Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

ĐÁNH GIÁ tác ĐỘNG môi TRƯỜNG ở VIỆT NAM NHỮNG KHÓ KHĂN THÁCH THỨC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.38 KB, 11 trang )

Ketnooi.com

“Đánh giá tác động môi trường ở
Việt Nam những khó khăn thách thức”
Mục lục

1.Giới thiệu...............................................................................................................................................1
1.1 Mở đầu...........................................................................................................................................1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu......................................................................................................................3
1.3. Nội dung nghiên cứu......................................................................................................................3
1.4. Phương pháp nghiên cứu..............................................................................................................3
2. Cơ sơ lý thuyết .....................................................................................................................................3
2.1. Lịch sử quá trình hình thành hệ thống phát luật liên quan đến ĐTM của Việt Nam......................3
2.2. Một số văn bản pháp quy liên quan đến vấn đề Đánh giá tác động môi trường có hiệu lực hiện
hành. ...................................................................................................................................................4
2.3. Các lực lượng thực thi đánh giá tác động môi trường...................................................................5
3. Chính sách được đánh giá Tác động môi trường..............................................................................6
3.1.Mục tiêu chính sách........................................................................................................................6
3.2 Một số nhận định về kết quả thực hiện..........................................................................................6
4. Những đánh giá và đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách...................................................7
4.1. Đánh giá tác động môi trường hiện nay còn mang tính hình thức................................................7
4.2. Sự quan tâm và nguồn kinh phí thực hiện.....................................................................................9
4.3. Công tác giám sát sau đánh giá tác động môi trường và các văn bản luật liên quan.....................9
4.4. Vai trò của Cộng đồng người dân trong các đánh giá ĐTM..........................................................10
5. Kết luận – một số đề xuất...................................................................................................................10
5.1. Kết luận........................................................................................................................................10
5.2. Một số đề xuất ............................................................................................................................10
Tài liệu tham khảo..............................................................................................................................11

1. Giới thiệu
1.1 Mở đầu



Việt nam có tốc độ phát triển kinh tế xã hội nhanh. Hiện nay với nhữn thành tựa
mà chúng đất nước chúng ta đã đạt được trên các mặt kinh tế, xã hội. Có lẽ điều này rất
ít người không biết đến. Song mặt trái của quá trình phát triển sẽ không dễ dàng nhận ra
bởi những hậu quả của nó có thể không tạo ra hiệu ứng tức thời với tới môi trường sống

Ketnooi.com


Ketnooi.com

của chúng ta. Cùng với việc xây dựng các chương trình, dự án nhằm phát triển kinh tế
xã hội, tạo ra những tác động thúc đẫy phát triển là các tác động làm thay đổi môi
trường sinh thái, biến đổi các hệ sinh thái tự nhiên, những vấn đề này có thể không
được nhận ra hoặc nhận ra nhưng chúng ta chấp nhận đánh đổi để phát triển. Vấn đề
quan trọng trong quá trình phát triển chính là sự bền vững của các chương trình, dự án
đó. Chính những vấn đề này đã đưa việc đánh giá tác động môi trường trở nên hết sức
quan trọng.
Trên Thế giới vấn đề này đã thành một phần quan trọng trong việc xây dựng và
hình thành các chương trình – dự án, đặc biệt là ở các nước phát triển. Sau một thời
gian dài phát triển và đạt được những thành quả quan trọng thì họ đã nhận ra được cái
giá phải trả cho sự phát triển không bền vững. Nên đánh giá tác động môi trường là một
phần không thể thiếu trong việc thực hiện các dự án.
Ở Việt nam chúng ta một nước có thể nói là có một thời gian dài chìm trong chiến
tranh, khi hòa bình lập lại nhu cầu xây dựng đất nước phát triển nhanh mạnh là một nhu
cầu cấp thiết và mang tính sống còn của nền độc lập dân tộc. Do đó có một thời gian dài
chúng ta phát triển nhưng không quan tâm đến tác lại của quá trình phát triển; ví dụ như
nhưng năm đầu của thập niên 80 của thế kỷ trước chúng ta đã thành lập hàng loạt các
Lâm Trường khai thác gỗ, việc khai thác gỗ được giao chỉ tiêu, những đơn vị nào phá
được nhiều rừng thì nhận được sự khen thưởng (huân huy chương các loại). Đây không

