Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở việt nam quá trình thực hiện ,kết quả vấn đề và phương hướng giải quyết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.62 KB, 15 trang )

CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN, KẾT QUẢ, VẤN ĐỀ
VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
TS.Trần Tiến Cường

1. Cổ phần hoá DNNN - quá trình và kết quả thực hiện
Các biện pháp cải cách doanh nghiệp nhà nước (DNNN) ở Việt Nam - trước
đây gọi là sắp xếp, đổi mới, và từ năm 2012 có tên gọi mới là tái cơ cấu DNNN – đã
được triển khai trong gần 30 năm qua. Trong đó cổ phần hoá (CPH) được coi là
hướng đi chính, là biện pháp quan trọng, có ý nghĩa chi phối đối với quá trình cải
cách DNNN.
Cổ phần hoá là chuyển đổi sở hữu từ nhà nước sang sở hữu khác - chủ yếu là
sở hữu của tư nhân trong nước và sở hữu nước ngoài. Vì vậy CPH là vấn đề nhạy
cảm. Do đó, quá trình CPH DNNN ở Việt Nam diễn ra rất thận trọng, cũng vì vậy,
diễn ra rất chậm. Bắt đầu bằng Quyết định 202-CT ngày 8/6/1992, đến nay CPH đã
triển khai được 24 năm. Tính đến đầu năm 2014 số DN đã chuyển thành các công ty
cổ phần là 4065 DN, gồm 3650 DN và 415 bộ phận DNNN1.
Xét về yêu cầu và tính chất triển khai CPH có thể phân chia quá trình thực
hiện CPH trong 24 năm qua thành một số giai đoạn chính như sau:
- Giai đoạn thí điểm CPH từ năm 1992 đến giữa năm 1996. Quá trình thí điểm
bắt đầu từ Quyết định 202-CT (năm 1992) đến khi văn bản pháp lý cao hơn là Nghị
định 28/CP của Chính phủ được ban hành và đưa vào thực hiện thay thế cho Quyết
định 202-CT của Thủ tướng Chính phủ. Giai đoạn này chỉ có 5 doanh nghiệp (DN)
được tiến hành CPH.
- Giai đoạn mở rộng thí điểm CPH từ giữa 1996 đến khi ban hành Nghị định
44/1998/NĐ-CP. Trong giai đoạn này việc CPH được thực hiện theo Nghị định
28/CP và Nghị định 25/1997/NĐ-CP của Chính phủ. Tổng số có 25 DN đã hoàn
thành CPH trong khoảng thời gian 2 năm.

- Giai đoạn đẩy mạnh CPH từ giữa năm 1998 trở đi (khi ban hành Nghị định
44/1998/NĐ-CP) đến khi chuyển sang thực hiện tái cơ cấu DNNN theo chủ trương



1 Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển DN (2014), Báo cáo tóm tắt tình hình tái cơ cấu DNNN các năm 2011-2013 và nhiệm vụ, giải pháp đẩy mạnh đến năm 2015 tại Hội
nghị Triển khai nhiệm vụ tái cơ cấu DNNN năm 2014-2015 ngày 14/2/2014


của Hội nghị Trung ương ba khoá XI cuối năm 2011. Đây là giai đoạn có hàng loạt
các DN và bộ phận DN Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn được CPH, chuyển
thành các DN đa sở hữu có hoặc không có cổ phần nhà nước. Trong giai đoạn này
nhiều văn bản quy phạm pháp luật (như các Nghị định 64/2002/NĐ-CP,
187/2004/NĐ-CP, 109/2007/NĐ-CP, 59/2011/NĐ-CP và các thông tư hướng dẫn)
đã được ban hành, được sửa đổi, bổ sung để tạo cơ sở pháp lý và hỗ trợ chính sách
cho CPH.
Ở thời kỳ đầu của giai đoạn này, việc CPH được triển khai rất mạnh mẽ, trên
diện rộng, ở tất cả các Bộ, ngành, địa phương, tổng công ty. Chỉ trong 3 năm đầu
(giữa năm 1998-2001) số DNNN và bộ phận DNNN được CPH là 745 DN. Sau 1
năm có số lượng DN CPH giảm nhẹ (năm 2002 CPH được 164 DN) do công tác
chuẩn bị và chờ đợi thực hiện theo cơ chế mới của Nghị định 64/2002/NĐ-CP, 4
năm tiếp theo (2003, 2004, 2005, 2006) số DNNN và bộ phận DNNN được CPH
tăng rất mạnh với số lượng lần lượt là 621, 856, 813, 359 DN. Nếu so với tổng số
DNNN và bộ phận DNNN đã CPH cho đến nay thì số CPH riêng trong 4 năm này
đã chiếm gần gần 2/3 (63%). Bên cạnh nỗ lực triển khai, thì kết quả này đạt được là
nhờ có các động lực CPH từ chủ trương của Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, của
Nghị quyết Hội nghị Trung ương ba khoá IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển
và nâng cao hiệu quả DNNN ban hành cuối năm 2001. Đặc biệt, các cơ chế chính
sách trong các Nghị định 28/CP, 44/1998/NĐ-CP, 64/2002/NĐ-CP thiên về khuyến
khích, động viên DNNN CPH (như xác định giá trị DN, xác định giá trị đất đai, vị
trí địa lý, uy tín, thương hiệu... gắn với giá trị DN được đơn giản hoá, dựa chủ yếu
vào giá trị sổ sách, chưa gắn với thị trường) đã tạo ra động lực mạnh thúc đẩy CPH
ở những năm đầu của giai đoạn này.
Tuy nhiên, ở những năm tiếp theo của giai đoạn này tốc độ CPH đã chững lại và

giảm mạnh. Số lượng DNNN và bộ phận DNNN được CPH trong 5 năm 2007 - 2011
là 388 DN, tính bình quân 1 năm là 78 DN, thấp hơn nhiều so với bình quân 4 năm đầu
đẩy mạnh CPH 1999-2002 (bình quân 1 năm là 227 DN) và thấp hơn rất nhiều so với 4
năm CPH mạnh mẽ nhất 2003-2006 (bình quân 1 năm là 662 DN).
Đến năm 2011 (trước khi chuyển sang giai đoạn tái cơ cấu DNNN theo Nghị
quyết Trung ương ba Khoá XI) tổng số có 3.976 DNNN và bộ phận DNNN đã hoàn
thành CPH và chuyển sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần2. Trong đó
DN của địa phương, của Bộ, ngành, và của các tập đoàn, tổng công ty chiếm tỷ
lệ tương ứng là 58%, 30% và 12%. Số DN 100% vốn nhà nước còn lại đến năm

