Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Nguồn gốc – bản chất – vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (489.25 KB, 16 trang )

TIỂU LUẬN:

Nguồn gốc – bản chất – vai
trò của lợi nhuận trong nền
kinh tế thị trường


Lời nói đầu

Việt Nam đã trải qua nhiều năm chiến tranh gian khổ để dành độc lập chủ quyền
cho đất nước, tự do cho nhân dân.Vì vậy đã fải chịu những thiệt hại nặng nề về
kinh tế- xã hội.Nền kinh tế Việt Nam hiện nay thuộc một trong những nước
nghèo nhất thế giới, khoa học kỹ thuật kém phát triển, thu nhập bình quân đầu
người thấp. Điều này là trăn trở của mỗi người dân chúng ta.Đặc biệt là những
nhà hoạt động kinh tế.
Nước ta muốn thực hiện chính sách phát triển kinh tế có hiệu quả đòi hỏi người
cầm lái phải là người có hiểu biết sâu rộng trong việc nắm bắt các vấn đề để đưa
ra các phương án tối ưu. Các chính sách phải hình thành từ sự hiểu biết một cách
sâu sắc những gì mà nó đem lại,những gì mà nó gây ra trong hiện tại,trong tương
lai.Đứng trên góc độ vi mô và vĩ mô. Xuất phát từ nguyên tắc trên với nền kinh
tế Việt Nam hiện nay. Nước ta đang chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang
nền kinh tế thị trường, hcúng ta mongh mỏi cho quá trình phát triển kinh tế thành
công. Vì thế không phải ai khác không phải một tổ chức hay một quốc gia nào
khác có thể giúp chúng ta mà chúng ta phải tự vận động, tự ta phải tìm ra con
đường phát triển kinh tế phù hợp với điều kiện của nước ta hiện nay. Yêu cầu đặt
ra là chúng ta phải hiểu rõ những bản chất, nguồn gốc của những yếu tố bên
trong nền kinh tế thị trường. Đặc biệt là yếu tố chính quyết định thúc đẩy sự phát
triển nền kinh tế thị trường. Đó chính là lợi nhuận vậy lợi nhuận là gì ? Nguồn
gốc và bản chất của lợi nhuận như thế nào ? Đây là những vấn đề tất yếu và cấp
thiết đòi hỏi chung ta phải giải quyết nhanh chóng để đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế – kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.Vấn đề nàycó tầm quan trọng rất


lớn. Quá trình nghiên cứu nó phải xuất phát từ các học thuyết kinh tế, quan điểm
kinh tế của các nhà kinh tế nổi tiếng trong lịch sử. Đặc biệt là quan điểm của
Mác kết hợp với thực tiễn hiện nay. Quá trình nghiên cứu sẽ giúp giải đáp được
những câu hỏi đặt ra trong lý luận cũng như trong thực tiễn về sự phát triển công
nghiệp,nông nghiệp những biến đổi xã hội... Để thấy được quá trình phát triển
kinh tế ở Việt Nam.


Phần I
Nguồn gốc – bản chất của lợi nhuận

I.Các quan điểm về nguồn gốc và bản chất lợi nhuận
1.Quan điểm kinh tế thời cổ đại và trung cổ
 Aristoleles ( Hy Lạp cổ đại, 384-322 TCN )đã đưa ra tư tưởng về 3 loại
thương nghiệp và 2 loại kinh doanh. Ông chia hoạt động thương nghiệp thành
3 loại là: Trao đổi tự nhiên H – H; trao đổi thông qua tiền tệ H – T – H; trao
đổi nhằm mục đích làm giàu T – H – T’. Đồng thời ông chia hoạt động kinh
doanh ra làm 2 loại:
 Thứ nhất: “kinh tế”. Loại kinh doanh này nhằm mục đích là giá trị sử dụng.
Trao đổi chỉ là phương tiện để làm tăng thêm giá trị sử dụng.
 Thứ hai: “sản xuất của cải”. Mục đích của loại hoạt động kinh doanh này là làm
giàu. Loại này có quan hệ với trao đổi làm giàu T – H – T’.
 Carton ( La Mã cổ đại,234-149 TCN ) coi lợi nhuận là số dư thừa ngoài giá trị
mà giá trị được ông hiểu là những chi phí sản xuất. Chẳng hạn trong việc sử
dụng công nhân tự do, Carton cho rằng tất cả giá trị là chi phí về vật tư và tiền
trả cho công thợ. Vì vậy để có lợi nhuận cao, ông khuyên hãy “Yên tâm chờ
đợi giá cao”.
 Thomasd Aquin ( Italia 1225-1274 ) bảo vệ kinh tế tự nhiên, chống lại hoạt
động thương mại và cho vay nặng lãi. Ông sử dụng quan điểm của Aristoleles
về 3 loại thương nghiệp và cho rằng đại thương nghiệp có thể theo đuổi một

