Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Đạo đức nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với đạo đức xã hội Việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.55 KB, 25 trang )

Đạo đức ho giáo và ảnh hưởng
của nó đối với đạo đức xã hội Việt am /
guyễn Thị Thủy
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nho giáo ra đời ở Trung Quốc thời cổ đại, do Khổng Tử (551 - 479
TCN) sáng lập. Nho giáo du nhập vào Việt Nam từ trước công nguyên.
Trong quá trình hình thành và phát triển của xã hội Việt Nam, đặc biệt là từ
thế kỷ XI đến thế kỷ XIX, các triều đại phong kiến Việt Nam đã tiếp nhận,
sử dụng Nho giáo làm cơ sở cho hệ tư tưởng, làm công cụ trị nước, giáo dục,
đào tạo con người cho phù hợp với yêu cầu, mục đích của giai cấp phong
kiến thống trị.
Với tính cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội, Nho giáo
đã ảnh hưởng tới nhiều mặt, nhiều lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội và
con người Việt Nam. Trong đó có một lĩnh vực rất cơ bản là đạo đức Nho
giáo. Dấu ấn đạo đức Nho giáo ở Việt Nam được thể hiện trong lịch sử tư
tưởng, trong lĩnh vực chính trị - đạo đức, trong lĩnh vực đào tạo và đánh giá
con người.
Từ khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới (1986) đến nay, bên cạnh
những thành tựu lớn về kinh tế, về đời sống, về nhận thức chủ nghĩa xã hội
thời kì quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, chúng ta còn bộc lộ những
yếu kém. Trong các yếu kém ấy, có nhiều yếu kém về đạo đức. Nguyên
nhân sự yếu kém về đạo đức, đa số các nhà nghiên cứu cho rằng có nguyên
nhân lịch sử là do ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo.
Có người cho rằng do ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo; có người cho
rằng do chúng ta phê phán, bài xích Nho giáo; có người nêu lên giải pháp
hiện nay ta cần áp dụng triệt để công thức công nghệ chủ nghĩa tư bản với
mô hình quản lý xã hội của các nước phát triển có truyền thống Nho giáo.
Qua đó cho thấy việc đánh giá ảnh hưởng của Nho giáo nói chung, đặc biệt
là đạo đức Nho giáo ở Việt Nam trong lịch sử và hiện nay có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn cấp bách đối với sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Có như
vậy, chúng ta mới thực hiện được “quan điểm phát triển” kinh tế, văn hóa,


xã hội như Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI đã nêu lên. Để thực hiện
1


nhiệm vụ ấy, việc có ý nghĩa quan trọng là phải nghiên cứu sự ảnh hưởng
đạo đức Nho giáo đối với đạo đức xã hội Việt Nam.
Xuất phát từ yêu cầu của lý luận cũng như của thực tiễn công cuộc đổi
mới, chúng tôi chọn vấn đề “Đạo đức ho giáo và ảnh hưởng của nó đối với
đạo đức xã hội Việt am” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ.

2


2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Ảnh hưởng của Nho giáo nói chung và ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo
nói riêng vào xã hội Việt Nam từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên
cứu. Kết quả nghiên cứu rất phong phú, xin khái quát một số phương diện:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu thông qua các tài liệu kinh điển
của ho giáo, tiêu biểu là các tác giả Phan Bội Châu, Trần Trọng Kim, Đào
Duy Anh, Quang Đạm. Khổng học đăng của Phan Bội Châu và ho giáo
của Trần Trọng Kim là những cuốn trình bày khá hệ thống về Nho giáo và
cho rằng Nho giáo là học thuyết chính trị - xã hội và học thuyết đạo đức, coi
đạo đức của Nho giáo có vai trò to lớn trong việc giáo dục, hoàn thiện đạo
đức con người. Khổng giáo phê bình tiểu luận của Đào Duy Anh cho rằng
cần có thái độ khách quan, toàn diện, khoa học khi nghiên cứu Nho giáo;
không nên có thái độ phủ định sạch trơn Nho giáo. ho giáo xưa và nay của
Quang Đạm là một công trình lớn nghiên cứu về Nho giáo. Các tư tưởng lớn
của Nho giáo trong gũ Kinh, Tứ Thư đã được tác giả phân tích khá sâu sắc.
Riêng nội dung đạo đức Nho giáo tác giả đã làm sáng tỏ một số vấn đề quan
trọng, đó là quan niệm của Nho giáo về đạo và đức, quan điểm của Nho giáo

về Ngũ luân, Ngũ thường.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đem lại nhiều bổ ích cho
những người quan tâm và nghiên cứu Nho giáo. Tuy nhiên, do nhiều điều
kiện chi phối, chưa có tác giả nào nghiên cứu một cách có hệ thống ảnh
hưởng của đạo đức Nho giáo đến đạo đức xã hội Việt Nam. Vì vậy, việc tiếp
tục nghiên cứu vấn đề trên là đòi hỏi của thực tiễn.
Thứ hai, nghiên cứu ảnh hưởng của ho giáo vào Việt am từ đầu công
nguyên, đặc biệt là từ khi nước ta giành được độc lập dân tộc đến đầu thế kỷ
XX. Theo hướng này, các tác giả Đào Duy Anh, Cao Xuân Huy, Vũ Khiêu,
Phan Đại Doãn, Nguyễn Tài Thư, Trần Đình Hượu, Chương Thâu, Cao Huy
Đỉnh, Lê Văn Lan, Đặng Thai Mai, Lê Sỹ Thắng, Nguyễn Khắc Viện,
Nguyễn Đức Sự, Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Đức Qùy, Chu Đình Xương,
Nguyễn Thanh Bình đã công bố các kết quả được viết thành sách hoặc bài
đăng các tạp chí đem lại nhiều bổ ích cho những ai quan tâm, nghiên cứu
Nho giáo. Các tác giả cho rằng ảnh hưởng của Nho giáo vào Việt Nam từ
đầu công nguyên, đặc biệt là từ thế kỉ XI đến thế kỷ XIX. Nội dung ảnh
hưởng bao gồm chính trị, đạo đức, giáo dục là đậm nét nhất. Riêng ảnh
hưởng của đạo đức Nho giáo, cuốn Tư tưởng phương Đông gợi những điểm
nhìn tham chiếu của cố giáo sư Cao Xuân Huy cho rằng: “Nho giáo là hình
thái ý thức của giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến ở Trung Quốc và
3


Việt Nam”. Trong đó, “ngũ luân, ngũ thường hay tam cương, ngũ thường là
những cái tuyệt đối, hằng tồn, phổ biến”. Cuốn Bản sắc văn hóa Việt am,
giáo sư Phan Ngọc cho thấy các phạm trù chính trị - đạo đức cơ bản của
Nho giáo như: Trung, hiếu, nhân, nghĩa, nhà, nước khi vào Việt Nam đã
bị khúc xạ, đã được người Việt Nam tiếp và biến nó. Vì vậy, các phạm trù
này ở các nhà Nho Việt Nam có nội dung rộng, phong phú hơn, mang nhiều
yếu tố nhân văn hơn. Nhờ vậy, Nho giáo mới đóng một vai trò quan trọng