2 Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển DN (2011), Báo cáo tổng kết sắp xếp, đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả DNNN giai đoạn 2001-2010 và phương hướng, nhiệm
vụ, giải pháp tái cơ cấu DNNN năm 2011-2015 tại Hội nghị tổng kết 10 năm sắp xếp, đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả DNNN 2001-2011


2011 trước tái cơ cấu là 1309 DNNN, trong đó DN của địa phương, của Bộ,
ngành, và của các tập đoàn, tổng công ty chiếm tỷ lệ tương ứng là 54%, 27%,
19%.3
Bảng 1. Số lượng doanh nghiệp cổ phần hoá qua các giai đoạn
Giai đoạn

Số DN và bộ phận
DN cổ phần hoá

Giai đoạn thí điểm CPH (1992 – giữa 1996) theo Quyết định 202-CT

5

Giai đoạn mở rộng thí điểm CPH (giữa 1996 - giữa năm 1998) theo
Nghị định 28/CP và Nghị định 25/1997/NĐ-CP


25

Giai đoạn đẩy mạnh CPH (giữa năm 1998-2011) theo các Nghị định
44/1998/NĐ-CP, 64/2002/NĐ-CP, 187/2004/NĐ-CP, 109/2007/NĐ-CP

3.946

4 năm 1999-2002

909

4 năm 2003 - 2006

2.649

4 năm 2007 - 2010

376

Năm 2011

12

Giai đoạn CPH nhằm tái cơ cấu DNNN theo Quyết định 929/QĐ-Tg,
các Nghị định 59/2011/NĐ-CP, 189/2013/NĐ-CP

230

Năm 2012


13

Năm 2013

74

Năm 2014

143
Tổng

4.206

Nguồn: Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, Bộ Tài chính

- Giai đoạn thực hiện CPH nhằm thúc đẩy tái cơ cấu DNNN từ năm 2012 đến
nay. Đây là giai đoạn triển khai thực hiện một trong ba nội dung quan trọng của Nghị
quyết Trung ương ba khoá XI là tái cơ cấu DNNN và thực hiện Quyết định 929/QĐTTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tái cơ cấu DNNN giai đoạn 20112015 (trọng tâm là TĐKT, TCT). Tuy nhiên, việc CPH diễn ra rất chậm, 3 năm đầu
(2011, 2012, 2013) mới CPH được 99 DN, số DN được CPH lần lượt từng năm là 12,
13, 74 DN. Theo kế hoạch, số DN cần hoàn thành CPH trong 2 năm 2014 - 2015 là
432 DN. Năm 2014 đã hoàn thành CPH được 143 DN. Số DNNN còn lại cần hoàn

3 Đặng Quyết Tiến (2012), Thúc đẩy quá trình cổ phàn hoá và tái cấu trúc DNNN, Hội thảo quốc tế về tái cơ cấu DNNN tại Việt Nam, Hà Nội ngày 15/2/2012


thành CPH trong năm 2015 là 289 DN. Riêng Quý I/2015 đã hoàn thành CPH được
27 DN, như vậy sẽ còn 262 DN cần CPH trong năm 2015.
Mặc dù số lượng DN được CPH từng năm theo xu hướng tăng dần, nhưng số
DNNN còn lại cần hoàn thành CPH là khá nhiều, đồng thời lại là các TĐKT và
TCT có quy mô rất lớn. Đây là thách thức không nhỏ nhìn từ mục tiêu số lượng DN

cần hoàn thành CPH trong chương trình tái cơ cấu DNNN đến năm 2015. Bên cạnh
đó là các thách thức về mục tiêu chất lượng, về chiều sâu của tái cơ cấu thông qua
CPH. Đó là, chuyển từ CPH theo chiều rộng - lấy số lượng DN hoàn thành CPH là
mục tiêu, sang CPH theo chiều sâu –kết hợp CPH với tái cơ cấu DN sau CPH (kể cả
tái cơ cấu trước khi CPH nếu cần), lấy chất lượng là mục tiêu. Điều này đặc biệt
quan trọng đối với các TĐKT và TCT có quy mô lớn.
Nhìn chung, quá trình CPH được đánh giá là đã tạo ra nhiều tác động tích cực
đối với DN CPH và toàn bộ khu vực DNNN. Đối với DN, CPH đem lại tính năng
động, tích cực hơn trong quản trị, điều hành, nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt
động. Đối với khu vực DNNN, CPH cùng với các biện pháp khác dẫn đến giảm
đáng kể số lượng DN 100% vốn nhà nước, từ trên 12 nghìn DNNN đầu những năm
1990 xuống còn 909 DN đến hết năm 2013 (chưa kể nông, lâm trường quốc
doanh)4. Nhờ đó thu hẹp ảnh hưởng của khu vực DNNN; phân bổ lại nguồn lực của
nền kinh tế; chuyển dịch một số nguồn lực từ khu vực DNNN, như tài chính, tín
dụng, nhân lực, đất đai… sang khu vực DN tư nhân trong nước và khu vực DN FDI
để sử dụng có hiệu suất, hiệu quả hơn. Thông qua đó tạo điều kiện thúc đẩy sự tham
gia của 2 khu vực kinh tế tư nhân trong nước và đầu tư nước ngoài vào phát triển
kinh tế đất nước. Có thể nhận thấy, tuy tỷ trọng của kinh tế nhà nước trong GDP
giảm (từ 40% xuống còn khoảng 28%) nhưng với sự tăng trưởng mạnh hơn của khu
vực kinh tế tư nhân trong nước và đầu tư nước ngoài nên nền kinh tế vẫn đảm bảo
tốc độ tăng trưởng khá cao.
2. Một số vấn đề trong và sau CPH
2.1. Thách thức về tiến độ, lộ trình CPH và nguyên nhân
Việc thực hiện sắp xếp và CPH DNNN còn chậm. Ba năm 2011-2013 mới
CPH được 99 DN. Kể cả số DN CPH năm 2014 (143 DN) thì tổng số 4 năm mới có
242 DN CPH, đạt quá nửa (56%) kế hoạch CPH giai đoạn 5 năm 2011-2015 theo đề
án tái cơ cấu DNNN của Quyết định 929/QĐ-TTg. Còn lại 289 DN, chiếm gần một
nửa (44%) số DN phải hoàn thành CPH trong năm 2015. Ở đây nảy sinh thách thức