mục đích chân lý hay cần thiết. Vì vậy, thu lợi nhuận không mâu thuẫn với
lòng từ thiện. Theo ông, địa tô, lợi nhuận thương mại là sự trả công cho lao
động gắn liền với việc quản lý tài sản ruộng đất. Việc thu địa tô là hoàn toàn
hợp lý, vì địa tô thu từ ruộng đất, mà ruộng đất là tặng phẩm của “thượng đế
ban cho vua chúa”.
2.Các học thuyết của phái cổ điển:
a.Học thuyết kinh tế của trường phái trọng thương
Trường phái này ra đời từ giữa thế kỷ 15 đến giữa thế kỷ 17 trong điều kiện chế
độ phong kiến bị tan rã và chủ nghĩa tư bản thực hiện tích luỹ nguyên thuỷ của tư
bản. Họ là những nhà kinh tế học đầu tiên đi tìm nguồn gốc, đi tìm lợi nhuận

Comment [URG1]:
Comment [URG2]:


trong lưu thông. Họ đã sống trong thời đại tư bản tư nhân và ngoài tư bản tư nhân
ra, họ không biết một hình thái tư bản nào khác, họ cũng không biết một hình
thức lợi nhuận nào khác ngoài lợi nhuận thương nghiệp. Vì tư bản thương nghiệp
chỉ hoạt động trong lưu thông nên không thấy làm lạ gì họ chỉ chú ý đến lưu
thông. Theo họ lợi nhuận thương nghiệp là kết quả do lưu thông, mua bán trao
đổi sinh ra, là do kết quả của việc mua rẻ bán đắt mà có.
b- Học thuyết kinh tế của trường phái trọng nông
Đánh giá cao vai trò của nông nghiệp. Coi nó là lĩnh vực duy nhất trong xã hội
tạo ra của cải. Chỉ có lao động trong nông nghiệp mới là lao động có ích, lao
động sinh lời, vì nó tạo ra sản phẩm thuần tuý cho xã hội. Sản phẩm thuần tuý là
số chênh lệch giữa tổng sản phẩm và chi phí sản xuất. Nó là số dôi ra ngoài chi
phí sản xuất. Nó được tạo ra trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, còn công
nghiệp không tạo ra sản phẩm thuần tuý.
c.Học thuyết kinh tế tư sản cổ điển
-


Lý thuyết về địa tô, lợi tức và giá cả ruộng đất của William Petty:

Lý thuyết địa tô của William Petty được xây dựng trên cơ sở lý thuyết giá trị lao
động. Ông coi địa tô là giá trị nông sản phẩm sau khi đã trừ đi các chi phí sản
xuất mà chi phí này gồm chi phí về giống và tiền lương. Về thực chất, địa tô là
giá trị dôi ra ngoài tiền lương tức là sản phẩm của lao động thặng dư. Gắn với địa
tô là lợi tức, theo ông người có tiền có thể sử dụng nó bằng hai cách để có thu
nhập. Thứ nhất, là dùng tiền mua đất đai, nhờ đó có địa tô. Thứ hai là mang gửi
vào ngân hàng để thu lợi tức. Muốn xác định lợi tức phải dựa vào địa tô, mức cao
hay thấp của lợi tức phụ thuộc vào điều kiện sản xuất nông nghiệp quyết định.
- Học thuyết kinh tế của Adam Smith
Adam Smith cho rằng giá trị hàng hoá do người công nhân tạo ra, anh ta chỉ
nhận được một phần tiền lương, phần còn lại là địa tô và lợi nhuận của nhà tư
bản. Lý thuyết tiền lương, lợi nhuận, địa tô của ông được xây dựng trên cơ sở lý
thuyết giá trị lao động. Theo ông, địa tô là khoản khấu trừ đầy tiên vào sản phẩm
lao động. Nó là số dôi ra ngoài tiền lương công nhân và lợi nhuận của nhà tư bản.
Lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai vào sản phẩm của người lao động. Ông chỉ
ra lợi tức là một bộ phận của lợi nhuận mà nhà tư bản hoạt động bằng tiền đi vay
trả cho chủ nó để được sử dụng tư bản. Ông đã nhìn thấy xu hướng bình quân


hoá tỉ suất lợi nhuận và xu hướng tỉ suất lợi nhuận giảm sút do khối lượng tư bản
đầu tư tăng lên.
II.Học thuyết của Mác về nguồn gốc và bản chất lợi nhuận
Mác và Ănghen là những người đầu tiên: đã xây dựng nên lý luận về giá trị
thặng dư một cách hoàn chỉnh. Lý luận thặng dư của Mác đã được Lênin đánh
giá là “hòn đá tảng của học thuyết kinh tế của Mác.” Qua nghiên cứu ông nhận
thấy: Nếu tư bản bỏ ra một lượng tiền lương là T đưa vào sản xuất và lưu thông
hàng hoá thì sau một thời gian họ sẽ thu về một lượng tiền là T’(T’>T) hay T’ =