phải là chúng ta phán xét lại lịch sử song, chính vấn đề này là một việc làm không có sự
tính toán đánh giá đến các tác động tại hại khi những cánh rừng bị chặt hạ….; một ví dụ
khác nữa chúng ta cũng có thể dễ dàng nhận ra chính là các chương trình khai thác tài
nguyên thô xuất khẩu cũng là một vấn đề nỗi cộm cần phải có sự nhìn nhận và điều
chỉnh lại. Vấn đề Đánh giá tác động môi trường đã bắt đầu quan tâm, từ những năm đầu
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Song chưa thực sự nhận được sự quan tâm
đúng mức, thậm chí bị coi nhẹ bỏ qua. Bắt đầu từ năm 1993 Luật bảo vệ môi trường
Việt Nam đã được ra đời và trong văn bản luật đã có nhưng yêu cầu về việc đánh giá
tác động môi trường các dự án. Nhưng để thực sự vấn đề này thực sự nhận được sự
quan tâm từ khi luật bảo vệ môi trường năm 2005 đã có những ý tưởng thực sự rõ ràng
và hướng dẫn yêu cầu cụ thể.
Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) là công cụ pháp lý và kỹ thuật quan trọng để xem
xét, dự báo tác động môi trường, xã hội của các dự án, hoạt động phát triển; cung cấp
luận cứ khoa học cho chính quyền, cơ quan quản lý chuyên ngành và doanh nghiệp cân
nhắc trong quá trình quyết định đầu tư và phê duyệt dự án. Các yêu cầu về ĐTM đã
được luật hóa và quy định bởi Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam từ năm 1993 và

Ketnooi.com


Ketnooi.com

cụ thể hơn trong luật môi trường năm 2005. Với 16 năm thực hiện công tác ĐTM đã
giúp Chính phủ Việt Nam từng bước cụ thể hóa và cải thiện hệ thống quy định ĐTM,
tạo lập và phát triển năng lực đội ngũ thực hiện ĐTM; nhờ ĐTM nhiều dự án có nguy
cơ, rủi ro cao đối với môi trường và xã hội đã buộc phải chấm dứt hoặc điều chỉnh lại.
Tuy nhiên, hoạt động ĐTM ở Việt Nam vẫn bộc lộ nhiều bất cập và yếu kém về cả chất
lượng cũng như việc thực thi theo quy định pháp luật.
Nhìn chung, ĐTM vẫn bị hành xử như một thủ tục nhằm hợp thức hóa quá trình
thẩm định và phê duyệt các dự án, hoạt động đầu tư. Bản thân quy định luật pháp hiện

hành về ĐTM cũng thực sự chặt chẽ. Nhiều hậu quả nghiêm trọng về môi trường và xã
hội đã xảy ra do các yêu cầu về ĐTM bị làm ngơ hoặc không được thực hiện nghiêm
chỉnh. Vấn đề này đang trở thành một chủ đề nóng, chủ đề tranh luận của các nhà khoa
học, nhà quản lý và đông đảo quần chúng nhân dân.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu

Trong khuôn khổ một tiểu luận nghiên cứa về “Luật và chính sách môi trường”
với mục tiêu tìm hiểu hiệu quả và các một số tồn tại trong việc thực hiện Đánh giá tác
động ĐTM, với những vấn đề được phân tích từ đó có một số đề xuất mang tính tham
khảo nhằm khắc phục nhược điểm.
1.3. Nội dung nghiên cứu


Từ các chính sách về luật chính sách môi trường liên quan đến vấn đề
đánh giá tác động môi trường.