4 Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển DN (2014), Báo cáo tóm tắt tình hình tái cơ cấu DNNN các năm 2011-2013 và nhiệm vụ, giải pháp đẩy mạnh đến năm 2015 tại Hội

nghị Triển khai nhiệm vụ tái cơ cấu DNNN năm 2014-2015 ngày 14/2/2014


kép: vừa phải hoàn thành tiến độ và kế hoạch CPH, vừa phải đảm bảo chất lượng
CPH, trong đó nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng CPH là tạo ra động lực
mới nhờ đổi mới quản trị doanh nghiệp (QTDN) và sự đột phá do có sự tham gia
của nhân tố nhà đầu tư-cổ đông chiến lược.
Việc CPH chậm, chưa đúng với lộ trình, chưa bảo đảm tiến độ, còn nhiều đối
tượng DN quy mô lớn chưa CPH do nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó đáng chú ý
là một số nguyên nhân sau đây:
- CPH trong bối cảnh tình hình kinh tế vĩ mô không thuận lợi là nguyên nhân
quan trọng ảnh hưởng đến tiến độ CPH. Số lượng DN CPH được trong 4 năm 2011,
2012, 2013, 2014 từ rất ít đến tăng dần (lần lượt là 12, 13, 74, 143 DN) cho thấy
thực trạng này. Một mặt, kinh tế vĩ mô không thuận lợi, kinh tế suy giảm ảnh hưởng
rất lớn đến cầu của thị trường, từ đó ảnh hưởng đến IPO các DN CPH. Mặt khác,
trong những năm này Chính phủ và các Bộ, ngành tập trung nhiều nỗ lực vào điều
hành ổn định kinh tế vĩ mô, vì thế cũng ảnh hưởng đến các nỗ lực thực hiện CPH và
tiến độ CPH.
- Đối tượng CPH gần đây và sắp tới là những DN quy mô lớn CPH phức tạp
hơn, cần nhiều thời gian hơn cho quá trình sắp xếp, tái cơ cấu đi liền với CPH.
Cho đến nay CPH chủ yếu tiến hành đối với các DNNN quy mô nhỏ. CPH
những DN này trước là theo phương châm “buông nhỏ, giữ lớn”, đẩy nhanh CPH
DNNN quy mô nhỏ trước để giảm mạnh số lượng DNNN. Số DNNN còn lại chưa
CPH và sẽ CPH tiếp là những DNNN quy mô lớn, chủ yếu là TĐKT và TCT
(không kể các nông, lâm trường quốc doanh). Việc CPH các DNNN quy mô lớn,
các TĐKT và TCT khó tiến hành hơn vì có nhiều vấn đề hơn DNNN nhỏ. DN lớn
như các TĐKT và TCT buộc phải tái cơ cấu lại trước khi CPH, như: phải sắp xếp
lại sản xuất, tái cơ cấu lại ngành nghề kinh doanh, thoái vốn đầu tư ngoài ngành
kinh doanh chính, cơ cấu lại tổ chức, bộ máy, cán bộ, lao động, v.v. Điều đó tất yếu
ảnh hưởng đến tiến độ, lộ trình CPH.

- Lý do chậm CPH một phần gắn với nhân sự lãnh đạo quản lý của DN, chủ
yếu là người đứng đầu DN, vì họ là những người có tiếng nói có ảnh hưởng lớn có
tính quyết định đến quyết tâm CPH hay làm chậm quá trình CPH. Ở giai đoạn mấy
năm gần đây, lãnh đạo quản lý, người đứng đầu DN có nhiều lý do hơn có thể nêu
ra về khó khăn, trở ngại, vấn đề cần cân nhắc để kéo lùi thời gian CPH như kinh tế
suy giảm, thị trường chứng khoán chưa khởi sắc, vấn đề định giá DN… vì thế CPH
có thể gây mất vốn nhà nước, v.v. Một trong những lý do nữa không thể bỏ qua là
bài toán lợi ích “được-mất” giữa chưa CPH và CPH, thời điểm tiến hành CPH đối
với DN và đối với cá nhân của những người đứng đầu, người lãnh đạo, quản lý DN.
Đây là một lý do làm chậm quá trình CPH. Lý do này không mới và không chỉ ở


nước ta. Có thể lấy hiện tượng “hội chứng 59” ở Trung Quốc làm ví dụ. Đó là trước
59 tuổi thì lãnh đạo DNNN tìm cách trì hoãn, không chịu cải cách, CPH vì sợ ảnh
hưởng quyền lợi, lợi ích của họ. Khi sang tuổi 59 chuẩn bị nghỉ hưu thì họ tỏ ra sẵn
sàng tiến hành.
- Sự quyết tâm và quyết liệt của người chỉ đạo, điều hành tái cơ cấu, CPH
DNNN thuộc các Bộ, ngành có ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện CPH của Bộ,
ngành. Nó là nhân tố có thể đẩy nhanh hoặc làm chậm quá trình CPH.
- Đặc điểm của ngành, lĩnh vực hoạt động cũng là nhân tố ảnh hưởng đến tiến
độ CPH. Hiện nay có rất nhiều các DNNN là nông, lâm trường quốc doanh chưa
được CPH, bao gồm cả chưa CPH theo kế hoạch. Điều đó cho thấy đặc điểm ngành,
lĩnh vực hoạt động của DN có sản phẩm gắn với đất đai là nguyên nhân gây chậm
CPH do tính phức tạp của định giá DN gắn với đất đai. Đồng thời quy định và chính
sách CPH áp dụng chung cho tất cả các ngành là chưa phù hợp với lĩnh vực sản xuất
nông nghiệp với đối tượng lao động là các loại cây, con là các thực thể sống. Điều
đó gây khó khăn, lúng túng cho việc triển khai.
- CPH đi liền sau quá trình tái cơ cấu DNNN, hay tái cơ cấu DNNN là tiền đề
cho CPH. Hai hoạt động này gắn kết nhau cũng là nguyên nhân kéo dài thêm quá
trình tiền CPH, dẫn đến tiến độ CPH chậm hơn. Có hai trường hợp, một là, trường