T + T. T là số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra, Mác đã gọi là giá trị thặng
dư. Số tiền ứng ra ban đầu chuyển hoá thành tư bản. Mục đích của lưu thông T –
H – T’ là sự lớn lên của giá trị, là giá trị thặng dư, nên sự vận động T – H – T’ là
không có giới hạn, công thức này được Mác gọi là công thức chung của tư bản.
Nghiên cứu nguồn gốc tạo nên giá trị thặng dư, Mác chia tư bản thành hai bộ
phận là tư bản khả biến và tư bản bất biến. Tư bản bất biến là tư bản biến thành
tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo tồn và chuyển vào sản phẩm, tức là giá trị
không biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất. Tư bản khả biến thông qua lao
động trừu tượng của công nhân làm thuê tăng lên. Giá trị hàng hoá được biểu
diễn bằng công thức : Giá trị = C + V + m. Sự phân chia này đã vạch rõ thực chất
bóc lột tư bản chủ nghĩa.
Sự bóc lột tư bản chủ nghĩa về mặt lượng; tỷ suất giá trị thặng dư và khối
lượng giá trị thặng dư. Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ số tính theo phần trăm giữa
giá trị thặng dư và tư bản khả biến cần thiết để sản xuất ra giá trị thặng dư đó: m’
= m/V.100%. Tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh trình độ bóc lột công nhân. Thực
chất đây là tỷ lệ phân chia ngày lao động thành thời gian lao động cần thiết và
thời gian lao động thặng dư. Tuy nhiên, tỷ suất giá trị thặng dư không biểu hiện
lượng tuyệt đối của sự bóc lột tức là khối lượng giá trị thặng dư. Khối lượng giá
trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư và tổng tư bản khả biến(V).
Gọi M là khối lượng giá trị thặng dư thì:
M = m’.V
Mục đích của nhà tư bản là sản xuất ra nhiều giá trị thặng dư. Những phương
pháp cơ bản để đạt được mục đích đó là tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị
thặng dư tương đối. Giá trị thặng dư được tạo ra bằng cách kéo dài ngày lao động


trong điều kện thời gian lao động không cần thiết, không thay đổi gọi là giá trị
thặng dư tuyệt đối. Giá trị thặng dư được tạo ra bằng cách rút ngắn thời gian lao
động càn thiết trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi nhờ độ kéo dài
tương ứng thời gian lao động thặng dư, gọi là giá trị thặng dư tương đối. Ngoài

ra, cạnh tranh giữa các nhà tư bản buộc họ cố gắng tăng năng suất lao động trong
các xí nghiệp của mình để giảm giá trị cá biệt của hàng hoá. Nhà tư bản sẽ chiếm
số chênh lệch giữa giá trị xã hội và các giá trị cá biệt chừng nào năng suất lao
động xã hội còn chưa tăng lên để số chênh lệch đó không còn nữa. Phần giá trị
thặng dư phụ thêm xuất hiện khi giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã
hội, được Mác gọi là giá trị thặng dư siêu ngạch.
Để làm rõ hơn vấn đề trên ta phân tích chi phí xã hội và chi phí tư bản chủ
nghĩa xuất phát từ giá trị hàng hóa (C + V + m). Sản xuất hàng hoá phải chi phí
cho mua tư liệu sản xuất C gọi là lao động quá khứ và lao động tạo ra giá trị
mới(V + m). Đứng trên quan điểm người lao động thì đó là chi phí thực tế để tạo
ra giá trị hàng hóa (C + V + m). Nhưng đối với nhà tư bản thì họ không hao phí
lao động sản xuất ra hàng hoá nên nhà tư bản chỉ xem hết bao nhiêu tư bản. Thực
tế họ chỉ ứng ra số tư bản mua tư liệu sản xuất (C) và mua sức lao động (V) – chi
phí lao động chủ nghĩa. Như vậy chi phí tư bản chủ nghĩa nhỏ hơn chi phí thực tế
khối lượng m và khi bán hàng hoá, nhà tư bản thu về một khoản lời đúng bằng
giá trị thặng dư m, số tiền này gọi là lợi nhuận: giá trị = K + P.
Về mặt lượng P có nguồn gốc là kết quả lao động không công của công nhân
làm thuê. Về mặt chất, P như là toàn bộ tư bản ứng trước đẻ ra do sự che dấu
quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa, che dấu nguồn gốc chủ yếu của nó.
Mác cho rằng, sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân(p’ = m/ (C +
V).100%) và lợi nhuận bình quân đã che dấu hơn nữa thực chất bóc lột của chủ
nghĩa tư bản. Khi đó giá trị của hàng hoá được chuyển hoá thành giá cả sản xuất.
Tiền đề của giá cả sản xuất là sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. Giá cả
hàng hoá xoay quanh giá cả sản xuất. Về mặt lượng giá cả sản xuất và giá trị có
thể không bằng nhau. Chính trong mối quan hệ này, giá trị vẫn là cơ sở là nội
dung bên trong của giá cả sản xuất, giá cả thị trường. Thực chất của quy luật giá
cả sản xuất là sự biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong thời kỳ cạnh tranh
của chủ nghĩa tư bản.