đối với lịch sử của dân tộc. Cuốn Một số vấn đề về ho giáo Việt am do
giáo sư Phan Đại Doãn chủ biên có nhận định rằng: “Nho giáo vào Việt
Nam không còn nguyên vẹn như ở Trung Quốc, đã được Việt Nam hóa. Các
nhà Nho Việt Nam nặng về tiếp thu luân lý đạo đức, chủ yếu về hiếu,
nghĩa”. Cuốn ho học và ho học Việt am của giáo sư Nguyễn Tài Thư đã
nhận định rằng tư tưởng chính trị, tư tưởng đạo đức là những lĩnh vực tư
tưởng phản ánh quyền lợi của giai cấp phong kiến nên những bộ phận này in
đậm dấu ấn của Nho giáo so với Phật giáo. Tuy vậy, trong hướng nghiên
cứu này, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống, đầy đủ
vấn đề ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với đạo đức xã hội Việt Nam.
Vì vậy, kế thừa những kết quả đã có để theo hướng đề tài luận văn đã xác
định là cần thiết.
Thứ ba, nghiên cứu đạo đức ho giáo và ảnh hưởng của nó đối với đạo
đức xã hội Việt am.
Theo hướng này, các tác giả Vũ Khiêu, Trần Văn Giàu, Phan Đại Doãn,
Đào Duy Anh, Hà Thúc Minh, Trần Văn Thụy, Nguyễn Thị Thanh Mai,
Trần Thị Hồng Thúy, Trần Đình Thảo đã nghiên cứu và đề cập.
Cuốn ho giáo và đạo đức của giáo sư Vũ Khiêu đã chỉ rõ chủ đích của
những người theo đạo Nho là biết đạo để hành. Để biết đạo, phải tham gia
vào công tác chính trị, giữ một chức trách nhất định trong bộ máy thống trị nghĩa là ra làm quan, làm quan để có cương vị mà hành đạo chứ không phải
để làm giàu. Nho giáo gắn với đạo đức, với chính trị, đem đạo đức phục vụ
chính trị. Bài “Đạo đức ho giáo và đạo đức truyền thống Việt am” của
giáo sư Trần Văn Giàu đã chỉ rõ đạo đức truyền thống Việt Nam có mối liên
hệ mật thiết với đạo đức Nho giáo, nhưng đó là mối liên hệ kế thừa, lọc bỏ,
phát triển. Nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo là Ngũ luân và Ngũ
thường. Tiêu điểm của mọi tiêu điểm, giá trị của mọi giá trị của nền đạo đức
truyền thống là chủ nghĩa yêu nước. Đạo đức truyền thống là một trong
những điều kiện cho đạo đức cách mạng phát triển. Trong quá trình phát
triển đạo đức cách mạng phải gạt bỏ những yếu tố của đạo đức Nho giáo để
4



lại. Bài “Góp phần phê phán lễ giáo phong kiến” của giáo sư Hà Thúc Minh
đã chỉ rõ thực chất của phạm trù lễ là sự ràng buộc, đè nén, kìm hãm hoạt
động và nhu cầu của con người; là sự tượng trưng cho sự giáo điều, đẳng
cấp; là phương tiện cứu cánh của Nho giáo. Tàn dư của lễ giáo ở Việt Nam
vẫn còn, cần phải phê phán. Bài “Cha ông ta đã tiếp thu những gì tích cực ở
các ý thức hệ phong kiến của Trung Quốc” của Trương Chính đã gợi mở
cho chúng ta một cách kế thừa những yếu tố tích cực của Nho giáo về vấn
đề con người, đạo làm người trên cơ sở thực tiễn xã hội Việt Nam. Những tư
tưởng Nho giáo vì dân, trọng dân cũng được cha ông ta kế thừa nhằm hạn
chế quyền lực của giai cấp thống trị. Tuy vậy, trong hướng nghiên cứu này,
chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống ảnh hưởng của
đạo đức Nho giáo đối với đạo đức xã hội Việt Nam. Vì vậy, kế thừa các kết
quả đã có, việc tiếp tục nghiên cứu theo hướng của đề tài luận văn xác định
là cần thiết, góp phần cho xu hướng nghiên cứu này toàn diện hơn.
Với tên đề tài đã được xác định, luận văn sẽ đi sâu trình bày hệ thống
nội dung đạo đức Nho giáo, hệ thống đạo đức xã hội Việt Nam có: đạo đức
Nho giáo ở Việt Nam, đạo đức truyền thống Việt Nam và đạo đức mới Việt
Nam. Trên cơ sở ấy trình bày những ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối
với đạo đức truyền thống và đạo đức mới của xã hội Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
- Làm rõ nội dung đạo đức Nho giáo; nội dung đạo đức Nho giáo Việt
Nam; nội dung đạo đức truyền thống, đạo đức mới của Việt Nam.
- Làm rõ những ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với đạo đức
truyền thống và đạo đức mới của Việt Nam.
* hiệm vụ: Trên cơ sở mục đích nghiên cứu, luận văn nhằm làm rõ:
- Nội dung đạo đức Nho giáo
- Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với đạo đức truyền thống Việt Nam.

- Những ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với đạo đức mới Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
- Đạo đức Nho giáo
- Ảnh hưởng của nó đối với đạo đức xã hội Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Tư tưởng đạo đức Nho giáo thời Đông Chu
- Tư tưởng đạo đức Nho giáo từ thời nhà Hán về sau.
5


- Đạo đức Nho giáo ở Việt Nam, đạo đức truyền thống và đạo đức mới
của Việt Nam.
- Những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của đạo đức Nho giáo đối với
đạo đức truyền thống và đạo đức mới của Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là phương pháp
luận của triết học duy vật biện chứng, trong đó các nguyên tắc cơ bản được
thực hiện là: thống nhất giữa quy nạp và diễn dịch; thống nhất giữa phân
tích, tổng hợp; thống nhất giữa lịch sử - lôgic. Đồng thời, luận văn sử dụng
một số phương pháp khoa học khác như: đối chiếu, so sánh, khái quát hóa,
trừu tượng hóa
6. Đóng góp cái mới của luận văn
- Nêu lên tương đối có hệ thống nội dung đạo đức Nho giáo, đạo đức
Nho giáo ở Việt Nam, đạo đức truyền thống và đạo đức mới Việt Nam.
- Nêu lên tương đối rõ những ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với
đạo đức truyền thống và đạo đức mới của Việt Nam.
* Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Trên cơ sở làm rõ nội dung đạo đức Nho giáo, đạo đức Nho giáo ở
Việt Nam, đạo đức truyền thống và đạo đức mới Việt Nam, luận văn làm rõ

mối quan hệ giữa đạo đức Nho giáo với đạo đức xã hội Việt Nam, làm rõ sự
khác biệt của đạo đức xã hội Việt Nam. Chính sự khác biệt ấy là bản sắc đạo
đức của dân tộc Việt Nam.
- Luận văn dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ học tập, nghiên cứu,
giảng dạy học tập Nho giáo cũng như triết học phương Đông và lịch sử tư
tưởng Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1. Đạo đức Nho giáo
Chương 2. ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với đạo đức truyền
thống Việt Nam
Chương 3. ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với đạo đức mới Việt
Nam.

6


Chương 1
ĐẠO ĐỨC HO GIÁO
1.1. Điều kiện ra đời đạo đức ho giáo
1.1.1. Cơ sở kinh tế - xã hội của sự hình thành đạo đức ho giáo
Thời cổ đại Trung Quốc đã trải qua các triều đại: Nhà Hạ, nhà Thương,
nhà Chu. Nhà Hạ khoảng thế kỷ XXII đến thế kỷ XVII TCN. Nhà Thương
khoảng tử thế kỷ XVIII đến thế kỷ XII TCN. Nhà Chu từ 1135 đến năm 221
TCN. Nhà Chu được chia thành hai thời kỳ: Tây Chu, khoảng từ 1135 - 770
TCN và Đông Chu khoảng từ 770 - 221 TCN. Xã hội Tây Chu là xã hội
thịnh vượng về kinh tế, ổn định về chính trị - xã hội; đạo đức, kỷ cương
được giữ vững.
Thời Đông Chu (hay còn gọi là thời Xuân Thu - Chiến Quốc) là thời kỳ

