Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.25 KB, 39 trang )

lời mở đầu.
Ngày nay, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đang vận hành đất
nớc theo cơ chế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nớc thì lợi nhuận có vai trò rất quan
trọng, nó chính là quan toà công minh nhất, là điều kiện tồn tại phát triển của doanh
nghiệp. Nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ không thu đợc lợi nhuận thì thị trờng sẽ loại
doanh nghiệp đó ra khỏi nền kinh tế và ngợc lại thì doanh nghiệp tiếp tục phát triển.
Lợi nhuận phải thực sự làm ra từ năng suất chất lợng lao động - hiệu quả trong sản xuất
- khả năng kinh doanh sản xuất chân chính của các nhà kinh tế. Tài năng quản lý sản
xuất kinh doanh hiện đại sẽ tạo ra giá trị lợi nhuận cả về kinh tế văn hoá, tạo ra một
truyền thống và cốt cách của ngời Việt Nam. Có đợc nh vậy thì lợi nhuận thực sự trở
thành động lực thúc đẩy mọi thành phần kinh tế phải họat động tích cực đạt hiệu qủa
cao trong sản xuất kinh doanh, là sự sống còn cua doanh nghiệp. Để thu đợc lợi nhuận
tối đa một cách chân chính đòi hỏi các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phải đổi mới
công nghệ sản xuất, nâng cao năng suât lao động. Nhà nớc cần có những chính sách
quản lý vấn đề lợi nhuận của các doanh nghiệp, có những chính sách phân phối thu
nhập một cách hợp lý... Tuy vậy, vì chạy theo lợi nhuận tối đa mà một số kẻ đã không
ngần ngại sử dụng những mánh khé, những hình thức sản xuất kinh doanh bất hợp pháp
nh: buôn lậu, trốn thuế, khai thác tài nguyên bừa bãi, bóc lột sức lao động của con ng-
ời.... Những hành vi đó đã để lại không ít những hậu quả xấu cho xã hội mà chúng ta
có thể dễ dàng nhận thấy nh: phân hoá giàu nghèo, bất công trong xã hội, gây ô nhiễm
môi trờng, bệnh tật hiểm nghèo, cạn kiệt tài nguyên, mất đi bản chất văn hoá con ngời
Việt Nam ..... Vấn đề lợi nhuận thực sự trở nên nóng bỏng, cần đợc xem xét để có cái
nhìn đúng đắn nhất về lợi nhuận và những giải pháp về vấn đề lợi nhuận. Chính vì lý do
này mà em đã chọn đề tài:
Nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh
tế thị trờng .

1
Phần I . Nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận.
I . các quan điểm trớc Mác về lợi nhuận.



1.
Quan điểm của chủ nghĩa trọng thơng

(CNTT).
Chủ nghĩa trọng thơng là t tởng kinh tế đầu tiên của giai cấp t sản trong giai
đoạn phơng thức sản xuất phong kiến tan rã và CNTB ra đời.
T tởng xuất phát của CNTT cho rằng, tiền là nội dung căn bản của của cải, là tài
sản thực sự của một quốc gia. Do đó, mục đích chủ yếu trong các chính sách kinh tế
của mỗi nớc là phải gia tăng đợc khối lợng tiền tệ. Tiền là đại biểu duy nhất của của
cải, là tiêu chuẩn để đánh giá mọi hình thức họat động nghề nghiệp. Những họat động
nào mà không dẫn đến tích luỹ tiền tệ là những họat động là những họat động tiêu cực,
không có lợi. Họat động công nghiệp không thể là nguồn gốc của của cải ( trừ công
nghiệp khai thác vàng và bạc) chỉ có họat động ngoại thơng mới là nguồn gốc thật sự
của của cải. Khối lợng tiền tệ chỉ có thể gia tăng bằng con đờng ngoại thơng.
Những ngời trọng thơng cho rằng, lợi nhuận thơng nghiệp là kết quả của sự trao
đổi không ngang giá, là sự lừa gạt, nh chiến tranh. Họ cho rằng, không một ngời nào
thu đợc lợi mà lại không làm thiệt kẻ khác. Đặc điểm lí luận của CNTT là họ cha biết
và không thừa nhận quy luật kinh tế. Họ đánh giá cao các chính sách kinh tế của nhà
nớc, dựa vào chính quyền nhà nớc, vì họ cho rằng chỉ có dựa vào nhà nớc mới có thể
phát triển đợc kinh tế. K.Marx viết: cái sự kiện là .... sự phát triển của CNTT đợc đẩy
nhanh .... không phải bằng con đờng gọi là tự nhiên, mà bằng những biện pháp cỡng
chế, quả thật là đặc trng với tính tự t tự lợi của thơng nhân và chủ xởng thời bấy giờ, và
thật là phù hợp với thời kì phát triển TBCN mà họ (tức CNTT) đại biểu.
Những luận điểm của CNTT có rất ít tính chất lí luận và thờng đợc nêu lên dới
hình thức những lời khuyên thực tiễn về chính sách kinh tế, mang nặng tính chất kinh
nghiêm. Đánh giá CNTT K.Marx viết :Công trình nghiên cứu lí luận đầu tiên về ph-
ơng thức sản xuất hiện đại - tức học thuyết trọng thơng - nhất định phải xuất phát từ
những hiện tợng bề ngoài của quá trình lu thông, khi những hiện tợng đó trở thành độc
lập trong sự vận động của t bản thơng nghiệp. Vì vậy học thuyết đó chỉ nắm cái vỏ bên