III.các hình thức biểu hiện của lợi nhuận
1.Lợi nhuận công nghiệp
Trong công nghiệp, ,các nhà sản xuất và kinh doanh mong muốn chi phí cho
các đầu vào ít nhất, và sản xuất ra nhiều hàng hoá nhất, bán hàng với giá cao nhất
để thu được lợi nhuận tối đa. Lợi nhuận ở đây chính là phần chênh lệch giữa tổng
doanh thu và tổng chi phí. Vì vậy, các doanh nghiệp không ngừng nghiên cứu để
tăng lợi nhuận, giảm chi phí sản xuất.
2.Lợi nhuận nông nghiệp(Địa tô) :
Tư bản không chỉ hình thành và thống trị trong lĩnh vực công nghiệp mà còn mở
rộng cả trong nông nghiệp. Địa chủ có nhiều ruộng đất còn nhà tư bản cần ruộng
để kinh doanh. Nhà tư bản kinh doanh ruộng đất phải thu thêm một phần giá trị
thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân, tức là lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận
siêu ngạch này tương đối ổn định và lâu dài và nhà tư bản phải trả cho chủ ruộng
đất dưới hình thái địa tô TBCN. Như vậy, địa tô TBCN là một phần giá trị thặng
dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh
doanh ruộng đất.


3.Lợi nhuận thương nghiệp
Thương nghiệp tư bản chủ nghĩa thực hiện giá trị và giá trị thặng dư. Lợi
nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được sáng tạo trong lĩnh vực
sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp. Nhà
tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách rời ra phục vụ
quá trình lưu thông hàng hoá của tư bản công nghiệp, nó không tạo ra giá trị và
giá trị thặng dư. Nhà tư bản thương nghiệp đã giúp nhà tư bản công nghiệp một
khâu trong quá trình sản xuất, đó là khâu bán hàng.
4.Lợi nhuận ngân hàng
Ngân hàng là tổ chức kinh doanh tư bản tiền tệ,.Là môi giới giữa người đi vay
và người cho vay. Ngân hàng có hai nghiệp vụ là nhận gửi và cho vay.Lợi tức
nhận gửi nhỏ hơn lợi tức cho vay. Chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức

nhận gửi trừ đi những khoản chi phí cần thiết về nghiệp vụ ngân hàng, cộng với
các khoản thu nhập khác về kinh doanh tiền tệ hình thành nên lợi nhuận ngân
hàng.
Ngân hàng cho các nhà trực tiếp kinh doanh vay, nhà tư bản lấy số tiền đó sản
xuất ra giá trị thặng dư, hoặc thực hiện giá trị thặng dư. Sau đó đem một phần giá
trị thặng dư làm thành lợi tức trả cho ngân hàng. Do đó, bản chất của lợi nhuận
ngân hàng là một phần của giá trị thặng dư.
5.Lợi nhuận độc quyền
Do tư bản độc quyền, nhất là tư bản tài chính, giữ vị trí thống trị trong sản
xuất và lưu thông nên nó có thể không chỉ sử dụng các phương pháp sản xuất giá
trị thặng dư, cạnh tranh, tỷ suất lợi nhuận bình quân, lợi nhuận bình quân và giá
cả sản xuất vốn là những phạm trù kinh tế quen thuộc trong giai đoạn chủ nghĩa
tư bản tự do cạnh tranh mà nó sử dụng phương pháp cưỡng bức siêu kinh tế để
thu lợi nhuận cao lợi nhuận độc quyền. Nó bao gồm lợi nhuận bình quân cộng
với lợi nhuận siêu ngạch độc quyền, chủ yếu do địa vị thống trị của độc quyền
thu được. Nguồn gốc và cơ cấu của lợi nhuận độc quyền là giá trị thặng dư của
công nhân làm việc trong các tổ chức độc quyền, do người sản xuất hàng hóa
nhỏ, do xuất khẩu tư bản, do sản xuất hàng hoá cho các nước, do lợi dụng việc
quân sự hoá nền kinh tế.
6.Lợi tức cho vay