xã hội chiếm hữu nô lệ theo kiểu phương Đông bắt đầu suy tàn và chế độ
phong kiến sơ kỳ đang hình thành, thể chế chính trị - xã hội và những quy
tắc đạo đức xã hội lỗi thời, những thể chế và những quy tắc đạo đức xã hội
mới còn manh nha.
Chính do sự giao thời giữa hai chế độ đó đã gây nên những đảo lộn, cản
trở của xã hội:
Về lĩnh vực kinh tế: Do công cụ đồ sắt phổ biến nên phân công lao động
xã hội phát triển, các ngành nghề thủ công ra đời. Do nông nghiệp và thủ
công nghiệp phát triển, việc trao đổi, mua bán hàng hóa giữa các vùng, các
nước hình thành, ngành thương nghiệp ra đời.
Về lĩnh vực chính trị - xã hội: Kinh tế phát triển đã tác động mạnh đến
lĩnh vực chính trị - xã hội. Sự tác động rõ rệt của kinh tế đối với chính trị xã hội là các hình thức sở hữu ruộng đất và kết cấu giai cấp của xã hội. Hệ
quả của sự tác động ấy là mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị bóc lột với giai
cấp nông dân và các tầng lớp bị trị khác ngày càng gay gắt. Thời Tây Chu,
ruộng đất là của vua. Thời Đông Chu, quyền sở hữu tối cao, tuyệt đối bị giai
cấp địa chủ mới ra đời chiếm dụng, tình trạng thiên tử không nắm được “đất
của vua” và “tôi của vua” đã làm cho giai cấp quý tộc nhà Chu suy yếu về
địa vị và vai trò chính trị đối với xã hội. Gần như cả thời Xuân Thu “chư hầu
trở thành lãnh chúa, các đức quân trong đó có những kẻ trội lên trở thành
bá”. Khắp thiên hạ, các nước chư hầu gây chiến tranh liên miên vô cùng tàn
khốc nhằm thôn tính, tranh giành địa vị của nhau. Cục diện mới của xã hội
xuất hiện. Cảnh tôi giết vua, con hại cha, anh em vợ chồng chia lìa nhau
7


thường xuyên xảy ra. Thiên hạ trở nên “vô đạo”, trật tự lễ nghĩa, cương
thường của xã hội bị đảo lộn.
Hoàn cảnh lịch sử Đông Chu rối ren, loạn lạc, xáo trộn cái cũ với cái
mới, cái tụt xuống với cái trồi lên như vậy chính là hoàn cảnh lịch sử thúc
đNy và chứng kiến sự ra đời của nhiều đạo lý xử thế, nhiều trường phái triết

học và tôn giáo, trong đó có đạo lý triết học chính trị, đạo đức của N ho giáo.
1.1.2. Cơ sở tư tưởng của sự hình thành đạo đức ho giáo
Thời Tây Chu, tôn giáo, chính trị, đạo đức đã ra đời. Về tôn giáo, thời Tây
Chu đề cao tư tưởng “kính trời”, “hợp mệnh trời”, “thờ thượng đế”, “trời
người hợp nhất”. Họ cho rằng, “trời” là là lực lượng có nhân cách, có ý chí và
uy quyền tuyệt đối. Về chính trị, các nhà tư tưởng Tây Chu dựa vào tư tưởng
tôn giáo xây dựng quan điểm chính trị phản động cho rằng triều đại nhà Chu
do biết làm theo “mệnh trời”, “trời” nên được “nhân dân” từ tay nhà Ân để
“hưởng dân” và “nhận dân”. Ai chống lại “mệnh trời”, “ý trời” thì nhà Chu sẽ
trừng phạt. Vua nhà Chu là thiên tử, thay trời thống trị thiên hạ, cai trị dân. Vì
vậy, dân phải phục tùng vua. Về đạo đức, các nhà tư tưởng Tây Chu lấy hai
chữ “đức” và “hiếu” làm cốt để tuyên truyền, củng cố sự tồn tại vĩnh viễn địa
vị thống trị của tầng lớp quý tộc nhà Chu. Họ cho rằng các bậc tiên vương nhà
Chu có đức nên thượng đế cho hưởng nước, hưởng dân. Vì vậy, các vua sau
phải kính cái đức ấy, phải bồi dưỡng cho con cháu phải thờ tổ tiên, nhớ công
lao tổ tiên, giữ gìn phép tắc tổ tiên, đó là đức Hiếu. Có được đức hiếu mới
nhận được mệnh trời mà hưởng nước, hưởng dân mãi mãi. Quan điểm đạo
đức này là cơ sở góp phần hình thành đạo đức N ho giáo sau này. N ho giáo ra
đời tiếp nhận các tư tưởng trên của Tây Chu là tiếp nhận một phương thức
chính trị mà giai cấp thống trị Tây Chu đã thực hiện là sử dụng thần quyền để
củng cố, sử dụng vương quyền trong việc cai trị đất nước. Đến thời Đông Chu,
N ho giáo với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, liên hệ mật thiết với đời
sống kinh tế, phản ánh đời sống kinh tế - xã hội thời bấy giờ. Để khắc phục
tình trạng xã hội rối loạn, nhằm đưa xã hội vào trạng thái ổn định, phát triển,
N ho giáo một mặt thừa nhận, sử dụng thần quyền, đồng thời mặt chủ yếu là
khẳng định địa vị vương quyền đứng trên thần quyền, khẳng định vai trò, vị trí
của con người trong biến đổi lịch sử.
N ho gia nêu lên chủ trương cơ bản để quản lý xã hội này là đường lối trị
nước "đức trị". “Đức trị” là tư tưởng về đường lối cai trị đất nước, quản lý
xã hội trên cơ sở chuNn mực đạo đức. Vai trò của đạo đức trong quản lý xã

hội lý tưởng N ho gia nêu lên là:

8


- Đạo đức là công cụ, là phương tiện chủ yếu nhất của giai cấp phong
kiến trong việc trị nước và quản lý xã hội.
- Đạo đức là tiền đề, điều kiện quan trọng nhất để hình thành và hoàn
thiện đạo đức con người, góp phần vào việc củng cố, duy trì trật tự, kỷ
cương, ổn định xã hội.
- Đạo đức và thực hành đạo đức đóng vai trò quyết định đối với việc tạo
lập ra mẫu người lý tưởng và góp phần tạo lập xã hội lý tưởng.
1.2. ội dung đạo đức ho giáo
1.2.1. Quan niệm của ho giáo về đạo và đức
Trong ngôn ngữ thông thường, “đạo đức” là một từ có hai âm tiết, thể
hiện một khái niệm cụ thể. Chẳng hạn: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã
hội, là tập hợp những quy tắc, chuNn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh
giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã
hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức
mạnh của dư luận xã hội”.
Về nhân sinh, con người là một vật, một loài, là bộ phận nhỏ của tự
nhiên. Vì thế, cơ thể của con người luôn liên hệ mật thiết với giới tự nhiên,
nhất luật tuân theo nguyên lý “âm dương biến hóa” của đạo trời và “cương
nhu tương thôi” của đạo đất.
Tính của con người là vấn đề trung tâm của N ho giáo, được các nhà nho
tranh luận, bàn cãi nhiều trong lịch sử triết học Trung Quốc. Trên cơ sở cách
đặt vấn đề “tính là gần nhau, tập là xa nhau” của Khổng Tử qua tranh luận
có bốn loại quan niệm:
Thứ nhất: Bản tính của con người là thiện, đại biểu cho quan niệm này
là Mạnh Tử.

Thứ hai: Bản tính con người là ác, đại biểu cho quan niệm này là Tuân Tử.
Thứ ba: Bản tính của con người không thiện, không ác, đại biểu cho
quan niệm này là Cáo Tử.
Thứ tư: Bản tính con người có cả thiện và cả ác. Đây là quan niệm của
các nhà N ho từ thời Hán về sau.
Đạo của con người, đó là con đường để con người trở thành người.
hân nghĩa với tính cách là đạo của con người không thể hiểu thông
thường. N hân là lòng thương người, nghĩa là dạ thủy chung và bất nhân là
ác, bất nghĩa là bạc. Đạo của con người có ý nghĩa rất lớn đối với tính của
con người. Đạo của con người phù hợp với tính phú của con người do trời