Các vấn đề đang được quan tâm của dư luận ở thời điểm hiện tại, từ việc
thực hiện các đánh giá môi trường, đến các vần đề phát sinh sau khi thực hiện
các dự án.
1.4. Phương pháp nghiên cứu





Sử dụng phương pháp sưu tầm và thu thập số liệu
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Phương pháp phân tích điểm yếu điểm mạnh (SWOT).


2. Cơ sơ lý thuyết
2.1. Lịch sử quá trình hình thành hệ thống phát luật liên quan đến ĐTM của Việt Nam

Ketnooi.com


Ketnooi.com

Ở Việt Nam lần đầu tiên quy trình ĐTM được đưa ra trong Luật Bảo vệ Môi
trường năm 1993, và đến nay đã có những điều chỉnh đáng kể.
Các chế tài về ĐTM lần đầu tiên được quy định tại Điều 17 và 18 của Luật
BVMT ban hành ngày 27/12/1993, và tiếp đó là Nghị định 175/CP của Chính phủ về
hướng dẫn thi hành Luật BVMT 1993. Các quy định này yêu cầu tất cả các dự án trong
nước và đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đều là đối tượng phải thực hiện ĐTM. Các dự
án đã đi vào hoạt động cũng cần lập báo cáo đánh giá tác động dưới dạng "kiểm toán
môi trường".
Luật BVMT sửa đổi ban hành ngày 29/11/2005 đã dành riêng một chương quy định về
công tác đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo
vệ môi trường.
Nếu như bước tiến hành báo cáo ĐTM sơ bộ được coi là bắt buộc đối với các dự án
trước khi có Luật BVMT 2005, thì sau khi luật này có hiệu lực, bước này đã bị xoá bỏ.
Giai đoạn từ năm 1994 đến trước khi Luật BVMT 2005 được ban hành là giai đoạn
"vừa làm - vừa học - vừa rút kinh nghiệm" của Việt Nam (1). Đến năm 2008, một bảng
danh mục các đối tượng gồm 162 loại dự án khác nhau phải lập báo cáo ĐTM đã được
quy định tại Nghị định 21/2008/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 28/2/2008. Các
dự án thuộc danh mục này sẽ phải thực hiện báo cáo ĐTM chi tiết; nếu không chỉ cần
thực hiện cam kết BVMT. Đối tượng của quy định "ĐTM bổ sung" là các dự án mở
rộng hoặc thay đổi công nghệ của các cơ sở đang sản xuất. Khái niệm này đã thay thế
cho dạng báo cáo ĐTM của các cơ sở đang hoạt động trước đây.


2.2. Một số văn bản pháp quy liên quan đến vấn đề Đánh giá tác động môi trường có hiệu
lực hiện hành.

1. Luật bảo vệ môi trường, được quốc hội thông qua ngày 29 tháng 11 năm
2005. Chương 3 Đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường.
2. Nghị định 80/2006/NĐ-CP ngày 09/08/2006. Hướng dẫn chi tiết và thi hành
luật bảo vệ môi trường năm 2005. Trong nghị định này có danh mục các dự án phải
thực hiện đánh giá tác động môi trường và danh mục các dự án liên ngành liên tỉnh do
bộ tài nguyên và môi trường thẩm định.

Ketnooi.com


Ketnooi.com

3. Nghị định 21/2008/NĐ-CP, sửa đổi bổ sung 1 số điều của quy định 80/2006/NĐCP về quy định chi tiết và thi hành một số điều luật bảo vệ môi trường năm 2005. Danh
mục các dự án phải thực hiện báo cáo đánh giá tác động môi trường (162 dự án).
4. Nghị định 81/2006/NĐ-CP ngày 03 tháng 9 năm 2006 về quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
5. Thông tư 05/2008/TT- BTNMT ngày 8/12/2008 hướng dẫn đánh giá tác động
môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường.
6. Thông tư 276TT/MTg – BKHCN MT ngày 26/11/1997. Hướng dẫn kiểm soát
ô nhiễm đối với các cơ sở kinh doanh sau khi có phê chuẩn báo cáo đánh giá tác động.
7. Thông tư 14220 TT/ mtg-bkhcn mt ngày 26/11/1994. Hướng dẫn đánh giá tác
động môi trường đối với các cơ quan đang hoạt động.
8. Quyết định 13/2005/QĐ –BTNMT ngày 2 tháng 12 năm 2005. Về chức năng
nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của vụ thẩm định tác động môi trường.
9. Quyết định 13/2006/QĐ-BTNMT ngày 08/09/2006. Ban hành quy định về tổ
chức và hoạt động của hội đồng thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường chiến
lược và báo cáo đánh giá tác động môi trường.

