Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

QUẢN lý và QUY HOẠCH HOẠT ĐỘNG hệ THỐNG CHỢ QUẬN cầu GIÂY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (492.92 KB, 60 trang )

Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

LỜI NÓI ĐÀU
Với tổng số gàn 8.300 chợ vào thời điểm hiện tại, có thể nói bình quân
mỗi xã, phường ở nước ta đã "gánh" một đầu chợ. Bức tranh chợ Việt Nam khá
đa dạng, tạo thêm một kênh giao thông cả ở hai thị trường nội và ngoại địa. Vậy
nhưng, hệ thống chợ Việt Nam dường như vẫn thiếu bàn tay một "tổng đạo diễn".
Dù đã khá lớn về số lượng, song hệ thống chợ Việt Nam hiện còn nhiều bất cập
từ cơ sở vật chất, quy mô, mật độ phân bổ đến phương thức buôn bán, hiệu quả,
quản lý... Chính vì vậy, Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) đã xây dựng
một chương trình phát triển chợ đến năm 2020, ừong đó quan trọng nhất là các
chợ, siêu thị, trung tâm bán buôn, bán lẻ và trung tâm thương mại, đặc biệt ưu
tiên phát triển chợ đầu mối nông sản tập trung bán buôn phát luồng. Đây sẽ là
tiền đề từng bước phát triển các sàn giao dịch hàng hoá, chợ đấu giá, trung tâm
mua bán...
Đối với khu vực nội thành, chợ hiện nay vẫn có vai trò quan trọng đối
với các loại hàng hóa như thực phẩm tươi sống, trái cây, đồ gia vị và nhiều loại
hàng hóa khác. Mặc dù mạng lưới siêu thị, cửa hàng bán lẻ xuất hiện nhiều
nhưng chưa thể thay thế được vai trò của chợ đối với những mặt hàng này. Mặt
khác, tổng mức hàng hóa bán ra ở các chợ nội thành vẫn chiếm tỷ trọng lớn, góp
phần quan trọng vào việc tiêu thụ hàng hóa sản xuất ra cũng như đóng góp cho
ngân sách, giải quyết công ăn việc làm, hạn chế phát sinh các chợ tự phát. Hơn
nữa, siêu thị chưa tỏ ra thích hợp với một bộ phận lớn dân cư có thu nhập thấp,
hàng ngày phải đi chợ mua thực phẩm. Chợ ở các khu vực nội thành còn là nơi
hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan, mua sắm. Như vậy,
chợ còn là nơi góp phàn tạo nên bản sắc văn hóa truyền thống của thành phố.
Tuy nhiên hoạt động của hệ thống chợ hiện nay còn nhiều bất cập. Tình
trạng mất Vệ sinh anh toàn thực phẩm còn phổ biến, một số chợ được xây dựng
và quy hoạch chưa được hợp lý. Trong những năm gàn đây, số lượng chợ tự phát
mọc lên nhiều gây mất trật tự, tắc nghẽn giao thông,...
Quá trình nghiên cứu và tim hiểu lý thuyết về quản lý và quy hoạch hoạt


động hệ thống chợ cùng với tìm hiểu thực tế tại Phòng Kinh Te Ke Hoạch Quận
cầu Giấy. Em nghiên cứu vấn đề này trong giới hạn đề tài: “Quản lý và quy
hoạch hoạt động hệ thống chợ quận cầu Giây”. Để phù hợp với mục đích
nghiên cứu của đề tài là thực trạng hoạt động và quản lý cùng với những quy
hoạch sắp tới của hệ thống chợ trên địa bàn quận, bố cục của đề tài được em trình
bày như sau:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về chợ và quản lý chợ.
Chương II: Thực trạng quản lý chợ của Quận càu Giấy.
Chương III: Giải pháp tăng cường công tác quản lý hệ thống chợ quận
Cầu Giấy.
Với sự hướng dẫn nhiệt tình của thày giáo cùng các cô, chú phòng
kinh tế kế hoạch quận càu Giấy và sự nỗ lực của bản thân em đã hoàn thành

1


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

đề tài này. Em xinh chân thảnh cám ơn.

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ cơ BẢN VỀ CHỢ VÀ QUẢN LÝ
CHỢ
I/. Hệ thống chợ và vai trò của hệ thống chợ đối với địa phương. l ế Khái
niệm về chợễ
Theo định nghĩa ở các từ điển tiếng Việt đang lưu hành : Chợ là
nơi công cộng để nhiều người đến mua bán vào những buổi hoặc những ngày
nhất định; chợ là nơi gặp gỡ nhau giữa cung và càu các hàng hóa, dịch vụ, vốn ;
là nơi tập trung hoạt động mua bán hàng hóa giữa người sản xuất, người buôn
bán và người tiêu dùng; chợ là nơi tụ họp để mua bán trong những buổi ngày
nhất định

Theo khái niệm thường dùng trong lĩnh vực thương mại : chợ là loại
hình thương nghiệp truyền thống phát triển khá phổ biến ở nước ta ; chợ là hiện
thân của hoạt động thương mại, là sự tồn tại của không gian thị trường mỗi
vùng, nhất là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và tập trung
nhiều nhất ở các vùng đô thị các thành phố lớn.
Khải niệm về chợ truyền thống, chợ tự phát:
Theo ngành thương mại dùng ước lệ gọi chợ truyền thống và chợ tự
phát (không truyền thống)
- Chợ truyền thống là chợ được xây dựng từ nhiều chục năm trước
đây, đa phần là theo quy hoạch phù hợp với dân số dân cư lúc bấy giờ.
- Chợ tự phát là chợ buôn bán chiếm lòng lề đường đa số mới phát
sinh trong khoảng từ ba bốn năm trở lại đây, nhiều nhất là từ 1999 tới nay. Do
từ 1996 tới nay dân số của thành phố tăng nhanh (tăng cơ học), nhưng chủ yếu
là do quản lý trật tự lòng lề đường của phường, quận còn buông lỏng, thiếu
cương quyết giải tỏa sắp xếp theo quy hoạch.
Khải niệm về chợ theo quy định của Nhà nước :
Theo Thông tư 15-TM/CSTTTN ngày 16/10/1996 của Bộ Thương
mại : “Chợ là mạng lưới thương nghiệp hình thành và phát triển cùng với sự
phát triển của nền kinh tế-xã hội”.
Theo Nghị định 02/2003/NĐ-CP ngày 14/01/2003 của Chính phủ về
phát triển và quản lý chợ :
(1) Phạm vỉ chợ : là khu vực kinh doanh dành cho hoạt động chợ, bao
gồm diện tích để bố trí các điểm kinh doanh, khu vực dịch vụ (như : bãi để xe,
kho hàng, khu ăn uống, vui chơi giải trí và các dịch vụ khác) và đường bao
quanh chợ.
(2) Chợ đầu mối : là chợ có vai trò chủ yếu, thu hút, tập trung lượng
hàng hóa từ các nguồn, sản xuất, kinh doanh của khu vực kinh tế hoặc của

2



Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

ngành hàng để tiếp tục phân phối tới các chợ và các kênh lưu thông khác.
(3) Chợ kiên cổ : là chợ được xây dựng bảo đảm có thời gian sử dụng
trên 10 năm.
(4) Chợ bán kiên cỗ : là chợ được xây dựng đảm bảo có thời gian sử
dụng từ 5 năm đến 10 năm.
(5) Điểm kinh doanh tại chợ : bao gồm quầy hàng, sạp hàng, ki-ốt, cửa
hàng được bố trí cố định trong phạm vi chợ theo thiết kế xây dựng chợ, có diện
tích quy chuẩn tối thiểu là 3m2/điểm.
Như vậy tổng hoà lại chúng ta có thể tạm đưa ra khái niệm tương đối rõ
ràng về chợ như sau:
“ Chợ ỉà một ỉoại hình thương nghiệp có tỉnh chất truyền thống, một bộ
phận của thị trường xã hội, là nơi diễn ra tập trung các hoạt động mua, bản
hàng hóa và dịch vụ phong phú của các thành phần kinh tế mà đa phần ỉà kỉnh
tế cả thể với những mặt hàng tiêu dùng hàng ngày ỉà chủ yếu và đối tượng phục
vụ ỉà toàn thể các hộ dan cư địa phương trên địa điểm được chính quyền chọn
lựa, quy định và cho phép hoạt động theo từng mức độ khác nhau tuỳ theo các
hoạt động của nền kỉnh tế - xã hội đô thị trong từng thời gian.”
2 . Phân loai chơ :


Theo Nghị định 02/2003/NĐ-CP ngày 14/01/2003 của Chính phủ về
phát triển và quản lý chợ, có các loại chợ như sau :
2.1- Phân loại chợ theo quy mô:1
- Loại 1 : là chợ có trên 400 điểm kinh doanh (*\ được đầu tư xây dựng
kiên cố, hiện đại theo quy hoạch ; được đặt ở các vị trí trung tâm kinh tế thương
mại quan trọng của tỉnh, thành phố hoặc là chợ đàu mối của ngành hàng, của
khu vực kinh tế và được tổ chức thường xuyên ; có mặt bằng phạm vi chợ phù

hợp với quy mô hoạt động của chợ và tổ chức đầy đủ các dịch vụ tại chợ : trông
giữ xe, bốc xếp hàng hóa, kho bảo quản hàng hóa, dịch vụ đo lường, dịch vụ
kiểm tra chất lượng hàng hóa, vệ sinh an toàn thực phẩm và các dịch vụ khác.
- Loại 2 : là chợ có trên 200 điểm kinh doanh(*), được đàu tư xây dựng
kiên cố hoặc bán kiên cố theo quy hoạch ; được đặt ở trung tâm giao lưu kinh tế
của khu vực và được tổ chức họp thường xuyên hay không thường xuyên ; có
mặt bằng phạm vi chợ phù hợp với quy mô hoạt động chợ và tổ chức các dịch
vụ tối thiểu tại chợ : trông giữ xe, bốc xếp hàng hóa, kho bảo quản hàng hóa,
dịch vụ đo lường.
- Loại 3 : là các chợ dưới 200 điểm kinh doanh(*) hoặc các chợ chưa
được đàu tư xây dựng kiên cố hoặc bán kiên cố ; chủ yếu phục vụ nhu cầu mua
bán hàng hóa của nhân dân trong xã, phường và địa điểm phụ cận.
1 Theo Nghị định 02/2003/NĐ-CP ngày 14/01/2003 của Chính phủ về phát triển và quản lý chợ
Điểm kinh doanh > 3m2

3


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

2.2- Phàn loại chợ theo chức năng kỉnh doanh .ẵ
Chợ bán buôn : Các chợ này có doanh số bán buôn chiếm tỷ trọng cao
trên 60-70%, đồng thời vẫn có bán lẻ nhưng tỷ trọng nhỏ. Thướng tập trung bán
buôn ở các chợ cấp vùng và cấp thành phố.
Chợ chuyên doanh : là chợ chuyên kinh doanh một mặt hàng chính yếu,
mặt hàng này thường chiếm doanh số ứên 60% đồng tời có bán một số mặt hàng
khác, các loại hàng khác có doanh số dưới 40% tổng doanh thu. Nhiều chợ chỉ
chuyên doanh một hoặc một nhóm mặt hàng nhất định, như chợ hoa tươi, chợ
vật liệu xây dựng, chợ cá biển, chợ rau quả, chợ cây cảnh, chợ tôm, chợ giống,
chợ bò sữa,...