hợp của các DN quy mô lớn như TĐKT, TCT, hai là, những DN cần xử lý các vấn
đề để gia tăng giá trị DN trước CPH như tái cơ cấu tài chính, lành mạnh hoá tài
chính trước CPH.
2.2. CPH các TĐKT và TCT nhà nước
Việc CPH các TĐKT và TCT nhà nước đối diện với những vấn đề chung của
các DN CPH và cả những vấn đề riêng của loại hình DN quy mô lớn.
Vấn đề chung của các DN CPH là: cần xử lý các tồn tại và giải quyết vấn đề
mới phát sinh sau CPH. Đó là tình trạng DN sau CPH vẫn chưa thoát ra khỏi
phương thức hoạt động của DNNN cũ, vẫn chưa đột phá mạnh về tư duy, hành
động trong quản trị, điều hành, năng lực quản lý, khả năng cạnh tranh, tính công
khai, minh bạch, khó tìm được cổ đông chiến lược, cách lựa chọn nhà đầu tư chiến
lược, vai trò cổ đông nhà nước bị quá lạm dụng hoặc trong trình trạng chỉ giữ vai
trò như người giữ vốn nhà nước...
Vấn đề có đặc thù riêng trong CPH TĐKT và TCT đó là:
- Thứ nhất, TĐKT và TCT là những DN quy mô lớn, có tài sản lớn, nhiều vốn
nhà nước, nắm giữ những ngành, lĩnh vực kinh doanh thường được quan niệm là
quan trọng, nhạy cảm, liên quan đến vị trí, vai trò của kinh tế nhà nước, an ninh,
quốc phòng, công ích. TĐKT và TCT cấu trúc phức tạp, đa dạng, nhiều tầng nấc,


gồm nhiều DN thành viên, lợi ích không đồng nhất thậm chí đối lập nhau. TĐKT và
TCT theo quan niệm trước đây và thậm chí hiện nay vẫn còn được coi là nòng cốt,
xương sống của DNNN và kinh tế nhà nước. Đây đều là những vấn đề gai góc, cần
giải quyết trong và sau CPH.
- Thứ hai, về cách thức tiến hành CPH. Hiện tại có 2 cách, một là, CPH toàn
bộ TĐKT, TCT, và hai là, chỉ CPH các DN thành viên để chuyển sang mô hình
công ty mẹ-công ty con. Cho đến nay CPH TCT vẫn thiên về cách làm thứ hai:
trước hết CPH các DN thành viên, sau đó mới CPH công ty mẹ. Cách này chỉ thay
đổi ở bên dưới, công ty con, cháu, công ty liên kết, chưa đụng đến DN phía trên đó
là công ty mẹ. Vì vậy nhiều TĐKT, TCT không có chuyển biến mạnh mẽ, sức ỳ vẫn

lớn, nó chỉ phù hợp giai đoạn trước tái cơ cấu. Trước gia đoạn tái cơ cấu DNNN
chưa có TĐKT nào được CPH theo cách thứ nhất, trừ Tập đoàn Tài chính bảo hiểm
Bảo Việt và Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam. Gần đây một số TCT cũng đã chuyển
sang cách CPH thứ nhất.
Thứ ba, Nhà nước can thiệp quá sâu vào quyền của công ty mẹ trong CPH các
DN thành viên như phê duyệt cả tỷ lệ % cổ phần Nhà nước giữ lại ở công ty con,
cháu, công ty liên kết. Điều đó làm khó cho công ty mẹ thực hiện ý đồ chiến lược,
sử dụng quyền của mình ở công ty con, công ty liên kết.
2.3. Quản trị DN sau CPH
Mục tiêu CPH, ngoài việc đa dạng hoá sở hữu, giảm tính độc tôn của sở hữu
nhà nước, là chuyển DNNN thành DN cổ phần với cấu trúc quản trị hiện đại, đồng
thời sau CPH tiếp tục cải thiện QTDN theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, trên thực tế
QTDN tại các DN chuyển từ DNNN thành công ty cổ phần nhìn chung chưa có
nhiều chuyển biến, thay đổi rõ rệt. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này.
Thứ nhất, nhận thức chưa đúng, thậm chí sai lệch về QTDN, coi cải thiện
QTDN là cải thiện quản lý điều hành sản xuất kinh doanh như cải thiện quản lý về
tài chính, nhân sự, tiền lương, sản xuất, thương mại, v.v. Không ít DNNN khi được
hỏi ý kiến đều nghiêng về nhận thức như vậy và triển khai theo hướng này5. Trong
khi đó cải thiện QTDN là áp dụng các nguyên tắc QTDN hiện đại theo thông lệ kinh
tế thị trường, ví dụ như các quy tắc của OECD, đó là tạo điều kiện để cổ đông thực
hiện quyền cổ đông và bảo vệ quyền của cổ đông; đối xử bình đẳng với mọi cổ
đông, trong đó có cổ đông thiểu số; các bên liên quan được tiếp cận các thông tin
phù hợp, đầy đủ, tin cậy, kịp thời và thường xuyên; tăng cường minh bạch hóa và
công bố thông tin quan trọng của doanh nghiệp; tăng cường trách nhiệm và tính

5 Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2010), Đề án Đổi mới quản trị doanh nghiệp theo thông lệ kinh tế thị trường và cam kết gia nhập WTO


giải trình của HĐQT, đảm bảo để HĐQT hoạt động vì lợi ích cao nhất của doanh
nghiệp và của cổ đông.

Thứ hai, Nhà nước chưa quan tâm đúng mức đến các DN sau CPH và QTDN
của các DN này. Mọi nỗ lực đổi mới, sắp xếp, tái cơ cấu DN trong hơn 20 năm qua
gần như chỉ tập trung vào DN 100% vốn nhà nước và thông qua giải pháp CPH là
chính. Đã có rất nhiều văn bản được ban hành cùng với những nỗ lực thực hiện
CPH. Ngược lại, có rất ít văn bản hướng dẫn và chỉ đạo triển khai, cũng như rất ít
nỗ lực thực hiện nhằm cải thiện QTDN tại các DN có cổ phần chi phối hay kiểm
soát của Nhà nước ở giai đoạn sau CPH. Nhiệm vụ đổi mới QTDN theo thông lệ
kinh tế thị trường đã trở thành vấn đề cấp thiết sau khi Việt Nam gia nhập WTO
(năm 2007) được giao cho các Bộ, ngành và DN triển khai thực hiện từ năm 20126.
Đây cũng là một trong những nhiệm vụ của tái cơ cấu DNNN7. Tuy nhiên, chưa có
các văn bản hướng dẫn tiếp theo, đồng thời việc triển khai thực hiện rất chậm.
Trong khi đó có thể nhận thấy, đối với DN có cổ phần chi phối hay kiểm soát của
Nhà nước, thì thoái vốn nhà nước tại các DN này được coi là vấn đề trọng tâm trong
những năm gần đây mà không phải là cải thiện QTDN.
Thứ ba, các biện pháp tái cấu trúc DNNN còn thiên về khu vực DN có 100%
vốn nhà nước, chưa chú trọng các biện pháp cải cách các DN sau cổ phần hoá, nhất
là DN Nhà nước còn nắm cổ phần chi phối. Các bộ, ngành, UBND cấp tỉnh và các
cơ quan đổi mới DNNN mới chỉ quan tâm đến thực hiện kế hoạch sắp xếp, cổ phần
hoá, giao, bán, khoán, cho thuê, chuyển đổi sang Luật DN, mà chưa quan tâm quản
trị DN sau cổ phần hoá, quản lý phần vốn nhà nước, đặc biệt là DN có cổ phần chi
phối của Nhà nước.
2.4. Địa vị pháp lý và vị trí của DN có cổ phần chi phối của Nhà nước sau
CPH
Sau CPH các DNNN chuyển thành các DN đa sở hữu với 3 dạng hình: DN có
cổ phần chi phối của Nhà nước (từ trên 50% trở lên), DN có cổ phần dưới mức chi
phối của Nhà nước (từ 50% trở xuống), DN không còn cổ phần nhà nước. Với
những DN có cổ phần chi phối của Nhà nước, vấn đề nổi lên là chưa có những quan
tâm đúng mức về địa vị pháp lý cũng như chưa sử dụng đúng vị thế, vai trò của loại
DN này. Trước đây, theo Luật DN năm 2005 (khoản 22, Điều 4) và Luật DNNN
năm 2003 (Điều 1), đây là những DNNN. Còn theo Luật DN năm 2014 (Điều 4)