ngoài của những hiện tợng. Cái đó một phần do t bản thơng nghiệp là hình thái tồn tại
tự do đầu tiên của t bản nói chung...khoa học thực sự của nền kinh tế hiện đại, chỉ bắt
đầu từ lúc mà việc nghiên cứu lí luận chuyển từ quá trình lu thông sang quá trình sản
xuất. K.Marx còn chỉ ra rằng CNTT ở thế kỉ XVI - XVII đã đi theo cái hình thái
chói lọi của giá trị trao đổi và đã đứng trên lĩnh vực thô sơ của lu thông hàng hoá để
xem xét nền sản xuất TBCN.
2
Một số đại biểu chính theo quan điểm này ở Anh, Pháp nh: Williams Stafford
(1554-1612), Thomas Mun (1571-1641), Montchretien (1575-1622), Kolbert
(1619-1683).
Do những hạn chế đã dẫn đến sự tan rã của CNTT. Sự tan rã của CNTT bắt đầu
ngay từ thế kỉ XVII, trớc hết là ở Anh.
2. Quan điểm của phái trọng nông.(CNTN)
Cũng nh CNTT, CNTN xuất hiện trong khuôn khổ thời kỳ quá độ từ chế độ
phong kiến sang chế độ TBCN, nhng ở giai đoạn phát triển kinh tế trởng thành hơn.
Những ngời theo chủ nghĩa trọng nông cho rằng, xã hội loài ngời phát triển theo những
quy luật tự nhiên. Theo họ nguồn gốc duy nhất của của cải là tự nhiên, là nông nghiệp
vì nông nghiệp mang lại cho con ngời những kết quả của tự nhiên. Có thể coi nội dung
giai cấp của chủ nghĩa trọng nông là giải phóng kinh tế nông dân thoát khỏi quan hệ
phong kiến để phát triển nông nghiệp theo kiểu TBCN.
Họ phê phán gay gắt CNTT. Những ngời trọng nông cho rằng, lợi nhuận thơng
nghiệp có đợc chẳng qua là nhờ tiết kiệm các khoản chi phí thơng mại. Vì theo họ th-
ơng mại đơn thuần là việc đổi những giá trị này lấy những giá trị khác ngang nh thế
, thơng nghiệp không sinh ra của cải, trao đổi không sản xuất ra đợc cái gì cả .
Trao đổi không làm cho tài sản tăng lên, vì tài sản đợc tạo ra trong sản xuất, còn trong
trao đổi thì chỉ có sự trao đổi giá trị sử dụng này lấy giá trị sử dụng khác mà thôi.
K.Marx nhận xét: Phái trọng nông đã chuyển việc nghiên cứu nguồn gốc của giá trị
thặng d từng lĩnh vực lu thông vào lĩnh vực sản xuất trực tiếp, và do đó đã đặt cơ sở
cho việc phân tích nền sản xuất TBCN .
Một số đại biểu của CNTN: Francois Quesnay (1694 - 1774) K.Marx gọi

Quesnay là cha đẻ của chính trị kinh tế học. Anne Robert Jaucques Turgot (1727
-1781) là nhà t tởng lỗi lạc và nhà họat động chính trị lớn của nớc Pháp. Ông đã nêu ra
đợc nhiều điều mới mẻ nh: khái niệm t bản, t bản lu động, t bản bất biến, lần đầu tiên
đã đề ra học thuyết về quy luật tiền công, tiền lơng và chú ý hơn là nguyên lí về sự
bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận trong các ngành khác nhau.
3. Quan điểm của trờng phái cổ điển Anh.
Tính chất phiếm diện của học thuyết trọng thơng trở nên quá rõ ràng, đòi hỏi
phải có lí luận mới để đáp ứng với sự vận động và phát triển của sản xuất t bản chủ
3
nghĩa. Trên cơ sở đó, chính trị kinh tế học cổ điển Anh ra đời. Theo K.Marx, kinh tế
chính trị học t sản cổ điển Anh bắt đầu từ William Petty và kết thúc ở David Ricardo.