Chợ bản ỉẻ : là chợ bán chủ yếu cho người tiêu dùng trực tiếp hàng
ngày.
Chợ phiên : thời gian họp chợ diễn ra vào một thời gian nhất định trong
ngày, như buổi sáng, buổi chiều, buổi tối.
3ẳ Vai trò của chợ đối với sự phát triển kỉnh tế-xã hội của địa phưongế
3.1. Lịch sử hình thành chợ giữ một vị trí quan trọng trong đời sống dân
cư.
Thị trường là một khái niệm cơ bản của kinh tế học và đã được nhiều
nhà kinh tế định nghĩa. Neu thị trường là nơi mua bán hàng hóa thì cũng không
sai, nhưng không đầy đủ và quả là khó giải thích được những loại thị trường “vô
hình” với những hàng hóa “vô hình” đang ngày càng phát triển - như thị trường
vốn, thị trường dịch vụ,... thậm chí có người nhầm lẫn quan niệm về chợ và thị
trường, cho rằng đó là hai phạm trù kinh tế tách biệt. Theo Paul A.Samuelson,
thị trường là một quá trình trong đó người mua và người bán một thứ hàng hóa
tác động qua lại để xác định giá cả và số lượng hàng. Còn theo David Begg, thị
trường là sự biểu hiện thu gọn của các công ty về sản xuất cái gì, sản xuất như
thế nào và các quyết định của người công nhân về việc làm bao lâu cho ai đều
được dung hòa bằng sự điều chỉnh giá cả.
Như vậy có thể nói, thị trường là mối quan hệ kinh tế tổng hợp của 5
thành tố cấu tạo nên thị trường - đó là hàng hóa, cung, càu, giá cả và phương
thức giao dịch thanh toán. Nơi nào, lúc nào có đủ 5 thành tố này thì nơi đó, khi
đó diễn ra hoạt động của thị trường. Nói cách khác, thị trường có thể diễn ra ở
mọi lúc và mọi nơi nếu qui tụ đầy đủ các yếu tố để có thể gọi là một thị trường.
Trong khái niệm thị trường người ta còn phân biệt thị trường tập trung
và thị trường phi tập trung. Đối với thị trường phi tập trung hay còn gọi là
những thị trường phân tán, hầu như không có sự nhóm họp, diễn ra những hoạt
động giao dịch tại những địa điểm không xác định hoặc giờ giấc không có tính
định kỳ. Đó là một hoạt động có tính chất tự phát, không có tổ chức, diễn ra ở
bất kỳ mọi nơi. Những hoạt động mua bán thông thường trong cuộc sống, những
cuộc trao đổi giữa các bên với nhau, có thể chẳng tuân theo một nguyên tắc nào


4


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

mà chỉ cần đạt được sự thỏa thuận giữa các bên mà thôi. Trái ngược với thị
trường phân tán là thị trường tập trung, được hình thành sau thị trường phi tập
trung nhưng càng có ý nghĩa trong đời sống kinh tế - xã hội của mọi quốc gia.
Thị trường tập trung là thị trường hoạt động có tổ chức, hình thành với
tính chất tự giác của con người, nó đã tồn tại và phát triển cùng với các hình thái
kinh tế xã hội khác nhau của văn minh nhân loại. Thị trường tập trung, nói nôm
na, chính là các chợ tong dân gian từ xưa đến nay và đã phát triển qua nhiều thời
kỳ. Mặc dù ngày nay hình thái chợ tập trung đã mang nhiều tính chất hiện đại
như siêu thị nhưng một số nơi vẫn tồn tại các hình thái chợ cổ điển. Từ thời
Trung cổ, các chợ này được nhóm họp theo từng thời điểm nhất định do những
người tham gia tự đặt ra, người ta gọi là đi chợ phiên. Các phiên chợ nhóm họp
theo tuần trăng, hay một ngày nào đó trong tuần, hoặc bao năm họp một lần,...
với những hàng hóa mua bán chuyên biệt cho một loại hàng, hoặc một số loại
hàng nhất định (chợ tơ lụa, chợ muối, chợ gỗ,...), hoặc tạp phẩm - rất nhiều mặt
hàng lương thực thực phẩm; cho đến đồ gốm mỹ nghệ kim khí, .... Sau này, khi
mà khoa học kỹ thuật tiến bộ hơn, dân số gia tăng, nhu cầu cung ứng những sản
phẩm thiết yếu của đời sống cũng gia tăng và ngày càng đa dạng thì sự nhóm
họp chợ cũng trở nên thường xuyên hơn, những chợ phiên này dần dần có nhu
cầu nhóm họp tăng lên và có cơ cấu tổ chức cũng như quản lý hoàn chỉnh chặt
chẽ hơn.
Các chợ tập trung là nơi diễn ra sự đáp ứng cung cầu hàng hóa ở một
mức giá tốt nhất với cơ chế ra giá và thỏa thuận giá cũng đã phát triển có nhiều
hĩnh thức khác nhau, ví dụ như ở các chợ buôn nô lệ - một dạng chợ đấu giá
hàng hóa - giúp hoàn thiện phương cách đấu giá tò đây. Cùng với đó là các

phương thức thanh toán cũng ngày một phong phú và đa dạng hơn phù hợp với
sự phát triển các ngành liên quan trong giao dịch thương mại, biểu hiện cho
những trình độ văn minh nhất định của địa phương đó. Ban đầu chỉ là phương
thức đơn giản là “tiền trao, cháo múc”, về sau, vì nhiều lý do khác nhau, như
khi khối lượng thương mại cần giao dịch gia tăng, hoặc cũng có thể do yêu càu
bắt buộc phải có hàng ngay cả khi khan hiếm hàng (cung thấp hơn càu),... người
ta phải đặt cọc trước, chờ giao hàng sau, nghĩa là những cuộc mua bán có tính
chất kỳ hạn hoặc giao hàng trong tương lai. Những phương thức giao dịch này
đã có từ rất xưa, nhưng ngày càng trở nên phổ biến và sử dụng thường xuyên
không thể làm khác. Trong địa ốc chẳng hạn, bạn không thể mua bán một cái
nhà - thậm chí một căn hộ - chỉ trong vòng vài phút được. Trên những thị trường
hàng hóa, ngoại tệ, vàng tại nhiều nước trên thế giói hiện nay, đều có phương
thức giao dịch có kỳ hạn (forward) - theo đó, tại ngày giao dịch, người mua và
người bán thỏa thuận giá cả ở một mức nào đó, nhưng ngày thanh toán và giao
hàng sẽ diễn ra trong tương lai, bất kể thời giá giao ngay vào lúc thanh toán giao hàng thay đổi ra sao. Trong nông nghiệp người ta cũng sử dụng phương

5


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

thức giao dịch thanh toán theo kiểu này, mà tong dân gian Việt Nam quen gọi là
bán lúa non.
Nói riêng về hàng hóa nông sản có một số tính chất đặc thù nên nhu
càu có một phương thức mua bán thích đáng là rất càn thiết. Với đặc tính lưu trữ
khó khăn hoặc thời gian lưu kho không thể kéo dài quá lâu, hơn thế nữa bị ảnh
hưởng của tính chất mùa vụ khi thu hoạch lẫn tiêu thụ, hàng hóa nông sản đã
được đưa lên các sàn giao dịch tập trung để việc mua bán tiến hành theo cơ chế
giao sau từ nhiều thế kỷ trước, đặc biệt là sàn giao dịch hàng hóa nông sản cổ
điển nhất đến nay vẫn còn ở tầm kiếm soát giá trên toàn thế giới là CBOT của

Hoa Kỳ
3.2. Vai trò của chợ
Quá trình hình thành và phát triển của tòng địa phương cũng là quá
trình hình thành và phát triển chợ. Trong những năm qua, mạng lưới chợ đóng
vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt là từ thập niên
80 và những năm đàu của thập niên 90. Đây là giai đoạn mà mạng lưới siêu thị
và trung tâm thương mại chưa hĩnh thành và phát triển, chợ vẫn là nơi tiêu thụ
hàng hóa chủ yếu của các người bán sản xuất và nhập khẩu trên địa bàn thảnh
phố cũng như nơi mua sắm chủ yếu của người dân trong vùng và nơi cung cấp
hàng hóa cho các tỉnh thành trong cả nước. Ở những thành phố lớn như: thành
phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nằng... có nhiều chợ bán buôn, chuyên doanh,
chuyên cung cấp hàng hóa từ hàng tiêu dùng, thực phẩm chế biến, hàng may
mặc, hàng điện tử đến vật tư nguyên liệu phục vụ sản xuất cho các tình., thành
tong cả nước. Hàng hóa tập trung về các chợ bán buôn từ rất nhiều nguồn khác
nhau : hàng sản xuất từ các doanh bán trong nước, hàng nhập khẩu, hàng mua
trôi nổi trên thị trường do thân nhân ở nước ngoài gởi về hay do thủy thủ tàu
viễn dương mua về,... Neu không có mạng lưới các chợ bán buôn của thành phố,
hàng hóa ở các tỉnh chắc chắn sẽ không đáp ứng đủ nhu cầu người tiêu dùng cả
về số lượng lẫn chất lượng.
Tuy nhiên, càn phải thấy được vai trò nòng cốt của các chợ tập trung là
nó phục vụ cho ai, ai sẽ đến đây sử dụng các phương tiện này và ai sẽ điều hành
các hoạt động này. Đó chính là các thành viên tham gia thị trường. Thị trường
hàng hóa tập trung đàu tiên ra đời để phục vụ nhu càu tiêu thụ nông sản của nhà
nông, giúp cho họ tránh được các rủi ro từ những đặc tính của hàng hóa nông
sản. Sau dàn, nó ứở thành một công cụ cho những nhà kinh doanh và đầu cơ
hàng hoá. Thành phần này của thị trường đến giai đoạn sau lại trở thành nhân tố
tiền đề để thiết lập nên những sàn giao dịch khác, tạo thành một chuỗi của
những sàn giao dịch tập trung trên thế giới. Họ là những nhà buôn chuyến,
những nhà thu mua hàng, những người tập trung nguồn hàng lại để chờ và định
một mức giá cao nhất bán ra. Việc thu mua hàng và tập trung hàng không chỉ là