đây không phải là DNNN; chỉ những doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn

6 Quyết định số 704/QĐ-TTg ngày 12 tháng 6 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án đổi mới quản trị doanh nghiệp theo thông lệ kinh tế thị trường
7 Quyết định số 929/QĐ-TTg ngày 12 tháng 6 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án“Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là Tập đoàn kinh tế
và Tổng công ty nhà nước giai đoạn 2011 - 2015”


điều lệ mới được coi là DNNN.
Việc thay đổi định nghĩa về DNNN, thứ nhất, tự nó không làm giảm bớt số
lượng DNNN đang tồn tại trên thực tế ở những DN có cổ phần, vốn góp chi phối
của Nhà nước, đồng thời cũng không hạn chế được những vấn đề của DNNN. Bước
vào giai đoạn tái cơ cấu DNNN vẫn còn 1.217 DN có cổ phần chi phối của Nhà
nước, chiếm gần 1/3 tổng số DN và bộ phận DN đã CPH. DN có cổ phần chi phối
của Nhà nước về bản chất vẫn là DNNN, Nhà nước vẫn sử dụng để thực hiện mục
tiêu chính sách, vẫn thuộc quyền kiểm soát của Nhà nước. Trong khi đó Nhà nước
vẫn phải giải quyết những vấn đề đang tồn tại tại các DN này như độc quyền, áp đặt
của cổ đông nhà nước, DN không mấy thay đổi về quản trị sau CPH. Thứ hai,
không coi DN có cổ phần chi phối là DNNN có thể dẫn đến hệ quả Nhà nước không
mấy quan tâm đến loại DN này (do không còn là DNNN), vì vậy, không có cách
tiếp cận đúng, không có các nỗ lực, các biện pháp, chính sách cải cách mạnh các
DN này, dẫn đến phó mặc các DN này cho những người đại diện cổ đông nhà nước.
Thực tế cũng đang diễn ra đúng như vậy. Thứ ba, không coi DN có cổ phần chi phối là
DNNN là đi ngược với thông lệ quốc tế. Tại nhiều quốc gia trên thế giới, sau làn sóng
tư nhân hoá từ những năm 1980, các DNNN ở những nước này chủ yếu là những DN
do Nhà nước sở hữu cổ phần chi phối, thậm chí gồm cả những DN có cổ phần dưới
mức chi phối nhưng Nhà nước vẫn nắm quyền kiểm soát.
2.5. Vấn đề thoái vốn nhà nước từ các DN sau CPH
Thoái vốn nhà nước trước đây đã được triển khai tại các DN đã CPH, chủ yếu
tại các DN quy mô nhỏ của các địa phương và của Tổng công ty đầu tư và kinh
doanh vốn nhà nước (SCIC). Gần đây việc thoái vốn nhà nước thực hiện tại cả các

DN có 100% vốn nhà nước (DNNN) và DN có vốn nhà nước. Thực tế, có 2 loại
thoái vốn nhà nước: thoái vốn đầu tư ngoài ngành theo chủ trương tái cơ cấu
DNNN, và thoái vốn nhà nước từ các DN đã CPH. Thoái vốn đầu tư ngoài ngành là
giải pháp tái cơ cấu DNNN nhằm thu hẹp ngành, lĩnh vực đầu tư để giải quyết tình
trạng đầu tư dàn trải nhằm tập trung đầu tư vào ngành, lĩnh vực kinh doanh chính.
Đây là hoạt động tái cơ cấu DNNN. Thoái vốn nhà nước từ các DN đã CPH là giảm
bớt tỷ lệ cổ phần nhà nước tại DN sau CPH. Đây là tiếp tục quá trình CPH ở giai
đoạn sau CPH, hay có thể gọi là CPH thứ cấp.
Thực tế hiện nay ở nước ta chưa có sự phân biệt rạch ròi giữa 2 loại thoái vốn
này. Cụ thể là, chưa xác định rõ tính chất, mục tiêu, thẩm quyền quyết định đối với
từng loại thoái vốn. Vẫn còn tình trạng đánh đồng giữa thoái vốn đầu tư ngoài
ngành theo chủ trương tái cơ cấu DNNN, và thoái vốn để tiếp tục CPH DN có vốn
nhà nước ở giai đoạn sau CPH. Hiện nay đang tồn tại nghịch lý trong thực hiện cả 2


loại thoái vốn này.
Thứ nhất, thoái vốn đầu tư ngoài ngành kinh doanh chính là việc điều chỉnh
vốn đầu tư, điều chỉnh hoạt động đầu tư tại DN và điều chỉnh hoạt động đầu tư tài
chính tại DN khác. Đó là việc sử dụng vốn kinh doanh của DN, thuộc quyền của
DN, do bộ máy quản trị DN quyết định. Tuy nhiên, hiện nay việc thoái vốn đầu tư
ngoài ngành đang diễn ra đồng loạt theo quy định hành chính của cơ quan nhà nước,
bất kể thực trạng hiệu quả sử dụng vốn, triển vọng sử dụng vốn, tiềm lực vốn, năng
lực quản trị của DN. Điều đó vừa can thiệp vào quyền kinh doanh của DN, vừa
thiếu tính kinh tế vì chưa tính đến thực trạng và triển vọng đầu tư của DN trong
ngành kinh doanh chính cũng như đầu tư của DN vào các ngành kinh doanh ngoài
ngành kinh doanh chính.
Thứ hai, thoái vốn nhà nước từ các DN đã CPH là điều chỉnh vốn điều lệ, tức
là điều chỉnh vốn chủ sở hữu nhà nước. Đó là hoạt động sử dụng vốn chủ sở hữu, là
thuộc quyền của cổ đông nhà nước - chủ sở hữu nhà nước, không phải quyền của
DN (trừ DN là công ty con của DN mẹ). Đối với nhiều nước, việc tăng, giảm vốn

