Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Phân biệt các phương thức giải quyết tranh chấp theo quy định của luật thương mại.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.38 KB, 24 trang )

Thảo Luận Luật Kinh Tế
Đề Tài: Phân biệt các phương thức giải quyết
tranh chấp theo quy định của luật thương mại.
MỤC LỤC:
A.PHẦN MỞ ĐẦU
B.PHẦN NỘI DUNG
I.Khái quát về tranh chấp thương mại và các phương thức
giải quyết.
II.Phương thức thương lượng,hòa giải.
III.Phương thức trọng tài thương mại.
IV. Phương thức tòa án.
V.Lựa chọn phương thức thích hợp

C.PHẦN KẾT LUẬN


A.PHẦN MỞ ĐẦU

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt Nước ta đang tiến hành chính sách phát
triển kinh tế đối ngoại theo hướng tham gia ngày càng sâu rộng vào thị trường quốc tế,
thì tính đa dạng và phức tạp trong quan hệ thương mại làm cho tranh chấp thương mại
cũng trở lên phức tạp về nội dung, gay gắt về mức độ tranh chấp và phong phú hơn nhiều
về chủng loại, xuất phát từ lợi nhuận của các bên và sự hấp dẫn của nền kinh tế, việc giải
quyết tranh chấp là hết sức quan trong và cần thiết. Cần thiết là bởi cần có những phương
thức giải quyết phù hợp để nhằm bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các chủ thể,
góp phần duy trì ổn định và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Hiện nay, tranh chấp
thương mại có thể được giải quyết bằng các phương thức: thương lượng, hòa giải, trọng
tài thương mại hoặc tòa án. Mỗi phương thức đều có những ưu điểm và hạn chế riêng, và
việc lựa chọn phương thức nào đó có thể đem lại cho những bên trong cuộc đối với mỗi
vụ việc cụ thể. Hiểu biết và nắm vững về mỗi phương thức là cơ hội và chìa khóa để các
doanh nhân tìm ra được con đường giải quyết tranh chấp thích hợp nhất cho doanh


nghiệp của mình. Tuy nhiên, cũng còn nhiều vấn đề liên quan tới các phương thức giải
quyết tranh chấp thương mại chưa được quy định đầy đủ và hợp lý trong hệ thống pháp
luật nước ta, việc áp dụng các phương thức trong thực tiễn còn nhiều bất cập, vấn đề
hoàn thiện các phương thức để phát huy tối đa vai trò của chúng trong nền kinh tế là một
nhu cầu bức thiết. Qua đó mà bài thảo luận dưới đây, Nhóm 9 chúng em sẽ làm rõ nội
dung cũng như tìm ra ưu nhược điểm của các phương thức giải quyết thương mại để áp
dụng phù hợp với hoàn cảnh nhất.


B.PHẦN NỘI DUNG
I.Khái quát về tranh chấp thương mại và các phương thức
giải quyết.
1. Tranh chấp thương mại là gì?
Thuật ngữ "tranh chấp" nói chung được hiểu là sự bất đồng, mâu thuẫn về quyền lợi và
nghĩa vụ phát sinh giữa các bên liên quan. Những bất đồng, mâu thuẫn này có thể phát
sinh từ những quan hệ xã hội do nhiều ngành luật điều chỉnh nên chúng được gọi theo
ngành luật đó. Ví dụ: Tranh chấp về tiền lương giữa người lao động và người sử dụng lao
động được gọi là tranh chấp lao động. Tương tự như vậy, tranh chấp dân sự, tranh chấp
đất đai ... những tranh chấp rõ là có liên quan đến lợi ích kinh tế của các bên. Do đó
chúng có thể được gọi là tranh chấp kinh tế theo nghĩa rộng. Một đặc trưng của các tranh
chấp kinh tế theo nghĩa rộng đó là các chủ thể tham gia vào quan hệ này không nhằm
mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
Một cách đơn giản có thể hiểu tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh trong lĩnh
vực thương mại. Điều 238 Luật thương mại Việt Nam nêu ra khái niệm về tranh chấp
thương mại "là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
hợp đồng trong hoạt đồng thương mại".
Tại Khoản 2 - Điều 5 cũng quy định "hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay
nhiều hành vi thương mại của thương nhân, bao gồm việc mua bán hàng hoá, cung ứng
dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc
nhằm thực hiện các chính sách kinh tế xã hội".

Tuy nhiên, hành vi thương mại gồm những hành vi nào là điều đáng quan tâm hơn cả.
Hiện nay trên thế giới có nhiều quy định khác nhau về hành vi thương mại:
Ở Việt Nam, Điều 45 Luật thương mại quy định các loại hành vi thương mại gồm:
1. Mua bán hàng hoá
2. Đại diện cho thương nhân
3. Môi giới thương mại
4. Uỷ thác mua bán hàng hoá
5. Đại lý mua bán hàng hoá


6. Gia công trong thương mại
7. Đấu giá hàng hoá
8. Dịch vụ giao nhận hàng hoá
9. Đấu thầu hàng hoá
10. Dịch vụ giám định hàng hoá
11. Khuyến mại
12. Quảng cáo thương mại
13. Trưng bày giới thiệu hàng hoá
14. Hội chợ, triển lãm thương mại
Tuy vậy, ngoại diên của khái niệm hành vi thương mại ở các nước có nền kinh tế thị
trường phát triển có phạm vi rộng hơn nhiều. Ở Anh nói riêng và cộng đồng Anh ngữ nói
chung thuật ngữ "Commerce" không đồng nhất với "trade", mà nó bao gồm cả "trade",
"bank", "insurrance" , "transport", ... hay nói một cách khác thương mại bao gồm cả việc
mua, bán, các sản phẩm vô hình có tính chất đặc thù khác. Tác động thương mại là hoạt
động "thường xuyên, độc lập và mưu cầu lợi nhuận", và theo luật thương mại của Pháp,
hoạt động thương mại bao gồm:
1. Mua bán động sản với mục đích bán lại để kiếm lời
2. Hoạt động trung gian trong việc mua bán động sản và bất động sản.
3. Cho thuê động sản và bất động sản.
4. Chế tạo và chuyên chở

5. Hoạt động đổi tiền và ngân hàng
6. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
Và tranh chấp thương mại là tranh chấp trong các hoạt động trên. Trong giới hạn của bài
viết ở đây chỉ làm rõ tranh chấp trong hoạt động thương mại đã được quy định tại luật
thương mại Việt Nam có hiệu lực từ ngày 01/01/1998.
Còn theo khoản 1 Điều 3 Luật thương mại: ”Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát
sinh từ hoạt động thương mại. Theo luật thương mại, hoạt động thương mại là hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ đầu tư, xúc tiến
thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.”
Chủ thể chủ yếu của tranh chấp thương mại là thương nhân. Quan hệ thương mại có thể
được thiết lập giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa thương nhân với bên không phải


là thương nhân. Một tranh chấp được coi là tranh chấp thương mại khi có ít nhất một bên
là thương nhân. Ngoài ra cũng có một số trường hợp, các cá nhân tổ chức khác cũng có
thề là chủ thể của tranh chấp thương mại: tranh chấp giữa công ty - thành viên công ly;
tranh chấp giữa các thành viên công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động,
hợp nhất, giải thế, chia, tách...công ty; ... Căn cứ phát sinh tranh chấp thương mại là hành
vi vi phạm hợp đồng hoặc vi phạm pháp luật. Trong nhiều trường hợp, tranh chấp thương
mại phát sinh do các bên có vi phạm hợp đồng và xâm hại lợi ích của nhau, tuy nhiên
cũng có thể có những vi phạm xâm hại lợi ích của các bên nhưng không làm phát sinh
tranh châp.
Nội dung của tranh chấp thương mại là những xung đột về quyền, nghĩa vụ và lựi ích của
các bên trong hoạt động thương mại. Các quan hệ thương mại có bán chât là các quan hệ
tài sản, nên nội dưng tranh chấp thương liên quan trực tiếp tới lợi ích kinh tế của các bên.