hàng hóa vật chất có thực, mà họ sẽ mua là làm giá bán trước (mua kỳ hạn hay

6


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

giao sau, bán kỳ hạn hoặc giao sau) khi có hàng hóa vật chất thực trong tay. Thể
thức kinh doanh này là một cơ chế giúp bình ổn giá nông sản cực kỳ hữu hiệu.
Nó không để xảy ra tình trạng khủng hoảng các mặt hàng được niêm yết với
những mức giá có thể gây lững đoạn - tổn hại đến thị trường nói chung. Mặt
khác, với phương thức làm giá là đấu giá công khai theo các phiên giao dịch
định kỳ được lên lịch trước hàng năm, sẽ tránh được mọi hình thức mua bán
gian lận hay ép giá. Với hai ưu điểm trên, người kinh doanh hàng hoá ừong cơ
chế thị trường, được cung cấp cho một phương tiện để phòng chống các rủi ro
của thị trường.
Việt Nam, đặc biệt ngay tại TP.HỒ Chí Minh, trong thời gian đã có
nhiều thông tin và thử nghiệm về các chợ tập trung hay sàn giao dịch hàng hóa
tập trung, chẳng hạn như các chợ cỏ, chợ bò sữa, và trung tâm giao dịch thủy
sản càn giờ. Tuy nhiên, hoạt động của chứng đã không thực sự trở nên hấp dẫn
và ngay như tại trung tâm giao dịch thủy sản càn Giờ nơi có cơ cấu tổ chức
tương đối qui mô nhất, sau gần 3 năm hoạt động nay cũng đã chấm dứt, vì “chợ
vắng người đến họp”.
Sự thất bại của các mô hình chợ tập trung này có thể biện giải bằng
nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó nguyên nhân sâu xa là các thành viên tham
gia thị trường chưa đứng và đủ. Sự vận hành của nền kinh tế theo cơ chế thị
trường chưa thực sự nhịp nhàng. Tính bao cấp trong nhiều hình thức chế định và
độc quyền của khu vực quốc doanh không ủng hộ nguyên tắc hoạt động của sàn
giao dịch tập trung. Dù rằng ta chỉ có thể xem xét một cách cảm tính không định
lượng và bằng chứng tường minh, nhưng rõ ràng khu vực kinh tế vẫn đang đóng

vai trò then chốt trong nền kinh tế. Với sứ mệnh đó, các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh nòng cốt của hàu hết các lĩnh vực vẫn đều là doanh nghiệp thuộc sở
hữu nhà nước. Như một hậu qủa, doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh trong
lĩnh vực hàng hóa nông sản cũng vậy, chẳng hạn như gạo, cao su, café, điều và
trà. Các nhà lãnh đạo các doanh nghiệp này sẽ hoàn toàn không sẵn sàng tham
gia chợ tập trung để đấu gía công khai mua và bán hàng hóa của mình. Bởi, nếu
đã công khai, hàng hoá đạt mức giá tốt nhất, doanh nghiệp không hề biết đến
mặt doanh mua và ngược lại, thì lấy ai là doanh đưa cho họ những khoản hoa
hồng mà họ vẫn nhận từ trước đến nay. Có nghĩa là, doanh nghiệp sẵn sàng bán
giá thấp và mua giá cao hơn mức giá chung, để được “lót tay” hay “thối lại”
bằng hình thức hoa hồng công khai và bán công khai - đó là một dạng tham
nhũng vẫn chưa được lật mặt trong nền kinh tế nước nhà.
Đây tưởng chừng là một nghịch lý của cơ chế hoạt động chơ tập trung
hay hình thái thị trường chăng. Nói một cách khác, các thành viên tham gia thị
trường tập trung là chưa sẵn sàng với điều kiện của nền kinh tế Việt Nam hiện
nay. Như vậy, bằng cách nào để thị trường hàng hóa tập trung trở nên hữu hiệu

7


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

đối với nền kinh tế, thực sự là một cơ chế đắc dụng để phòng chống rủi ro, đó
chính là khi nhà nước chấm dứt bù gía và bù lỗ cho các doanh nghiệp nhà nước
kinh doanh cùng ngành, tạo sự một sân chơi thực sự công bằng. Mặt khác, sàn
giao dịch tập trung không phải là một định chế nhà nước, nó phải được tạo lập
từ nhu cầu thiết thực của các hiệp hội và nghiệp đoàn kinh doanh trong ngành
hàng. Họ sẽ tự tố chức sân chơi đó cùng nhau, họ sẽ là những sáng lập viên và là
lực lượng tham gia nòng cốt. Nhà nước sẽ chỉ đóng vai trò giám sát và thúc đẩy
hoạt động đó ngày càng hiệu quả bằng hàng rào luật pháp hỗ trợ cho sàn giao

dịch, thông qua những chế tài về tính minh bạch trong thanh toán và những ràng
buộc đảm bảo về tư cách các thành viên tham gia thị trường. Tất cả những yếu
tố này làm tốt, chúng ta sẽ có một sàn giao dịch hiệu quả, qua thời gian sẽ tự
nâng tàm hoạt động của mình lên với qui mô ngày một lớn hơn, để đạt được một
mục tiêu sau cùng là không chỉ giải quyết những vấn đề nan giải về giá trong
lĩnh vực nông sản mà còn là một đòn bẩy tăng cường giao thương thương mại
với thế giới. Vai trò của chợ đối với nhu cầu mua sắm của người dân, chợ là nơi
cung cấp hàng hóa chủ yếu, từ hàng thực phẩm tươi sống, thực phẩm chế biến
đến hàng may mặc, hàng kim khí điện máy, hàng tiêu dùng, đến mỹ phẩm, hàng
nữ trang.... Do là nơi cung cấp hàng hóa chủ yếu, ngoài các chợ chuyên doanh
phục vụ bán buôn, hầu hết các chợ trên địa bàn từng địa phương đều kinh doanh
tổng hợp với nhiều mặt hàng khác nhau. Có thể nói rằng, trong giai đoạn này,
phàn lớn hoạt động mua sắm đều diễn ra ở các chợ.

về vai trò của chợ đối với kích thích phát triển sản xuất, chợ là nơi
tiêu thụ hàng hóa chủ yếu của các cơ sở sản xuất công nghiệp, nông nghiệp trên
địa bàn tong và ngoài vùng. Các số liệu thống kê trong giai đoạn này cho thấy,
ừên 90% lượng hàng hóa sản xuất ra được tiêu thụ thông qua các mạng lưới
thương mại-dịch vụ mà chủ yếu là các chợ, người bán tư bán hàng chiếm tỷ
trọng khá thấp.
Hiện nay, khi mạng lưới siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng bán
lẻ đã hình thành và phát triển mạnh, mặc dù vẫn có tầm quan trọng trong sinh
hoạt của người dân thành phố, nhưng có thể nói chợ đã hoàn thành vai trò lịch
sử của mình và sự tồn tại mạng lưới chợ từ nay đến năm 2010 chính là sự hỗ trợ
cho sự hình thành và phát triển của loại hình kinh doanh mới, đó là siêu thị và
trung tâm thương mại.
II/ Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của chợ.
1. yếu tố chính trị và pháp luậtỆ
Trong kinh doanh hiện đại, các yếu tố chính trị và pháp luật ngày càng
có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh. Nen kinh tế thị trường có sự điều

tiết của nhà nước hiện nay là nền kinh tế phổ biến trên thế giới. Sự khác nhau về
điều tiết của Nhà Nước chỉ là ở mức độ. Trong thực tế không có nền kinh tế thị
trường tự do với nghĩa là không có sự can thiệp của Nhà nước. Đe đảm bảo sự

8


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

vận hành của nền kinh tế nhiều thành phần, hoạt động cạnh tranh, quốc gia nào
cũng có hệ thống pháp luật và các chế độ chính sách của Chính phủ để điều tiết
thị trường. Đe thành công trong kinh doanh, các doanh nghiệp cũng như mỗi cá
thể kinh doanh phải nghiên cứu, phân tích, dự báo về chính trị và pháp luật,
cùng với xu hướng vận động của nó bao gồm:
Sự ổn định về chính trị, đường lối ngoại giao, chính sách ngoại
thương.
Hệ thống pháp luật, chính sách, sự hoàn thiện, minh bạch và hiệu lực
thi hành chúng.
Các luật về thuế, về bảo vệ môi trường sinh thái, ô nhiễm.
Các chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển thương mại của Nhà
nước, của địa phương.
Sự điều tiết và khuynh hướng can thiệp của Chính phủ vào đời sống
kinh tế xã hội.
Các quy định của Chính phủ về cạnh tranh, chống độc quyền, về việc
cho khách hàng vay tiêu dùng, về việc cho thuê mướn và khuyến mạiễ..
Các quy định về bảo vệ quyền lợi của công ty, bảo vệ quyền lợi của
người tiêu dừng, bảo vệ công chúngễ..
Trên thực tế, các yếu tố chính trị và pháp luật ổn định, rõ ràng, minh
bạch có thể tạo ra lợi thuận lợi cho kinh doanh. Sự thay đổi và sự biến động đều
có thể tạo ra những thay đổi liên tục, nhanh chóng, không thể dự báo trước

được. Ví dụ: Thay đổi về biểu thuế xuất nhập khẩu có thể tạo ra cơ hội cho
ngành kinh doanh này, tạo ra nguy cơ cho ngành kinh doanh khác.
2. yếu tố kỉnh tế.
Các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng vô cùng to lớn đến kết quả và hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp thương mại. Các yếu tố kinh tế bao gồm một
phạm vi rất rộng từ các yếu tố tác động đến sức mua của khách hàng, đến nhu
càu tiêu dùng hàng hoá và các yếu tố có liên quan đến sử dụng nguồn lực của
kinh doanh. Các yếu tố kinh tế có thể và phải được tính đến là: Tốc độ tăng
trưởng của GDP; lãi suất tiền vay, tiền gửi ngân hàng; tỷ lệ lạm phát; tỷ giá hối
đoái; mức độ thất nghiệp; cán cân thanh toán; chính sách tài chính, tín dụng;
kiểm soát về giá cả, tiền lương tối thiểu; các giai đoạn trong chu kỳ kinh doanh,
cơ cấu kinh tế, tiềm năng phát triển và gia tăng đàu tư; thu nhập bình quân của
dân cư... Các yếu tố kinh tế là “ máy đo nhiệt độ của nền kinh tế”. Nó quy định
các phương thức và cách thức các doanh nghiệp thương mại sử dụng các nguồn
lực của mình. Sự thay đổi các yếu tố nói trên (tăng lên hoặc giảm đi) và tốc độ
thay đổi ( cao hay thấp ) cũng như chu kỳ thay đổi ( nhanh hay chậm ) đều tạo
ra cơ hội hoặc nguy cơ đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và mức
độ khác nhau. Tuy nhiên, với môi trường đa yếu tố như môi trường kinh tế, thi
không phải mọi yếu tố kinh tế biến động đều có ảnh hưởng đến tòng cá thể kinh