9


phú, do con người sáng lập nên có chức năng dẫn dắt tính của con người,
không để tính ác của con người do “tập” làm biến chất.
Đức của con người liên hệ mật thiết với đạo. Con đường đi từ đạo đến
đức của N ho giáo không phải là con đường bằng phẳng, dễ dàng. Bao quát
các mối quan hệ, N ho giáo nêu lên 10 đức: Cha từ, con hiếu, anh lành, em
đễ, chồng có nghĩa, vợ có nghĩa, trưởng có ân, ấu ngoan ngoãn, vua nhân,
tôi trung.
1.2.2. ội dung cơ bản của đạo đức ho giáo
1.2.2.1. Luân thường
Trong xã hội phong kiến, quan hệ giữa người với người được gọi là
nhân luân. Các bậc vua chúa, giai cấp quý tộc và các nhà N ho trong xã hội
phong kiến gọi trật tự, thứ bậc và quan hệ giữa vua và tôi, cha và con, chồng
và vợ, anh em và bạn bè là ngũ luân; đồng thời họ cho rằng ngũ luân là biểu
hiện của lý trời trong đời sống xã hội con người, là đạo lý vĩnh hằng, không
thể biến đổi cho nên gọi là Luân thường.
Từ phương diện đạo đức, N ho giáo đề cập đến mối quan hệ giữa người

quân tử và tiểu nhân. Từ phương diện lao động xã hội, N ho giáo bàn tới mối
quan hệ giữa lao động chân tay (lao lực) và lao động trí óc (lao tâm). Từ
phương diện chính trị, N ho giáo đề cập tới các mối quan hệ thống trị và bị
trị, vua và dân, quan và dân, vua và tôi. Từ phương diện thiết chế xã hội,
N ho giáo đưa ra các quan hệ trong gia đình.
Tuy nhiên, vai trò của con người được N ho giáo đề cập trong ba mối
quan hệ cơ bản (tam cương) và năm đức (ngũ thường).
Trong xã hội (nhà nước, thiên hạ), ho giáo chú ý nhiều nhất quan hệ
vua - tôi (quân - thần), một trong những mối quan hệ cơ bản trong tam
cương, ngũ luân. Sau đây là một số tư tưởng cơ bản của quan hệ vua - tôi
trong lịch sử Trung Quốc:
- Vua và tôi là quan hệ tương quan
- Vua tôi lấy nghĩa mà hòa hợp
- Quan hệ giữa vua - tôi là quan hệ phục tùng
Trong gia đình, N ho giáo đưa ra ba mối quan hệ: cha - con, chồng - vợ,
anh - em.
- Quan hệ cha - con là một trong ba mối quan hệ cơ bản của con người.
Trong mối quan hệ này, N ho giáo đã đưa ra hai chuNn mực đạo đức căn bản
là Từ và Hiếu để duy trì mối quan hệ cha - con.

10


- Quan hệ chồng - vợ: Trong mối quan hệ chồng - vợ, N ho giáo đưa ra
phạm trù nghĩa - nghĩa (cũng có nghĩa là chồng có nghĩa, vợ vâng lời) là
chuNn mực đạo đức để ràng buộc trách nhiệm và nghĩa vụ giữa vợ và chồng
với nhau.
1.2.2.2. gũ thường
" gũ thường" là năm đức cơ bản luôn luôn phải có của đạo làm người
gồm: hân, nghĩa, lễ, trí, tín. Các đức tính nằm trong ngũ thường đã được

nói đến tản mạn trong Kinh thư, Kinh thi, đặc biệt là trong Luận ngữ của
Khổng Tử với các phạm trù nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng, hiếu, trung, đễ và
trong quan điểm của Mạnh Tử với tư tưởng nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
ĐỨC HÂ
- Ý nghĩa luân lý của hân:
+ hân là đức ở tâm.
+ hân là lòng yêu thương người.
+ hân là lòng cung kính, là đức hiếu thuận.
+ hân là gốc của nghĩa.
- Ý nghĩa bao quát của hân: Có thể thi hành năm điều cho thiên hạ, đó
là nhân, ấy là tự mình phải cung, khoan, tín, mẫu, huệ.
- Công dụng xã hội và chính trị của nhân: N hân là lòng yêu người hay
là lòng trắc Nn. N hân là cái bao hàm mọi đức.
ĐỨC GHĨA
- " ghĩa" là việc nên làm hay điều ta phải làm đúng theo đạo lý, đúng
bổn phận, không vì một cái gì hay việc theo đường lối phải và lòng hào hiệp
của con người.
- ghĩa là tiêu chu n của hành vi
- ghĩa là kỷ cương của mọi việc
N ếu đức nhân thể hiện trong mối quan hệ với người khác thì đức nghĩa
thể hiện trong khi tự vấn lương tâm mình. N ghĩa đen của từ nghĩa rất rộng, là
điều nên nói, việc nên làm. N ói điều gì đó, làm việc gì đó mà thấy thảnh thơi,
thoải mái, hứng thú trong lương tâm thì điều nói, việc làm đó là điều nghĩa,
việc nghĩa, không nói điều ấy, không làm việc ấy thì thấy bứt rứt trong lương
tâm, như thế là có điều nghĩa không nói, có việc nghĩa không làm.
ĐỨC LỄ
“Lễ” nguyên nghĩa là kính trời, thờ quỷ thần, tôn thờ tổ tiên, cầu phúc
đức, một dạng văn hóa tinh thần mang màu sắc lễ nghi tôn giáo ở Trung
Quốc cổ đại. Sau đó được mở rộng về nội dung và tính chất của nó và lễ
11



được coi là lễ nghi, nghi điển, là lề lối ứng xử, quy tắc, luật lệ, chu n mực
quy định trật tự quan hệ xã hội từ trong gia đình đến ngoài xã hội.
Sang thời Chiến Quốc, lễ không chỉ là ý nghĩa tôn giáo, đạo đức, chính
trị mà còn có ý nghĩa pháp luật.
"Lễ" ra đời do hai nguyên nhân: một là, lễ là sự thuận theo đạo của trời
đất trong đạo của con người. Lễ là do các tiên vương thuận theo đạo trời, lấy
tình cảm để trị dân.
Công dụng của Lễ về lĩnh vực đạo đức: Không học lễ, không lấy gì để
đứng vững được.
Công dụng của Lễ về lĩnh vực chính trị - xã hội: Sửa mình theo lễ là
nhân. N gày nào cũng khắc kỷ phục lễ thì thiên hạ quy về đức nhân vậy.
Lễ gồm hai mặt gắn bó với nhau. Lễ là tổ chức xã hội, tổ chức cuộc
sống, thể hiện thành lễ nghi, quy chế, kỷ cương, trật tự tôn ti. Mặt khác, lễ là
về giáo dục đạo đức, thể hiện thành thái độ, ý thức, nếp nghĩ giữ gìn, tôn
trọng lễ nghi, kỷ cương và trật tự. Lễ là một phần quan trọng của ho giáo,
nêu lên những quy định về lễ rất nhiều, rất chặt chẽ cho gia đình, làng mạc,
đất nước, thiên hạ, kể cả trời, đất, con người, trong đó có sự quy định về lễ
đối với quan hệ giữa người và người là rạch ròi nhất. Cái để lại của ho
giáo đối với các triều đại phong kiến Trung Hoa cũng như Việt am là lễ.
ĐỨC TRÍ
Trí theo nghĩa cơ bản trong ngôn ngữ của Khổng Tử và Mạnh Tử là sự
hiểu biết trên mọi quan hệ lớn nhỏ, rộng hẹp, cao thấp của con người với trời
đất, muôn vật với mọi người khác trong thiên hạ. N ói cách khác, đức trí thể
hiện ở chỗ biết được một cách đúng đắn rõ ràng điều phải, điều trái trong mọi
vấn đề nảy ra về mặt đạo đức. Đầu mối của trí, ở bên trong con người là lòng
thị phi làm cho con người ta phân rõ phải trái, đúng sai trong các quan hệ của
con người. Có được đầu mối ấy đi vào học đạo, hành đạo con người tự khắc
có được đức trí và các đức khác muốn có được thì phải học.

ĐỨC TÍ
Đức tín là đức trong ngũ thường với ý nghĩa cơ bản là thành thực, tin
tưởng, tín nghĩa.
N ội dung trước hết của tín là thành thực. Luận ngữ viết: “Bậc quốc
trưởng cai trị một nước có ngàn cỗ xe, làm việc gì cũng phải kính cNn mà
giữ chữ tín thật, của cải dùng tiết kiệm và thương yêu tất cả mọi người,
khiến dân chúng phải đúng thời, đúng lúc”; “người mà không nói thật,
không biết người ấy làm việc gì cho nhanh được”.
12


ội dung thứ hai, tín là gốc của lễ, là đầu mối của quan hệ bạn bè. Luận
ngữ viết: Tử Lộ nói: “Tôi muốn nghe chí của thầy”, Khổng Tử đáp: “Ta muốn
cho người già cả được yên vui, cho bạn bè có lòng tín nghĩa, muốn trẻ nhỏ
được đùm bọc”; “trước kia nghe lời người ta nói mà tin tưởng vào việc làm
của họ. N ay, ta nghe lời người ta nói, ta phải quan sát hành động của họ”.
Trong ngôn ngữ của Khổng Tử và Mạnh Tử, trung hay đi đôi với tín,
thể hiện lòng thật thà hay là thành thực, là đức của đạo bằng hữu.