2. Các phương thức giải quyết.
Pháp luật hiện hành công nhận các phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh
sau: Thương lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án. Theo đó, khi xảy ra tranh chấp kinh
doanh các bên có thể giải quyết tranh chấp thông qua việc trực tiếp thương lượng với

nhau. Trong trường hợp không thương lượng được, việc giải quyết tranh chấp có thể
được thực hiện với sự trợ giúp của bên thứ ba thông qua phương thức hòa giải, trọng tài
hoặc tòa án.
Việc giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh dựa trên nguyên tắc quan trọng là quyền
tự định đoạt của các bên. Cơ quan nhà nước và trọng tài thương mại chỉ can thiệp theo
yêu cầu của các bên tranh chấp.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh, thương mại ngày càng
đa dạng và không ngừng phát triển trong tất cả mọi lĩnh vực sản xuất, thương mại, dịch
vụ, đầu tư… Vấn đề lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh,
thương mại phải được các bên cân nhắc, lựa chọn phù hợp dựa trên các yếu tố như mục
tiêu đạt được, bản chất của tranh chấp, mối quan hệ làm ăn giữa các bên, thời gian và chi
phí dành cho việc giải quyết tranh chấp. Chính vì vậy, khi lựa chọn phương thức giải
quyết tranh chấp, các bên cần hiểu rõ bản chất và cân nhắc các ưu điểm, nhược điểm của
một phương thức để có quyết định hợp lý.

II.Phương thức thương lượng,hòa giải.
1.
a.

Giới thiệu chung về phương thức lương lượng, hòa giải
Thương lượng:


Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua việc các bên tranh
chấp cùng nhau bàn bạc, dàn xếp để tháo gỡ những bất đồng phát sinh nhằm loại bỏ
tranh chấp mà không cần có sự giúp hay phán quyết của bên thứ ba.
Thương lượng là phương thức dược các bên lựa chọn trước tiên và trong thực tiễn hầu
hết các tranh chấp trong kinh doanh, thương mại được giải quyết theo các này. Nhà
Nước khuyến khích áp dụng phương thức tự thương lượng để giải quyết tranh chấp
trên tinh thần hoạn toàn tôn trọng quyền thoả thuận của các bên.

Bản chất của thương lượng được thể hiên qua các đặc trưng sau:
-

-

Thương lượng được thực hiện bởi cơ chế tự giải quyết thông qua việc các bên
tranh chấp gặp nhau bàn bạc, thỏa thuận để tự giải quyết những bất đồng phát sinh
mà không cần có sự hiện diện của bên thứ ba;
Quá trình thương lượng không chịu sự ràng buộc của các nguyên tắc pháp lý;
Việc thực thi kết quả thương lượng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của mỗi
bên tranh chấp mà không có bất kỳ cơ chế pháp lý nào bảo đảm việc thực thi đối
với thỏa thuận của các bên trong quá trình thương lượng.

Quá trình thương lượng để giải quyết tranh chấp thương mại có thể được thực hiện
bằng nhiều cách thức: thương lượng trực tiếp, gián tiếp hoặc kết hợp cả hai.
Việc lựa chọn cách thức thương lượng nào phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của
các bên.

-

Ưu, nhược điểm
Ưu điểm:

Ưu điểm nổi bật của phương thức giải quyết này là sự thuận tiện, đơn giản, nhanh
chóng, tính linh hoạt, hiệu quả và ít tốn kém.
Mặt khác, giải quyết tranh chấp bằng thương lượng còn bảo vệ uy tín cho các bên
tranh chấp cũng như bí mật kinh doanh của các nhà kinh doanh. Các nhà kinh doanh
hơn ai hết tự biết bảo vệ quyền lợi của bản thân, hiểu rõ những bất đồng và nguyên
nhân phát sinh tranh chấp nên quá trình đàm phán, thương lượng dễ hiểu và cảm
thông với nhau hơn để có thể thỏa thuận các giải pháp tối ưu theo nguyện vọng mỗi

bên mà không phải cơ quan tài phán nào cũng làm được. Bởi vậy, nếu thương lượng
thành công không những các bên đã loại bỏ được những bất đồng phát sinh mà mức
độ phương hại đến mối quan hệ kinh doanh giữa các bên cũng thấp, tăng cường sự
hiểu biết và hợp tác lẫn nhau trong tương lai.
-

Nhược điểm:

Thương lượng thành công hay không hoàn toàn phụ thuộc vào sự hiểu biết, thái độ
thiện chí, hợp tác của các bên. Khi một hoặc các bên thiếu sự hiểu biết về lĩnh vực


đang tranh chấp, không nhận thức được vị thế của mình, khả năng thắng thua nếu phải
theo đuổi vụ kiện tại cơ quan tài phán hoặc không có thái độ nỗ lực hợp tác, thiếu sự
thiện chí, trung thực trong quá trình thương lượng thì khả năng thành công là rất
mong manh, kết quả thường bế tắc.
b.

Hòa giải:

Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba làm
trung gian hòa giải để hỗ trợ, thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải pháp
nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh.
Bản chất của thương lượng được thể hiên qua các đặc trưng sau:
-

-


-


Việc giải quyết tranh chấp thương mại đã có sự xuất hiện của bên thứ ba.
Điểm khác biệt cơ bản giữa hoà giải và thương lượng là ở chỗ luôn có sự xuất của
người thứ ba trong quá trình giải quyết tranh chấp còn thương lượng là sự tự giải
quyết giữa hai bên. Tuy nhiên quyền quyết định cuối cùng vẫn thuộc về các bên
tranh chấp khi họ thống nhất ý chí được với nhau về giải quyết tranh chấp trên cơ
sở hướng dẫn, trợ giúp của người thứ ba làm trung gian hoà giải. Đây cũng là sự
khác biệt giữa hoà giải với trọng tài thương mại và toà án.
Cũng giống như thương lượng, hòa giải không chịu sự chi phối của bất kỳ một thủ
tục tố tụng pháp lý nào mà do các bên tranh chấp tự quyết định.
Kết quả của quá trình hòa giải thành cũng chỉ là sự thỏa thuận của các bên có tranh
chấp và việc thực hiện thỏa thuận này cũng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện
của các bên mà không có bất kỳ một quyết định pháp lý nào.
Ưu, nhược điểm
Ưu điểm:

+ Đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng, sự linh hoạt, hiệu quả, ít tốn kém.
+ Các bên có quyền tự định đoạt, lựa chọn bất kỳ người nào làm trung gian hòa giải
cũng như địa điểm tiến hành hòa giải. Họ không bị gò bó về mặt thời gian như trong
thủ tục tố tụng tại tòa án.
+ Hòa giải còn có thêm ưu điểm vượt trội do người thứ ba (thường là người có trình
độ chuyên môn, có kinh nghiệm, am hiểu lĩnh vực đang tranh chấp) mang lại. Họ sẽ là
người biết cách làm cho ý chí của các bên dễ gặp nhau trong quá trình đàm phán để
loại trừ tranh chấp.
+ Trường hợp các bên tranh chấp khả năng nhận thức hạn chế trong lĩnh vực đang
tranh chấp thì dùng phương thức hòa giải sẽ có khả năng thành công cao hơn thương
lượng.


+ Kết quả hòa giải được ghi nhận và chứng kiến của người thứ ba nên mức độ tôn

trọng và tuân thủ các cam kết đạt được trong quá trình hòa giải cũng cao hơn.
-

Nhược điểm:

+ Hạn chế của hòa giải là dù có sự trợ giúp của người thứ ba làm trung gian mà một
bên không trung thực, thiếu sự thiện chí, hợp tác trong quá trình đàm phán thì hòa giải
cũng khó có thể đạt được kết quả mong đợi.
+ Ngoài ra, chính phải sử dụng đến bên trung gian nên uy tín, bí mật kinh doanh cũng
dễ bị ảnh hưởng hơn quá trình thương lượng.
+ Bên cạnh đó, chi phí cho quá trình giải quyết bằng hòa giải cũng tốn kém hơn do
phải trả phí cho bên trung gian.
2.
-

-

-

-

3.