9


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

doanh trong nền kinh tế. Vì vây, khi tiến hành kinh doanh, người bán phải
nghiên cứu, lựa chọn, xác định yếu tố kinh tế nào là yếu tố có ảnh hưởng lớn
nhất đến hoạt động kinh doanh và kết quả hoạt động kinh doanh. Các chủ thể
kinh doanh trong một nền kinh tế đang tăng trưởng, sự phát triển của nền kinh tế
có khuynh hường làm dịu bớt đi áp lực cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh mà

họ kinh doanh, nhu cầu tiêu dùng của dân cư tăng lên. Ngược lại, nền kinh tế
suy thoái làm giảm nhu càu tiêu dùng, dễ tạo ra cạnh tranh về giá cả tong các
ngành kinh doanh thuộc giai đoạn bão hoà. Trong thực tế hiện nay, nền kinh tế
đang tăng trưởng nhưng vẫn có lạm phát. Lạm phát cao sẽ làm cho tỷ lệ tăng
trưởn GDP chậm lại, lãi suất tín dụng tăng lên, đàu tư dài hạn dễ rủi ro. Mức
lạm phát cao thường là nguy cơ đối với doanh nghiệp.
Để xác định các yếu tố kinh tế chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, người ta thường phải chú ý đến các dự báo kinh tế. Dự
báo kinh tế là cơ sở để dự báo ngành kinh doanh và tiếp theo là dự báo hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Theo tiến trình dự báo trên, dự báo kinh tế
tiên lượng tỷ lệ phát triển kinh tế, tỷ lệ lạm phát, lãi suất, mức tiết kiệm và tiêu
dùng của dân chúng, tỷ giá hối đoái, kim ngạch xuất nhập khẩu... Các số liệu
nói trên giúp chúng ta xác định được GDP, GNP, đồng thời, kết hợp với các chỉ
số khác nhau giúp chúng ta dự báo sự phát triển của ngành kinh doanh. Sau đó,
doanh nghiệp tiến hành dự báo kinh doanh ( mại vụ ) để ước tính khả năng tham
gia thị trường, mở rộng thị phần của doanh nghiệp trên các thị trường cụ thể.
3. Yếu tố khoa học - công nghệ.
Yếu tố khoa học - công nghệ là yếu tố mang đầy kịch tính nhất, có ảnh
hưởng quan trọng và trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
Trong thời đại khoa học công nghệ mới phát sinh sẽ huỷ diệt các công nghệ
trước đó không nhiều thì ít. Đây là yếu tố huỷ diệt mang tính sáng tạo của công
nghệ mới. Việc chế tạo ra các sản phẩm mới, chất lượng cao, giá thành hạ, theo
đời sản phẩm có ảnh hưởng lớn đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm và bán hàng.
Trong doanh nghiệp thương mại, việc cung ứng những sản phẩm mới, tiên tiến,
phù hợp với xu thế và chiều hướng tiêu dừng ngày càng là một đòi hỏi cấp thiết.
Mặt khác, việc ứng dụng những tiến bộ mới của khoa học - công nghệ ứong
hoạt động thương mại cũng làm thay đổi nhanh chóng phương thức và cung
cách phục vụ, khách hàng như giao nhận, thanh toán, mua bán, đặt hàng, kiểm
tra, kiểm kê...
4. yếu tố văn hóa - xã hôi.

Yếu tố văn hoá - xã hội là yếu tố ảnh hưởng sâu sắc và rộng rãi nhất
đến nhu càu, hành vi của con người, ừong cả hai lĩnh vực sản xuất và lĩnh vực
tiêu dùng cá nhân. Các giá trị văn hoá cơ bản có tính bền vững cao, được lưu
truyền từ đời này sang đời khác và được củng cố bằng các quy chế xã hội như
luật pháp, đạo đức, tôn giáo, chính quyền, hệ thống thứ bậc tôn ti trật tự trong xã

10


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

hội, tổ chức tôn giáo, nghề nghiệp, địa phương, gia đình và ở cả hệ thống kinh
doanh sản xuất dịch vụ. Các yếu tố văn hoá
- xã hội thường tiến triển chậm nên đôi khi thường khó nhận biết, chỉ có những
giá trị văn hoá thứ phát, ngoại lai dễ bị thay đổi khi điều kiện xã hội biến đổi.
Yếu tố văn hoá - xã hội bao gồm các yếu tố sau:
Đạo đức, quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu, vinh dự, thấp hèn.
Dân số, xu hướng vận động của dân số, phong cách sống, tỷ lệ tăng
dân số.
Các hộ gia đình, xu hướng vận động.
Sự di chuyển của dân cư.
Thu nhập của các tầng lớp dân cư, xu hướng vận động; Phân bổ thu
nhập giữa các nhóm người và các vừng địa lý.
Việc làm, lao động nữ và phát triển việc làm.
Dân tộc, tôn giáo, phong tục tập quán và đặc điểm tâm lý.
Cũng như những thay đổi về chính trị và pháp lý, những thay đổi trong
các yếu tố văn hóa - xã hội cũng tạo nên những cơ hội hoặc nguy cơ cho các
doanh nghiệp cũng như những cá thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường,
cần phải có sự hiểu biết sâu, rộng truyền thống, phong tục, tập quán của khách
hàng.

5. yếu tố Ctf sở ha tầng và điều kiên tư nhỉênế


o

••

Các yếu tố cơ sở hạ tầng là điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn cho hoạt
động kinh doanh. Cơ sở hạ tàng bao gồm hệ thống giao thông vận tải ( đường,
phương tiện, nhà ga, bến đỗ ); hệ thống bến cảng, nhà kho, cửa hàng cung ứng
xăng dầu, điện nước, khách sạn, nhà hàng... Các nước có nền kinh tế phát triển
thường có hệ thống cơ sở hạ tàng tốt, đó là một điều kiện thuận lợi cho hoạt
động kinh doanh. Ở những nước nghèo, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, hoạt động
kinh doanh sẽ gặp khó khăn, một số yếu tố có thể gây ra chi phí cao hoặc rủi ro.
Điều kiện tự nhiên là yêu tố càn được các doanh nghiệp quan tâm từ
khi bắt đầu hoạt động và trong một quá trình tồn tại và phát triển của mình.
Những sự biến động của tự nhiên như nắng, mưa, bão, lũ, hạn hán, dịch bệnh ễ..
được doanh nghiệp chú ý theo kinh nghiệm để phòng ngừa vi nó ảnh hưởng trực
tiếp đến doanh nghiệp. Ngày nay, việc duy trì môi trường tự nhiên, bảo vệ môi
trường để có môi trường sinh thái bền vững được cả xã hội quan tâm. Những
vấn đề như ô nhiễm môi trường, bảo vệ cảnh quan, thắng cảnh, thiếu năng
lượng, lãng phí tài nguyên thiên nhiên cùng với nhu cầu ngày càng lớn đối với
nguồn lực có hạn khiến chính phủ, công chúng và các doanh nghiệp phải thay
đổi các quyết định và biện pháp liên quan đến môi trường. Những yếu tố cơ bản

11


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com


của điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh các chủ thể kinh
doanh
Sự thiếu hụt các nguồn nguyên liệu thô, vật liệu qua chế biến, nguyên
liệu tái sinh và nguyên liệu không thể tái sinh được.
Sự gia tăng chi phí năng lượng.
Ô nhiễm môi trường và chi phí để xử lý ô nhiễm bảo vệ môi trường
sinh thái bền vững, bảo vệ cảnh quan, thắng cảnh.
Sự thay đổi vai trò của Nhà nước trong bảo vệ môi trường, tài nguyên
thiên nhiên đất nước.
III/. Vai trò và nội dung của quản lý nhà nước đổi với Thương Mại trong
nền kinh tế thị trường nói chung và hệ thống chợ nói riêng Ệ
1. Chức năng quản lý nhà nước về kỉnh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước đóng vai trò người định
hướng, dẫn dắt sự phát triển kinh tế, đảm bảo thống nhất các lợi ích cơ bản
ừong toàn xã hội. Nhà nước, một mặt là thiết chế quyền lực chính trị của một
hoặc một nhóm giai cấp trong xã hội đối với giai cấp khác, đồng thời còn là
quyền lực công đại diên cho lợi ích chung của cộng đồng xã hội nhằm duy trì
và phát triển xã hội theo các mục tiêu xác định.
Phát triển nền kinh tế thị trường nước ta luôn là bước phát triển tất yếu,
hợp quy luật. Kinh tế thị trường có những ưu điểm song cũng có những khuyết
tật nhất định. Đe khắc phục những hậu quả do kinh tế thị trường gây ra, Nhà
nước giữ vai trò cực kỳ quan trọng. Kinh tế học hiện
đại khẳng đinh thành công của mỗi quốc gia khi chuyển sang kinh tế thị trường
chủ yếu phụ thuộc vào sự kết hợp giữa khả năng điều tiết của thị trường ( bàn
tay vô hình). Vai trò của Nhà nước được thực hiện thông qua chức năng kinh tế
của nó.
Một là, đảm bảo sự ổn định chính trị, xã hội và thiết lập khuôn khổ luật
pháp để tạo ra những điều kiện càn thiết cho hoạt động kinh tế. Nhà nước tạo ra
hành lang luật pháp cho hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra những điều luật cơ
bản về quyền sở hữu tài sản và sự hoạt động của thị trường, đặt ra những quy

định chi tiết cho hoạt động của các doanh nghiệp. Khuôn khổ luật pháp mà Nhà
nước thiết lập có tác dụng sâu sắc tới các hành vi kinh tế của con người và cả
bản thân Chính phủ cũng phải tuân theo.
Hai là, điều tiết kinh tế để đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát
triển ổn định. Thông qua chính sách tài chính và chính sách tiền tệ, Nhà nước
duy trì ổn định nền kinh tế, hướng nền kinh tế đến trạng thái toàn dụng nhân
công và tỷ lệ lạm phát hợp lý.
Ba là, đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Một trong
những nguyên nhân làm nền kinh tế hoạt động có kém hiệu quả là những hiệu
ứng ngoại lai tiêu cực. Các doanh nghiệp là vì lợi ích tối đa của mình có thể lạm

12


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

dụng tài nguyên xã hội gây ô nhiễm môi trường sống của con người mã xã hội
phải gánh chịu. Sự can thiệp của Chính phủ nhằm ngăn chặn và hạn chế các
hiệu ứng ngoại lai tiêu cực đến nền kinh tế.
Một nguyên nhân khác dẫn đến tính kém hiệu quả của nền kinh tế thị
trường là tinh trạng độc quyền. Vi vậy, Nhà nước có một nhiệm vụ rất cơ bản là
bảo vệ cạnh tranh và chống độc quyền nhằm bảo đảm tính hiệu quả của nền
kinh tế.
Bốn là, để đảm bảo tính hiệu quả, Nhà nước phải sản xuất ra hàng hoá
công cộng, đảm bảo xây dựng kết cấu hạ tàng cho nền kinh tế, thực hiện công
bằng xã hội.
Sự can thiệp của Nhà nước nhằm phân phối thu nhập công bằng, bảo
vệ các thành viên của xã hội, chống lại những khó khăn về kinh tế, nâng cao
mức sống của các nhóm dân cư có thu nhập thấp nhất. Điều đó được thực hiện
thông qua chính sách phân phối, bảo hiểm xã hội và phúc lợi xã hội.

Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước có các chức năng quản
lý vĩ mô sau:
Thứ nhất, tạo môi trường và điều kiện tự nhiên thuận lợi cho hoạt động
kinh tế như đảm bảo sự ổn định chính trị, xã hộ, thiết lập khuôn khổ luật pháp
thống nhất, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và
thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn có hiệu quả.
Thứ hai, định hướng cho sự phát triển, trực tiếp đàu tư vào một số lĩnh
vực để dẫn dắt nền kinh tế phát triển; ổn định môi trường kinh tế vĩ mô như
chống lạm phát, chống khủng hoảng, ngăn ngừa chứng đột biến xấu trong nền
kinh tế.
Thứ ba, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đảm bảo yêu cầu của
phát triển kinh tế.
Thứ tư, quản lý tài sản công và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động
kinh tế, xã hội. Thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức
năng sở hữu tài sản công của Nhà nước. Các bộ và các cấp chính quyền không
can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh và quyền tự chủ của các doanh
nghiệp.
Thứ năm, Khắc phục hạn chế các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường,
phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế
gắn với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ, công bằng xã hội.
Nhà nước quản lý toàn diện kinh tế, văn hoá, xã hội. Trong đó quản lý
kinh tế là vấn đề quan trọng đặc biệt. Do đó chức năng quản lý Nhà nước về
kinh tế là chức năng quan trọng nhất của Nhà nước ta hiện nay. Lãnh đạo và
quản lý nền kinh tế phát triển theo mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
không bị tụt hậu so với khu vực và quốc tế là mục tiêu xuyên suốt giai đoạn
2001 - 2020.

13



Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

2. Vai trò quản lý của Nhà nước đối vói Thương mại.
Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước đã được khẳng định cả về lý luận
và thực tiễn. Trong lĩnh vực thương mại, vai trò quản lý của Nhà nước được thể
hiện trên các mặt sau đây:
Một là, Nhà nước tạo môi trường và điều kiện cho thương mại phát
triển. Nhà nước bảo đảm sự ổn định về mặt kinh tế, chính trị, xã hội cho thương
mại phát triển. Nhà nước thực thi cơ chế, chính sách để hạn chế tình trạng thiếu
càu, giảm lạm phát, khuyến khich sản xuất và tiêu dùng. Nhà nước tập trung xây
dựng kết cấu hạ tầng, bao gồm kết cấu hạ tầng vật chất, tài chính, giáo dục, luật
pháp... cho thương mại. Tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, môi trường vĩ
mô phù hợp với xu hướng phát triển của thương mại trong cơ chế thị trường.
Hai là, Nhà nước định hướng cho sự phát triển của thương mại. Sự
định hướng này được thực hiện thông qua việc xây dựng và tổ chức thực hiện
các chiến lược kinh tế - xã hội, các chương trình mục tiêu, các kế hoạch ngắn
hạn và dài hạn. Định hướng dẫn dắt sự phát triển của thương mại còn được bảo
đảm bằng hệ thống chính sách, sự tác động của hệ thống tổ chức quản lý thương
mại từ trung ương đến địa phương.
Ba là, Nhà nước điều tiết và can thiệp vào quá trình hoạt động thương
mại của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước có vai trò củng cố, bảo đảm dân chủ,
công bằng xã hội cho mọi người, mọi thành phần kinh tế hoạt động thương mại
trên thị trường. Xây dựng một xã hội văn minh, dân chủ rộng rãi, khuyến khích
và đề cao trách nhiệm cá nhân là điều kiện cho sự phát triển toàn diện kinh tế xã hội. Trong kinh tế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo giữa các tàng lớp xã
hội là rất lớn. Nhà nước càn có sự can thiệp và điều tiết hợp lý nhằm bảo đảm
cuộc sống ổn định, nhân cách của con doanh được tôn trọng, đồng thời bảo đảm
tính tự chủ, sáng tạo và ham làm giàu của mọi công dân.
Bốn là, quản lý trực tiếp khu vực kinh tế Nhà nước. Nhà nước quy định
rõ những bộ phận, những ngành then chốt, những nguồn lực và tài sản mà Nhà

nước trực tiếp quản lý. Đất đai, các nguồn tài nguyên, các sản phẩm và ngành có
ý nghĩa sống còn với quốc gia thuộc sở hữu Nhà nước. Ở đây Nhà nước phải
quản lý và kiểm soát việc sử dụng tài sản quốc gia nhằm bảo tồn và phát triển tài
sản đó.
Nhà nước trực tiếp quản lý các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế
nhà nước. Thành phàn kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong công cuộc xây
dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phàn ở nước ta. Vai trò chủ
đạo của kinh tế Nhà nước là nội dung quan trọng của định hướng xã hội chủ
nghĩa. Duy trì vai trò chủ đạo của thành phàn kinh tế Nhà nước là công việc
quan trọng để vượt qua nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Thông qua các
doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước có thể hướn dẫn, chỉ đạo sự phát triển của
các doanh nghiệp thuộc các thành phàn khác, tập trung mọi nguồn lực cho sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

14


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

Thông qua thành phần kinh tế Nhà nước, Nhà nước nắm và điều tiết
một bộ phận lớn các hàng hoá - dịch vụ chủ yếu có ý nghĩa quan trọng và then
chốt của nền kinh tế quốc dân, bảo đảm đảm cho nền kinh tế hoạt động nhịp
nhàng và phát triển cân đối với nhịp độ cao.
3. Quản lý Nhà nước về thương mại. a. Phân định các chức
năng trong quản lý và kinh doanh.
Trong quá trình tổ chức nền kinh tế càn phải phân định được hai chức
năng: chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế và chức năng quản lý kinh doanh.
Hai chức năng này do hai loại tổ chức khác nhau thực hiện. Thực hiện chức
năng quản lý Nhà nước về kinh tế do cơ quan hành chính kinh tế thực hiện.
Chức năng quản lý kinh doanh do các doanh nghiệp thực hiện. Hai chức năng đó

cũng như hai loại tổ chức trên đây vừa độc lập với nhau vừa có quan hệ mật
thiết, hỗ trợ, tác động qua lại lẫn nhau, không nhận thức rõ vấn đề này sẽ dẫn tới
những sai làm nghiêm trọng.
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, chức năng quản lý Nhà nước về
kinh tế và chức năng quản lý kinh doanh không được phân biệt một cách thật rõ
ràng. Các cơ quan quản lý Nhà nước can thiệp sâu vào các quyết định sản xuất
kinh doanh, nhưng lại không chịu ừách nhiệm về sự can thiệp ấy. Hoạt động
kinh doanh bị gò bó trong hệ thống các kế hoạch và chỉ tiêu pháp lệnh mang
tính bắt buộc. Các đơn vị kinh doanh không có quyền tự chủ ừong quyết định
các vấn đề cơ bản của sản xuất kinh doanh. Sự lẫn lộn giữa hai chức năng quản
lý Nhà nước và chức năng quản lý kinh doanh đã thủ tiêu động lực, tính năng
động, sáng tạo của đơn vị kinh tế, là một trong những nguyên nhân dẫn đến
những khó khăn, khủng hoản về kinh tế, là một trong những nguyên nhân dẫn
đến những khó khăn, khủng hoảng về kinh tế - xã hội trong những năm trước
đổi mới.
Sự phân biệt giữa chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế và chức năng
quản lý kinh doanh trong thương mại thể hiện trên các mặt cơ bản sau đây:
- Các cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại thực hiện việc tổ chức
và quản lý toàn diện ngành thương mại ở tàm vĩ mô. Ở đây chủ yếu là điều tiết
tổng thể các mối quan hệ về mua bán hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế quốc
dân. Thông qua các công cụ, hình thức và biện pháp quản lý nhằm tác động định
hướng, tạo khuôn khổ chung cho hoạt động thương mại của các chủ thể.
Các doanh nghiệp thực hiện chức năng trực tiếp tổ chức quá trình kinh
doanh trong khuôn khổ pháp luật. Hình thức, phương pháp tổ chức kinh doanh
mang tính đặc thù của mỗi doanh nghiệp thông qua hệ thống thị trường.
- Các cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại hoạch định chiến lược
và kế hoạch thương mại ở tàm vĩ mô, định hướng phát triển và mục tiêu của
ngành cho tòng thời kỳ. Ke hoạch ỏ tàm vĩ mô chỉ dự báo về các cân đối lớn
những sản phẩm quan trọng nhất. Ke hoạch kinh doanh của doanh nghiệp phản
ánh những mục tiêu cụ thể đồng thời phản ánh việc huy động và sử dụng có