nhà nước tại DN được quy định chặt chẽ vì đó là quyền chủ sở hữu nhà nước, quyền
này thuộc về Nghị viện, Quốc hội. Ví dụ như Thuỵ Điển, việc mua bán cổ phần của
DN mà Chính phủ sở hữu trên 50% cổ phần có quyền biểu quyết thì phải được
Quốc hội phê chuẩn; Chính phủ không được phép bán bớt cổ phần thấp dưới mức
do Quốc hội thông qua. Đối với Phần Lan, chỉ khi Quốc hội cho phép thì mới được
giảm cổ phần nhà nước xuống dưới mức chi phối (trên 2/3 tổng số phiếu có quyền
biểu quyết), dưới mức đa số (trên 1/2 tổng số phiếu có quyền biểu quyết), dưới mức
thiểu số (trên 1/3 tổng số phiếu có quyền biểu quyết)8. Trong bối cảnh nước ta, hiện
chưa có các quy định, các căn cứ hay tiêu chí để thoái vốn nhà nước từ DN đã CPH.
Quyền quyết định thoái vốn nhà nước cũng không nhất quán với quyền quyết định
cổ phần hoá. Quyết định cổ phần hoá được căn cứ vào các tiêu chí được Thủ tướng
Chính phủ xét duyệt chặt chẽ (theo Quyết định ban hành tiêu chí, danh mục phân
loại DNNN). Cổ phần hoá xong thì không còn tiêu chí để giảm hoặc tăng cổ phần
nhà nước, thẩm quyền xem xét quyết định cũng “hạ cấp” giao cho Bộ, UBND cấp
tỉnh. Rõ ràng, đây là một vấn đề cần phải giải quyết để có cơ sở để giám sát quyền
lực, nhất là tới đây số lượng DN 100% vốn nhà nước sẽ giảm đi rất nhiều. Số DN có
vốn nhà nước chi phối sẽ tăng lên nhiều, trong số này có nhiều DN lớn gồm TĐKT,
TCT ở ngay trong các ngành, lĩnh vực quan trọng.
2.6. Thiếu cổ đông chiến lược

8 Trần Tiến Cường (2005), Doanh nghiệp có vốn đầu tư nhà nước: Pháp luật điều chỉnh, mô hình chủ sở hữu và một số kinh nghiệm quốc tế, Nhà xuất bản Thống kê,
Hà Nội


Vấn đề thường được đặt ra đối với DN CPH là khó tìm kiếm cổ đông chiến
lược. Đó là những nhà đầu tư có khả năng khoả lấp một số tồn tại của DNNN trước
CPH như yếu kém năng lực quản trị, điều hành, hoặc đem lại những đột phá cho
DN phát triển về công nghệ, thị trường, v.v. DN thiếu cổ đông chiến lược do một số
nguyên nhân:
- DN CPH theo cơ chế cũ (CPH nội bộ) có cổ phần phân tán, thiếu tập trung,

thiếu cổ đông lớn. Trường hợp này xảy ra ở các DN CPH ở giai đoạn đầu, thời kỳ
đầu CPH, với những DN quy mô nhỏ.
- Nhà nước giữ cổ phần chi phối nên sự chi phối, quyền lực và đặc điểm chi
phối của cổ đông nhà nước tự nó đã ngăn cản sự tham gia của cổ đông chiến lược.
Việc này xảy ra ở cả giai đoạn CPH sơ cấp và giai đoạn sau CPH. Khi nhà đầu tư
chiến lược nhận thấy họ không có vị trí, không có tiếng nói tại DN họ đầu tư thì họ
khó có thể tham gia để chia sẻ ý tưởng, phương pháp quản trị, hoạt động đầu tư,
công nghệ… để tạo ra những thay đổi tầm chiến lược đối với DN.
- Thiếu cơ chế tìm kiếm, thu hút cổ đông chiến lược đối với DNNN sau CPH
Nhà nước vẫn giữ cổ phần chi phối, hoạt động không có đột phá. Đối với những DN
này, chủ sở hữu phần vốn nhà nước chưa chủ động và năng động tìm kiếm cổ đông
chiến lược để thay thế vai trò thụ động của cổ đông nhà nước.
- Việc bán vốn nhà nước với tỷ lệ % quá thấp so với vốn điều lệ (CPH lần đầu
hoặc thoái vốn nhà nước) và bán theo phương thức đấu giá lẻ tẻ thay vì bán đấu giá
cả lô cổ phần nên khó thu hút những nhà đầu tư lớn trong thời gian qua.
3. Một số khuyến nghị
(1) Đổi mới nhận thức về cổ phần hoá và tư nhân hoá
Ngành, lĩnh vực quan trọng, DNNN quan trọng (bất kể đó là doanh nghiệp do
Nhà nước giữ 100% vốn hay chi phối) đối với kinh tế nhà nước chỉ có tính thời
gian, có tính giai đoạn. Khi có sự mở cửa, hội nhập, có sự cạnh tranh sòng phẳng và
minh bạch giữa các khu vực kinh tế thì vai trò đó của kinh tế nhà nước, của DNNN
buộc phải xem xét lại, có thể trở thành không quan trọng. Đối với những ngành, lĩnh
vực hay những DNNN không quan trọng, trong bối cảnh nghị quyết của Đảng (Đại
hội X, XI) coi kinh tế tư nhân là động lực của nền kinh tế thì cần khẳng định đích
cuối cùng của cổ phần hoá DNNN là tư nhân hoá - tức mọi sở hữu đối với vốn và
tài sản của doanh nghiệp đều thuộc về tư nhân.
Nhà nước có chính sách bán cổ phần ưu đãi cho người lao động ở giai đoạn
bắt đầu cổ phần hoá (sơ cấp), nhưng Nhà nước cũng cần chấp nhận thực tế là việc
giữ lại hay bán đi cổ phần là quyền của người lao động. Ở giai đoạn sau cổ phần