Cơ sở pháp lý
Điều 327 LTM 2005 quy định về các hình thức giải quyết tranh chấp : “Thương
lượng giữa các bên; hòa giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân
được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hòa giải…”
Điều 259 Bộ luật hàng hải 2005 quy định : “Các bên liên quan có thể giải quyết
tranh chấp hàng hải bằng thương lượng, thỏa thuận hoặc khởi kiện tại trọng tài
hoặc tòa án có thẩm quyền…”

Điều 12 Luật đầu tư 2005 quy đinh : “Tranh chấp liên quan đến hoạt động đầu tư
tại Việt Nam được giải quyết thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài hoặc tòa
án theo quy định của pháp luật…”
Các Hiệp định thương mại Việt – Mỹ, Hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư
giữa Việt Nam – Ấn Độ, Việt Nam – Bungari, Việt Nam – Lào…đều khuyến
khích việc sử dụng các phương thức giải quyết ngoài tòa án như là những phương
thức giải quyết phù hợp với các bên tranh chấp.
Như vậy, cả pháp luật trong nước lẫn điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, ký
kết đều đã ghi nhận thương lượng, hòa giải là những phương thức giải quyết tranh
chấp thương mại giữa các bên song còn nhiều nội dung liên quan chưa được quy
định cụ thể.

Chủ thể của thương lượng, hòa giải

Chủ thể của hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại bằng các phương thức
thương lượng, hòa giải là các nhà kinh doanh hoặc đại diện ủy quyền, các nhà thương
nhân.
Các nhà kinh doanh khi tham gia hoạt động thương mại phải chịu trách nhiệm về hoạt
động của mình, khi có tranh chấp xảy ra, họ là người đầu tiên có trách nhiệm xử lý,
giải quyết. Tuy nhiên, khi các tranh chấp thương mại phát sinh không nhất thiết phải


do các đại diện có thẩm quyền của các bên đứng ra giải quyết mà có thể có cơ chế ủy
quyền.
Các bên tranh chấp cần có các nhà thương lượng để thay mặt, giúp đỡ họ trong quá
trình thương lượng, đó là những người đủ các phẩm chất cần thiết để thực hiện nhiệm
vụ thương lượng của mình.
Chủ thể của hoạt động giải quyết tranh chấp bằng phương thức hòa giải còn là người
trung gian – hòa giải viên. Đó là các cá nhân, pháp nhân được các bên yêu cầu đứng
ra làm trung gian hòa giải để giải quyết tranh chấp.

Pháp luật hiện chưa có quy định về phẩm chất, điều kiện cần có của một nhà thương
lượng, một hòa giải viên, tuy nhiên nếu họ là luật sư hay hòa giải viên thì phải đáp
ứng được điều kiện được quy định trong điều 10 Luật luật sư 2006 và Điều 12 Pháp
lệnh trọng tài Thương mại 2003.
4.

Điều kiện của thương lượng, hòa giải

Các bên đương sự được đảm bào quyền tự định đoạt, có quyền tự thương lượng, hòa
giải với nhau mà không bị giới hạn bởi điều luật nào, nếu không thành thì sẽ được giải
quyết bằng con đường trọng tài hay tòa án.
Điều kiện để thương lượng, hòa giải một tranh chấp thương mại, trước hết phải xem
xét thỏa mãn :
-

Có tranh chấp thương mại xảy ra
Các bên mong muốn loại bỏ mâu thuẫn, khắc phục tổn thất, tiếp tục duy trì quan
hệ hợp tác và các bên đều có tinh thần thiện chí, nhân nhượng, tôn trọng và giữ gìn
uy tín cho nhau.
Các tranh chấp sử dụng phương thức này thường có giá trị nhỏ, ít phức tạp, chưa
trở nên gay gắt, các bên hiểu về nhau, sẵn sàng nhân nhượng và duy trì mối quan
hệ lâu dài. Nói vậy không có nghĩa là các tranh chấp phức tạp, giá trị tài sản lớn,
liên quan đến nhiều tổ chức, quốc gia thì không thể thương lượng hòa giài mà vấn
đề là các bên phải có thiện chí hợp tác mà mong muốn dùng phương pháp này để
giải quyết nhanh chóng các tranh chấp đó.

5.

Phương pháp thương lượng, hòa giải


Pháp luật không có quy định nào về phương pháp tiến hành thương lượng, hòa giải,
nhưng trên thực tế chủ thể có thể tiến hành các phương pháp như:
-

Chủ động khai thác yếu tố tâm lý, tình cảm; khéo léo thuyết phục, khuyên nhủ;
mềm mỏng, kiên trì, sáng tạo; phân tích rõ lợi hại, cho thấy thiện chí đôi bên…


Điều này làm cho các bên ôn hòa, nhường nhịn, thông cảm cho nhau, dễ tìm được
tiếng nói chung để giải quyết tranh chấp.
Nhanh chóng đưa ra được nhiều phương án giải quyết để các bên cùng lựa chọn,
quyết định; dành cho nhau những khoảng thời gian hợp lý để chọn được phương
án tối ưu, biết dung hòa các lợi ích khác biệt, đáp ứng mong muốn của cả đôi bên.
Kết hợp đàm phán trực tiếp với việc đưa ra các tài liệu, dẫn chứng. Điều này thể
hiện việc giải quyết tranh chấp linh động, khôn khéo, vừa có lý vừa có tình, tạo ra
sự tin tưởng và tính thuyết phục đối với mỗi bên.
Luôn tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các bên cùng được thể hiện quan điểm,
nguyện vọng, ý tưởng của mình để dễ dàng hơn trong việc tìm ra tiếng nói chung
và đi đến thống nhất, có như vậy vụ tranh chấp mới được giải quyết nhanh chóng
và thỏa đáng.

-

-

-

6.

Nội dung của thương lượng, hòa giải


Có thể nêu ra một số công việc cần tiến hành như :
Xác định trách nhiệm cụ thể đối với các bên;
Xác định những biện pháp chế tài nếu một bên hoặc các bên không thực thi đầy đủ
kết quả thương lượng, hòa giải đã thống nhất.
Ngoài ra, các bên có thể phải tiến hành nhiều công việc khác tùy thuộc vào từng
vụ việc cụ thể. Mọi công việc tiến hành không trái đạo đức xã hội, không gây tổn
hại cho bất kỳ ai.

-

7.

Hiệu lực của thương lượng, hòa giải

Thương lượng, hòa giải là các phương thức giải quyết tranh chấp trên cơ sở tự nguyện
của các bên. Biên bản thỏa thuận, hòa giải không phải là một bản án nên việc thực
hiện phương án thương lượng, hòa giải mà các bên đã đạt được không mang tính
cưỡng chế. Đây là điểm làm hạn chế hiệu lực thi hành các kết quả thu được từ quá
trình giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, hòa giải. Về vấn đề này, pháp luật hiện
nay vẫn còn bỏ ngỏ.