13


Chương 2
Ả H HƯỞ G CỦA ĐẠO ĐỨC HO GIÁO
ĐỐI VỚI ĐẠO ĐỨC TRUYỀ THỐ G VIỆT AM
2.1. Đạo đức ho giáo Việt am và đạo đức truyền thống Việt am
2.1.1. Đạo đức ho giáo Việt am
2.1.1.1. Sự truyền bá đạo đức ho giáo vào Việt am
ho giáo du nhập vào nước ta từ thời Bắc thuộc (bắt đầu từ năm 179
TCN đến tận năm 905 SCN ) thông qua đội quân xâm lược và sự áp đặt văn

hóa của phương Bắc. N ho giáo đã dùng tư tưởng đạo đức Tam cương, ngũ
thường, thiên mệnh như là công cụ chủ yếu để thống trị, nô dịch nhân dân ta
nhằm biến nước ta thành quận, huyện của Trung Quốc, biến văn hóa nước ta
phụ thuộc một phần của văn hóa Hán.
- Dưới thời gô, Đinh, Tiền Lê: N ho - Phật - Đạo cùng tồn tại. ảnh
hưởng của N ho giáo còn ít, Phật giáo được coi là quốc giáo.
- Dưới thời đại Lý - Trần
N hà Lý thấy sự đắc lực của N ho giáo với tư tưởng mệnh trời, tam
cương, ngũ thường, đức trị có trật tự, tôn ti chặt chẽ, rõ ràng. Vì vậy, việc
dựng Văn Miếu, lập Viện Hàn lâm, tổ chức thi cử được tiến hành dồn dập
N hà Trần tăng cường hơn nữa quyền lực nhà vua bằng cách kiêm vua
cha, vua con cùng trị vì và cách làm khác với Trung Quốc. Sau khi thắng
quân guyên - Mông , thi cử cũng ngày càng có không khí hào hứng, tầng
lớp N ho sĩ đông đảo dần lên
- Dưới thời Hậu Lê: Lê Lợi và các triều vua sau tiếp tục nắm N ho giáo
làm kỷ cương để trị vì đất nước. Công việc học tập, thi cử càng nhộn nhịp.
Cuộc sống tao đàn, ngâm vịnh thi ca lại càng say sưa. Học thuyết và đạo lý
của Khổng, Mạnh đã được các thầy nho thời Tống do Trình Hạo, Trình Di
và Chu Hy trình bày, chú giải rườm rà, tỉ mỉ, bí Nn, trở thành vô số khuôn
vàng thước ngọc của một quốc giáo trên Phật giáo và Đạo giáo.
- Dưới thời Tây Sơn: N gọn cờ Tây Sơn đã tạo nên xu thế tập hợp mới.
N hưng sự đổi mới chưa có thời gian để được đề ra một cách cụ thể và cái
chết của N guyễn Huệ là sự kết thúc một sự nghiệp “giúp dân dựng nước”.
- Dưới triều guyễn (nửa đầu thế kỷ XIX)
Các vua nhà N guyễn triệt để khai thác đạo lý N ho giáo về Tam cương
và N gũ luân nhằm tăng cường sự ràng buộc giữa vua - tôi, cha - con, anh em, bề trên - bên dưới. Về trật tự tôn ti và vấn đề bảo vệ quyền lợi gia tộc,
14


nhà N guyễn đã đặt ra những thể chế chưa từng có ở một triều đại trước kia

nhằm tách biệt hoàng đế, hoàng tộc lên cả “thần dân trăm họ”.
Qua quá trình truyền bá đạo đức N ho giáo vào Việt N am trong lịch sử,
ta thấy một số đặc điểm:
Thứ nhất, quá trình diễn ra sự truyền bá đạo đức N ho giáo gắn liền với
quá trình đạo đức Phật giáo và Đạo giáo.
Thứ hai, sự truyền bá đạo đức N ho giáo phát triển chủ yếu ở thời kỳ đất
nước giành được độc lập dân tộc. Sự truyền bá đạo đức N ho giáo không diễn
ra một chiều mà thông qua sự đấu tranh với nền đạo đức truyền thống của
dân tộc, cho nên dân tộc ta chủ động lựa chọn những mặt tích cực của đạo
đức N ho giáo để kế thừa. Do đó, đạo đức N ho giáo khi vào Việt N am đã trở
thành đạo đức ho giáo ở Việt am.
2.1.1.2. ội dung đạo đức ho giáo Việt am qua các thời kì lịch sử và
đặc điểm của nó
- Thứ nhất, cha ông ta rập khuôn ngũ luân và ngũ thường của ho giáo
để làm khuôn phép cho các mối quan hệ xã hội.
- Thứ hai, dân tộc ta đã tiếp nhận, vận dụng quan điểm nhân nghĩa của
ho giáo làm nguyên tắc xử thế
- Thứ ba, lễ giáo phong kiến Việt am
- Đặc điểm của nội dung đạo đức ho giáo Việt am
Thứ nhất, các nhà tư tưởng Việt N am thời phong kiến tiếp nhận và sử
dụng tư tưởng đạo đức N ho giáo thời Hán của Đổng Trọng Thư và thời
Tống của các nhà họ Trình và họ Chu. Tuy nhiên, do xuất phát từ thực tiễn
kinh tế - xã hội Việt N am nên đạo đức N ho giáo Việt N am không mang tính
chất khắt khe, nghiêm ngặt như Hán N ho, không rườm rà, chi tiết, tỉ mỉ như
Tống N ho.
Thứ hai, song song với việc tiếp nhận đạo đức N ho giáo, dân tộc ta còn
tiếp nhận nhiều khía cạnh của đạo đức Phật giáo với những nội dung “từ bi
hỷ xả”, “nhẫn nhịn”... Vì vậy, đạo đức thời phong kiến Việt N am có sự giao
thoa, ảnh hưởng của các quan niệm đạo đức N ho - Phật - Đạo.
Thứ ba, đạo đức N ho giáo Việt N am là một sản phNm của quá trình kế

thừa, lọc bỏ để phát triển. Sự tiếp nhận, sử dụng những khía cạnh tích cực
của đạo đức N ho giáo là do nhu cầu của thực tiễn xã hội, vì mục đích có lợi
cho dân tộc.
Thứ tư, các nhà N ho Việt N am thời phong kiến không luận bàn, không
xây dựng hệ thống lý luận đạo đức mà chỉ dừng lại ở việc nêu lên những yêu
15


cầu đạo đức cụ thể để mọi người thực hiện nhằm củng cố, ổn định gia đình,
xã hội. Do đó, đạo đức N ho giáo Việt N am là đạo đức N ho giáo thực hành,
chú ý nhiều vào thực tiễn đời sống đạo đức xã hội, ít chú ý học thuật.
2.1.2. Đạo đức truyền thống Việt am
Đạo đức truyền thống Việt am là giá trị tinh thần của con người Việt
am được hình thành trong hoạt động, trong quan hệ ứng xử, được truyền
từ thế hệ này đến thế hệ khác, được mọi người nhận thức, thừa nhận, tự giác
thực hiện và tự điều chỉnh nhờ dư luận cộng đồng, xã hội.
2.1.2.1. Đặc điểm của sự hình thành, phát triển của đạo đức truyền
thống Việt am
- Thứ nhất, đạo đức truyền thống Việt N am bắt nguồn từ xã hội Văn
Lang - âu Lạc - thời đại độc lập mang tên Hùng Vương.
- Thứ hai, đạo đức truyền thống Việt N am ra đời, phát triển trong điều
kiện vừa phải chịu ách đô hộ vừa phải chống sự đô hộ và đồng hóa của
phương Bắc.
- Thứ ba, đạo đức truyền thống Việt N am chịu ảnh hưởng sớm, sâu sắc
của Phật giáo.
- Thứ tư, ho giáo thành đạt ở nước ta trên dưới 500 năm. Trong năm
trăm năm ấy, nhà nước có ý thức mở mang giáo dục, thi cử căn bản là N ho
giáo. N hà nước Lê - N guyễn ra sức cải tạo văn hóa, phong tục nhân dân Việt
N am trên cơ sở N ho giáo. Đạo đức truyền thống Việt N am đã thu hoạch
được những mặt tích cực của đạo đức N ho giáo trong thời kỳ này, đặc biệt là