a, William Petty (1623 1687).
Một số nội dung cơ bản trong học thuyết kinh tế của W.Petty.
- Lí luận về giá trị - lao động. Ông kết luận rằng: số lợng lao động bằng nhau bỏ
vảo sản xuất là cơ sở so sánh giá trị hàng hoá. Giá cả tự nhiên (giá trị) tỷ lệ nghịch với
năng suất lao động khai thác vàng và bạc. Ông có ý định đặt vấn đề lao động phức tạp
và lao động giản đơn nhng không thành.
- Lí luận về thu nhập: tiền lơng, lợi nhuận, địa tô.
W.Petty lấy lí luận giá trị làm cơ sở lí luận tiền lơng. Ông xác định tiền lơng là
khoản giá trị t liệu sinh hoạt cần thiết tối thiểu cho công nhân.Tiền lơng không thể vợt
quá những t liệu sinh hoạt cần tối thiểu. Ông kịch liệt phản đối những trờng hợp tăng
tiền lơng quá cao, bởi vì trong thời đại W.Petty, t bản cha có thể bắt công nhân lệ
thuộc hoàn toàn vào nó, chủ nghĩa t bản cha có máy móc, t bản còn phụ thuộc vào
công nhân, t bản phải dựa vào sự ủng hộ của nhà nớc, đề ra những đạo luật cấp tăng l-
ơng. Ông rút ra kết luận: tiền lơng tỉ lệ nghịch với giá cả hoàn toàn trái ngợc với kết
luận của K.Marx: tiền lơng tỉ lệ thuận với giá trị sức lao động. Dù sai lầm, nhng
W.Petty đã nêu đợc cơ sở khoa học của tiền lơng là giá trị của các t liệu sinh hoạt .
Về địa tô: phái trọng thơng đã bỏ qua vấn đề địa tô, ông đã tìm thấy nguồn gốc
địa tô trong lĩnh vực sản xuất và đã định nghĩa địa tô là số chênh lệch giữa giá trị của

sản phẩm và chi phí sản xuất. Thực ra ông không rút ra đợc lợi nhuận của kinh doanh
ruộng đất, không trực tiếp đề cập đến vấn đề bóc lột. Nhng theo lô gíc phân tích của
ông chúng ta có thể rút ra kết luận rằng, công nhân chỉ nhận đợc tiền lơng tối thiểu, số
còn lại là lợi nhuận của địa chủ, đã thừa nhận có sự bóc lột. K.Marx nhận xét, W.Petty
là ngời đã nêu ra mầm mống của lí luận về chế độ bóc lột, dự đoán đúng đắn bản chất
của giá trị thặng d.
Về lợi tức: ông coi lợi tức là tô của tiền và cho rằng nó lệ thuộc vào mức địa tô
(trên đất mà ngời ta có thể dùng tiền vay để mua). Trong cuốn Bàn về tiền tệ, ông coi
lợi tức là số tiền thởng, trả cho sự nhịn ăn tiêu, coi lợi tức cũng nh tiền thuê ruộng.
Có thể thấy W.Petty là ngời đầu tiên nhấn mạnh tính chất khách quan của
những quy luật tác động trong xã hội t bản. Đánh giá về W.Petty, F.Engels nói rằng
Bóng của W.Petty đã bao trùm lên khoa học kinh tế chính trị trong suốt hơn nửa thế
kỉ từ 1691 đến 1752, tất cả mọi nhà kinh tế chính trị học dù tán thành hay phản đối
ông, đều lấy ông làm điểm xuất phát..
4
b, Adam Smith 1723 - 1790.
A.Smith là nhà t tởng tiên tiến của giai cấp t sản, ông thủ tiêu tàn tích phong
kiến, mở đờng cho CNTB phát triển. Theo A.Smith, lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ
hai vào sản phẩm của lao động. Theo cách giải thích của A.Smith thì lợi nhuận, địa tô
và lợi tức chỉ là những hình thái khác nhau của giá trị thặng d. K.Marx đánh giá cao
A.Smith đã nêu đợc nguồn gốc thật sự của giá trị thặng d, đẻ ra từ lao động.... Đây
cũng là thành tựu của KTCT học t sản trong thời kì tiến bộ của nó. A.Smith cho rằng
không chỉ lao động nông nghiệp mà cả lao động công nghiệp cũng tạo ra lợi. Ông
cũng cho rằng lợi nhuận tăng hay giảm tuỳ thuộc vào sự giầu có tăng hay giảm của xã
hội. Ông thừa nhận sự đối lập giữa tiền công và lợi nhuận. Ông đã nhìn thấy khuynh
hớng thờng xuyên đi đến chỗ ngang nhau, của tỉ suất lợi nhuận trên cơ sở cạnh tranh
giữa các ngành và khuynh hớng tỉ suất lợi nhuận giảm sút. Theo ông, t bản đầu t càng
nhiều thì tỉ suất lợi nhuận càng thấp. Tuy nhiên, A.Smith còn có những hạn chế về lí
luận lợi nhuận nh: không thấy đợc sự khác nhau giữa giá trị thặng d và lợi nhuận, và
ông cho rằng lợi nhuận là do toàn bộ t bản đẻ ra; do không phân biệt đợc lĩnh vực sản