hóa (thứ cấp) thì việc chuyển nhượng cổ phần hay thâu tóm cổ phần là thuộc quyền
của các cổ đông, miễn là họ tuân thủ pháp luật và điều lệ, và không vi phạm các quy
định về cạnh tranh và chống độc quyền.
Nguyên tắc quan trọng cần giữ là: trong từng giai đoạn, ở từng thời kỳ, một
khi đã xác định được những ngành, lĩnh vực quan trọng, DNNN quan trọng (bất kể
đó là doanh nghiệp do Nhà nước giữ 100% vốn hay chi phối) thì sự tăng hay giảm
tỷ lệ vốn nhà nước (vượt lên thành các mức này hay xuống dưới các mức này), cần
được xem xét cẩn trọng ở cấp cao nhất, mà theo kinh nghiệm của nhiều nước là
thuộc quyền quyết định của Quốc hội.
(2) Không nên chạy theo tiến độ CPH bằng mọi giá
Kế hoạch 2 năm 2014-2015 đưa ra phải CPH 432 DNNN. Năm 2014 đã CPH
143 DN. Số còn lại của năm 2015 là 289 DN, trong đó có khá nhiều TCT, kể cả
TĐKT. Số DN CPH bình quân 1 năm giai đoạn 2011-2012, 2011-2013, 2011-2014
lần lượt là 12 DN, 33 DN, 60 DN. Trong khi số DN CPH năm 2015 là 289 DN, cao
hơn rất nhiều so với bình quân năm ở các giai đoạn này. Trong bối cảnh kinh tế suy
thoái và mới dần chuyển sang phục hồi thì kế hoạch CPH này là rất tham vọng cả về
con số DN CPH và tiến độ thực hiện.
Số DN cổ phần hoá bình quân năm
Giai

đoạn

2011-

2012

12

Giai


đoạn

2011-

2013

33

Giai

đoạn

2011-

2014

60

Kế

hoạch

năm

2015

289

Có một số lý do để có thể xem xét lại kế hoạch và tiến độ CPH năm 2015. Một

là, số lượng DN đưa vào kế hoạch CPH năm 2015 cao hơn rất nhiều so với trung
bình hàng năm của giai đoạn 2011-2014 khi kinh tế suy thoái mạnh và chỉ mới bắt
đầu phục hồi chậm. Nhìn từ số liệu DN CPH trong 3 năm 2011-2013 cho thấy kinh
tế suy giảm sâu đã ảnh hưởng rất lớn đến cầu của nền kinh tế, từ đó có ảnh hưởng
đến lượng cổ phần IPO hay bán ra được từ các DN CPH. Trong bối cảnh đó, việc
CPH là không thật có lợi nhìn từ phía cung là DNNN và Nhà nước. Hai là, CPH
trong bối cảnh tái cơ cấu đòi hỏi tiến hành tái cơ cấu DN trước – một giai đoạn cần
thiết trước khi CPH. Cần dành thời gian cho tái cơ cấu DN thay vì chạy theo tiến


độ, hoàn thành CPH ngay. Ba là, điều quan trọng đối với DN CPH không phải chỉ
là hoàn thành CPH, đăng ký DN thành công ty cổ phần, mà chủ yếu ở việc cải thiện
quản trị DN, hiện đại hoá DN để tăng sức cạnh tranh. Điều này cũng cần có nhiều
thời gian hơn.
(3) Cần xây dựng luật về CPH DNNN
Việc này lẽ ra phải tiến hành từ lâu, vì CPH DNNN là vấn đề lớn, làm thay đổi
sở hữu nhà nước tại DNNN, thay đổi vị trí của kinh tế nhà nước trong phạm vi
ngành và nền kinh tế.
Đối với một số nước, việc tăng, giảm vốn nhà nước vượt quá hoặc thấp dưới
tỷ lệ tối thiểu do Quốc hội quy định và phê chuẩn (Thuỵ Điển, Phần Lan). Có nước
ban hành đạo luật tạo khung khổ chung cho các hoạt động tư nhân hoá (CPH), quy
định quyền hạn của Chính phủ trong thực hiện các hoạt động tư nhân hoá DNNN
(như Pháp).
Ở nước ta trong hơn 20 năm qua, CPH chỉ thực hiện theo các văn bản quy
phạm pháp luật (nghị định, nghị quyết, quyết định của Chính phủ, Thủ tướng chính
phủ, các thông tư của các bộ, ngành), chưa có đạo luật quy định khung hay quy định
chi tiết về CPH DNNN.
Trong khi đó, việc đầu tư, sử dụng vốn thành lập, tổ chức, quản lý DNNN hay
DN có vốn nhà nước đã được quy định trong một số luật ban hành kể cả trước kia
và gần đây. Cụ thể, việc đầu tư, sử dụng vốn nhà nước đã được chế định trong Luật

quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào SXKD tại DN (năm 2014); việc tổ chức,
quản lý DN 100% vốn nhà nước - trong Luật DNNN (năm 1995, 2003), Luật DN
(năm 1999, 2005, 2014); việc phá sản DNNN và DN có vốn nhà nước - trong Luật
phá sản (năm 1993, 2004). Nhưng ngược lại, việc CPH hay thoái vốn nhà nước –
những hoạt động thoái đầu tư cần xử lý nhiều vấn đề, liên quan đến vốn, tài sản, cán
bộ quản lý, người lao động…, đối diện với những rủi ro, thất thoát vốn, tài sản nhà
nước, có thể ảnh hưởng đến khu vực kinh tế nhà nước, ngành, lĩnh vực chiến lược…
lại chưa có luật quy định. Đây có thể coi là một nghịch lý.
Vì vậy, việc ban hành luật về CPH DNNN là cần thiết để tạo nền tảng pháp lý
cao hơn, vững chắc hơn cho CPH những DN quy mô lớn, các DN quan trọng, DN
trong các ngành đặc thù liên quan đến đất đai như nông lâm trường, an ninh, quốc
phòng, và thực hiện thoái vốn nhà nước tại các DN.
(4) Thay đổi quan điểm và cách tiếp cận CPH trong tái cơ cấu DNNN
Cách tiếp cận cơ cấu lại DNNN và CPH là chuyển mạnh sang áp dụng các
biện pháp tái cấu trúc có tính thị trường nhưng cũng nên sử dụng quyền lực của chủ