lĩnh vực gia đình, thôn xã của xã hội nông nghiệp.
- Thứ năm, sự sụp đổ của N ho giáo và sự phát triển của đạo đức truyền
thống thành đạo đức cách mạng.
2.1.2.2. hững truyền thống đạo đức cơ bản của dân tộc Việt am
- Thứ nhất, truyền thống yêu nước
Yêu nước là một truyền thống đạo đức ăn sâu vào con người Việt N am
qua nhiều thế hệ, bắt đầu từ thời Vua Hùng dựng nước. Truyền thống yêu
nước Việt N am ra đời và được củng cố, phát huy cùng với sự ra đời của đất
nước, sự phát triển, trường tồn của dân tộc suốt mấy ngàn năm. Truyền
thống yêu nước là biểu hiện tình cảm, ý chí, hành động của con người Việt
N am từ thế hệ này qua thế hệ khác trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc.
- Thứ hai, truyền thống nhân nghĩa

16


N hân nghĩa là truyền thống đạo lý rất cao thượng của dân tộc ta, thể
hiện đạo đức của các thế hệ người Việt N am từ xưa đến nay luôn được duy
trì, phát triển.
- Thứ ba, truyền thống cần cù, sáng tạo
Dân tộc Việt N am hình thành, phát triển trong điều kiện tự nhiên, xã hội
có nhiều khó khăn. Để tồn tại và phát triển, người Việt N am từ thế hệ này
đến thế hệ khác đã phải lao động cần mẫn và luôn sáng tạo để chiến thắng
khó khăn, chiến thắng kẻ thù. Đồng thời với những chiến thắng để tồn tại và
phát triển, dân tộc ta đã sáng tạo nên một nền văn hóa phong phú, góp phần
phát triển nền văn hóa thế giới.
- Thứ tư, truyền thống đoàn kết cộng đồng
Đoàn kết cộng đồng bắt nguồn từ truyền thống yêu nước, là biểu hiện
của truyền thống yêu nước. Việt N am là quốc gia có điều kiện tự nhiên và vị

trí địa lý thuận lợi nên đã chứa đựng nhiều tiềm năng to lớn, đồng thời đặt ra
nhiều thử thách to lớn đối với con người trước sự khắc nghiệt của tự nhiên
và sự xâm lược của ngoại bang.
N goài những truyền thống nêu trên, dân tộc ta còn nhiều truyền thống
khác như truyền thống trọng giáo dục, cần kiệm, lòng dũng cảm, tinh thần
bất khuất, tính khiêm tốn, giản dị, trung thực, thủy chung. Tất cả những
truyền thống trên gắn quyện với nhau, làm cho nền đạo đức truyền thống
đứng vững, phát triển và là tiền đề rất cơ bản khi chuyển sang nền đạo đức
mới - đạo đức cách mạng.
2.2. Ảnh hưởng của đạo đức ho giáo đối với đạo đức truyền thống
Việt am
2.2.1. hững ảnh hưởng tích cực của đạo đức ho giáo đối với đạo
đức truyền thống Việt am
- Thứ nhất, N ho giáo là học thuyết quan tâm đến con người, đến cuộc
đời và tìm thú vui trong cuộc sống. Phật giáo cho cuộc đời là bể khổ nên tìm
cách siêu thoát cuộc đời trần thế. Lão giáo thì yếm thế, bi quan với cuộc đời.
N ho giáo trọng sự sống, hướng nhập thế biến đổi để tồn tại. Khổng Tử cho
rằng chuyện chết không phải là chuyện cần kíp nên ông ít bàn tới chuyện
quỷ thần, quái lạ, huyền bí, chuyện cần kíp là cuộc sống, là việc nghĩa của
con người, phải lấy chuyện đời làm vui, hãy yêu lấy cuộc sống. N hà N ho
Việt N am yêu đời, vui đời hơn nữa nữa là muốn có ích cho đời, cho xã hội
vì họ cho rằng bỏ việc đời là trái với đạo. Sống là hành động, đem cái trí
giúp đời vì theo Khổng Tử thú vui không phải nơi Nn dật mà là ở chỗ hành
động, hành đạo.
17


- Thứ hai, đạo làm người của N ho giáo là đạo làm người trong xã hội
phong kiến. Quan điểm đạo đức của N ho giáo không phải là vĩnh cửu nhưng
có nhiều phương châm xử thế, tiếp vật đã giúp cho các nhà N ho sống giữa

một xã hội có giai cấp và tồn tại nhiều mối quan hệ vẫn giữ được tâm hồn
cao thượng. Suy đến cùng, đạo làm người ấy bao gồm trong hai chữ nhân
nghĩa.
- Thứ ba, trong N ho giáo có nhiều điểm có tác dụng hạn chế quyền lực
của giai cấp thống trị, có lợi cho dân như tư tưởng “trọng dân”, “thân dân”,
“dung dân”... Cha ông ta đã dựa vào những tư tưởng đó để đấu tranh nhằm
hạn chế sự thống trị, bóc lột của giai cấp thống trị.
- Thứ tư, từ những điều học được, các nhà N ho Việt N am đã ứng dụng
vào hoàn cảnh trước mắt của Việt N am để giải quyết các vấn đề Việt N am.
N hờ những điều học được của Khổng Mạnh mà trong lịch sử đã xuất hiện
nhiều nhà N ho yêu nước, có thể chết vì nước, có thể từ chối quyền cao chức
trọng mà sống nghèo khổ trong xóm làng với mảnh vườn và dăm ba người
học trò, có thể bỏ các hôn quân bạo chúa mà giúp các cuộc khởi nghĩa của
nông dân. N ếu viết sách, làm văn thì họ có tiêu chuNn để đánh giá giai cấp
thống trị, phê phán chúng, bóc trần, vạch tội ác của chúng, tố cáo bọn tham
quan, ô lại...
2.2.2. hững ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức ho giáo đối với đạo
đức truyền thống Việt am
- Thứ nhất là sự tác động tiêu cực của lễ giáo phong kiến
- Thứ hai, N ho giáo củng cố ở nhân dân ta tư tưởng về tính vĩnh cửu của
chế độ phong kiến
- Thứ ba, N ho giáo giam con người trong một trậi tự, tôn ti phong kiến
chặt chẽ từ trên xuống dưới. Cuộc sống lâu ngày, trong hoàn cảnh như vậy
đã nuôi dưỡng trong toàn thể xã hội một đầu óc tôn ty, trật tự, khuyến khích
sự truy cầu công danh, địa vị.
- Thứ tư, đánh giá con người không đúng tiêu chuNn
- Thứ năm, tư tưởng coi khinh lao động chân tay
- Thứ sáu, tư tưởng coi thường phụ nữ

18



Chương 3
Ả H HƯỞ G CỦA ĐẠO ĐỨC HO GIÁO
ĐỐI VỚI ĐẠO ĐỨC MỚI VIỆT AM
3.1. Đạo đức mới của xã hội Việt am
3.1.1. Đạo đức mới và vai trò của đạo đức mới
Đạo đức mới của xã hội chúng ta không đến từ trên trời, từ thượng đế
mà từ mảnh đất hiện thực của đời sống hiện thực. Đạo đức mới của chúng ta
là sản phNm của tồn tại xã hội, của đời sống chiến đấu và cách mạng, lao
động và đấu tranh. N ó hình thành, củng cố, biến đổi cùng với quá trình vận
động và phát triển của sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta dưới ánh sáng
của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là đạo đức của giai
cấp công nhân, nền đạo đức như Ph. Ăngghen đã từng nói là “có nhiều nhân
tố hứa hẹn lâu dài nhất, nền đạo đức tiêu biểu cho tương lai”.
N gười khẳng định, "nói tóm tắt thì đạo đức cách mạng là:
- Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, thực hiện đường lối chính
sách của Đảng.
- Ra sức làm việc cho Đảng, thực hiện đường lối chính sách của Đảng.
- Đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích
của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng vì dân mà
đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc.
- Ra sức học tập Chủ nghĩa Mác-Lênin, luôn luôn tự phê bình và phê
bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí
tiến bộ”.
Vì vậy, đạo đức mới ở xã hội ta là một hình thức đặc thù ấy được quy
định bởi thực tiễn cách mạng Việt am, truyền thống đạo đức đạo đức dân
tộc và dấu ấn sắc thái Hồ Chí Minh. Đạo đức mới ở mức độ nhất định đã là
thực tế ở Việt am từ khi Hồ Chí Minh đào tạo lớp người cán bộ đầu tiên
cho cách mạng Việt am.