2.3. Các lực lượng thực thi đánh giá tác động môi trường

Hiện nay do nhu cầu của công việc nên số lượng những người tham gia lập báo
cáo ĐTM đã tăng nhanh một cách tự phát, đáp ứng nhu cầu “thị trường” trong bối cảnh
các hoạt động đầu tư nở rộ trên toàn quốc. Đội ngũ chuyên gia, tổ chức và dịch vụ tư
vấn ĐTM trong và ngoài nhà nước đều dễ dàng tiếp cận. Gần 10 năm trước, hầu hết các
dự án lớn đầu tư vào Việt Nam đều phải thuê chuyên gia nước ngoài thực hiện báo cáo
ĐTM. Đến thời điểm hiện nay, rất nhiều cơ quan trong nước đã có thể đảm nhiệm được
vai trò này và đưa ra nhiều báo cáo có chất lượng tốt. Tuy nhiên, yêu cầu về năng lực
đảm bảo thực hiện ĐTM của lực lượng này vẫn còn bỏ ngỏ, chưa có chế tài pháp lý nào
ràng buộc. Theo kết quả tại hội thảo về ĐTM ở Việt Nam do Trung tâm Thiên nhiên và
con người tổ chức, về việc này, theo giáo sư Phạm Duy Hiển, nguyên Viện trưởng Viện
Hạt nhân Đà Lạt, đã từng đề nghị "cần có một chứng chỉ bắt buộc đối với những cán bộ

Ketnooi.com


Ketnooi.com

thực hiện công tác ĐTM ở Việt Nam".
Cán bộ thẩm định và phê duyệt báo cáo ĐTM ở cấp trung ương thuộc Vụ Thẩm
định (Bộ Tài nguyên - Môi trường; nay trực thuộc Tổng Cục Môi trường, Bộ TN-MT)
và Bộ trưởng Bộ TN-MT chịu trách nhiệm phê duyệt. Ở cấp địa phương, Phòng Thẩm
định thuộc Sở TN-MT và Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố chịu trách nhiệm phê duyệt
báo cáo ĐTM. Từ năm 1994 đến năm 2004, hơn 800 báo cáo ĐTM của các dự án và cơ
sở đang hoạt động đã được thẩm định và phê duyệt ở cấp trung ương; gần 26.000 báo
cáo ĐTM và bản đăng ký đạt Tiêu chuẩn Môi trường đã được thẩm định và phê duyệt ở
cấp địa phương. Theo đánh giá của các chuyên gia, năng lực thẩm định báo cáo ĐTM
đã được nâng cao đáng kể do có nhiều cán bộ được đào tạo, tập huấn ở trong nước và
nước ngoài cũng như khả năng "học thông qua hành" từ thực tiễn công việc. Đến nay,

lực lượng cán bộ này đã có thể tự đảm đương được việc tổ chức thẩm định các báo cáo
ĐTM theo mức độ được phân cấp.
Tuy nhiên, ở cấp tỉnh, đội ngũ cán bộ thẩm định ĐTM vẫn còn yếu và thiếu, chưa đáp
ứng được yêu cầu đa dạng về kiến thức khoa học môi trường có liên quan đến nhiều
ngành khác nhau.
Điều này, chúng ta có thể thấy là cần có một hệ thống quy chuẩn và có thể nên
thành tăng cường công tác tập huấn nâng cao năng lực, cho đội ngũ cán bộ làm công tác
đánh giá ĐTM của các địa phương. Để hạn chế các sai sót trong công tác đánh giá tác
động môi trường.
3. Chính sách được đánh giá Tác động môi trường
3.1.Mục tiêu chính sách