III.Phương thức trọng tài thương mại.
1.Khái niệm trọng tài thương mại
Khoản 1 điều 3 luật trọng tài thương mại năm 2010 “Trọng tài thường mại là
phươn thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy
định của Luật này”. Như vậy, với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp,
trọng tài thương mại (TTTM) có thể được hiểu là phương thức mà các bên tranh chấp



tự nguyện thỏa thuận với nhau để ủy thác việc giải quyết tranh chấp đã hoặc sẽ phát
sinh giữa họ cho TTTM. Trên cơ sở các tình tiết khách quan về tranh chấp và quyết
định này có giá trị bắt buộc đối với các bên. Quy định này của luật TTTM năm 2010
phù hợp Luật mẫu UNCITRAL cũng quy định: “Trọng tài là mọi hình thức trọng tài
có hoặc không có sự giám sát của một tô chức thường trực” (Điều 2). Việc giải quyết
tranh chấp được tiến hành bởi Hội động Trọng tài thuộc một Trung tâm Trọng tài
nhất định hoặc bởi Hội đồng Trọng tài do các bên thành lập, tùy thuộc vào quyền lựa
chọn của các bên. Để đưa tranh chấp ra trọng tài giải quyết các bên phải có thoả
thuận trọng tài. Sau khi xem xét sự việc, trọng tài có thế đưa ra phán quyết có giá trị
cưỡng chế thi hành đối vởi các bên.

2.Đặc điểm của trọng tài thương mại.
Thứ nhất, với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại, Trọng tài có những đặc thù sau:
- TTTM là phương thức giải quyết tranh chấp có sựu tham gia của bên thứ ba (có
thể là một hội đồng trọng tài hoặc mọt trọng tài viên duy nhất) có quyền đưa ra
phán quyết. Hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên duy nhất do chính các bên
tranh chấp thỏa thuận lựa chọn trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp. Lúc này
trọng tài đóng vai trò là bên trung gian, đứng gữa để giải quyết tranh chấp trên
cơ sở đảm bả quyền tự định đoạt các bên
- TTTM là phương thức giải quyết tranh chấp có thủ tục tố tụng khá chặt chẽ.
Thủ tục giải quyết tranh chấp bằng TTTM linh hoạt và mềm dẻo hơn do các bên
được tự do thỏa thuận về toàn bộ quá trình tố tụng và hội đồng tròng tài có
nghĩa vụ phải thực hiên theo đúng thỏa thuận
- Kết quả của việc giải quyết tranh chấp tại TTTM là phán quyết của trọng tài
viên duy nhất hoặc của hội đồng trọng tài. Phán quyết của trọng tài có giá trị
chung thẩm và không có tính cưỡng chế thi hành trong khi bản án, quyết định
của tòa án lại có tính chất cưỡng chế thi hành
Thứ hai, với tư cách là một cơ quan giải quyết tranh chấp, thì TTTM có đăc điểm sau:
-


-

Trọng tài là một tổ chức xa hội – nghề nghiệp được thành lập nên để giải quyết
tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, đặc điểm này thường được
gắn với các trọng tài thường trực. Mỗi trọng tài thường trựcđề có điều lệ hoạt
động riêng, có trụ sở, bộ máy giúp việc, danh sách trọng tài viên và quy tắc tố
tụng riêng của mình
TTTM là một cơ quan giải quyết tranh chấp độc lập với tòa án, phán quyết của
TTTM không có tính chất cưỡng chế thi hành như bản án, quyết định của toàn
án. Tuy nhiên để đảm bảo giá trị pháp lý của phán quyết của TTTM, pháp luật


nước ta quy định, phán quyết của TTTM nếu không được các bên đương sự tự
nguyện thi hành thì có thể nhờ sựu hỗ trợ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cưỡng chế thi hành

3. Hình thức tồn tại
Trọng tài thương mại tồn tại dưới 2 hình thức: trọng tài vụ việc và trọng tài quy chế

a. Trọng tài vụ việc
Trọng tài vụ việc là phương thức mà trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành
lập để giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và trọng tài sẽ tự chấm dứt tồn tại khi giải
quyết xong vụ tranh chấp.
Bản chất của trọng tài vụ việc thể hiện qua các đặc trưng cơ bản:
- Một là, trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự chấm dứt
hoạt động khi giải quyết xong tranh chấp.
- Hai là, trọng tài vụ việc không có cơ sở thường trực, không có bộ máy điều hành, không
có danh sách trọng tài viên.
- Ba là, trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình.

Ưu thế của trọng tài vụ việc là có thể giải quyết nhanh chóng và ít tốn kém vì nó vẫn
chủ yếu phụ thuộc vào ý chí của các bên tranh chấp; quyền lựa chọn trọng tài viên của
các bên không bị giới hạn bởi danh sách trọng tài viên; các bên tranh chấp có quyền rộng
rãi trong việc xác định quy tắc tố tụng để giải quyết tranh chấp giữa các bên, khi nếu lựa
chọn hình thức trọng tài quy chế, các bên sẽ bị ràng buộc bởi quy tắc tố tụng của trung
tâm trọng tài.

b. Trọng tài quy chế
Trọng tài quy chế là hình thức giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài theo
quy định của Luật trọng tài thương mại và quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài đó.
Luật trọng tài thương mại sử dụng thuật ngữ trọng tài quy chế để thay cho khái niệm Hội
đồng trọng tài được thành lập tại Trung tâm trọng tài.
Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tải
khoản riêng và trụ sở giao dịch ổn định. Các trung tâm trọng tài có một số các đặc trưng
cơ bản là:
- Là tổ chức phi chính phủ, không nằm trong hệ thống cơ quan nhà nước
- Có tư cách pháp nhân, tồn tại độc lập với nhau


- Luật mới cho phép các Trung tâm trọng tài được ban hành quy tắc tố tụng trọng tài phù
hợp với quy định của Luật và đảm bảo đặc thù của mỗi Trung tâm, mỗi Trung tâm tự
quyết định về lĩnh vực hoạt động và có quy tắc tố tụng riêng.
- Hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các trọng tài viên của trung
tâm.

4. Các nguyên tắc tố tụng trọng tài
* Nguyên tắc thỏa thuận trọng tài
Khoản 2, Điều 3, Luật trọng tài quy định: “Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các
bên về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh”.
Khoản 1, Điều 5, Luật trọng tài quy định: “Tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài

nếu các bên có thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau
khi xảy ra tranh chấp”.
Thỏa thuận trọng tài được xem là vấn đề then chốt và có vai trò quyết định đối với việc
áp dụng phương thức trọng tài. Không có thỏa thuận trọng tài hợp pháp thì không có việc
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, và thỏa thuận này có thể được ghi trong hợp đồng
hoặc là thỏa thuận riêng, có thể là một phụ lục đính kèm tại thời điểm ký hợp đồng hoặc
được các bên ký kết sau khi phát sinh tranh chấp.

* Nguyên tắc trọng tài viên độc lập, vô tư, khách quan
Khoản 2, Điều 4, Luật trọng tài thương mại quy định: “Trọng tài viên phải độc lập,
khách quan, vô tư và tuân theo quy định pháp luật.”.
Điều 42, Luật thương mại quy định về việc thay đổi Trọng tài viên:
“1. Trọng tài viên từ chối giải quyết tranh chấp, các bên có quyền yêu cầu thay đổi
Trọng tài viên giải quyết tranh chấp trong trường hợp sau đây:
a) Trọng tài viên là người thân thích hoặc là người đại diện của một bên;
b) Trọng tài viên có lợi ích liên quan trọng vụ tranh chấp;
c) Có căn cứ rõ ràng cho thấy Trọng tài viên không vô tư, khách quan;
d) Đã là hòa giải viên, người đại diện, luật sư của bất cứ bên nào trước khi đưa vụ tranh
chấp đó ra giải quyết tại trọng tài, trừ trường hợp được các bên chấp thuận bằng văn bản.
2. Kể từ khi được chọn hoặc được chỉ định, Trọng tài viên phải thông báo bằng văn bản
cho Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài và các bên về những tình tiết có thể ảnh
hưởng đến tính khách quan, vô tư của mình.”

* Nguyên tắc trọng tài viên phải căn cứ vào pháp luật


Trong toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp, tư tưởng chỉ đạo đối với trọng tài viên là
pháp luật, nếu trọng tài viên không căn cứ vào pháp luật, nhận hối lộ, có hành vi vi phạm
đạo đức trọng tài bên thì các bên có quyền yêu cầu đổi trọng tài. Chỉ có dựa vào pháp
luật, trọng tài viên mới giải quyết được tranh chấp một các chính xác, công bằng và hợp

lý.