Trong thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thời kỳ đấu
tranh giành độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh rất chú ý đến việc giáo dục, rèn
luyện niềm tin cộng sản.
Thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám 1945, thời kỳ kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến
đức hy sinh cho sự nghiệp bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ nền độc lập
dân tộc.
19


Sau năm 1954, cách mạng Việt N am đã chuyển sang giai đoạn cách
mạng mới với những nhiệm vụ cách mạng mới của cả hai miền N am và Bắc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập nhiều đến “chủ nghĩa tập thể” đến “đấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân, đấu tranh chống những biểu hiện quan liêu,
đặc quyền, đặc lợi nảy sinh ở những cán bộ có chức, có quyền.
Vậy, có thể hiểu đạo đức mới là đạo đức của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động tiến bộ, phản ánh thực tiễn đấu tranh cách mạng giải
phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội; là tổng hòa các ph m chất
chính trị và ph m chất đạo đức tạo nên nền tảng nhân cách của con người
mới. ó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cải tạo xã hội cũ,
xây dựng thành công xã hội.
3.1.2. Một số chu n mực cơ bản của đạo đức mới
- Thứ nhất: Trung với nước, hiếu với dân
Đây được coi là nội dung cơ bản nhất, bao trùm nhất trong toàn bộ nội
dung tư tưởng đạo đức mới. “Trung” và “hiếu” là những phNm chất đạo đức
cao đẹp của con người Việt N am từ xưa tới nay. Đây là khái niệm đã có
trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt N am và cũng được đề cập khá rõ
trong tư tưởng triết học phương Đông. Song, Hồ Chí Minh kế thừa, tiếp thu
và phát triển lên một tầm cao mới.
- Thứ hai: Lòng yêu thương con người, sống có tình nghĩa

Tư tưởng này đã kế thừa truyền thống nhân nghĩa cao cả của dân tộc
cũng như tinh thần nhân đạo của nhân loại. Đây là một tình cảm rộng lớn,
trước hết giành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức,
bóc lột. Khi đặt chân lên đất Pháp, N gười nhận thấy: ở nước Pháp cũng có
người nghèo như nước ta.
- Thứ ba: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
PhNm chất đạo đức này thể hiện rõ nhất thông qua hoạt động thực tiễn,
qua cuộc sống hàng ngày của con người. N gười giải thích những đức này rất
rõ ràng.
"Cần" tức là cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng
suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, ỷ lại,
dựa dẫm vào người khác.
"Kiệm" là tiết kiệm, tiết kiệm thời gian, tiền của và lao động, không xa
xỉ, không hoang phí, bừa bãi, không phô trương, hình thức.

20


“Cần” và “kiệm” phải đi đôi với nhau. “Cần” mà không kiệm không có
nghĩa lý gì. “Kiệm” mà không “cần” cũng không ích chi, không khác gì làm
ngần nào, xào ngần ấy.
"Liêm" là liêm khiết, trong sạch, “không xâm phạm một đồng xu, hạt
thóc của N hà nước, của nhân dân”, không tham lam, hủ hóa, tham địa vị.
Không tham tiền tài của người khác, không ham người khác tâng bốc mình.
N gười đã chỉ ra ba căn bệnh cơ bản mà người cán bộ thường mắc phải:
Một là: Đặc quyền đặc lợi
Hai là: Bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu
Ba là: Bệnh “tư túng”, “chia rẽ”, “kiêu ngạo”
"Chính" là không tà, là thẳng thắn, chính trực
Đối với mình phải: không tự cao tự đại, phải chịu khó học hỏi, luôn tự

kiểm điểm và phát triển điều hay, sửa điều dở.
Đối với người: Không nịnh hót người trên, coi khinh người dưới, giữ
thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc: Đặt việc công lên trên hết, làm đến nơi đến chốn. Việc
thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh.
"Chí công vô tư": Là công bằng, công tâm, không thiên tư thiên vị. Khi
làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình
nên đi sau.
- Thứ tư: Có tinh thần quốc tế trong sáng
Đó là tinh thần quốc tế vô sản, là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị
áp bức, với người dân lao động, với những lực lượng tiến bộ trên thế giới.
Chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Trên cơ sở đưa ra nội dung các chuNn mực đạo đức mới, N gười nêu lên
ba nguyên tắc xây dựng đạo đức mới, đó là:
+ N ói phải đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
+ Xây đi đôi với chống
+ Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
3.2. Ảnh hưởng của đạo đức ho giáo đối với đạo đức mới Việt am

3.2.1. hững ảnh hưởng tích cực của đạo đức ho giáo đối với đạo
đức mới Việt am
Từ trước đến, ít tác giả bàn đến ảnh hưởng tích cực của đạo đức N ho
giáo đối với đạo đức mới Việt N am. Trong luận văn này, tác giả xin nêu lên
sự tiếp nhận và vận dụng tưởng đạo đức N ho giáo của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về con người, xã hội và đạo đức.
21


- Vấn đề đạo đức là vấn đề căn bản nhất của triết học N ho giáo. N ho
giáo xem việc thực hành đạo đức như là hoạt động thực tiễn căn bản nhất

của mỗi đời người, đặt lên vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội. Quan điểm đó
là thái quá, không đúng.
- N gười nhấn mạnh nhiều lần vai trò gương mẫu của cán bộ, Đảng viên:
“Tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính” và “mình
trước hết phải siêng năng, trong sạch thì mới bảo người ta trong sạch, siêng
năng được”. Hồ Chí Minh nhiều lần giáo dục cán bộ, đảng viên, những
chiến sĩ cách mạng của mình rằng phải “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”,
“cái sự hy sinh khó nhọc thì mình làm trước người ta, còn sự sung sướng,
thanh nhàn thì mình nhường người ta hưởng trước”. Cũng như vậy, N gười
động viên thanh niên rằng: “Gian khổ thì đi trước, hưởng thụ sau mọi
người”.
Trong hệ thống phạm trù “đức” của N ho giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
tiếp nhận hai phạm trù trung và hiếu. Trung và hiếu là hai đức tính tốt trong
quan hệ vua - tôi, cha - con, hai quan hệ đứng đầu trong quan hệ xã hội (ngũ
luân).
Trong rất nhiều trường hợp cụ thể Hồ Chí Minh đã sử dụng cụ thể
những câu chữ và những khái niệm quen thuộc của N ho giáo để nói lên
những phNm chất tối thiểu mà con người Việt N am cần đạt tới. N gười cũng
đã chỉ ra nhiệm vụ của từng người trong quân đội là phải “trí, dũng, nhân,
tín, liêm, trung”
N ho giáo ra đời, phát triển trong chế độ xã hội phong kiến, nó có rất
nhiều hạn chế song theo phương châm của Hồ Chi Minh cũng như của cha
ông trước đây, ta có thể tiếp nhận được “nhiều cái hay”, nhất là vấn đề đạo
đức để góp phần xây dựng đạo đức mới theo tinh thần của Đại hội Đảng X
và XI.
3.2.2. hững ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức ho giáo đối với đạo
đức mới Việt am
Chế độ phong kiến đã tồn tại trong hàng ngàn năm ở nước ta. Bổ sung
cho sự bóc lột về kinh tế và áp bức về chính trị, giai cấp phong kiến hết sức
chú trọng sử dụng đạo đức, nhất là đạo đức ho giáo làm công cụ nô dịch

tinh thần. Đạo đức phong kiến đè nặng lên đầu óc nhân dân ta bằng giáo
những giáo lý của “thánh hiền”, những quy tắc đạo đức khắt khe. N ó trói
buộc nhân dân ta vào trật tự phong kiến, bằng nhiều thể chế, lễ nghi, tập tục.
N hân dân lao động Việt N am trước đây tuy đã có phản ứng mạnh mẽ với
22