15


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

hiệu quả các nguồn lực.
- Chức năng quản lý nhà nước về thương mại bảo đảm hiệu quả chung
của nền kinh tế. Trong trường hợp cần thiết, Nhà nước điều hoà mâu thuẫn giữa
hiệu quả tổng thể nền kinh tế và hiệu quả ở các đơn vị kinh doanh. Ở các doanh
nghiệp, quản lý hướng vào hiệu quả kinh doanh. Doanh nghiệp tự lấy thu bù chi
bảo đảm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của bản thân doanh nghiệp.
- Các cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại thực hiện sự quản lý
trên quy mô toàn xã hội và thống nhất toàn ngành. Sự quản lý ấy thực hiện bằng
quyền lực Nhà nước, bằng hệ thống pháp luật đối với các chủ thể hoạt động
thương mại. Nhà nước thực hiện sự kiểm tra, giám sát đối với tất cả các hoạt
động thương mại trong nền kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp phải nghiêm chỉnh
chấp hành luật pháp, các quy định của Nhà nước và làm đầy đủ nghĩa vụ với
Nhà nước, với bạn hàng, hạch toán và báo cáo trung thực theo chế độ do Nhà
nước quy định. Doanh nghiệp thực hiện ừách nhiệm xã hội với doanh lao động,
ổn định và không ngừng cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của doanh lao
động, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội ở khu vực hoạt động của mình.
Nội dung chức năng quản lý Nhà nước về thương mại mang tính thống
nhất trong toàn quốc, tính ổn định tương đối. Nội dung chức năng quản lý kinh
doanh ở doanh nghiệp mang tính đặc thù và tính linh hoạt cao. Sự phân công,
phân cấp trong quản lý được xác định rõ ràng theo cấp hành chính đối với chức
năng quản lý Nhà nước. Điều này khác với quản lý ở doanh nghiệp. Các cơ
quan quản lý Nhà nước về thương mại chỉ được làm những gì mà pháp luật đã

quy định, còn các doanh nghiệp được làm tất cả những gì luật pháp không cấm.
Hai chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế và chức năng quản lý kinh
doanh có mối quan hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau. Đó là mối quan hệ
giữa quản lý điều tiết vĩ mô với tổ chức hoạt động vi mô của nền kinh tế. Các cơ
quan quản lý hành chính kinh tế định hướng và điều phối các hoạt động sản xuất
kinh doanh theo mục tiêu chiến lược, hạn chế các hậu quả xấu và sự phá sản của
doanh nghiệp. Các doanh nghiệp căn cứ vào định hướng và hành lang đã được
tạo dựng để tổ chức các hoạt động kinh doanh và qua đó tác động trở lại các cơ
quan quản lý nhằm điều chỉnh các chế tài cho thích ứng với thực tiễn kinh
doanh. ốệ Nội dung quản lý nhà nước về thương mại
Thương mại là đối tượng quản lý của Nhà nước xuất phát từ những lý
do sau đây:
- Thương mại là hoạt động mang tính liên ngành, là hoạt động có tính
xã hội hoá cao, mà mỗi doanh nhân không thể xử lý các vấn đề một cách tốt
đẹp.
- Thương mại dịch vụ là lĩnh vực chứa đựng những mâu thuẫn của đời
sống kinh tế, xã hội ( giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp

16


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

với người lao động, giữa doanh nghiệp với cộng đồng).
- Trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ có những hoạt động có mà
doanh nghiệp, doanh lao động không được làm hoặc có những vị trí mà Nhà
nước cần phải chiếm lĩnh để điều chỉnh các quan hệ kinh tế.
- Trong hoạt động thương mại - dịch vụ, có cả các doanh nghiệp Nhà
nước.
Điều 245 Luật thương mại nước ta đã xác định 12 nội dung quản lý

Nhà nước về thương mại như sau:
- Ban hành các văn bản pháp luật về thương mại, xây dựng chính sách,
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển thương mại.
- Tổ chức đăng ký kinh doanh thương mại.
- Tổ chức thu thập, xử lý, cung cấp thông tin; dự báo và định hướng về
thị trường.
- Hướng dẫn tiêu dừng tiết kiệm và hợp lý.
- Điều tiết lưu thông hàng hoá theo định hướng phát triển kinh tế xã hội
của Nhà nước và theo quy định của pháp luật.
- Quản lý chất lượng hàng hoá lun thông trong nước và hàng hoá xuất
khẩu, nhập khẩu.
- Tổ chức, hướng dẫn các hoạt động xúc tiến thương mại.
- Tổ chức và quản lý công tác nghiên cứu khoa học thương mại.
- Đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ hoạt động thương mại.
- Ký kết hoặc tham gia các điều ước quốc tế về thương mại.
- Đại diện và quản lý hoạt động thương mại của Việt Nam ở nước
ngoài.
- Hướng dẫn, thanh tra và kiểm tra thực hiện chính sách, quy hoạch,
kế hoạch phát triển thương mại và việc chấp hành pháp luật về thương mại; xử
lý vi phạm pháp luật về thương mại; tổ chức việc đấu tranh chống buôn lậu,
buôn bán hàng cấm, buôn bán hàng giả, đàu cơ lũng đoạn thị trường, kinh
doanh trái phép và các hành vi khác vi phạm pháp luật về thương mại.
IV/. Nội dung của quản lý Nhà nước về hệ thống chợ.
1. Tổ chức quản lý hệ thống chợ đáp ứng yêu cầu phát triển kỉnh tế xã hội
của địa phương.
Vai trò của chợ đối với kích thích phát triển sản xuất, chợ là nơi tiêu
thụ hàng hóa chủ yếu của các cơ sở sản xuất công nghiệp, nông nghiệp trên địa
bàn trong và ngoài vùng. Các số liệu thống kê trong giai đoạn này cho thấy, trên
90% lượng hàng hóa sản xuất ra được tiêu thụ thông qua các mạng lưới thương
mại-dịch vụ mà chủ yếu là các chợ, doanh thu bán lẻ trên thị trường chủ yếu

được thông qua mạng lưới chợ. Có thể nói, chợ đóng một vai trò rất lớn tới sự
phát triển kinh tế địa phương. Tuy nhiên nếu không có sự kiểm soát của nhà
nước sẽ dẫn tớí tình trạng lộn xộn, buôn gian bán lận, mất an toàn vệ sinh thực
phẩm...

17


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

Một thực trạng gàn đây cho thấy các chợ tự phát mọc lên nhiều trên địa
bàn thành phố Hà Nội nói riêng và trên cả nước nói chung. ít ai có thể phủ nhận
tiện ích của chợ tự phát. Song, cái tiện của nó được chấp nhận bởi chính thói
quen có phần tuỳ tiện của người dân, đó là ở đâu cũng có thể hình thành chợ và
họp ở bất cứ đâu cũng có khách mua hàng, dĩ nhiên, đi liền với nó sẽ là ẩn họa
khôn lường.
Chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy những “quày hàng” di động bởi
những đôi quang gánh của người bán hàng rong, những xe đạp thồ với đôi sọt
kềnh càng đa chủng loại hàng hoá sẵn sàng “ngả quán” bất cứ hang cùng ngõ
hẻm nào. Và đặc biệt, sáng sáng, trưa trưa, chiều chiều, thậm chí đêm đêm,
chứng ta còn chứng kiến la liệt quán “cắm” trên các vỉa hè, ngã ba, ngã tư
(thường là những nơi gàn khu chung cư, gàn khu công nghiệp, trường học...)
bán đủ các loại hàng hoá, chủ yếu là nhóm hàng thực phẩm.
Tất cả hàng quán này đều có một điểm chung là nhếch nhác, lộn xộn.
Hàng hoá được bày bán trên những dụng cụ tạm bợ kiểu: Treo lủng lẳng trên ghi
đông xe; trải “kề vai sát cánh” đồ sống và đồ chín trên một tấm phản gỗ ẩm mốc
loang lổ; hay bày “trang trọng” trong một chiếc tủ kính không nắp... Như thế, dù
là hàng tươi sống hay đồ chín cũng trơ ra như vừa thách thức vừa mời gọi vô số
bụi bẩn, ruồi muỗi... Còn người bán thì, dù đồ chín hay đồ sống, bày kiểu gì, họ
cũng vừa bán vừa cầm cây có cột túm ni lông hoặc dùng ngay khăn giẻ rách để

lau dao, thớt, tay để đuổi ruồi, muỗi, khua bụi mỗi khi xe qua đường.
Song, cái “lý tưởng” của nó ở chỗ thuận tiện cho bất kỳ ông đi qua,
bà đi lại thiếu quan tâm nhất cũng có thể đập vào mắt. Và cứ thế, nhu càu được
hình thành nhanh chóng. Người ta ai cũng vừa ý với giá cả mềm mại, phục vụ
nhanh, không cầu kỳ thủ tục (bởi nếu vào siêu thị thì giá "cắt cổ", bất tiện và
tốn thời gian, thậm chí không ít siêu thị đã bán cả đồ rởm; còn vào chợ tập
trung thì nhiều khi tiền gửi xe đắt hơn mua đồ ănễ..).
Đúng là chợ tự phát mọc lên như nấm mang lại không ít tiện ích
nhưng thẳng thắn nhìn nhận thì thấy, thực phẩm bán kiểu này luôn trong tình
trạng “phấp phỏng” về an toàn vệ sinh. Đã đành cái sự mất an toàn ấy, không
ai muốn nó xảy ra, nhưng dân tình vốn cả nể với chủ hàng, tuỳ tiện với chính
mình trong cách lựa chọn thực phẩm.
Hơn nữa, chợ thì ngày nào cũng họp, thậm chí nó họp không theo một
quy chuẩn nào cả, cũng chẳng mấy ai dám chắc được chủ hàng ở đâu, đăng ký
kinh doanh hay không, không ai bằng mắt thường có thể dám chắc rằng món
thực phẩm mình chọn là an toàn. Đã thế, đội quản lý thị trường, đội an toàn vệ
sinh thực phẩm thì chưa kiên quyết, thậm chí không ít nơi làm việc “đỏng
đảnh” như thời tiết (lúc làm lúc không, lúc nhiều lúc ít, lúc tìm chẳng thấy)
nên dù đã bị dẹp bỏ nhiều lần nhưng chợ tự phát vẫn “mọc”. Đó là chưa kể,

18


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

không ít chỗ, không ít làn, đoàn kiểm tra đi đến đâu thi chợ tự phát “chuồn”
đến đó, nhưng ngay lập tức nó lại khẩn trương hình thành nhanh như để "xoá
dấu chân" cơ quan "kiểm ứa, kiểm sóat".
Phải xử lý kiên quyết, quy hoạch chợ hợp lý, chứng ta phải thừa nhận
thực trạng chợ tự phát không những gây nên cảnh mất trật tự giao thông, ô

nhiễm vệ sinh môi trường, không chỉ đe doạ đến sức khoẻ, tính mạng người
tiêu dùng, mà còn gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các chợ xây
dựng theo quy hoạch trong cùng khu vực (có không ít chợ được xây lên tốn
kém tiền tỷ nhưng lại không có kẻ bán người mua).
Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể chỉ hô hào, kêu ca rồi để đấy.
Bởi lẽ, thực phẩm có thể ẩn họa nhưng nhu càu cuộc sống bắt buộc người dân
vẫn phải tiêu thụ sản phẩm. Và dĩ nhiên, theo lẽ thường cái gi tiện, ít tốn kém
người ta xông tới. Do đó, dẹp xong hôm trước, hôm sau chợ tự phát lại mọc,
người bán kẻ mua lại tấp nập.
Thế nên, để giải quyết thực ừạng này, trên báo điện tử vietnamnet, ông
Nguyễn Mạnh Hoàng - Giám đốc sở thương mại thành phố Hà Nội đã đưa ra
một số giải pháp sau:
“Thứ nhất, các địa phương càn rà soát nghiêm túc, chính xác số lượng
các chợ tự phát, chất lượng dịch vụ, vị trí địa lý của chợ để làm căn cứ khi quy
hoạch xây dựng chợ tập trung phục vụ nhu cầu sinh hoạt của nhân dân. Việc
làm này sẽ tránh hiện tượng xây chợ đắt tiền bỏ hoang, trong khi chợ tự phát
tung hoành.
Thứ hai, phải thống nhất và công khai giá cả các mặt hàng trong chợ
đồng thời quản lý nghiêm bãi trông giữ phương tiện vào chợ (cả thái độ phục
vụ và giá cả).
Thứ ba, là càn có một hệ thống kiểm duyệt nghiêm ngặt chất lượng
thực phẩm trước khi nhập vào chợ để bán.
Cuối cùng là kiên quyết xử lý thật nghiêm các chủ hàng bán hàng
không đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm. Đồng thời có hình thức
xử phạt nghiêm khắc các cán bộ, nhân viên kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm
nếu để nhân dân ăn phải thực phẩm không an toàn
Để bảo vệ lợi ích cho người tiêu dùng, bảo đảm cho nền kinh tế phát
triển bền vững, nhất thiết càn phải có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước đối với
hệ thống chợ”
2.

