnh có thể xây dựng nhiều công trình thuỷ điện
kết hợp với thuỷ lợi quy mô nhỏ. Việc xây dựng các công trình này sẽ
góp phần thay đổi diện mạo nông thôn vùng cao.
Đất đai của Thái Nguyên có 3 loại chính là đất núi, đất đồi và

đất ruộng với tỷ trọng tương ứng là 48,4%, 31,4% và 12,4% diện tích
tự nhiên. Điều đáng lưu ý, diện tích đất chưa sử dụng ở Thái Nguyên
khá lớn, chiếm 22,18% diện tích đất tự nhiên. Diện tích đất này có khả
năng phát triển lâm nghiệp, nhất là mô hình trang trại vườn rừng. Đây
là tiềm năng, đồng thời cũng là nhiệm vụ lớn đặt ra cho tỉnh trong việc
khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên này.
Thái Nguyên có lợi thế trong khai thác và phát triển kinh tế rừng
với diện tích đất lâm nghiệp 152 nghìn ha (chiếm 43% diện tích đất tự
nhiên toàn tỉnh). Tuy nhiên, diện tích rừng của Thái Nguyên ngày
càng bị thu hẹp, tài nguyên rừng đang bị suy giảm đáng kể. Vầu, nứa
và các loại đặc sản rừng, dược liệu và động vật rừng bị giảm sút
19


Các giải pháp nâng cao giá trị sản phẩm trong marketing lãnh thổ ở tỉnh Thái Nguyên

nghiêm trọng. Thực trạng này đặt ra cho tỉnh Thái Nguyên nhiệm vụ
rất nặng nề trong việc bảo vệ, trồng mới rừng.
Theo tài liệu điều tra của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh,
Thái Nguyên có tiềm năng rất lớn về khoáng sản, phân bố tập trung tại
các huyện Đại Từ, Phú Yên, Đồng Hỷ và Võ Nhai. Trong đó tập trung
nhiều là các loại khoáng sản nhiên liệu (than trữ lượng 71,9 triệu tấn),
khoáng sản kim loại (kim loại đen, màu và kim loại quý hiếm, trữ
lượng trên 50 triệu tấn), khoáng sản phi kim (đá các loại, trữ lượng
trên 300 triệu tấn; sét và cao lanh, trữ lượng trên 60 triệu tấn).
Tài nguyên du lịch của Thái Nguyên rất đa dạng. Trong đó, hồ
Núi Cốc với diện tích 25km2 cùng nhiều đảo lớn nhỏ trong lòng hồ đã
mở ra tiềm năng du lịch lớn nhất tỉnh. Khu du lịch hồ Núi Cốc cách
thành phố Thái Nguyên 20km về phía Tây, với phong cảnh sơn thuỷ
hữu tình đã trở thành khu du lịch lớn nhất của tỉnh, thu hút đông đảo

du khách đến thăm quan, nghỉ dưỡng, kéo theo sự phát triển của các
loại hình du lịch, tạo thêm nhiều việc làm cho người dân địa phương,
đồng thời mang lại cho tỉnh khoản thu không nhỏ. Ngoài ra, Thái
Nguyên còn có bãi đá cổ Thần Sa, Mái Đá Ngườm, nơi được coi là cái
nôi của người tiền cổ. Cùng với đó, hang Phượng Hoàng, suối Mỏ Gà,
thác Mưa Roi (huyện Võ Nhai), thác Bảy Tầng, cây đa nghìn tuổi
(huyện Định Hoá),... là những tiềm năng du lịch lớn của tỉnh.
Thái Nguyên còn có tài nguyên du lịch nhân văn khá lớn với
nhiều di tích lịch sử, công trình kiến trúc, nghệ thuật, phong tục, tập
quán, lễ hội, truyền thống văn hoá đặc sắc của đồng bào các dân tộc
thiểu số,.. Thái Nguyên là nơi có truyền thống cách mạng lâu đời, thủ
đô kháng chiên - “Thủ đô gió ngàn” trong kháng chiến chống thực dân
20


NCS. Phạm Công Toàn

Khoá 26 (2005 - 2008)