sở hữu một cách đúng đắn và minh triết. Đó là, thực hiện các biện pháp tạo lập, kích
thích, nuôi dưỡng, phát triển những yếu tố thị trường trong loại bỏ hay tiếp tục duy
trì DNNN. Đồng thời, tạo sức ép hành chính đối với cán bộ lãnh đạo, người đứng
đầu không đáp ứng yêu cầu tái cơ cấu, CPH.
Quan điểm về CPH không phải chỉ để chuyển DNNN thành công ty cổ phần,
kết thúc ở đăng ký là DN cổ phần, mà là một quá trình. CPH vẫn còn tiếp diễn sau
CPH bao gồm cả thoái vốn nhà nước, cải thiện QTDN, hiện đại hoá công ty cổ
phần. Dựa trên quan điểm phát triển DN, mục tiêu CPH là để thực hiện chế độ công
ty ở DNNN sau CPH.
(5) Cổ phần hoá DNNN quy mô lớn, TĐKT, TCT
Đối với các DNNN quy mô lớn như TĐKT, TCT hoạt động trong những
ngành, lĩnh vực quan trọng, việc cổ phần hóa cần phải có sự lựa chọn và các bước đi
phù hợp với điều kiện của đất nước cũng như định hướng phát triển kinh tế của

Đảng. Việc cổ phần hóa không thể thực hiện ồ ạt ngay từ thời điểm cổ phần hóa mà
phải được tiến hành theo nhiều giai đoạn phù hợp với kế hoạch và lộ trình giảm dần
tỷ lệ vốn nhà nước. Hay nói cách khác, cần có những hướng dẫn cụ thể và các bước
triển khai thận trọng khi cổ phần hóa các DNNN quy mô lớn, tổng công ty hoạt
động trong những ngành, lĩnh vực quan trọng.
(6) Về tìm kiếm, thu hút, lựa chọn cổ đông chiến lược
Tiêu chí để chọn cổ đông chiến lược cần nhìn từ 2 phía: từ nhà đầu tư và từ
DN CPH. Từ phía nhà đầu tư, đó là những nhà đầu tư có tiềm lực tài chính, những
nhà đầu tư thực sự quan tâm phát triển lâu dài đối với các DN này, họ có khả năng
công nghệ, thị trường, có kinh nghiệm, đáp ứng những nh cầu phát triển DN sau
CPH. Từ phía DN CPH, quan điểm chung là việc tham gia của nhà đầu tư chiến
lược vào DN sau CPH là cần, nhưng vấn đề cần xem xét là nhà đầu tư chiến lược
cần ở đâu, ở những DN nào, khi nào. Không phải mọi DN sau CPH đều cần có và
cần tìm nhà đầu tư chiến lược. Cổ đông chiến lược cần ở những DN và khi những
DN đó có vấn đề về chiến lược, thị trường, công nghệ, cần cải thiện QTDN, cần tạo
ra động lực mới và mạnh hơn cho sự phát triển.
Nhìn từ cách tiếp cận thúc đẩy tiến độ CPH, những DN đang hoạt động tốt,
hoạt động có hiệu quả, nếu không tìm được ngay cổ đông chiến lược thì cứ tiến
hành CPH, sau đó sẽ thoái vốn nhà nước tiếp hoặc phát hành thêm cổ phiếu để tìm
nhà đầu tư chiến lược. CPH vẫn hơn không tiến hành CPH. Vì CPH là chuyển sang
chế độ công ty (nhưng phải đi kèm với cải thiện QTDN theo thông lệ, theo hướng
hiện đại sau CPH), tách bạch được DN với chủ sở hữu, chủ sở hữu đứng ngoài DN,
tăng cường minh bạch, công khai và đi kèm tăng cường giám sát. Khi đó DN được


quản lý, điều hành bởi HĐQT độc lập hơn9 với các chủ sở hữu, thay vì cơ quan nhà
nước thường xuyên can thiệp vào DN như trước CPH. Cũng vì vậy nên cần thúc
đẩy CPH. Nếu không CPH, dù có chuyển sang Cty TNHH 1 thành viên theo Luật
DN thay cho công ty nhà nước hoạt động theo Luật DNNN, thì vẫn không có được
chế độ công ty, không có được các công ty hiện đại. Kinh nghiệm hơn 10 năm

chuyển DNNN hoạt động theo mô hình công ty TNHH một thành viên (từ năm
2001) khi có Nghị định 63/2001/NĐ-CP về chuyển DNNN sang loại công ty này
cho thấy điều đó.
(7) Thoái vốn đầu tư ngoài ngành
Cần xem xét điều chỉnh lại cách thức thoái vốn đầu tư ngoài ngành hiện nay
để thực hiện theo một số nguyên tắc sau:
Nhà nước chỉ nên đưa ra chủ trương thoái vốn đầu tư ngoài ngành và đưa ra
một số nguyên tắc chung căn cứ vào đó để DN áp dụng. Nhà nước không nên quy
định cụ thể tỷ lệ % thoái vốn vì như vậy là can thiệp sâu vào DN, trái với nguyên
tắc thị trường và thể chế thị trường chúng ta đang xây dựng và hướng tới.
Nhà nước chỉ hành xử trên tư cách và với tâm thế của nhà đầu tư, cổ đông
nhà nước, thực hiện quyền của nhà đầu tư, cổ đông nhà nước không phải với tư
cách cơ quan quản lý nhà nước. Không nên chuyển tải ý chí Nhà nước bằng các quy
định có tính quy phạm pháp luật có hiệu lực chung.
Thoái vốn đầu tư ngoài ngành cần căn cứ đặc điểm của từng DN: chủ yếu là
hiệu quả đầu tư trong và ngoài ngành; tiềm lực tài chính DN; triển vọng ngành kinh
doanh chính; sản phần ngành kinh doanh chính ở giai đoạn nào, nếu ở giai đoạn
thoái trào thì cần xem lại chính sách thoái vốn ngoài ngành kinh doanh chính, để
chuyển sang đầu tư ngành kinh doanh chính mới triển vọng hơn.
Đối với DN đang kinh doanh có hiệu quả ở cả ngành kinh doanh chính và
ngoài ngành kinh doanh chính thì quyền quyết định thoái vốn đầu tư ngoài ngành
cần trao cho bộ máy quản trị, điều hành của DN căn cứ theo tín hiệu thị trường.
Áp dụng những nguyên tắc trên cho cả DN CPH có vốn nhà nước chi phối
thông qua quyền lực của cổ đông chi phối tại DN mà trực tiếp là người đại diện
phần vốn tại DN.
---------------------

9 Mức độ độc lập của HĐQT còn phụ thuộc vào nỗ lực cải thiện QTDN, áp dụng các nguyên tắc, thông lệ quản trị doanh nghiệp hiện đại, kiểu như của OECD




×