Quy hoạch lại hệ thống chợ.
2.1Sự cần thiết phải quy hoạch lại hệ thống chợ.

19


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

Không riêng gì Hà Nội, cảnh chợ nhếch nhác vốn là tình trạng chung
của hệ thống các chợ ở các địa phương. Dù chợ có quy mô lớn hay nhỏ cũng
đều chịu cảnh sình lầy và sập xệ . Trong khi ấy, vấn đề an toàn vệ sinh không
chỉ dừng lại ở khâu chế biến, nơi sản xuất mà ngay cả môi trường buôn bán
cũng sẽ làm ảnh hưởng đến sự an toàn của thực phẩm. Chỉ có những chợ mới
được xây dựng gàn đây là hệ thống cơ sở vật chất đồng bộ và thoát được cảnh
chợ nhếch nhác, còn lại hệ thống các chợ truyền thống hầu hết đã xuống cấp.
Với thời gian sử dụng công trình lâu năm lại thêm chậm duy tu, làm mới đã tạo
thành nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng xuống cấp trầm trọng.
Hệ thống chợ xuống cấp trầm trọng
Thời gian qua, thành phố cũng đã có kế hoạch quy hoạch lại hệ thống
các chợ truyền thống. Hàng năm, các chợ đều có kế hoạch tu sửa
nhưng chủ yếu là chắp vá những chỗ hư hỏng. Một số chợ cũng đã có xây
dựng mới, song cũng mới 1 phàn nhỏ và số lượng vẫn rất ít. Vi vậy, hiện tại
hầu hết các chợ từ chợ ở khu vực trung tâm đến chợ ở các khu vực vùng ven
đều nằm tron cảnh xập xệ, siêu vẹo.
Qua khảo sát thực tế tại một số chợ lớn trên địa bàn thành phố Hà
Nội nhận thấy, tình hình cơ sở vật chất tại chợ đang tong tình trạng xuống
cấp rất trầm trọng. Thời gian qua, hệ thống các tuyến đường xung quanh chợ
được nâng cấp lòng lề đường nên hiện tại nền sàn một số chợ đang thấp hơn
mặt đường 30 phân. Nhà lồng chợ chật hẹp. Vì vậy các chủ sạp ngành hàng
kinh doanh thực phẩm có nguy cơ cao về vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm

như: thực phẩm tươi sống, chế biến, đồ khô, rau củ quả, trái cây... trong khi
đó thì có rất ít nhân sự thuộc ban quản lý chợ phụ trách mọi hoạt động an
toàn vệ sinh thực phẩm.
Theo quy hoạch hệ thống chợ của thành phố, những chợ lớn sẽ
được cải tạo thành khu trung tâm thương mại đa ngành nghề. Tuy nhiên, dự
án đã có nhưng còn vướng ở khâu đàu tư vi vậy đến nay dự án vẫn dậm chân
tại chỗ. Tình trạng chợ sập xệ là phổ biến, nhất là ở khu gian hàng thực phẩm
tươi sống thịt cá, rau củ.
Với nhu cầu sử dụng nước để rửa thực phẩm nên nền sàn chợ luôn
đọng nước và sình lầy, từ đây làm cho hệ thống mặt nền chợ mau xuống cấp
và hư hỏng. Trong khi đó, các quày sạp, vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm có
nguy cơ rất cao. Sở y tế đã cảnh báo, các chợ càn phải được quy hoạch sắp
xếp theo một trình tự nhất định theo các ngành hàng thực phẩm khô, ướt
riêng biệt và hàng hóa đều phải được kê cao tránh tiếp xúc mặt đất.
Đe đảm bảo vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm, ngành y tế Tp.Hà
Nội đang triển khai chương trình cấp giấy chứng nhận vệ sinh an toàn thực
phẩm. Theo kế hoạch đến cuối tháng 12/2007, ngành y tế sẽ hoàn thành việc
cấp giấy chứng nhận an toàn thực phẩm cho các bếp ăn tập thể, nhà hàng,
khách sạn, người buôn bán ở chợ.

20


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

Chấn chỉnh tình trạng kinh doanh tự phát.
Bên cạnh đó, một hiện trạng đang diễn ra phổ biến tại các chợ là
chợ tự phát. Ban quản lí các chợ đều đau đàu về vấn đề này. Bên cạnh bộ
phận các tiểu thương đăng kí kinh doanh trong khuôn viên chợ còn có một
phần người buôn bán tự phát phía bên ngoài khu vực chợ. Họ lấn chiếm lòng

lề đường làm nơi buôn bán, không chỉ gây mất ừật tự công cộng mà còn ảnh
hưởng đến tình hình buôn bán của các tiểu thương buôn bán bên trong.
Từ đó, để hàng hóa tiêu thụ được, không ít tiểu thương bỏ sạp chạy
ra phía ngoài rìa chợ để buôn bán. Vi thế khung cảnh ngoài chợ náo nhiệt
còn trong chợ đìu hiu. Các tiểu thương kinh doanh hàng cá tại chợ Đồng
Tâm đều than rằng chủ yếu là bỏ mối cho các bạn hàng chứ bán lẻ cho người
đi chợ rất ít. Những ngày có lực lượng trật tự đô thị, công an tổ
chức ổn định trật tự lòng lề đường phía ngoài chợ thì bên trong chợ mới bán
được.
Đe giải quyết căn cơ cho vấn đề chợ tự phát, Sở Thương mại Tp.Hà
Nội, cho rằng càn có sự phối hợp của nhiều ban ngành. Vì đa số người buôn bán
ở các chợ tự phát là dân nghèo và người các tỉnh thành nhập cư. Vi mưu sinh
nên mọi người chấp nhận cảnh “chợ chạy”. Muốn giải quyết yêu cầu cần giải
quyết và tạo việc làm cho những người buôn bán ở đây.
Ngày nay, hình thức kinh doanh hiện đại với các mô hình siêu thị,
trung tâm thương mại đang nhanh chóng phát triển ở Việt Nam. Tuy nhiên, thực
tế loại hình mua sắm mới cũng không thể thay thế hoàn toàn những ngôi chợ
truyền thống.
Chợ là hoạt động gắn liền với đời sống của người Việt bao đời nay và
là một nét văn hóa của dân tộc. Qua khảo sát, tình hĩnh bán buôn ở các chợ vẫn
ổn định, phàn lớn người tiêu dùng vẫn chọn các loại thực phẩm ở chợ để tiêu
dùng hàng ngày. Hiện nay, mạng lưới chợ trên toàn thành phố có 133 chợ, trong
đó có 126 chợ đảm bảo được tiêu chí phân loại của thành phố (trong đó có 10
chợ đầu mối, chợ loại I, 29 chợ loại II và 87 chợ loại III). Hiện các quận nội
thành có 65 chợ, ngoại thành 61 chợ.
Hiện nay hệ thống chợ của Hà Nội không tạo ra được động lực
khuyến khích phát triển hoạt động kinh doanh nâng cao chất lượng phục vụ
người tiêu dùng và khách hàng du lịch.
Sở dĩ có tình trạng này là do quy mô xây dựng cũ không còn phù hợp,
cơ sở hạ tàng xuống cấp, không có quỹ đất phát triển chợ trong nội thành...

Công tác quản lý hoạt động ở các chợ chủ yếu theo mô hình Ban quản lý (BQL)
chợ đã lạc hậu và được tổ chức không theo một mô hình thống nhất
Chuyển đổi mô hình chợ ỉà tất yếu.
Trước tình trạng trên việc cho ra đời mô hình mới là cần thiết. Theo
đó, trong năm nay, Ban chỉ đạo phát triển chợ Hà Nội sẽ tập trung quản lý các
vấn đề: Kiên quyết chuyển đổi mô hình ban quản lý các chợ thành doanh nghiệp

21


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

quản lý kinh doanh đồng thời giải tỏa các chợ tạm, chợ cóc gây cản trở đến an
toàn giao thông, môi trường...
Thành phố đã có quyết định 1181/QĐ-UB “Quy định về cơ chế đàu
tư và quản lý sau đàu tư xây dựng, cải tạo nâng cấp chợ trên địa bàn thành phố
Hà Nội”, bước đàu cho phép áp dụng mô hình quản lý chợ theo phương thức
doanh nghiệp được tham gia vào việc quản lý, khai thác, kinh doanh chợ
Theo kế hoạch chuyển đổi mô hình tổ chức chuyển đổi quản lý chợ
trên địa bàn thành phố thi ngay tong năm 2005, các quận, huyện phải chuyển
đổi từ 1 đến 2 chợ làm thí điểm để đến cuối năm 2005 có ít nhất 50% số chợ
ừên địa bàn thành phố được chuyển đổi mô hình quản lý chợ.
Đại diện Sở Tài chính cũng cho ý kiến, để chuyển đổi theo mô
hình này sẽ có 2 phương án: Kêu gọi vốn đầu tư từ bên ngoài, sau đó trình
UBND Thành phố phê duyệt và phát hành cổ phiếu ra thị trường để thu hút
các nhà đầu tư.
Danh sách các chợ sẽ chuyển đổi mô hình năm 2006:
Quận Hoàn Kiếm: chợ Hàng Da Quận Ba
Đinh: chợ cống Vị Quận Đống Đa: chợ Ô
Chợ Dừa Quận Tây Hồ: chợ Bưởi, chợ