Pháp. An toàn khu (ATK) với nhiều địa danh như: đồi Tỉn Keo - nơi
chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và làm việc; khu nhà làm việc của Bộ
Chính trị, Bộ Quốc phòng, ... là những di tích lịch sử vô cùng quý giá.
Bên cạnh đó, với vị trí là trung tâm văn hoá của các dân tộc thiểu số
miền núi, có Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam, Thái Nguyên có
lợi thế lớn để phát triển đa dạng các loại hình du lịch. Nhân dịp kỷ
niệm 115 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ và nhân
dân thủ đô Hà Nội tặng thủ đô kháng chiến Nhà tưởng niệm Hồ Chí
Minh (công trình văn hoá - lịch sử có ý nghĩa giáo dục sâu sắc đối với
thế hệ hôm nay và mai sau).
2.2.1.2 Điều kiện xã hội

Tỉnh Thái Nguyên bao gồm 7 huyện (Phổ Yên, Phú Bình, Đại
Từ, Định Hoá, Phú Lương, Võ Nhai và Đồng Hỷ), 1 thành phố trực
thuộc tỉnh (thành phố Thái Nguyên) và 1 thị xã (thị xã Sông Công).
Dân số tỉnh Thái Nguyên có khoảng 1,1 triệu dân, gồm 8 dân
tộc, chủ yếu là người Kinh (chiếm khoảng 75%). Mật độ dân số trung
bình 260 người/km2, cao nhất trong các tỉnh miền núi phía Bắc.
Hệ thống giao thông thuận lợi tạo điều kiện cho Thái Nguyên
đẩy mạnh giao lưu kinh tế, văn hoá - xã hội với các địa phương khác
trong vùng và cả nước. Hệ thống đường bộ của tỉnh có tổng chiều dài
2.753km. Quốc lộ 3 từ Hà Nội đi Bắc Kạn, Cao Bằng cắt dọc tỉnh
Thái Nguyên, chạy qua thành phố Thái Nguyên - cửa ngõ phía Nam
nối Thái Nguyên với Hà Nội, các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ và các tỉnh,
thành phố trong cả nước. Các quốc lộ 37, 1B, 279 cùng với hệ thống
tỉnh lộ, huyện lộ là những mạch máu quan trọng nối Thái Nguyên với
các tỉnh trong vùng. Tuyến đường sắt Long Biên - Quán Triều là đầu
21


Các giải pháp nâng cao giá trị sản phẩm trong marketing lãnh thổ ở tỉnh Thái Nguyên

mối giao lưu quan trọng giữa vùng đồng bằng sông Hồng với Khu
công nghiệp Sông Công, Khu gang thép Thái Nguyên và thành phố
Thái Nguyên. Hệ thống đường thuỷ có 2 tuyến sông chính đi Hải
Phòng và Hòn Gai (Quảng Ninh), rất thuận lợi cho việc vận chuyển
hàng hoá từ Thái Nguyên đến hai cảng lớn là Hải Phòng và Cái Lân
(Quảng Ninh).
Thái Nguyên có 8 trường đại học và tương đương thuộc Đại học
Thái Nguyên, 14 trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy
nghề, Thái Nguyên là trung tâm đào tạo khoa học và giáo dục lớn thứ
ba cả nước (đứng sau thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh).

Mặc dù có được những thế mạnh cả về tự nhiên và xã hội như
vậy nhưng những thành quả về kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên
trong nhiều năm qua vẫn được đánh giá là chưa tương xứng với tiềm
năng của sự phát triển.
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 10 và 11 đều chỉ rõ nhiệm vụ cho
chính quyền tỉnh phải nhanh chóng có những biện pháp đưa Thái
Nguyên trở thành trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa xã hội của
khu vực miền núi phía Bắc và có ảnh hưởng sâu rộng đến các tỉnh,
thành phố khác trong khu vực, lấy mục tiêu thu hút đầu tư phát triển
và ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp là thế mạnh của tỉnh.
Trong những năm gần đây, nhiệm vụ đó đã được cụ thể hóa
bằng những hoạt động và việc làm cụ thể. Tỉnh đã hoàn thành bản đề
án Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh đến năm 2020,
trong đó đã đề ra những mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể cho từng giai
đoạn. Đồng thời, chính quyền tỉnh cũng không ngừng nỗ lực trong các
22