Trong quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn của tư bản công nghiệp, luôn có
số tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi. Ví dụ, tiền trong quỹ khấu hao tư bản cố định,
tiền dùng để mua nguyên vật liệu nhưng chưa đến thời kỳ mua, tiền lương cho
công nhân chưa tới thời kỳ trả…Số tiền này, nhà tư bản cho người khác vay để
kiếm lời. Trong thời gian đó có những nhà tư bản rất cần tiền để mở rộng sản
xuất. Từ hai mặt trên tất yếu nảy sinh sự vay mượn lẫn nhau. Nhờ có quan hệ này
mà tư bản nhàn rỗi trở thành tư bản cho vay. Tư bản cho vay là tư bản tiền tệ mà
người chủ của nó nhường cho một người khác sử dụng trong một thời gian để

nhận được một số lời nào đó. Số lời đó được gọi là lợi tức.
7.Lợi nhuận siêu ngạch
Là phần thu giá trị thặng dư thu được trội hơn giá trị thặng dư bình thường nhờ
giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị của xã hội.Vì vậy các doanh nghiệp
luôn cải tiến kỹ thuật để tăng NSLĐ tạo nên giá trị cá biệt.


Phần II
Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường
&1.Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế
1.Lợi nhuận thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu mà mỗi con người trong xã hội tìm kiếm, đặc
biệt là các nhà tư bản. Các doanh nghiệp luôn fải đặt ra câu hỏi: Sản xuất cái gì?
cho ai? Và sản xuất như thế nào?Chi phí và lợi nhuận thu được là bao nhiêu? Các
nhà tư bản đầu tư ngày càng nhiều vào nghiên cứu khoa học để cải tiến kỹ thuật
nhằm tăng năng suất lao động, cạnh tranh bằng chất lượng và giá cả của sản
phẩm vì vậy nó đã đưa lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng.Thu hút lực
lượng lao động lớn mạnh cả về số lượng và trình độ. Đặc biệt là trong các ngành
công nghiệp.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi về nhu cầu trao đổi về hàng hoá,
trang thiết bị , vật tư, nguyên liệu và kỹ thuật công nghệ vì vậy kéo theo sự phát
triển về quan hệ sản xuất cũng như sự phân công lao động xã hội.Lực lượng sản
xuất phát triển thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển theo và ngược lại. Xuất phát
từ mục tiêu ổn định và phát triển có kế hoạch, phân bố lực lượng lao động hợp lý,
cân đối trong nền kinh tế để khai thác tốt nguồn tài nguyên, kết hợp chặt chẽ và
thích đáng lợi ích xã hội, tập thể người lao động, giáo dục quan điểm, thái độ và
kỹ thuật cho người lao động. Tất cả những vấn đề đặt ra đều xuất phát từ lợi
nhuận và chính nó cũng thúc đẩy quá trình phân phối lao động diễn ra mạnh mẽ.
Trong thời quá độ ở nước ta hiện nay còn xuất hiện hình thái phân phối theo vốn
và tài sản dưới hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.


Lợi nhuận đã làm chuyển đổi từ kinh tế tư nhiên sang kinh tế hàng hóa, kinh
tế thị trường. Theo quá trình phát triển của lịch sử nền kinh tế đã trải qua rất
nhiều hình thức khác nhau từ hình thức lạc hậu tới hình thức tiên tiến hiện đại, đi
từ kinh tế tự nhiên tới kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường. Quá trình này song
song với mục đích thu được lợi nhuận ngày càng cao, nhằm đảm bảo nhu cầu tốt
hơn về cuộc sống.
.
2.Lợi nhuận thúc đẩy hoạt động kinh doanh quốc tế.