xuất và lu thông, nên ông cho rằng t bản trong lĩnh vực sản xuất cũng nh trong lĩnh vực
lu thông đều đẻ ra lợi nhuận nh nhau; ông coi lợi nhuận trong phần lớn trờng hợp chỉ
là món tiền thởng cho việc mạo hiểm và cho lao động khi đầu t t bản; lợi nhuận là một
trong những nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập cũng nh của mọi giá trị trao đổi.
A.Smith đã đa khoa học KTCT thành một hệ thống. Lí luận kinh tế của ông vừa chứa
đựng những nhân tố khoa học, vừa chứa đựng những nhân tố tầm thờng.
c, David Ricardo (1772 - 1823)
D.Ricardo nhất quán kết cấu toàn bộ khoa học kinh tế chính trị bằng một
nguyên lí thống nhất: thời gian lao động quyết định giá trị, tức là lấy lí luận giá trị lao
động làm cơ sở cho toàn bộ học thuyết kinh tế của ông. Ông đã xem xét lại tất cả các
pham trù kinh tế dới ánh sáng lí luận giá trị lao động, K.Marx viết: Việc lấy thời gian
lao động quyết định giá trị làm điểm xuất phát (là công lao), việc xác định giá trị bằng
thời gian lao động là điểm cơ bản trong học thuyết kinh tế của D.Ricardo.
- Lí luận về giá trị. Ông định nghĩa giá trị hàng hoá nh sau: Giá trị của hàng
hoá hay số lợng của một hàng hoá nào khác ma hàng hoá đó trao đổi, là do số lợng lao
động tơng đối, cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó quyết định, chứ không phải do
khoản thởng lớn hay nhỏ trả cho lao động đó quyết định.
- Lí luận về thu nhập: Tiền lơng, lợi nhuận và địa tô. D.Ricardo cho rằng giá trị
đợc tạo ra gồm 2 phần: tiền lơng. Và ông đã đi đến kết luận quan trọng về sự đối
5
kháng giữa tiền lơng và lợi nhuận (ông nhận thấy quy luật của t bản: năng suất lao
động tăng lên, tiền lơng giảm và lợi nhuận thì tăng). Ông định giả quyết việc xác định
tiền công theo quy luật giá trị. D.Ricardo xem lợi nhuận là phần giá trị thừa ra ngoài
tiền công. Ông cha biết đến phạm trù giá trị thặng d, nhng trớc sau nhất quán quan
điểm cho rằng giá trị là do công nhân tạo ra lớn hơn số tiền công mà họ nhận đợc. Về
điểm này theo K.Marx nhận xét so với A.Smith thì D.Ricardo đã đi xa hơn nhiều.
Ông coi lợi nhuận là lao động không đợc trả công của công nhân. Ông đã có những
nhận xét tiến gần đến lợi nhuận bình quân, ông cho rằng những t bản có đại lợng bằng
nhau thì đem lại lợi nhuận nh nhau. Nhng ông không chứng minh đợc, vì ông không
hiểu đợc giá cả sản xuất. Theo ông sự chênh lệch giữa giá trị và giá cả chỉ là ngoại