NCS. Phạm Công Toàn

Khoá 26 (2005 - 2008)

hoạt động xúc tiến thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài. Cử
các đoàn cán bộ cấp cao của tỉnh đi học hỏi kinh nghiệm quản lý và
thu hút đầu tư ở các tỉnh bạn trong nước và nước ngoài và đã thu được
những bài học quý.
Mặc dù vậy, thực tế triển khai còn đòi hỏi tỉnh Thái Nguyên rất
nhiều để vượt qua những trở ngại và thách thức, đặc biệt là những khó
khăn về ngân sách tài chính. Có rất nhiều hoạt động chính quyền tỉnh
nhận thức được là quan trọng như việc gấp rút hoàn thành đường cao

tốc quốc lộ 3 mới (đoạn Thái Nguyên - Hà Nội) hay như quy hoạch
hoàn chỉnh Khu công nghiệp Sông Công, nhưng ngân sách của tỉnh
không đủ để làm như vậy và phải trông chờ từ phía các nhà đầu tư.
2.2.2 Đòi hỏi tất yếu của xã hội
2.2.2.1 Nhu cầu của người dân được sống trong một xã hội
phát triển, hiện đại
Cơ sở hạ tầng của tỉnh nghèo nàn, một số cơ sở đã trở thành lạc
hậu nhưng chưa được nâng cấp trong một thời gian dài. Sự lạc hậu
này kéo theo sự trì trệ của hoạt động thông thương của tỉnh với địa
phương khác trong cả nước.
Các ngành dịch vụ (giáo dục đào tạo, pháp lý, ngân hàng - tài
chính, bảo hiểm, y tế, sức khỏe cộng đồng, dịch vụ chuyên trở, du lịch
khách sạn, thể thao, giải trí) hiện có của tỉnh còn ở bậc thấp và chưa
đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người dân địa phương. Điều
này dẫn đến tình trạng người dân tìm đến các địa phương khác để sử
dụng các dịch vụ đó, gây thất thoát đáng kể lượng vốn bẳng tiền và
hao phí nhân lực.

23


Các giải pháp nâng cao giá trị sản phẩm trong marketing lãnh thổ ở tỉnh Thái Nguyên

2.2.2.2 Ngành nghề phát triển mạnh đòi hỏi phải có sự tiếp
nhận và quản lý tốt từ chính quyền địa phương
Sự hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước kéo theo các ngành
nghề cũ và mới phát triển mạnh mẽ và có sức ảnh hưởng lan tỏa sâu
rộng tới tất cả các địa phương trong cả nước, trong đó có Thái
Nguyên.
Sự tấn công ồ ạt của các ngành nghề mới và hiện đại khiến chính

quyền các địa phương (đang quen với cách làm cũ) không kịp phản
ứng để bắt nhịp cùng sự phát triển. Kết quả là địa phương vẫn chậm
phát triển và những ngành nghề đó cũng dần rút khỏi sự hiện diện tại
địa phương. Và hậu quả là người dân địa phương vẫn bị chìm trong sự
cũ kỹ và lạc hậu bởi trình độ yếu kém của đội ngũ cán bộ quản lý. Sự
yếu kém này thể hiện rõ nét nhất trong việc lãnh đạo địa phương
không dám tự ra quyết định và tự chịu trách nhiệm bởi sự thiếu hiểu
biết hoặc thiếu đội ngũ tư vấn có trình độ và quan trọng hơn cả là trình
độ nhận thức không theo kịp những đòi hỏi của thời kỳ phát triển.
Những đòi hỏi của sự phát triển kinh tế - xã hội buộc những địa
phương như tỉnh Thái Nguyên phải có những biện pháp tích cực và cụ
thể hơn nữa để phát huy thế mạnh của địa phương và thúc đẩy kinh tế
địa phương phát triển, đồng thời kéo theo xã hội cũng phát triển theo
kịp và vượt lên so với các địa phương khác trong cả nước.
Những giải pháp được đề xuất trong chuyên đề này, được nhìn
nhận dưới góc độ của marketing ứng dụng cho các vùng lãnh thổ với
mục tiêu thu hút đầu tư, sẽ góp phần đưa ra một cách nhìn mới về
những gì mà một địa phương như tỉnh Thái Nguyên có thể thực hiện

24


NCS. Phạm Công Toàn

Khoá 26 (2005 - 2008)

để thu hút ngày càng hiệu quả các nguồn lực đầu tư phát triển từ bên
ngoài, phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

25



×