Lợi nhuận là lý do chính làm xuất hiện và phát triển kinh tế thị trường. nó
thúc đẩy quá trình mở rộng trao đổi hàng hóa và khoa học kỹ thuật. Mở cửa nền
kinh tế nhằm thu hút nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế trong
nước làm thay đổi mạnh mẽ về trình độ công nghệ trong nước, cấu thành ngành
và sản phẩm, mở rộng phân công lao động quốc tế, tăng cường liên doanh, liên
kết hợp tác, là cơ sở tăng cường tính độc lập và phụ thuộc lẫn nhau trên nguyên
tắc bình đẳng và cùng có lợi.
3.Vai trò của lợi nhuận trong đời sống xã hội..
Lợi nhuận góp phần cảI thiện đời sống nhân dân:
Trong nền kinh tế thị trường, các nhà sản xuất kinh doanh ngoài phần thu nhập là
tiền lương, còn khoản thu nhập khác, đó là lợi nhuận và phần này ngày càng tăng
lên, chiếm ưu thế trong tổng thu nhập. Tổng thu nhập là mỗi người lao động nói
chung, mỗi nhà sản xuất kinh doanh nói riêng có được vừa phản ánh kết quả lao
động của mỗi người, vừa phản ánh kết quả lao động của tập thể với tư cách là
một chỉnh thể. Để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế cần phải phát huy tối
đa sức sáng tạo của các nhà sản xuất kinh doanh giỏi và thạo với cơ chế thị
trường. Muốn vậy, cần không ngừng nâng cao thu nhập (trong đó có lợi nhuận)
của họ.
Thực tế cho thấy đời sống của người công nhân ở các nước tư bản phát triển đã

được cải thiện nhiều hơn thời Mác sống. ở những nước này, lực lượng sản xuất
rất được quan tâm, thúc đẩy góp phần tăng năng suất lao động xã hội. Do đó, giá
cả tư liệu sinh hoạt giảm xuống. Với đồng lương cố định, người công nhân có thể
mua được nhiều vật phẩm tiêu dùng hơn, do đó đời sống của họ được cải thiện
hơn. Ngoài ra do khối lượng thặng dư thu được quá lớn, với tốc độ nhanh để
tránh sự phản ứng của người lao động và quần chúng nhân dân, và để che đậy sự
bóc lột tàn bạo ấy, các nhà tư bản cũng phải bỏ ra một phần giá trị thặng dư thu
được để lo cho đời sống dân sinh xã hội.
Như vậy, lợi nhuận góp phần nâng cao mức sống cho người dân phải hăng say
lao động, nâng cao hiệu quả công việc hơn nữa hay nói cách khác đây chính là
điều kiện để tái sản xuất ra sức lao động trong điều kiện nền sản xuất hiện đại.


Ngoài những người có sức đang làm việc và được trả công theo lao động,
những người có vốn và tài sản đóng góp vào quá trình sản xuất được nhận lợi tức
và lợi nhuận thì trong xã hội còn có những người vì lẽ này lẽ khác không thể
tham gia vào lao động được. Đời sống của những người này do gia đình họ và xã
hội đảm bảo. nó đảm bảo mọi thành viên xã hội có mức sống bình thường tối
thiểu, nó còn có tác dụng kích thích lao động sản xuất, kích thích sự phát triển
toàn diện của mọi thành viên trong xã hội.
Khi nền kinh tế phát triển sẽ là nền tảng cho việc củng cố quốc phòng an
ninh, giáo dục. Quốc phòng trang bị những vũ khí hiện đại tối tân. Chúng ta cần
nắm bắt được khoa học kỹ thuật và phải có một sự đầu tư để nhập các thiết bị
quân sự và giáo dục. Khi lợi nhuận cao sẽ có điều kiện phát triển nhân tố con
người cả về lý luận lẫn thực tiễn.
&2.vấn đề lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
1.Chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Trước năm 1986, nước ta ở trong thời kỳ bao cấp, thời kỳ này các doanh
nghiệp chưa hoạt động trong mối quan hệ thực sự với thị trường. Đó là cơ chế tập

trung chỉ huy, làm mất khả năng sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh thủ
tiêu cạnh tranh, thiếu động lực để đầu tư cho khoa học kỹ thuật phát triển làm
nền kinh tế tăng trưởng chậm và hiệu quả thấp. Bên cạnh đó, cơ chế hình thành
và phân phối nói chung, phân phối lợi nhuận không phù hợp tạo ra sự bất bình
đẳng giữa các doanh nghiệp. Về phía các doanh nghiệp và người lao động, họ
phải cống hiến sức lao động của họ vào việc tạo ra lợi nhuận mà họ chỉ được
hưởng một phần thông qua hàng hoá và dịch vụ do nhà nước cung cấp. Trong hệ
thống phân phối, sự phân phối thu nhập không dựa trên các nhân tố kích thích
được xác định thông qua thị trường mà dựa trên hệ thống định mức, đánh giá sự
cống hiến của mỗi tập thể và cá nhân tương ứng với vị trí và quyền lực của nó
trong hệ thống phân phối. Quan hệ thị trường phát triển một cách tự phát, thường
nảy sinh những ảnh hưởng bất lợi của hệ thống phân phối làm cạn kiệt mọi
nguồn lực hiện có để đáp ứng nhu cầu của dân cư để tiêu dùng. Một thời kỳ chưa
chú ý đúng mức tới đòn bẩy lợi nhuận, lợi nhuận chưa được coi là động lực chi