Xuân La,
Quận Hai Bà Trưng: chợ Vĩnh Tuy,chợ Quỳnh Mai
Quận càu Giấy: chợ càu Giấy, Quan Hoa, Nghĩa Tân, Nhà Xanh,
Đồng Xa, chợ nông sản thực phẩm Dịch Vọng, chợ xe máy Dịch
Vọng
Quận Thanh Xuân: chợ Kim Giang
Quận Long Biên: chợ Diêm Gỗ, chợ May 10, chợ 230chợ Z133
Huyện Từ Liêm: chợ càu Diễn, chợ Vẽ Đông Ngạc
Huyện Gia Lâm: chợ Vân, Yên Thường, Đa Tốn, Kim Lan
Huyện Đông Anh: chợ Kim Nỗ
Huyện Sóc Sơn: chợ thị trấn Sóc Sơn, Phủ Lỗ
2.2 Dự án quy hoạch lại hệ thong chợ trên địa bàn thủ đê Tp. Hà Nội
Ông Nguyễn Mạnh Hoàng, Giám đốc Sở Thương mại Hà Nội cho
biết: Hiện hệ thống chợ của Hà Nội đang xuống cấp không đáp ứng được
nhu càu của thương mại hiện đại. Đe Hà Nội có được một hệ thống trung
tâm thương mại (TTTM) hiện đại, UBND thành phố đã quyết định chuyển
đổi, đầu tư xây dựng lại 27 chợ dân sinh theo mô hình chợ kết hợp trung
tâm thương mại (TTTM), siêu thị, văn phòng với tổng mức đầu tư trên
1.971 tỷ đồng. Dự kiến từ nay đến cuối năm 2007, sẽ có 14 chợ được khởi
công xây dựng và sẽ đưa vào hoạt động vào các năm 2008, 2009.
Ngay trong tháng 10-2007, chợ TTTM CửaNam đã được khởi
công xây dựng với quy mô 10 tàng nổi, 4 tàng hàm, tổng mức đàu tư 150 tỷ
đồng. Dự kiến đến năm 2009 sẽ hoàn thành và đưa vào hoạt động. Cũng

22


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

trong quý IV/2007, Công ty cổ phần dịch vụ Sài Gòn sẽ khởi công xây

dựng TTTM Gia Thụy (Long Biên) với diện tích 49.900m2, vốn đàu tư 250
tỷ đồng, dự kiến sẽ hoàn thành và đi vào hoạt động vào cuối năm 2008.
Trong các dự án xây dựng, chuyển đổi thành TTTM thì dự án xây dựng
chợ-TTTM chợ Mơ có quy mô lớn nhất. Trong quý 1/2008, TTTM chợ Mơ
có qui ĨĨ1Ô20 tàng nổi, 5 tàng hàm, sẽ được VINACONEX khởi công xây
dựng với kinh phí 1.055 tỷ đồng. Hiện BQL dự án đang tiến hành xây dựng
chợ tạm tại khu ao Lim và Đông Kim Ngưu, triển khai lập qui hoạch tổng
mặt bằng 1/500, phương án kiến trúc. Cũng khởi công xây dựng tong quí
1/2008, còn có chợTTTM Đuôi Cá (quận Hoàng Mai) quy mô 17 tàng do
công ty TNHH XNK Tổng hợp (GELEXIMCO) đàu tưể
Trên địa bàn quận Hoàn Kiếm thì chợ Hàng Da với diện tích
3.367m2, với 587 hộ kinh doanh đang xuống cấp tóm trọng nhất trong số các
chợ ở quận Hoàn Kiếm. Nhằm chuyển đổi chợ Hàng Da trở thành một TTTM
hiện đại của quận trung tâm thành phố, ngày 1/6, UBND TP đã ra quyết định
phê duyệt Liên danh Cty cổ phàn xây dựng Sông Hồng và Cty cổ phàn Nhất
Nam là đơn vị trúng thầu xây dựng lại chợ với tổng mức đầu tư trên 150 tỷ
đồng. Theo dự kiến, đến quý 11-2008 chợ Hàng Da sẽ được khởi công xây
dựng, khi hoàn thành chợ -TTTM sẽ có chiều cao 16m, 2 tàng hàm. Cũng tong
quý 11/2008, trên địa bàn quận Hoàn Kiếm còn khởi công xây dựng chợ TTTM 19/12, do Công ty TNHH Thủ đô 2 đầu tư 200 tỷ đồng. Khi hoàn thành,
công trình này sẽ chia làm 2 khối nhà. Trong đó khối 7 tầng phía đường Lý
Thường Kiệt và 17 tầng phía đường Hai Bà Trưng với chức năng thương mại và
văn phòng cho thuê. Được biết, tong năm 2008, TP sẽ tiếp tục khởi công xây
dựng các chơ - TTTM như chợ Hôm-Đức Viên, chợ hoa Quảng An, TTTM
Trương Định, càu Bươu (Thanh Trì), Sóc Sơn...
Chưyển đổi mô hình chợ, còn đó những khó khăn
Theo ông Nguyễn Mạnh Hoàng, việc nâng cấp chợ cũ t được tiến
hành theo chủ trương xã hội hóa của thành phố. Tuy nhiên đang gặp khó khăn
bởi các chủ đàu tư khi đàu tư xây dựng chợ-TTTM đều muốn kết hợp xây chợ
với TTTM hoặc hệ thống văn phòng cho thuê để phục vụ nhu càu thị trường.
Tuy nhiên, Thành phố yêu cầu chủ đầu tư phải bố trí cho các hộ kinh doanh tại

tang I, tang II khi chợ mới xây xong. Song hầu hết các chợ càn xây dựng mới
trên địa bàn lại kinh doanh nhiều mặt hàng khác nhau, trong đó có những mặt
hàng không phù hợp với mô hình "chợ kết hợp với văn phòng cho thuê" như
thịt, cá, rau. Điều này khiến doanh nghiệp không mấy mặn mà với việc đàu tư
xây chợ. Chính vì những khó khăn trên, vừa qua UBND thành phố đã phê duyệt
nhiều dự án đàu tư xây dựng nâng cấp chợ cũ thành chợ mới để tổ chức mời
doanh nghiệp đấu thầu. Tuy nhiên, đến thời điểm này tiến độ chuẩn bị công tác
đấu thầu lựa chọn chủ đàu tư còn chậm. Nguyên nhân là do nhiều chợ có địa thế
không thuận lợi nên khi kêu gọi đàu tư chưa được các nhà đàu tư quan tâm. Mặt

23


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

khác, do một số quận huyện chưa xây dựng được kế hoạch chuyển đổi chợ. Một
số chợ cóc sau khi giải toả có hiện tượng tái họp.
Một tong những lo lắng của người kinh doanh sau khi chuyển đổi
chợ thành chợ-TTTM sẽ bị "ép" giá chỗ ngồi khi quay lại kinh doanh. Được
biết: trước khi di dời, giải tỏa chợ, chủ đầu tư phải có thỏa thuận giá với bà con
kinh doanh. Sự thống nhất này dựa trên phương án xây dựng được quận và
thành phố phê duyệt. Ngoài ra,các hộ kinh doanh tại các chợ dân sinh sẽ phải
tham gia đấu thầu để chọn chỗ trong chợ - TTTM mới; mức giá sẽ theo quy
định của thành phố chứ không phải của chủ đàu tư.

CHƯƠNG IIĩTHựC TRẠNG QUẢN LÝ CHỢ CỦA
QUẬN CÀU GIẤYề

I/.Vàỉ nét về điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội ảnh hưởng đến sự hình
thành và phát triển hệ thống chợ cầu Giấy.

1. Vị trí địa lý.
càu Giấy có vị trí rất thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung
và thương mại dịch vụ nói riêng. Đây là cửa ngõ phía tây bắc Thủ đô, là càu nối
với sân bay quốc tế Nội Bài và các tỉnh phía bắc Sông Hồng, nơi quy hoạch
phát triển mở rộng Thủ đô Hà Nội trong tương lai.
Cầu Giấy là quận được thành lập theo Nghị Định 74/CP ngày
22/11/1996 của Chính Phủ với diện tích tự nhiên 1.210,57ha và 8,29 vạn nhân
khẩu. Quận nằm ở phía tây thủ đô Hà Nội, phía Bắc giáp quận Tây Hồ và huyện
Từ Liêm, phía đông giáp quận Đống Đa và quận Ba Đình, phía nam giáp quận
Thanh Xuân, phía tây giáp huyện Từ Liêm; bao gồm 4 thị trấn (Nghĩa Đô,
Nghĩa Tân, Mai Dịch, càu Giấy ) và 3 xã (Dịch Vọng, Yên Hoà, Trung Hoà )
tách ra tò huyện Từ Liêm. Nay tất cả đều gọi là phường, thị trấn cầu Giấy được
tên thành phường Quan Hoa. Năm 2005, phường Dịch Vọng Hậu được thành
lập trên cơ sở tách ra từ hai phường Quan Hoa và Dịch Vọng. Từ đó đến nay,
quận càu Giấy có 8 phường.
Địa bàn càu Giấy nguyên là một vùng đất cổ, tò xa xưa là một phần
của huyện Từ Liêm thuộc phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây. Thời Nguyễn (từ 1831 )
thuộc phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Nội. Thời Pháp ( 1903 ) thuộc phủ Hoài Đức (đã
thu nhỏ ) tỉnh Hà Đông. Sau ngàu giảo phóng Thủ đô 1954, thuộc quận VI. Đen
năm 1961, Hà Nội mở rộng địa giới, bỏ các quận lập ra 4 khu phố nội thành và
4 huyện ngoại thành, từ đó huyện Từ Liêm được lập lại, gồm đất 2 quận V và
VI. Tám phường có thể phân ra mấy vùng dân cư cổ: Vùng Kẻ Bưởi (Nghĩa
Đô ); vừng Kẻ Vòng ( Dịch Vọng, Mai Dịch ); vùng Kẻ Cót - Giấy (Quan Hoa,
Yên Hoà ); vùng Giàn Kính chủ ( Trung Hoà).
Dù thuộc địa phương nào, càu Giấy vẫn là vừng đất gắn bó với Thăng
Long ngàn năm văn hiến; kề sát kinh thành xưa từ vòng tường luỹ Đại La ( t ứ c
kinh thành ) ở phía ngoài cùng của kinh đô Thăng Long, mạn tây và nam của

24



Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

vòng thành, có 3 nơi quan trọng xẻ ra thành 3 cửa ô chính trong hệ thống các
cửa ô của kinh thành ( hướng tây là ô càu Giấy, ô Tây Dương ) cửa ngõ của con
đường từ Kinh Đô lên Xứ Đoài, và xa hơn nữa ( Tây Bắc ), cũng như từ đây về
kinh đô.
Những yếu tố trên đây đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc hình
thành và phát triển hệ thống chợ trên địa bàn quận càu Giấy.

25


×