lệ, trên thực tế chỉ có giá trị chứ không có giá cả sản xuất.
D.Ricardo đạt tới đỉnh cao nhất của kinh tế chính trị t sản cổ điển. Đối với
D.Ricardo môn học đó đã đa đến gần nhất với chân lí, nhng chừng nào nó cha lột đợc
cái da t sản của nó, thì nó vẫn cha nắm đợc chân lí. Trờng phái kinh tế chính trị học cổ
điển đợc coi là một nguồn gốc của chủ nghĩa Marx, bản thân D.Ricardo đợc K.Marx
đánh giá cao và kính trọng, D.Ricardo đợc coi là cha đẻ của kinh tế chính trị học cổ
điển. Tuy nhiên, để phân biệt K.Marx và D.Ricardo, chúng ta cần nhớ, ngoài lập tr-
ờng giai cấp hoàn toàn khác nhau, trong lĩnh vực kinh tế một chuỗi cửa ải mà
D.Ricardo không vợt qua đợc phải chờ đến K.Marx mới giải quyết đợc
d, Thomas Robert Malthus (1766 - 1834).
Quan điểm xuất phát và cơ sở lí luận của Ricardo là lí luận về giá trị lao động.
Malthus đã hớng sự đả kích và lí luận đó của Ricardo. Malthus đã nhận thấy những
mâu thuẫn do sự hạn chế của Ricardo và lợi dụng lầm lẫn của Smith - tức là việc quy
định giá trị lao động. Cái mới của Malthus là ở chỗ giải thích thớc đo giá trị. Theo
Malthus, lao động có thể mua đợc bằng hàng hoá chi phí để sản xuất ra hàng hoá đó
quyết định. Chí phí đó bao gồm lợng lao động (sống và vật hoá) đã chi phí đển sản
xuất ra hàng hoá cộng với lợi nhuận của t bản ứng trớc. Nh vậy, Malthus, phủ nhận vai
trò của lao động là nguồn gốc tạo ra giá trị và coi lợi nhuận là yếu tố cấu thành khác
của giá trị. Từ đó, ông giải thích lợi nhuận nh là khoản thặng d ngoài số lao động hao
phí đển sản xuất hàng hoá. Theo cách giải thích này; lu thông là lĩnh vực trong đó lợi
nhuận xuất hiện, nhờ bán hàng hoá đắt hơn khi mua. Nh vậy lợi nhuận là một khoản
cộng thêm vào giá cả, xuất hiện là do chuyển nhợng, nhng ai là ngời trả khoản đó?
Theo Malthus, lợi nhuận không thể xuất hiện trong việc trao đổi giữa các nhà t bản.
Malthus nhận định trong phạm vi khả năng những ngời đảm nhiệm sản xuất (tức là
nhà t bản và công nhân) không thể tìm ra lợng cầu có khả năng thanh toán phần lợng
6
cung do lợi nhuận đại biểu. Do đó tình trạng thừa hàng hoá sẽ xuất hiện. Xã hội chỉ có
nhà t bản và công nhân thì không thể tránh khỏi tai họa đó.
e, Jean Baptiste Say (1766 - 1832).
Nếu D.Ricardo đã vạch rõ, không thể lẫn lộn, giữa giá trị sử dụng và giá trị, giá

trị khác xa với của cải, giá trị không tuỳ thuộc vào việc có nhiều hay ít của cải, mà tuỳ
thuộc vào điều kiện sản xuất khó khăn hay thuận lợi: năng suất lao động tăng lên thì
sẽ ảnh hởng một cách khác nhau đến của cải và giá trị v.v... thì B.Say lại cho rằng giá
trị của vật càng cao thì tính hữu dụng càng lớn, của cải càng nhiều thì giá trị càng lớn.
Theo B.Say, có ba nhân tố tham gia vào sản xuất: lao động, t bản và ruộng đất. Mỗi
nhân tố đều có công phục vụ, mà cái gì tạo ra sự phục vụ đều là sản xuất, do đó, không
chỉ có lao động mà cả t bản và tự nhiên đều tạo ra giá trị. Cả ba yếu tố đều có công
phục vụ: lao động tạo ra tiền lơng, t bản tạo ra lợi nhuận, ruộng đất sáng tạo ra địa tô,
vì vậy, phải có đợc thu nhập tơng ứng: công nhân đợc tiền lơng, nhà t bản hởng lợi
nhuận, địa chủ nhận đợc địa tô. B.Say cho rằng nếu tăng thêm đầu t t bản vào sản xuấ
sẽ tăng thêm sản phẩm phù hợp với tăng thêm giá trị, máy móc tham gia vào sản xuất
sản phẩm thì cũng tạo ra giá trị.
Có thể nhận thấy rằng những quan điểm trớc K.Marx của các nhà kinh tế chính
trị đã phần nào giải thích đợc quan niệm về lợi nhuận. Nhng những giải thích đó vẫn
có những khiếm khuyết, cha thật sự hoàn hảo thể hiện đúng bản chất của lợi nhuận.
II. Học thuyết giá trị thặng d và lý luận lợi nhuận của Mac.
1. Sự tạo ra giá trị thặng d.
Sản phẩm - vật sở hữu của nhà t bản - là một giá trị sử dụng, nhng trong sản
xuất hàng hoá, nó chỉ dùng làm vật mang giá trị thôi. Nhng đối với nhà t bản, vấn đề là
phải sản xuất một vật có ích có một giá trị trao đổi, một dùng để bán, một hàng hoá.
Hơn nữa, hắn muốn rằng giá trị của hàng hoá này trội hơn tổng số giá trị những t liệu
sản xuất và sức lao động mà hắn đã bỏ tiền để mua về. Hắn muốn sản xuất không
những một vật có ích mà còn sản xuất một giá trị nữa, và hắn muốn sản xuất không
những một giá trị mà lại còn một giá trị thặng d.
Vậy, quá trình sản xuất t bản chủ nghĩa là thống nhất giữa quá trình sản xuất ra
giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng d. C.Mác viết : Với t cách là sự
thống nhất giữa hai quá trình lao động và quá trình tạo ra giá trị thì quá trình sản xuất
là một quá trình sản xuất hàng hoá; với t cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động
và quá trình sản xuất t bản chủ nghĩa, là hình thái t bản chủ nghĩa của nền sản xuất
7