* Nguyên tắc đảm bảo quyền tự định đoạt và tôn trọng sự thỏa thuận của các
bên tranh chấp.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài, các bên có quyền quyết định
hoặc thỏa thuận quyết định về vấn đề liên quan tới tranh chấp. Đây là nguyên tắc cốt lõi
của toàn bộ quá trình tố tụng vì thực chất sự hình thành trọng tài là do ý chí tự nguyện
của các bên đương sự.

* Nguyên tắc giải quyết một lần
Luật mới hạn chế nguy cơ phán quyết của Trọng tài bị Tòa án tuyên hủy, phán quyết
của trọng tài có giá trị chung thẩm, và chỉ bị hủy theo quyết định của Tòa án nơi Hội
đồng trọng tài đã tuyên phán quyết trọng tài.

5. Thẩm quyền của trọng tài
Về thẩm quyết giải quyết của Trọng tài: Điều 2, Luật trọng tài thương mại quy định
gồm có: Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; Tranh chấp phát
sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; Tranh chấp khác
giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài. Một tranh chấp thuộc
thẩm quyền giải quyết của trọng tài ngoài điều kiện trên còn phải đáp ứng điều kiện giữa
các bên tranh chấp phải có thỏa thuận trọng tài.
Luật Trọng tài thương mại đã khắc phục những tồn tại của Pháp lệnh Trọng tài thương
mại năm 2003: khắc phục việc phân định không rõ ràng phạm vi thẩm quyền của Trọng
tài đối với các tranh chấp thương mại, trên cơ sở đó bảo đảm sự tương thích giữa các văn
bản pháp luật hiện hành. Luật thương mại đã mở rộng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài
tới nhiều loại tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích của các bên (Điều 2, Luật
TTTM).
Khi các bên đã thỏa thuận đưa vụ tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài, họ trao cho
trọng tài thẩm quyền giải quyết tranh chấp và phủ định thẩm quyền xét xử đó của tòa án
trừ khi thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc các bên hủy thỏa thuận trọng tài.


6. Thủ tục tố tụng trọng tài


Thủ tục tố tụng trọng tài được Luật trọng tài thương mại quy định sự khác nhau giữa
hai phương thức trọng tài là trọng tài vụ việc và trọng tài quy chế. Những nội dung cơ
bản của thủ tục tố tụng trọng tài bao gồm:
- Khởi kiện và thụ lý đơn kiện
- Thông báo đơn khởi kiện
- Bị đơn gửi bản tự bảo vệ
- Bị đơn gửi đơn kiện lại nguyên đơn (có thể có hoặc không)
- Thành lập hội đồng trọng tài
- Chuẩn bị giải quyết tranh chấp
- Hòa giải
- Phiên họp giải quyết tranh chấp
- Ra quyết định trọng tài

7. Thi hành quyết định trọng tài
Nhà nước khuyến khích các bên tự nguyện thi hành phán quyết trọng tài, tuy nhiên nếu
hết thời hạn thi hành phán quyết mà các bên không tự nguyện thi hành, cũng không yêu
cầu hủy phán quyết thì luật quy định bên được thi hành có quyền yêu cầu cơ quan thi
hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài. Việc đảm bảo thi hành trên
thực tế quyết định trọng tài bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước là yếu tố quyết định khắc
phục những hạn chế của phương thức tài phán trọng tài.

8. Ưu, nhược điểm
* Ưu điểm
Thứ nhât, TTTM đảm bảo tối đa quyền tự chủ của các nên bởi TTTM không phải
là phương thức giải quyết tranh chấp bắt buộc. Việc đưa tranh chấp ra trọng tài
giải quyết xuất phát từ sự hỏa thuận của các bên. Trong tài, quy chế tố tụng trọng

tài để giải quyết tranh chấp cho mình mà không phụ thuộc vào nơi đặt trụ sở hoặc
nơi cư trú của các bên. Việc này cho phép các bên tính toán về thời gian, địa điểm
giải quyết tranh chấp
Thứ hai, thủ tục giải quyết tranh chấp bằng TTTM đơn giản, chặt chẽ trong khuôn
khổ luận định, thuận tiện, giúp giải quyết nhanh gọn tranh chấp
Thứ ba, nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng TTTM là xét xử bí mật, không
công khai. Trong quá trình kinh doanh, bí quyết kinh doanh là yếu tố quantrongj,


nhất là trong những lĩnh vực sở hữu trí tuệ, công nghệ cao,… nếu giải quyết tại tòa
án sẽ có nguy cơ bị lộ bí mật do nguyên tắc xét xư của tòa án là xét xử công khai
Thứ tư, với nguyên tắc chung thẩm, thời gian giải quyết vụ tranh chấp sẽ được rút
ngắn, giúp các bên tranh chấp tiết kiệm được thời gian chi phí, đồng thời làm giảm
sự quá tải về lượng vụ việc cho hệ thống tòa án
Thứ sáu, đối với việc giải quyết tranh chấp bằng TTTM, mặc dù các bên đương sự
có quyền tự định đoạt cao về quá trình giải quyết tranh chấp nhưng các trọng tài
viên khi được cacs bên lựa chọn lại có quyền xét xử và ra quyết định một cách
hoàn toàn độc lập trên cơ sở các quy định của pháp luật

* Nhược điểm
Mặc dù giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài có nhiều ưu điểm nhưng cũng
bộc lộ một số hạn chế nhất định:
Thứ nhất, giải quyết bằng phương thức trọng tài dòi hỏi chi phí tương đối cao, đặc biệt là
hình thức trọng tài thường trực. Trong khi mức án phí giải quyết tranh chấp dân sự tại tòa
án thấp nhất là 200.000 đồng thì phí trọng tài tại trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam
thấp nhất là 2000 USD
Thứ hai, phán quyết của TTTM mang tính chung tẩm vừa là một ưu điểm nổi bật nhưng
cũng lại là một nhược điểm, đòi hỏi quá trình giải quyết tranh chấp phải hoàn toàn chính
xác, không được phép phạm sai lầm vì các bên tranh chấp không có quyền kháng cáo,
kháng nghị. Điều này thực sự là một khó khăn nếu như phát hiện và muốn sửa chữa sai

phạm trong quá trình giải quyết tranh chấp
Ngoài ra, phán quyết có trọng tài không phải lục nào cũng được thi hành trôi chảy, thuận
lợi như việc thi hành bản án, quyết định của tòa án. Bởi TTTM không phải là cơ quan
quyền lực nhà nước nên phán quyết của TTTM không có tính cưỡng chế thi hành mà phải
nhờ đến sự trợ giúp của cơ quant hi hành án.