+ Khái quát được quy mô đặc điểm của các chương trình dự án có liên quan đến
môi trường.
+ Dự báo được các tác động tốt - xấu đối với môi trường có thể xảy ra khu thực
hiện dự án.
+ Đề ra các phương hướng, giải pháp tổng thể giải quyết các vấn đề về môi
trường trong quá trình thực hiện dự án.
3.2 Một số nhận định về kết quả thực hiện


Một số đánh giá tác động môi trường hiện nay còn mang tính hình thức,
chưa phản ánh được thực chất vấn đề.

Ketnooi.com


Ketnooi.com



Sự quan tâm và nguồn kinh phí cho việc thực hiện các chương trình đánh
giá tác động môi trường chưa lớn.

Công việc giám sát sau đánh giá thực thi sau khi các dự án đã được phê
duyệt còn ít được quan tâm. Hệ thống pháp lý chưa thực sự đồng bộ


Tiếng nói của dư luận còn còn thiếu trọng lượng

4. Những đánh giá và đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách
Với mục tiêu và vai trò của công tác đánh giá tác động môi trường là hết sức
quan trọng. Nó sẽ quyết định độ chính xác của một chương trình – dự án phù hợp với
các tiêu chí đề ra trong định hướng phát triển của đất nước nhằm phát triển bền vững.
Song thực tế hiện nay ĐTM còn có nhiều vấn đề cần phải xem xét lại nhằm để ĐTM
ngày càng có giá trị đúng nghĩa.
4.1. Đánh giá tác động môi trường hiện nay còn mang tính hình thức

Như chúng ta biết bản chất của công tác ĐTM là tìm hiểu, dự báo các tác động
môi trường và tác động xã hội tiêu cực, đề xuất giải pháp ngăn ngừa, hạn chế các tác
động này khi dự án được thực hiện, đảm bảo dự án không chỉ mang lại lợi ích kinh tế
mà còn thúc đẩy phát triển an sinh xã hội và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, một bộ
phận nhỏ các nhà quản lý và chủ đầu tư chưa nhận thức được ý nghĩa của công tác này.
Họ thường coi yêu cầu lập báo cáo ĐTM như là một thủ tục trong quá trình chuẩn bị để
thực hiện dự án (vé qua cửa). Nhiều người còn “đổ lỗi” cho ĐTM như một lực cản của
hoạt động phát triển sản xuất và đầu tư. Vì vậy, khi được yêu cầu lập báo cáo ĐTM chỉ
làm lấy lệ, chú trọng làm cho đủ thủ tục để dự án được thông qua chứ không quan tâm
đến những tác động và nguy cơ môi trường thực sự.
Ví dụ: Phong trào cấp phép ồ ạt cho các dự án xây dựng sân golf ở Việt Nam
trong những năm qua là một minh chứng điển hình. Bên cạnh đó còn nhiều ví dụ khác
không kém phần nóng như; việc cấp phép xây dựng các tòa nhà Chung cư hay các dự

án khu nghỉ dưỡng, các dự án công nghiêp, khu chế xuất cũng có nhiều dự án lâm vào
cảnh tương tự, để xẩy ra tình trạng không khả thi. Hiện nay rất nhiều dự án giải tỏa mặt
bằng “đất bỏ không” còn người dân thì thiếu đất để sản xuất. Nếu như các nhà hoạch
định chính sách không quá đam mê xây dựng các dự án phát triển theo kiểu như vậy thì
không thể có tình trạng diễn ra mâu thuẫn như hiện nay. Nếu các dự án này tuân thủ
thực hiện ĐTM nghiêm túc và chất lượng thì sẽ không có những xung đột xảy ra giữa