hàng hoá . Quá trình lao động với t cách là quá trình nhà t bản tiêu dùng sức lao động
có hai đặc trng:
-. Ngời công nhân lao động dới sự kiểm soát của nhà t bản giống nh những yếu
tố khác của sản xuất đợc nhà t bản sử dụng sao cho có hiệu quả nhất.
-. Sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà t bản, chứ không phải của ngời công
nhân.
Chúng ta nghiên cứu ngắn gọn quá trình sản xuất t bản chủ nghĩa trong sự thống
nhất của nó nh là quá trình lao động và quá trình tăng thêm giá trị, ví dụ về sản xuất
sợi.
Giả định để sản xuất 10 kg sợi cần 10 kg bông, giá 10 kg bông là 10 đôla. Để
biến số bông đó thành sợi, một công nhân phải lao động trong 6 giờ và hao mòn máy
móc là 2 đola; giá trị sức lao động trong ngày của một công nhân là 3 đôla; trong một
giờ lao động ngời công nhân tạo ra một giá trị là 0,5 đôla; cuối cùng, ta giả định rằng
trong quá trình sản xuất sợi đã hao phí theo thời gian lao động xã hội cần thiết. Với giả
định nh vậy, nếu nh quá trình lao động chỉ kéo dài đến cái điểm mà ở đó bù đắp đợc
giá trị sức lao động (6 giờ), tức là bằng thời gian lao động cần thiết thì cha có sản xuất
ra giá trị thặng d, do đó tiền cha biến thành t bản.
Trong thực tế quá trình lao động không dừng lại ở điểm đó. Giá trị sức lao động
mà nhà t bản phải trả khi mua và giá trị mà sức lao động đó có thể tạo ra cho nhà t bản
là hai đại lợng khác nhau mà nhà t bản đã tính đến điều đó trớc khi mua sức lao động.
Nhà t bản đã trả tiền mua sức lao động trong ngày. Vậy việc sử dụng sức lao động
trong ngày đó thuộc về nhà t bản. Chẳng hạn, nhà t bản bắt công nhân lao động 12h
trong một ngày thì.
Chi phí sản xuất Giá trị của sản phẩm mới
( 20 kg sợi)
- Tiền mua bông là 20 đôla
- Hao mòn máy móc là 4 đôla
- Tiền mua sức lao động trong
một ngày là 3 đôla
- Giá trị của bông đợc

chuyển vào sợi là 20 đôla
- Giá trị của máy móc đợc
chuyển vào sợi là 4 đôla
- Giá trị do lao động của công
nhân tạo ra 12h lao động là 6 đôla
Cộng: 27 đôla Cộng : 30 đôla
8
Nh vậy toàn bộ chi phí của nhà t bản để mua t liệu sản xuất và sức lao động là
27 đôla. Trong 12h lao động, công nhân tạo ra một sản phẩm mới ( 20 kg sợi) có giá
trị bằng 30 đôla, lớn hơn giá trị ứng trớc là 3 đôla. Vậy 27 đôla ứng trớc chuyển hoá
thành 30 đôla, đã đem lại một giá trị thặng d là 3 đôla. Do đó tiền đã biến thành t bản.
Phần giá trị mới dôi ra so với giá trị sức lao động gọi là giá trị thặng d. Từ sự nghiên
cứu trên ta có kết luận sau:
Một là, nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng d, chúng ta nhận thấy mâu
thuẫn của công thức chung của t bản đã đợc giải quyết. Việc chuyển hóa tiền thành t
bản diễn ra trong lĩnh vực lu thông và đồng thời không phải diễn ra trong lĩnh vực đó.
Chỉ có trong lu thông nhà t bản mơi mua đợc một thứ hàng hóa đặc biệt, đó là hàng
hóa sức lao động. Sau đó nhà t bản sử dụng hàng hoá đó trong sản xuất, tức là ngoài
lĩnh vực l thông để sản xuất giá trị thặng d cho nhà t bản. Do đó tiền của nhà t bản mới
biến thành t bản.
Hai là, phân tích giã trị sản phẩm đợc sản xuất ra (20 kg sợi ), chúng ta thấy có
hai phần:
-. Giá trị những t liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của ngời công nhân mà đợc
bảo tồn và di chuyển vào giá trị của sản phẩm mới (sợi) gọi là giá trị cũ (24 đôla)
-. Giá trị do lao động trừu tợng của công nhân tạo ra trong qúa trình lao động
gọi là giá trị mới (trong ví dụ là 6 đôla). Phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao
động, nó bằng giá trị sức lao động cộng thêm giá trị thặng d.
Vậy, giá trị thặng d là giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công
nhân tạo ra và bị nhà t bản chiếm không. Sản xuất ra giá trị thặng d chỉ là qúa trình tạo
ra giá trị đợc kéo dài quá cái điểm mà ở đó giá trị sức lao động do nhà t bản trả đợc