9. Pháp luật trọng tài thương mại ở Việt Nam
Ta có thể thấy sau nhiều năm thi hành pháp lện trọng tài thương mại 2003 đã có
những hạn chế nhất định. Để khắc phục những hạn chế đó thì luật TTTM 2010 đã ra
đời và có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 2011. Đi kèm với luật là nghị định
63/2011/NĐ – CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật trọng
tài thương mại. Đây có thể coi là những văn bản pháp luật mới nhất tính đến thời
điểm này chứa các quy định pháp lý về trọng tài thương mại Việt Nam
-

Nôi dung cơ bản của pháp luật Việt Nam về TTTM
Nhưng việc pháp luật trọng tài Việt Nam đã làm được trong thời gian qua:


+ Pháp lệnh TTTM năm 2003 và mới đây là luật TTTM năm 2010 là một cột
mộc quan trọng đánh dấu những bước ngoặt quan trọng lịch sử phát triển của
pháp luật trọng tài Việt Nam. Và thực tiễn cho thấy những năm vừa qua, việc áp
dụng pháp luật TTTM đã mang đến nhiều thành tự đáng kể. Hiện nay ở Việt
Nam có 7 trung tâm trọng tài kinh tế đang hoạt động (ACIAC, VIAC,
HCMCAC, CHAC, CCAC, PIAC, VID.ARCE). Đối với trung tâm trọng tài Việt
Nam (VIAC), nếu như năm 2003 VIAC mới giải quyết được 16 vụ, thì tới năm
2004 con số này đã tăng gấp đôi lên 32 vụ, năm 2006 VIAC giải quyết được 36
vụ, năm 2008 con số này tăng lên tới 58 vụ và hết năm 2010 vừa qua, số vụ
tranh chấp mà VIAC đã giải quyết lên 63 vụ. Như vậy, sau 7 năm áp dụng pháp
lệnh trọng tài, số vụ giải quyết bởi VIAC đã tăng 4 lần. Trong đó, VIAC đã giải

quyết thành công nhiều vụ tranh chấp nước ngoài. Theo số liệu thoongd kê mới
nhất thì tới nay VIAC đã giải quyết tất cả 451 vụ tranh chấp có yếu tố nước
ngoiaf, trong đó Singapore là quốc gia có nhiều tranh chấp liên quantoiws nhất,
62 vụ, chiếm 13,75% tiết theo là Hàn Quốc với 57 vụ, chiếm 12,64%...
+ Những hạn chế, vướng mắc từ thực tiễn áp dụng pháp luật TTTM ở Việt Nam.
Theo kết quả khảo sát của bộ tư pháp về mức độ lựa chọn phương thức giải
quyết tranh chấp đối với 237 cá nhân, tổ chức kinh doanh thì 57,8% ý kiến cho
rằng hình thức giải quyết tranh chấp ưu tiên của họ là thương lượng, 46,8% ý
kiến ưu tiên lựa chọn tòa án, 22,8% ý kiến sẽ chọn giải hòa, chỉ còn 16,9% ý
kiến cho rằng sử dụng TTTM
 Vụ việc cụ thể: Khi một hợp đồng thương mại có thỏa thuận sử dụng trọng tài làm

cơ quan GQTC, hoặc khi xảy ra tranh chấp các bên thỏa thuận trọng tài làm cơ
quan GQTC; khi đó nếu điều khoản trọng tài hợp lệ và tranh chấp thuộc phạm vi
thẩm quyền của trọng tài thì trọng tài sẽ là cơ quan duy nhất có quyền xét xử; tòa
án sẽ không thụ lý những trường hợp này. Phán quyết của trọng tài là cuối cùng;
nghĩa là không xét xử lại hay xét xử nhiều cấp. Tuy nhiên, tòa án có quyền công
nhận (nhất là với phán quyết của trọng tài nước ngoài) hoặc tuyên hủy phán quyết
trọng tài. Ở vụ việc này Vinalines đã dựa vào Luật TTTM 2010 để đề nghị tòa án
tuyên hủy phán quyết (một lý do là hồ sơ giả mạo). Khi xem xét hủy phán quyết
trọng tài, tòa án chỉ xem xét từ góc độ thủ tục là chính, ko đi sâu vào nội dung
tranh chấp. Nếu phán quyết bị tuyên hủy thì khi đó các bên có quyền thỏa thuận để
xét xử bằng trọng tài hoặc khởi kiện ra tòa án. Tuy nhiên, trong trường hợp tòa án
công nhận phán quyết của trọng tài, bác đơn đề nghị hủy của một trong hai bên
(như trong trường hợp Vinalines) thì các bên sẽ phải chấp hành phán quyết và
phán quyết đó vẫn là cuối cùng (đó là lí do tại sao tòa án k cho phép các bên khiếu
nại, khiếu kiện tiếp). Một điều bình luận thêm về vụ việc này, đó là sẽ tốt hơn
Vinalines vận dụng quyền của mình để đề nghị tòa án tuyên hủy phán quyết; thay



vì đệ đơn lên Thủ tướng để Thủ tướng có chỉ đạo với Tòa án. Chưa bàn tới việc
như vậy có vi phạm về tính độc lập tư pháp; nhưng về cơ bản là không cần thiết vì
Vinalines có quyền này.

10. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại trong thời gian
tới.
+ Hoàn thiện quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của
TTTM
Các văn bản pháp luậ hướng dẫn luật TTTM 2010 nên giải thích theo hướng
mở rộng phạm vi thẩm quyền của trọng tài, tôn trọng ý chí tự do thỏa thuận
của các bên tranh chấp. Cụ thể, nên quy đinh thẩm quyền của trọng tài theo
phương pháp loại trừ, mở rộng thẩm quyền của trogj tài ra cả tranh chấp dân
sự, trừ một số tranh chấp liên quan đến quyền nhân thân, quanheej hôn nhân,
gia đình và thừa kế theo quy định của luật dân sự quy định tại dự thảo lần 1
cuar luật này. Ví dụ, theo luật trọng tài tại Singapore thì trọng tài có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp dân sự, trừ tranh chấp về hình sự và tranh chấp
hôn nhân gia đình
+ Hoàn thiện quy định của pháp luật về biên pháp khẩn cấp tạm thời
Pháp luật trọng tài hiện hành nên có quy định về việc thi hành các biện pháp
khẩn cấp tạm thời theo đại diện dự án USAID/STAR cho rằng, việc thi hành
các quyết định biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng như việc thay đổi, áp dụng
bổ sung, hủy bỏ các biện pháp của tòa án
+ Hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề xem xét thỏa thuận trọng tài vô
hiệu
Pháp luật TTTM nên bổ sung quy định về thủ tục yêu cầu toàn án xem xét
quyết định của hội đồng trọng tài về vấn đề vô hiệu của thỏa thuận trọng tài.
Cụ thể trong thời gian tòa án xem xét để ra quyết định thoản thuận trọng tài có
vô hiệu hay không, hôi đồng trọng tài nên tạm dừng tố tụng. Bản thân trong
thời gian này, dù có tiến hành tố tụng, các bên cũng khó đạt được kết quả như
mong đợi khi một bên đã không thiết tha với việc giải quyết tranh chấp tại

trọng tài và yêu cầu tòa án xem xét tuyên thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Hơn
nữa, dù có đạt được kết quả giả quyết tranh chấp trong thời gian này, mà sau


đó, tòa án tuyên thủa thuận trọng tài vô hiệu đương nhiên dẫn tới việc phán
qquyeets của trọng tài không có giá trị. Sauk hi tòa án có quyết định cụ thể,
phụ thuộc vào quyết định của tòa án mà tố tụng trọng tài tiếp tục nếu toàn án
xác định thỏa thuận trọng tài là không vô hiệu, trường hợp toà án tuyên thỏa
thuận vô hiệu thì khi đó từ việc tạm dừng tố tụng, hôi đồng trọng tài ra quyết
định chỉ giải quyết vụ tranh chấp. Khi đó, các bên chuẩn bị tâm thế cho vụ
việc tranh chấp có thể được đưa ra tòa án giải quyết
+ Hoàn thiện một số quyết định về trọng tài viên
Thứ nhất, để đảm bảo nâng cao số lượng song hành với việc nâng cao chất
lượng. Trọng tài viên theo hướng giỏi về trình độ chuyên môn, có đạo đức
nghề nghiệp, giàu kinh nghiệm thực tiễn, các thương nhân có thời gian dài
hoạt động trong lĩnh vực doanh nghiệp thương mại muấn trở thành trọng tài
viên nên buộc tham gia một khóa học trọng tài viên
Thứ hai, các tiêu chuẩn chuyên môn về trọng tài viên nên được xóa bỏ trong
luận TTTM 2010. Thay vào đó, để nâng cao chat lượng đội ngũ trọng tài viên,
Nhà nước có thể thực hiện các biện pháp khác
+ Hoàn thiện những quy định khác của luật để phù hợp với thực tiễn.
Về khoản 8 điều 71 luật TTTM 2010 nên có hướng dẫn về tiền tài chính cần
cung cấp tương đương với giá trị thiệt hại xảy ra mà nên có những biện pháp
đánh giá đúng tình hình thực tế vụ việc cũng như tài chính của DN để đưa ra
nhưng con số hợp lý. Quy định này trên thực tế sẽ đảm bảo quyền lợi người bị
xâm phạm, ngăn chặn bên vi phạm tẩu tán và thay đổi hiện trạng tài sản
Ngoài ra, cần đưa ra chế tài đồi với các cá nhân, tổ chức không thực hiện yêu
cầu của tòa án liên quan đến hoạt động trọng tài. Đồng thời cũng có chế tài
đối với cá nhân, tổ chức lưu giữ chứng cứ trong thời gian chời đọi để giao
chứng cứ cho hội đồng trọng tài.