Ketnooi.com


Ketnooi.com

các chủ dự án và cộng đồng địa phương do tranh chấp quyền sở hữu, tiếp cận, sử dụng
tài nguyên đất, rừng và nguồn nước…
- Bên cạnh đó, hiện tượng các chuyên gia tư vấn thường được “khoán” làm một
báo cáo ĐTM cho “phù hợp với yêu cầu của pháp luật” là rất phổ biến ở các địa
phương. Vì vậy, việc tuân thủ quy trình và yêu cầu chất lượng báo cáo ĐTM thường bị
làm ngơ hoặc xem nhẹ. Các phương án giảm thiểu tác động thì hoặc là quá sơ sài, hoặc
thiếu tính khả thi, hoặc chỉ là lời hứa hẹn không có cơ sở”.
Theo Viện trưởng Viện Tư vấn Phát triển (OECD), Ông Phạm Quang Tú đã phát
biểu về vấn đề ĐTM ở Việt Nam tại 1 cuộc hội thảo do trung tâm Panature tổ chức
"khía cạnh xã hội của báo cáo ĐTM hiện nay rất nhạt nhòa” và Ông đã dẫn chứng bằng
các báo cáo ĐTM của dự án xây dựng nhà máy thủy điện Hương Sơn và dự án khai thác
mỏ ti-tan ở tỉnh Hà Tĩnh. Nội dung các báo cáo ĐTM cho thấy phần đánh giá tác động
xã hội thường quá ngắn gọn, rất chung chung, thiếu cơ sở khoa học, và ít thuyết phục.
Ví dụ, phần đánh giá tác động xã hội trong báo cáo ĐTM cuả dự án ti-tan Hà Tĩnh chỉ
có ½ trang; dự án thủy điện Hương Sơn có 01 trang. Các đánh giá được trình bày chung
chung, không có chiều sâu, và dường như chỉ được “xào xáo” lại từ các báo cáo ĐTM
khác". Báo cáo ĐTM của dự án thủy điện Lai Châu - một trong ba công trình thuỷ điện
lớn trên sông Đà với công suất thiết kế là 1.200MW, toàn bộ nội dung dày tới 200 trang,

nhưng phần đánh giá tác động kinh tế - xã hội chỉ cũng chiếm 2 trang (1% toàn bộ nội
dung). Rõ ràng, yêu cầu đánh giá tác động xã hội đã không được đề cao trong yêu cầu
lập báo cáo ĐTM.
Hay một chia sẽ khác của GS.TS. Trần Hiếu Nhuệ, một chuyên gia trong lĩnh
vực ĐTM của Đại học Xây dựng Hà Nội cũng chia sẻ nhận xét trên khi đánh giá khoảng
20% số báo cáo ĐTM ông tham gia thẩm định (cho đến năm 2003) được copy từ các
bản báo cáo khác. Thậm chí nhiều trường hợp chủ đầu tư còn “quên” thay đổi địa danh
cho phù hợp với dự án mới. Bên cạnh đó, có những báo cáo đã cố tình làm ngơ hoặc
đánh giá thấp giá trị, vai trò của môi trường và hệ sinh thái ở nơi dự án đề xuất can
thiệp. Ví dụ, VQG Tam Đảo đã được quy hoạch và khẳng định là "khu rừng đa dạng
sinh học cao với rừng lùn thường xanh điển hình". Tuy nhiên, báo cáo hiện trạng môi
trường phục vụ cho dự án Tam Đảo II ở vùng lõi VQG đã đánh giá khu vực là "nghèo
đa dạng sinh học, không có giá trị bảo tồn".

Ketnooi.com


Ketnooi.com

Với những dẫn chứng khá sát thực của các nhà nghiên cứa như ở trên cũng có
thể cho ta nhận thấy được rằng ĐTM ở một số dự án vẫn mang nặng tính hình thức
chưa có những đánh giá sát thực.
4.2. Sự quan tâm và nguồn kinh phí thực hiện.