hoàn lại bằng vật ngang giá mới.
Ba là, ngày lao động của công nhân đợc chia thành hai phần: Phân lao động mà
ngời công nhân tạo ra một lợng giá trị ngang bằng với giá trị sức lao động của mình
gọi là thời gian lao động cần thiết, và lao động trong khoảng thời gian đó là lao động
cần thiết; Phần còn lại của ngày lao động là thời gian lao động thặng d, và lao động
trong khoảng thời gian đó là lao động thặng d. Nh vậy bản chất bóc lột của chủ nghĩa
t bản đã trở nên rõ ràng. Nhng trong điều kiện hiện nay, ngời sở hữu t bản thờng là một
nhóm ngời, trong số đó đôi khi có bản thân công nhân của xí nghiệp. Điều kiện đó th-
ờng đợc sử dụng trong lý thuyết chủ nghĩa chủ nghĩa t bản nhân dân để chứng
minh rằng không có sự bóc lột, và nếu có tồn tại bóc lột thì công nhân bóc lột chính
mình. Song, trên thực tế , công nhân chỉ có một số phiếu không đáng kể, do đó họ chỉ
là ngời sở hữu một cách hình thức. Trong điều kiện nh vậy thử hỏi ai là ngời chủ thực
sự các công ty cổ phần, và ai sẽ chiếm hữu kết quả hat động của công ty đó?
9
Hai phơng pháp sản xuất giá trị thặng d. Mục đích của các nhà t bản là sản xuất
ra nhiều giá trị thặng d, vì vậy, toàn bộ họat động của nhà t bản hớng đến tăng cờng
việc tạo ra giá trị thặng d.
a. Sản xuất giá trị thặng d tuyệt đối.
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của chủ nghĩa t bản, khi kỹ thuật còn thấp
hoặc tiến bộ chậm chạp thì việc tăng giá trị thặng d bằng phơng pháp kéo dài ngày lao
động là quan trọng nhất. Giả sử, ngày lao động là 10 giờ, trong đó 5 giờ là thời gian
lao động cần thiết và 5 giờ là thời gian lao động thặng d. Điều đó có thể biểu diễn
bằng sơ đồ sau:
! ! !
Thời gian lao động Thời gian lao động
cần thiết = 5 giờ thặng d = 5 giờ.
Chúng ta giả định ngày lao động đợc kéo dài thêm 2 giờ trong khi thời gian lao
động cần thiết không đổi. Khi đó ngày lao động đợc chia nh nhau:
! !
Thời gian lao động Thời gian lao động

cần thiết = 5 giờ thặng d = 7 giờ

Chúng ta thấy thời gian lao động thặng d tăng lên một cách tuyệt đối, vì thế giá
trị thặng d cũng đợc tăng lên. Trình độ bóc lột công nhân cũng tăng lên. Trớc đây, tỷ
suất giá trị thặng d là 5/5 x 100% =100% thì bây giờ là 7/5 x 100% =140%
Giá trị thặng d đợc tạo ra bằng cách kéo dài ngày lao động trong điều kiện thời
gian lao động cần thiết không thay đổi gọi là giá trị thặng d tuyệt đối. Với sự thèm
khát giá trị thặng d, nhà t bản phải tìm mọi cách để kéo dài ngày lao động. Nhng ngày
lao động có những giới hạn nhất định. Giới hạn trên của ngày lao động do thể chất và
tinh thần của ngời lao động quyết định, còn giới hạn của ngày lao động không thể
bằng thời gian lao động cần thiết. Nh vậy, về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn
thời gian lao động cần thiết, nhng không thể vợt quá giới hạn về thể chất và tinh thần
của ngời lao động.
Thời gian lao động cần thiết < Ngày lao động < 24 giờ

10
Trong phạm vi giới hạn nói trện, độ dài ngày lao động là một đại lợng không cố
định và có nhiều mức khác nhau. Tuỳ từng nơi, từng lúc và cuộc đấu tranh giữa giai
cấp vô sản và t sản trên cơ sở so sánh lực lợng quyết định cụ thể độ dài của ngày lao
động. Trong thời kỳ chủ nghĩa t bản mới ra đời, chính quyền nhà nớc ban bố nhiều đạo
luật có lợi cho giai cấp t sản, những đạo luật ấy buộc công nhân làm thuê phải lao
động rất nhiều giờ trong một ngày. Đã có thời kì, ngày lao động là 16 giờ, giai cấp
công nhân đã đấu tranh bền bỉ đòi rút ngắn ngày lao động. Sự phản kháng của công
nhân ngày càng tăng lên thì các đạo luật hạn chế ngày lao động cũng xuất hiện ở các
nớc t bản. Do cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, nên chế độ ngày làm 8 giờ đã đ-
ợc thực hiện ở các nớc t bản chủ nghĩa.
b. Sản xuất giá trị thặng d tơng đối.
Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của ngời lao
động và vấp phải sự phản kháng ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Mặt khác
đến giai đoạn phát triển sản xuất bằng cơ khí, khi mà kỹ thuật phát triển cao có thể

làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà t bản dựa vào tăng năng
suất lao động để tăng tỷ suất giá trị thặng d. Nhà t bản có thể nâng cao trình độ bóc lột
bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết, trong khi ngày lao động không đổi và
do đó tăng một cách tơng ứng thời gian lao động thặng d. Giả sử lao động là 8 giờ và
nó đợc chia thành 4 giờ lao động cần thiết và 4 giờ lao động thặng d. Điều đó biểu
diễn nh sau:
! ! !
Thời gian lao động Thời gian lao động
cần thiết = 4 giờ thặng d = 4 giờ
Bây giờ chúng ta lại giả thiết rằng, công nhân chỉ cần 3 giờ lao động đã tạo ra đ-
ợc một giá trị bằng với giá trị sức lao động của mình. Do đó, tỷ lệ phân chia ngày lao
động thành thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng d trong trờng hợp
đó cũng thay đổi. Bây giờ ngày lao động 8 giờ đợc chia thành 3 giờ lao động cần thiết
và 5 giờ lao động thặng d.
! ! !
Thời gian lao động Thời gian lao động
cần thiết: 3 giờ thặng d: 5 giờ
11
Nh vậy, nếu trớc đây m = 4/4 x100 = 100%, thì bây giờ là 5/3 x 100 =166%.
Giá trị thặng d tạo ra bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết trong điều kiện
độ dài ngày lao động không đổi, nhờ đó kéo dài tơng ứng thời gian lao động thặng d,
đợc gọi là giá trị thặng d tơng đối. Muốn rút ngắn thời gian lao động cần thiết thì phải
giảm giá trị sức lao động. Hạ thấp giá trị sức lao động bằng cách nào? Muốn hạ thấp
giá trị sức lao động thì phải giảm giá trị các t liệu sinh họat của công nhân. Điều đó
chỉ có thể thực hiện đợc bằng cách tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất t
liệu sinh Họat thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân, đồng thời cũng phải tăng năng
suất lao động trong các ngành sản xuất t liệu sản xuất để sản xuất t liệu sinh Họat đó.
Nghĩa là phải tăng năng suất lao động.
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa t bản, sản xuất giá trị thặng d tuyệt đối
chiếm u thế, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi mà kỹ thuật phát triển, sản xuất giá trị

thặng d tơng đối chiếm vị trí chủ yếu. Lịch sử phát triển của lực lợng sản xuất và của
năng suất lao động xã hội dới chủ nghĩa t bản trải qua ba giai đoạn: hiệp tác giản đơn,
công trờng thủ công và đại cơ khí, là lịch sử sản xuất giá trị thặng d tơng đối. Hai ph-
ơng pháp trên đợc các nhà t bản sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột
công nhân làm thuê trong các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa t bản
2. Lợi nhuận.
Giá trị của hàng hoá sản xuất trong xã hội TBCN, bao gồm ba bộ phận: 1- Giá
trị của t bản bất biến (c) (một phần giá trị của máy móc, nhà xởng, giá trị của nhiên
liệu...). 2- Giá trị t bản khả biến (v). 3- Giá trị thặng d (m): Lợng giá trị của hàng hoá
là do số ngời lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa, mà chỉ bỏ t bản vào
đó thôi. Chí phí t bản chủ nghĩa để sản xuất hàng hoá, gồm có những chi phí về t bản
bất biến và t bản khả biến (c+v), tức là những chi phí về t liệu sản xuất và tiền lơng
công nhâ. Đối với nhà t bản, hàng hoá đợc đánh giá bao nhiêu là tính theo t bản đã chi
phí, đối với xã hội, hàng hoá đáng giá bao nhiêu là tính theo lao động đã hao phí. Bởi
vậy những chi phí t bản chủ nghĩa để sản xuất hàng hoá, thấp hơn giá trị sản xuất thực
tế (c+v+m). Chỗ chênh lệch giữa giá trị hay chi phí sản xuất thực tế và chi phí sản xuất
t bản chủ nghĩa là giá trị thặng d (m) mà nhà t bản chiếm không.
Khi nhà t bản hàng hoá do xí nghiệp của mình sản xuất ra, thì giá trị thặng d
biểu hiện thành một số thừa ngoài chi phí sản xuất t bản chủ nghĩa. Khi xác định mức
thu nhập của xí nghiệp, nhà t bản so sánh số thừa đó với số t bản đã ứng trớc tức là
tổng t bản đã bỏ vào sản xuất. Giá trị thặng d, khi so sánh với tổng t bản, thì biểu hiện
thành hình thức lợi nhuận. Vì giá trị thặng d bị đem so sánh không phải với t bản khả
biến mà với toàn bộ t bản cho nên chỗ khác nhau giữa t bản bất biến dùng vào việc
12

×