đạo đức phong kiến nhưng không thể tránh khỏi ảnh hưởng nhiều khía cạnh
của nó.
Tuy vậy, dựa vào những di sản của một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu
bị chế độ phong kiến kìm hãm lâu đời, dựa vào “sức ỳ” của tâm lý, tập quán
và thói quen cũ, một số tàn tích của đạo đức N ho giáo còn tồn tại và gây ảnh
hưởng tiêu cực trong xã hội ta.
3.2.2.1. Chủ nghĩa gia đình, chủ nghĩa đồng tộc, phương châm trị đạo
thân thân là trở ngại lớn cho nền dân chủ mới
+ Coi cái riêng của mình (con người mình, gia đình mình, dòng họ
mình) là gốc của cái chung.
+ N hững biến tướng của chế độ gia đình trị trong xã hội hiện nay: N ho
giáo đã xây dựng cơ sở đạo lý cho chế độ thống trị của những gia đình, gia
tộc nào đó trong giai cấp thống trị.
+ Tác phong gia trưởng là căn bệnh đẫn đến mất dân chủ
3.2.2.2. Tư tưởng đức trị, nhân trị là trở ngại cho việc xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
+ Sự phân biệt đối xử không thỏa đáng với con, em, cháu của các gia
đình thuộc những thành phần xã hội hoặc có những quá khứ chính trị không
tương đồng.
+ Thói “nhập gia tùy tục”.
+ Sự vi phạm pháp luật, thể chế thường gắn với quan hệ gia đình. Từ
trước đến nay, gần như lúc nào chúng ta cũng nói pháp luật đặt ra không
được tôn trọng nghiêm chỉnh và sự vi phạm pháp luật không được xử lý

nghiêm minh.
3.2.2.3. Tư tưởng trọng quan khinh dân là cơ sở của những quan liêu
thư lại hiện nay
Từ thế kỷ X đến XIX, nước ta là một nước phong kiến theo N ho giáo.
Thể chế chính trị - kinh tế - xã hội có thể tóm tắt là:
Hoàng đế chuyên chế + làng, họ + hộ gia đình làm kinh tế tự túc và
cống nạp. Cơ chế đó tạo ra trong xã hội các nhân vật: vua, quan, lại, thân sĩ,
hào cường với bốn giai tầng nhân dân: sĩ, công, nông, thương. Trong thực tế
xã hội có hai nhân vật quan trọng nhất là: nhà N ho và nông dân.
Trên cơ sở thực tế của tầng lớp sĩ phu, N ho giáo đưa ra mô hình nhân
cách “người quân tử" và đối lập là “đứa tiểu nhân".
Quân tử và tiểu nhân là cặp phạm trù có ý nghĩa đạo đức và chính trị xã hội của N ho giáo. Tiểu nhân nguyên nghĩa để chỉ những người nhỏ mọn,
23


tầm thường, trái với người quân tử, đại nhân, là những người được coi là
những người tài đức xuất chúng, có địa vị, tri thức, đạo đức và nhân cách
lớn.
Quan niệm quân tử và tiểu nhân và sự phân biệt chúng ban đầu chỉ là sự
phân biệt dựa trên sự khác nhau về năng lực, trình độ học vấn, phNm chất
đạo đức, nhân cách và thái độ sống. hưng sao đó, sự phân biệt chúng đã
gắn liền với sự phân chia đẳng cấp, danh phận và địa vị xã hội bởi vì không
phải bất kỳ người nào trong xã hội cũng có đủ điều kiện để đạt được địa vị
người quân tử như N ho giáo đã đưa ra và lý tưởng hóa nó. Do đó, địa vị của
kẻ tiểu nhân thường gắn liền với tầng lớp bên dưới của xã hội, gọi là thứ
dân, tiểu nhân. Có thể nói, không có sự phân chia đẳng cấp thì chế độ phong
kiến không thể tồn tại. N ho giáo đã nêu lên đủ cái quy phạm để bảo vệ đẳng
cấp đó.
Đầu óc đẳng cấp, tư tưởng quyền lực cản trở quan hệ mới giữa cán bộ
với nhân dân, trong đó cán bộ là công bộc của dân; cản trở quan hệ bình

đẳng giữa thủ trưởng với nhân viên, quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới. N ó
dẫn đến những vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, tạo nên hiện tượng
không lành mạnh trong sinh hoạt của cơ quan Đảng và N hà nước.
Do đầu óc đẳng cấp, địa vị, hiếu danh, chỉ lo đến quyền hành và chức vị
không quan tâm đến trách nhiệm với Đảng, với dân. Có thể nói tư tưởng coi
trọng địa vị, chức quyền, hiếu danh theo tàn dư của N ho giáo của một bộ
phận không nhỏ trong công chức nhà nước đã tạo nên những ông “quan cách
mạng”, những con sâu mọt của xã hội, cản trở rất lớn đến xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay.

24


KẾT LUẬ
1. N ho giáo với tính cách là một hệ thống bao gồm nhiều học thuyết:
chính trị - xã hội, triết học, đạo đức. N hững học thuyết đó quan hệ mật thiết
với nhau trong đó “vấn đề đạo đức là vấn đề căn bản nhất bao quát nhất của
nho giáo”.
N ội dung cơ bản của đạo đức N ho giáo là ngũ luân và ngũ thường. N gũ
luân và ngũ thường gắn bó với nhau, tuy vậy trên lý thuyết cũng như trên
thực tế ngũ luân đứng trước ngũ thường.
N ho giáo du nhập vào Việt N am từ thời Đông Hán đến khi thực dân
Pháp đặt ách thống trị lên đất nước ta. N ội dung đạo đức du nhập vào Việt
N am chủ yếu là khuôn phép cho các mối quan hệ xã hội, tư tưởng coi
thường phụ nữ; tinh thần tôn ty, đẳng cấp khắt khe trong nhân dân, lấy nhân
nghĩa làm nguyên tắc ứng xử.
2. Về mặt đạo đức, dân tộc ta có nhiều truyền thống, trong đó có các
truyền thống tiêu biểu là: Yêu nước, nhân nghĩa, cần cù, sáng tạo, đoàn kết
cộng đồng. Các truyền thống ấy bắt nguồn từ xã hội Văn Lang Âu Lạc, được
phát triển trong điều kiện vừa chịu ách áp bức đô hộ vừa phải chống sự đô

hộ và Đường hóa của phương Bắc. Vì vậy, những năm 1920 - 1930, dù đạo
đức N ho giáo sụp đổ nhưng đạo đức truyền thống lại phát triển thành đạo
đức mới, tức là đạo đức cách mạng. Trong quá trình vận động phát triển của
đạo đức truyền thống và đạo đức mới, đạo đức N ho giáo đã có những ảnh
hưởng tích cực và tiêu cực, trong đó có những tiêu cực đang cản trở cho sự
phát triển nền dân chủ mới, cản trở đến việc xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa.
3. Giải pháp cơ bản nhằm phát huy và hạn chế các ảnh hưởng của đạo
đức nho giáo đối với đạo đức xã hội Việt N am phải là giải pháp tổng hợp,
trong đó yếu tố quyết định là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và con người mới xã hội chủ nghĩa. Cùng với yếu tố kinh tế xã hội, cần coi trọng yếu tố giáo dục đạo đức truyền thống trong gia đình,
nhà trường, xã hội, nêu cao vai trò của pháp luật trong việc kế thừa và phát
huy giá trị đạo đức truyền thống. Cần coi trọng việc kế thừa, phát huy các
giá trị đạo đức của nhân loại.

25


×