IV. Phương thức tòa án.
1.Giới thiệu chung về phuơng thức giải quyết tranh chấp bằng tòa án.
Tòa án là phương tức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh quyền lực nhà
nuớc, đuợc tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay quyết


định của tòa án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ đuợc bảo đảm thi
hành bằng sức mạnh cuỡng chế của nhà nuớc. Việc giải quyết tranh chấp thuơng mại tại
tòa án không những phải tuân thủ các quy định về thẩm quyền khá rắc rối mà còn phải
tuân theo một thủ tục rất nghiêm ngặt của luật tố tụng. Việc giải quyết tranh chấp về kinh
doanh thuơng mại tòa án bao gồm nhiều quy định khác nhau. Khi có tranh chấp nguời có
quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm nếu muốn tòa án bảo vệ quyền và lợi ích thì phải
gửi đơn kiện đến đúng cấp tòa án có thẩm quyền. Tòa án sẽ xem xét vụ việc và xét xử
theo thủ tục sơ thẩm và ra bản án sơ thẩm. Nếu các bên không đồng ý với bản án sơ thẩm
thì có quyền kháng cáo yêu cầu cấp trên xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Việc giải quyết
tại tòa án còn có thể đuợc xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm và giám đốc thẩm.

2.Thẩm quyền của tòa án.
Thẩm quyền của toà án về giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thuơng mại đuợc
phân định theo vụ việc, theo cấp tòa án, theo lãnh thổ, theo sự lựa chọn của nguyên đơn
và đã quy định cụ thể trong Bộ luật dân sự. Ở đây ta xem xét khía cạnh thẩm quyền của
tòa án theo vụ việc.
Điểm b tiểu mục 1.1 Mục 1 phần I Nghị quyết số 01/20056/HĐTP của hội đồng thẩm
phán tòa án nhân dân tối cao ngày 31/3/2005 về huớng dẫn thi hành một số qui định trong
phán những quy định chung của BLTTDS 004 thì tòa kinh tế có nhiệm vụ, quyền hạn giải
quyết cac tranh chấp về kinh doanh, thuơng mại theo quy định tại điều 29 BLTTDS, cụ
thể là những tranh chấp kinh doanh thuơng mai sau:
Thứ nhất, tranh chấp phát sinh trong họat động kinh doanh, thuơng mại giữa cá nhân,
tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận, bao gồm 14 lĩnh

vực: ký, gửi, thuê, cho thuê, thuê mua, xây dựng, tư vấn, kỹ thuật,vận chuyển hàng hóa,
hành khách bằng đuờng sắt, đuờng thủy, đuờng bộ, đuờng thủy nội địa, vận chuyển hàng
hóa, hành khách bằng đuờng hàng không, đuờng biên, mua bán cổ phiếu, trái phiếu và
giấy tờ có giá khác, đầu tư tài chính ngân hàng, bảo hiểm, thăm dò, khai thác.
Thứ hai, tranh chấp với công ty với thành viên của công ty, giữa các thành viên của
công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, họat động, giải thể, sát nhập,hợp nhất, chia
tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. Trong truờng hợp này cần phân biệt hai
lọai tranh chấp.
Một là, tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty: là các tranh chấp về
vốn góp của mỗi thành viên đối với công ty, về mệnh giá cổ phiếu và cổ phiếu phát hành
đối với mỗi công ty cổ phần, về quyền sở hữu một phần tài sản của công ty tuơng ứng
với phần vốn góp của công ty, về quyền đuợc chia lợi nhuận và nghĩa vụ chịu lỗ tuơng
ứng với phần vốn góp vào công ty, về yêu cầu công ty đổi các khóan nợ hoặc thanh tóan
các khỏan nợ của công ty, thanh lý tài sản và thanh lý các hợp đồng mà công ty đã ký kết


khi giải thể công ty, về vấn đề khác liên quan đến thành lập, sáp nhập, hợp nhất, chia
tách, chuyển đổi hình thức công ty
Hai là, tranh chấp giữa các thành viên của công ty với nhau: là các tranh chấp về việc
trị giá phần vốn góp vào công ty giữa các thành viên của công ty , về việc chuyển
nhuợng phần vốn góp vào công ty giữa các thành viên của công ty hoặc về việc chuyển
nhuợng phần vốn góp vào công ty của các thành viên công ty đó cho nguời khác không
phải thành viên của công ty, về vịêc chuyển nhuợng cổ phiếu không ghi tên và cổ phiếu
có ghi tên, về mệnh giá cổ phiếu, số cổ phiếu phát hành và trái phiếu của công ty cổ phần
hoặc về quyền sở hữu tài sản tuơng ứng với số cổ phiếu của thành viên công ty, về quyền
đuợc chia lợi nhuận và về nghĩa vụ chịu lỗ, thanh tóan nợ của công ty, về việc thanh lý tài
sản, phân chia nợ giữa các thành viên của công ty liên quan đến việc thành lập, họat
động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
Thứ ba, tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ giữa các cá nhân,
tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. Với vai trò quan trọng của quyền sở hữu

trí tuệ đối với họat động kinh doanh của doanh nghiệp, việc BLTTDS quy định tranh
chấp về quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ là một lọai tranh chấp kinh doanh,
thuơng mại phù hớp và cần thiết.
Thứ tư, các tranh chấp khác về kinh doanh, thuơng mại và pháp luật có qui định. Xuất
phát từ họat động kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế thị truờng rất đa dạng, phức tạp
nên các tranh chấp thuơng mại cũng rất phong phú, đa dạng. Vì vậy các nhà làm luật khó
có thể liệt kê đuợc mọi tranh chấp khác về kinhh doanh, thuơng mại. Đây là qui địnnh mở
mang tính dự phòng và đón đầu của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội
luôn biế động đặc biệt là các quan hệ kinh doanh và các tranh chấp kinh doanh, thuơng
mại.
Hiện nay, những tranh chap trong kinh doanh thuơng mại khác mà chưa xác định là
lọai tranh chấp nào, chúng sẽ thuộc quyền giải quyết của tòa án cấp tỉnh hay cấp huyệ
cũng chưa đuợc pháp luật đề ra những tiêu chí nhất định. Do đó để hạn chế sự hạn chế và
đùn đẫy lẫn nhau giữa các tòa án các cấp. Ngay từ bây giờ cần phải có quy định cụ thể và
vấn đề này theo huớng các tranh chap khác nếu phát sinh trên thực tế sẽ do tòa án nhân
dân cáp tỉnh giải quyết, để phòng truờng hợp có những vụ án quá phức tạp đòi hỏi thẩm
phán phải có trình độ cao.

3.Thủ tục giải quyết:
Thủ tuc giải quyết về tranh chấp kinh doanh, thuơng mại tại tòa án cũng như thủ tục
giải quyết tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, gồm có:
-

Thủ tục giẩi quyết vụ án tại tòa án tại tòa án cáp sơ thẩm, gồm có: khơi kiện và thụ
lý vụ án, hòa giải và chuẩn bị xét xử, phiên tòa sơ thẩm.


-

Thủ tục giải quyết vụ án tại tòa án cấp phúc thẩm.

Thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, bao gồm thủ tục tục
giám đốc thẩm và tủ tục tái thẩm.

4.Ưu, nhược điểm:
Ưu điểm của hình thức giải quyết tranh chấp thông qua tòa án là: Do là cơ quan xét xử
của Nhà nước nên phán quyết của tòa án có tính cưỡng chế cao. Nếu không chấp hành sẽ
bị cưỡng chế, do đó khi đã đưa ra tòa án thì quyền lợi của người thắng kiện sẽ được đảm
bảo nếu như bên thua kiện có tài sản để thi hành án.
Tuy nhiên, việc lựa chọn phương thức này cũng có những nhược điểm nhất định vì thủ
tục tại tòa án thiếu linh hoạt do đã được pháp luật quy định trước đó. Bên cạnh đó,
nguyên tắc xét xử công khai của tòa án tuy là nguyên tắc được xem là tiến bộ, mang tính
răn đe nhưng đôi khi lại là cản trở đối với doanh nhân khi những bí mật kinh doanh bị tiết
lộ.
Chính vì những nhược điểm này mà hình thức giải quyết tranh chấp bằng tòa án ít khi
được các thương nhân lựa chọn và các thương nhân thường xem đây là phương thức lựa
chọn cuối cùng của mình khi các phương thức thương lượng, hòa giải, trọng tài không
mang lại hiệu quả.

V.Lựa chọn phương thức thích hợp
1.

Trọng tài hay trung gian hòa giải:
Trung gian hòa giải không loại trừ trọng tài và ngược lại. Trong trọng tài quyết định
được công bố có giá trị chung tẩm và ràng buộc các bên. Quyết định trọng tài được tòa án
công nhận và có thể buộc bên thua kiện phải thi hành nếu bên đó không tôn trọng các
điều khoản của quyết đinh. Tính hiệu quả của trung gian hòa giải hoàn toàn phụ thuộc
vào thiện chí của các bên, họ tự do tuân theo hoặc không tuân theo khuyến nghị hoặc
quyết định của hòa giải viên hoặc nhà trung gian. Những khuyến nghị này không tương
đương với phán quyết của tòa án và không thể được công nhận như vậy. Vì vậy, tại tòa
án quốc gia, một bên không thể yêu cầu thi hành khuyến nghị của nhà trung gian hay hòa

giải viên.

2.

Kết hợp trọng tài với trung gian hòa giải:
Một số hợp đồng quy định quy trình giải quyết tranh chấp theo 2 cấp : sử dụng trung
gian hòa giải, trường hợp không thành công sẽ sử dụng tố tụng trọng tài. Ít nhất, các bên
phải có thỏa thuận ngụ ý về quy trình này, đó là các bên cố gắng giải quyết tranh chấp
một cách thân thiện trước khi nhờ đến trọng tài hoặc tòa án. Đối với hợp đồng dài hạn,
các bên phải giữa quan hệ tốt, thậm chí cả khi tranh chấp phát sinh để có thể duy trì giao
dịch trong tương lại. Trong trường hợp này, nỗ lực đạt được thỏa thuận giải quyết tranh


chấp một cách thân thiện là hoàn toàn cần thiết. Nếu các bên cắt đứt quan hệ và không
huy vọng vào quan hệ tương lại thì sử dụng trung gian hòa giải là vô ích, trường hợp đó,
cách duy nhất là sử dụng trọng tài. Một số tổ chức trọng tài quy chế có các điều khoản
mẫu kết hợp hòa giải với trung gian trọng tài : VD điều khoản trung gian của WIPO.
3.

Trọng tài hay tòa án:
Đối với hợp đồng quốc tế, các bên rất khó thỏa thuận để lụa chọn một tòa án quốc
gia. Hơn nữa, lựa chọn một tòa án quốc gia ở nước thứ ba thì hầu như không thích hợp.
Tố tụng tòa án thường kéo dài vì các tòa án thường bị quá tải công việc, hơn nữa toà án
có các cấp thẩm quyền khác nhau, điều này khiến cho bên chưa thỏa mãn có cơ hội yêu
cầu xem xét lại nội dung vụ kiện. Hơn nưa,x tòa án không phải bao giờ cũng chuyên về
các vấn đề thuowgn mại và thẩm phán chưa hẳn đã có đủ kiến thức để giải quyết tranh
chấp thương mại quốc tế. Nhìn chung, đặc trưng của tố tụng tòa án là các quy tắc, thủ tục
nghiêm ngặt, thường khá cứng nhắc.
Đặc trưng của tổ chức trọng tài quốc tế là quy tắc “tính độc lập của các bên”. Các
bên tùy ý tổ chức tổ tụng bằng cách dẫn chiếu quy tắc tố tụng trọng tài sẵn có hoặc soạn

thảo quy tắc riêng. Ccá bên có thể tự chọn trọng tài viên, ấn định thời hạn hoặc nhờ bên
thứ ba ấn đinh. Về nguyên tắc, quyết định trọng tài có giá trị chung thẩm. Cơ hội để hủy
quyết định trọng tài là rất ít, chủ yếu do sai sót thủ tục cơ bản. Giống như các thẩm phán,
các trọng tài viên cũng phải có tính độc lập. Nhưng các trọng tài viên có được chọn vào
một vụ việc cụ thể hay không còn tùy thuộc vào nghề nghiệp và trình độ chuyên môn
cũng như việc họ có thời gian để làm trọng tài viên hay không. Hơn nữa, trọng tài có tính
bí mật, còn trong tố tụng tòa án, những phiên xét xử được tổ chức công khai.
Các bên không phải trả thù lao cho thẩm phán, nhưng họ phải chịu mọi khoản thù lao
và chi phí của các trọng tài viên cũng như các khoản phí tổ chức trọng tài quy chế giảm
sát vụ việc. Các trọng tài viên không có quyền ra lệnh cưỡng chế bồi thường hoặc áp
dụng các biện pháp tạm thời khác nhau như thu giữ tài giản, triệu tập nhân chứng hoặc
bên thứ ba khi họ không muốn tham gia vào tố tụng. Ở một số nước, tòa án không có
nhiều kinh nghiệm trong một số lĩnh vực chuyên ngành. Với sự phát trieuenr của hội
nhập khu vực, phán quyết của tòa án thương mại cso thể thi hành nhanh chóng giữa một
số nước nhất định. Đó là ở Tây Âu thông qua công ước Brucxen 1968 đã được sửa đổi
nhiều lần, và ở 16 nước Châu Phu là thành viên của Tổ chức hài hòa Luật thương mại ở
Châu Phi.
Vì vậy, mặc dù trọng tài là phương thức thường được khuyến nghị để giải quyết
tranh chấp thương mại, sử dụng tòa án cũng có thể là một lựa chọn có giá trị, tùy thuộc
vào hoàn cảnh cụ thể.


C.PHẦN KẾT LUẬN
Sau khi tìm hiểu về các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại thì ta cũng
phần nào hiểu rõ hơn về bốn phương thức: thương lượng, hòa giải, trọng tài thương
mại và tòa án ở nước ta, đồng thời có cái nhìn tổng quan hơn về phương thức áp
dụng của các loại phương thức này. Tuy nhiên các phương thức giải quyết tranh
chấp thương mại là một vấn đề còn khá nan giải, cũng bởi mỗi quốc gia lại chuộng
một hình thức giải quyết tranh chấp khác nhau. Như một số nước có nền kinh tế
đang phát triển thì họ chuộng các phương thức giải quyết như thương lượng, hòa

giải và trọng tài hết sức phổ biến, chiếm ưu thế, nhưng ở quốc gia còn đang trong
quá trình chuyển đổi như Việt Nam thì việc giải quyết vấn đề bằng Tòa án vẫn giữ
vai trò quan trọng. Do đó mà khi áp dụng các phương thức giải quyết tranh chấp
vào thực tiễn, ta cần linh hoạt tùy theo hoàn cảnh.



×