Một thực tế hiện nay thì nguồn kinh phí cho việc thực hiện ĐTM theo quy định
chỉ chiếm một tỷ lệ phần trăm rất nhỏ. Bởi vậy để có một báo cáo ĐTM có giá trị là một
thách thức đối với việc thực hiện các công việc phục vụ cho báo cáo, bên cạnh đó cũng
thiếu sự quan tâm chỉ đạo và việc phân định vị trí vai trò chức năng thẩm định của các
dự án còn nhiều vấn đề chồng chéo. Mặc dù chúng ta đã có các thông tư, nghị định
hướng dẫn thực hiện nhưng thực tế các công việc được giao một số cơ quan chưa thực

sự quan tâm hoăc quan tâm nhưng chưa thực sự am hiểu về vai trò ý nghĩa của việc
đánh giá tác động môi trường.
Chính từ những vấn đề trên đã nảy sinh ra việc thực hiện các báo cáo đánh giá
tác động ĐTM chưa thực sự có chất lượng ở một số dự án.
4.3. Công tác giám sát sau đánh giá tác động môi trường và các văn bản luật liên quan.

Một thực tế thì dù có các sản phẩm ĐTM có giá trị và ý nghĩa nhưng nếu chúng
ta thưc hiện công tác đánh giá không tốt thì cũng chỉ là “Công dã tràng” bởi tâm lý của
các chủ đầu tư vẫn còn coi nặng hiệu quả của kinh doanh theo hướng có lợi nhất cho
họ. Bỏ mặc quyền lợi chung của toàn xã hội.
Ví dụ điểm hình cho sự việc này là VEDAN trắng trợn vi phạm Luật BVMT - xả
trái phép nước thải chưa qua xử lý xuống sông Thị Vải kéo dài liên tục trong 14 năm.
Đây là vụ việc làm xôn xao dư luận cả nước, với thời gian 14 năm xả thải có thể nói đã
đầu độc dòng sông Thị Vải gây hai cho bao nhiêu người dân đang sinh sống ở hai bên
sông, triệt hạ các hệ sinh thái, và nhiều loài sinh vật sống trong khu vực này. Vụ
VEDAN vi phạm này được kéo dài với thời gian 14 năm (?) . Vậy các đơn vị chức năng
giám sát ở đây làm gì trong thời gian nay ? Làm ngơ hay không phát hiện ra?
Cũng có thể thấy một kẻ hở khác nữa là ở vụ này là sau khi vụ việc bị lực lượng
Cảnh sát Môi trường phát hiện và điều tra thì có một số tội danh không xử phạt được do
đã hết thời hạn xử phạt hành chính. Các tội danh này đều liên quan đến báo cáo ĐTM
bổ sung và cam kết bảo vệ môi trường. Các tội danh trong việc vi phạm ĐTM cũng
chưa có các khung hình phạt thỏa đáng để các doanh nghiệp, các chủ đầu tư phải có các
biệt phát thực hiện. Chủ yếu là xử phạt hành chính, hoặc phạt tiền ở mức nhẹ. Nên điều
này các chủ doanh nghiệp có thể phớt lờ đi, sẵn sàng chịu phạt để đạt lợi nhuận cho họ
một cách cao nhất.
Ketnooi.com


Ketnooi.com


Qua ví dụ điểm hình trên ta có thể thấy rằng công tác giám sát cũng như hệ
thống luật xử phạt tôi danh phá hủy môi trường ở nước ta chưa thực sự sát thực.
4.4. Vai trò của Cộng đồng người dân trong các đánh giá ĐTM.

Vấn đề lấy ý kiến của quần chúng nhân dân khu vực dự án và các khu vực có
liên quan được nêu rõ trong chương 3 luật bảo vệ môi trường. Song vấn đề này thực tế
chưa làm được tốt. Minh chứng cho điều này là ngày càng nhiều dự án đã được Đánh
giá tác động phê duyệt, cho phép triển khai dự án nhưng khi triển khai các dự án thì
xuất hiện nhiều ý kiến của cộng đồng dân cư. Họ cho rằng chính họ chưa được hỏi ý
kiến hoặc đã hỏi ý kiến nhưng ý kiến của họ không được đưa vào trong báo cáo đánh
giá tác động môi trường. Chính vì vậy hiện nay vấn đề khiếu kiện về ô nhiễm môi
trường của các Cộng đồng dân cư về hoạt động sản xuất kinh doanh của các nhà máy,
khu công nghiệp ngày càng nhiều, đây là một thực tế đáng buồn mà chúng ta có thể bắt
gặp ở nhiều khu công nghiệp – nhà máy trong cả nước.
Có những dự án mặc dù đã được cộng đồng các nhà khoa học, cũng như cộng
đồng địa phương phản ánh là nguy hại đến môi trường. Song vẫn được triển khai. Ví dụ
như hiện nay vụ khai thác Boxit ở Tây Nguyên có thể nói là điểm hình.