phối hành động sản xuất kinh doanh, chưa thực sự gắn lợi nhuận với kết quả sản
xuất.
Như vậy trong một thời kỳ dài lợi nhuận chưa được coi với tư cách là hình
thức thu nhập đối với người sản xuất kinh doanh.
Hậu quả của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, xu hướng phát triển kinh tế theo
cơ chế thị trường trên thế giới, tính năng động của cơ chế thị trường là những yếu
tố khách quan dẫn đến sự chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam. Cuộc cải cách kinh
tế năm 1986 đem lại một số thành tựu: nâng cao đời sống nhân dân, tăng tính
năng động của nền kinh tế, xoá bỏ bao cấp trì trệ, kìm chế đẩy lùi lạm phát. Từng
bước thực hiện với sự quản lý vĩ mô của nhà nước, tự do hoá thương mại, tự do
giá cả là nhân tố trung tâm từng bước đột phá để tiến tới cơ chế thị trường đích
thực. Cơ chế thị trường đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, phát huy tính
tự chủ của hộ kinh tế với chủ doanh nghiệp..
2.Sự phân chia sản phẩm thặng dư ở Việt Nam.

Kinh tế thị trường phụ thuộc vào hình thức sở hữu mà trong đó nó phụ thuộc
vào chế độ sở hữu thống trị. Không có kinh tế thị trường chung chung thuần tuý
trừu tượng tách khỏi các hình thái kinh tế xã hôi, tách rời chế độ xá hội. Tính tích
cực hay tiêu cực của kinh tế thị trường còn phụ thuộc vào chế độ xã hội, vai trò
của nhà nước, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Mục đích của kinh tế thị trường là lơi nhuận. ở nước ta khi theo nền kinh tế
thị trường thì cũng nhằm mục đích lợi nhuận, nhưng không theo đuổi mục đích
lợi nhuận một cách đơn thuần. Xuất phát từ đặc điểm nước ta là một nước xã hội
chủ nghĩa. Ngay từ đầu chúng ta đã khẳng định định hướng xã hội chủ nghĩa là
không thay đổi. Về nguyên tắc sản phẩm thặng dư thuộc về người sáng tạo ra nó,
tức là thuộc về cá nhân chủ sở hữu sức lao động, đồng thời là thành viên sở hữu
về tư liệu sản xuất. Cá nhân là một thành viên của xã hội, sống và hoạt động
trong một xã hội cụ thể, nên phải làm nghĩa vụ của mình tốt. Một phần sản phẩm
thặng dư được đóng góp vào quỹ xã hội được dùng vào các việc như những chi
phí về quản lý, chi phí đảm bảo cuộc sống cho những người không có khả năng
lao động, những chi phí để thoả mãn nhu cầu chung …
ở chủ nghĩa xã hội vẫn phải tăng cường đầu tư mở rộng phát triển sản xuất
bằng cách phát triển nhân tố tư liệu sản xuất. Đó trước hết là trách nhiệm của mỗi


cá nhân đối với tương lai của cá nhân đó, tiếp đó là trách nhiệm của “người cha
hiền”.
Phần còn lại được dùng cho cá nhân với mục tiêu nâng cao năng lực của bản
thân và nâng cao đời sống.
Nhà nước ta thực hiện chính sách thiết lập nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý và điều tiết của nhà nước là hợp lý với chế
độ chính trị và quy luật kinh tế.Vấn đề là cần có các phương pháp giám sát việc
thực hiện này trong thực tế đi đúng con đường đã vạch ra để tránh tiêu cực xã hội

3-Xây dựng và hoàn thiện hệ tư tưởng văn hoá:

Việt Nam đang trong quá trình hội nhập và mở rộng hợp tác đối với các
nước trên thế giới . Chấp nhận nền văn hoá đa dạng là sự thực hiện chính sách
hoà hợp dân tộc, nhằm động viên mọi thành phần dân cư đoàn kết, phục vụ công
cuộc chấn hưng dân tộc cùng xây dựng tổ quốc Việt Nam trở thành một quốc gia
giàu mạnh và văn minh, sánh vai với các dân tộc trên thế giới. Nền văn hoá đa
dạng không có nghĩa là văn hoá du nhập ngoại lai bị đồng hoá mà chấp nhận đa
dạng văn hoá là nhằm động viên cao nhất sự phong phú, muôn vẻ của văn hoá,
kích thích sáng tạo, khai thác tốt nhất tiềm năng con người phục vụ phát
triển.Tiếp thu và học hỏi từ bên ngoài những thành tựu khoa học kỹ thuật để áp
dụng trong nhiều lĩnh vực, phát huy sáng tạo trong lao động sản xuất. Bài trừ tư
tưởng phản động phá hoại nền văn hoá chính trị quốc gia.

Kết luận

Tiểu luận trên đã phần nào làm rõ được bản chất và nguồn gốc của lợi nhuận,
cũng như vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường. Chúng ta thấy rằng việc
theo đuổi lợi nhuận là một điều tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế, vì nó là
động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Tuy nhiên thực chất của quá trình tạo ra lợi
nhuận còn nhiều mâu thuẫn nảy sinh. Vấn đề hết sức quan trọng đã nảy sinh là sự
tiêu cực trong văn hoá - xã hội lối sống của người dân trong cơ chế mới, là sự
chạy theo lợi nhuận cá nhân mà bắt chấp tác hại đối với cộng đồng cũng như sự


sống của toàn trái đất ….Những vấn đề trên đặt ra một yêu cầu là tất cả chúng ta
phải cùng cố gắng để đưa nền kinh tế phát triển, xã hội lành mạnh văn minh.
Chúng ta không thể đứng nhìn những mâu thuẫn này nảy sinh trong quá trình
chuyển đổi, mà chúng ta hãy nỗ lực hơn nữa trong học tập và lao động để có thể
góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng đất nước. Chúng ta mong đợi
và tin tưởng quá trình phát triển kinh tế của đất nước sẽ đi đến thắng lợi.
Qua quá trình nghiên cứu ta thấy lợi nhuận là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp, là cơ

sở mọi hình thức kinh tế và cùng với những hiểu biết về vai trò cũng như hạn chế
của lợi nhuận áp dung vào đặc điểm của cơ chế kinh tế cũng như đặc điểm về
chính trị xã hội nói lên sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN không thể dừng lại ở các tốc độ tăng trưởng mà đi kèm với tăng trưởng
phải không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống với tiền lương và thu nhập
kinh tế tăng trưởng mạnh, y tế giáo dục phát triển .... cơ chế thị trường không thể
xuống cấp thậm chí tha hoá trong lĩnh vực văn hoá xã hội, các quan hệ và đạo
đức truyền thống trong xã hội.


Mục lục

Lời nói đầu ..................................................................................................................... 1
Phần I. Nguồn gốc - bản chất của lợi nhuận............................................................. 2
&1. Những quan điểm về nguồn gốc và bản chất lợi nhuận ................................... 2
1.Các quan điểm kinh tế thời cổ đại và trung cổ ...................................................... 2
2. Học thuyết kinh tế của phái cổ điển ...................................................................... 2
&2. Học thuyết của Mác về nguồn gốc và bản chất lợi nhuận ................................ 3
&3. Các hình thức biểu hiện của lợi nhuận .............................................................. 4
1. Lợi nhuận công nghiệp ......................................................................................... 4
2. Lợi nhuận nông nghiệp .......................................................................................... 4
3. Lợi nhuận thương nghiệp....................................................................................... 5
4. Lợi nhuận ngân hàng.............................................................................................. 5
5. Lợi nhuận độc quyền.............................................................................................. 5
6. Lợi tức cho vay....................................................................................................... 5
7.Lợi nhuận siêu nghạch………………………………………………… ............. 5
Phần II. Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ................................ 6
&1. Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế .............................................................. 6
1. Lợi nhuận thúc đẩy lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phát triển ............. 6
2.Lợi nhuận thúc đẩy hoạt động kinh doanh quốc tế .............................................. 6

3. Vai trò của lợi nhuận và đời sống xã hội ............................................................. 6
&2. Vấn đề lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam ............................. 7
1. Chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế định hướng
xã hội chủ nghĩa.......................................................................................................... 7
2. Sự phân chia sản phẩm thặng dư ở Việt Nam ..................................................... 8
3.Xây dựng và hoàn thiện hệ tư tưởng văn hoá………………………… ............... 8
Kết luận .......................................................................................................................... 9



×