5. Kết luận – một số đề xuất
5.1. Kết luận

- Với 15 năm đi qua công tác đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam chúng ta
không thể phủ nhận công lao to lớn của các nhà khoa học, nhà quan lý về lĩnh vực môi
trường đã dày công và phải nói là đã thu được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Nếu như
chúng ta chỉ nhìn vào nhược điểm tồn tại mà kết luận vấn đề là không thực sự công
bằng. Bởi nhìn ra lịch sử phát triển của thế giới về bảo vệ môi trường và vấn đề đánh
giá tác động môi trường, thì Việt Nam chúng ta cũng là một quốc gia nhận được sự
quan tâm lớn của đảng và nhà nước.
- Với một đất nước có nền kinh tế đang ở giai đoạn đang phát triển, chịu ảnh
hưởng của nặng nề của các cuộc chiến tranh nhưng chúng ta đã có những định hướng

nhằm không phát triển kinh tế bằng mọi giá, đó chính là thành công lớn nhất mà Việt
Nam chúng ta đã đạt được. Tuy còn có một số dự án thực hiện còn chưa được như
chúng ta mong đợi, song chúng ta không thể phủ nhận những thành quả này.
5.2. Một số đề xuất



Về nội dung đánh giá tác động môi trường
Ketnooi.com


Ketnooi.com




Cần tập trung hoàn thiện các quy trình áp dụng của phương
pháp đánh giá tác động ĐTM không chỉ tập trung cho các dự án
phát triển, tăng cường hơn nữa việc áp dụng các vào các kế hoạch
phát triển quy mô quốc gia, vùng ngành.

Các vấn đề tồn tại trong các đánh giá tác động ĐTM và cam
kết bảo vệ môi trường cần phải khắc phục, hoàn thiện hơn nữa các
công cụ xử phạt nhằm nâng cao hiệu lực của pháp luật.
Về công tác thực hiện triển khai thực hiện

Cần có chính sách phù hợp để đảm bảo sự tham gia một
cách hữu ích và đầy đủ của cộng đồng vào công tác đánh giá tác
động môi trường.


Cần lồng ghép các kết quả của đánh giá tác động ĐTM vào
nghiên cứu khả thi và ra quyết định.

Xây dựng các chương trình tập huấn nâng cao năng lực cho
đội ngũ thực hiện, đặc biệt là ở cấp cơ sở. Để đảm bảo việc thực
hiện ĐTM có hiệu quả cả khi đánh giá và khâu giám sát.

Cần có cơ chế tài chính phù hợp nhằm đảm bảo việc thực
hiện ĐTM có thể đảm bảo về mặt khoa học mang đầy đủ ý nghĩa.

__________________
Tài liệu tham khảo

1. Lê Văn Khoa, Nguyễn Ngọc Sinh, Nguyễn Tiến Dũng, 2006 - Chiến lược
và chính sách môi trường – Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Trần Văn Ý và Cộng sự, 2006. Đánh giá tác động môi trường các dự án
phát triển – NXB Thống Kê.
3. Lê Bá Huy (chủ biên), 2007 – Phương pháp luận nghiên cứu khoa học NXB Giáo dục.
4. Luât bảo vệ Môi trường – năm 1993
5. Luật bảo vệ Môi trường – năm 2005
6. Các văn bản hướng dẫn thực hiện luật bảo vệ môi trường năm 2005.
7. Các Web liên quan như:
- và một số web liên quan.

Ketnooi.com



×