LỜI NÓI ĐẦU
Trong lịch sử Trung Quốc cổ đại, vào cuối thời chiến quốc, quá trình
phát triển kinh tế - xã hội mạnh mẽ cùng với sự phân hoá giai cấp ngày càng
sâu sắc, đã cho ra đời một tầng lớp mới là địa chủ và thương nhân, họ là lực
lượng nắm giữ, chi phối nền kinh tế đất nước. Nhưng quyền lực chính trị đang
trong tay tầng lớp quý tộc cũ và đang trở thành vật cản của phát triển xã hội.
Pháp gia ra đời đã đáp ứng được yêu cầu trên. Tư tưởng pháp gia được áp dụng
thành công và đưa nước Tần trở thành bá chủ thống nhất Trung Quốc vào năm
221 trước Công nguyên.
Học thuyết pháp trị của phái Pháp gia hình thành và phát triển bởi các
nhà tư tưởng như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng và
được hoàn thiện bởi đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử. Nội dung cơ bản của tư
tưởng Pháp gia là đề cao vai trò của Pháp luật và chủ trương dùng pháp luật hà
khắc để trị nước. Qua việc sử dụng "Pháp", "Thuật" và "Thế" trong đường lối
pháp trị có một vai trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất đất nước và phát
triển xã hội cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Tư tưởng Pháp gia mặc dù chỉ
nổi lên trong một thời gian ngắn nhưng vẫn có giá trị lịch sử lâu dài và có ý
nghĩa đến tận ngày nay. Để hiểu một cách tương đối có hệ thống về đường lối
trị nước của phái Pháp gia chúng ta cần phải tìm hiểu tư tưởng cơ bản của các
nhà pháp trị đã nêu trên cũng như những những luận chứng khá thuyết phục về
sự cần thiết của đường lối Pháp trị.
Với tiểu luận học phần chính trị học nâng cao, học viên mạnh dạn tự
nghiên cứu, tìm hiểu cho chính bản thân mình và có thể chia sẻ một phần kiến
thức cho những học viên, đồng nghiệp muốn tìm hiểu về đường lối trị nước
của phái Pháp gia. Đồng thời vận dụng tư tưởng trị nước của pháp gia vào việc
xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện
nay./.
2
NỘI DUNG
1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG
CHÍNH TRỊ PHÁI PHÁP GIA
Phái pháp gia có nhiều nhà tư tưởng, nhiều trường phái khác nhau như
phái trọng pháp có Quản Trọng, Thương Ưởng; phái trọng thuật: Thân Bất Hại
và phái trọng thế là Thận Đáo. Hàn Phi Tử là người tổng kết và phát triển tư
tưởng của những nhà Pháp gia tiền bối, hoàn chỉnh học thuyết này. Để nắm
được những tư tưởng chính trị phái pháp gia, việc đầu tiên chúng ta hãy tìm
hiểu những tư tưởng của những Pháp gia tiền bối.
1.1. Các nhà tư tưởng chính trị tiêu biểu phái Pháp gia
1.1.1. Quản Trọng (thế kỷ VI TCN)
Ông là người nước Tề, vốn xuất thân từ giới bình dân nhưng rất có tài
chính trị, được coi là người đầu tiên bàn về vai trò của pháp luật như là phương
cách trị nước. Tư tưởng về pháp trị của Quản Trọng được ghi trong bộ Quản
Tử, bao gồm 4 điểm chủ yếu sau:
Một là, mục đích trị quốc là làm cho phú quốc binh cường. Hai là,
muốn có phú quốc binh cường một mặt phải phát triển nông, công, thương
nghiệp, mặt khác phải đặt ra và thực hiện lệ chuộc tội: Tội nặng thì chuộc
bằng một cái tê giáp (áo giáp bằng da con tê); tội nhẹ thì chuộc bằng một cái
qui thuẫn (cái thuẫn bằng mai rùa); tội nhỏ thì nộp kinh phí; tội còn nghi thì
tha hẳn; còn hai bên thưa kiện nhau mà bên nào cũng có lỗi một phần thì bắt
nộp mỗi bên một bó tên rồi xử hòa.
Hai là, chủ trương phép trị nước phải đề cao "Luật, hình, lệnh, chính".
Luật là để định danh phận cho mỗi người, Lệnh là để cho dân biết việc mà
làm, Hình là để trừng trị những kẻ làm trái luật và lệnh, Chính là để sửa cho
dân theo đường ngay lẽ phải.
3
Ba là, trong khi đề cao luật pháp, cần chú trọng đến đạo đức, lễ, nghĩa,
liêm... trong phép trị nước. Như vậy có thể thấy rằng Quản Trọng chính là thủy
tổ của Pháp gia, đồng thời ông cũng là cầu nối Nho gia với Pháp gia.
1.1.2. Thân Bất Hại (401-337 TCN), Ông là người nước Trịnh chuyên
học về hình danh, làm quan đến bậc tướng quốc. Thân Bất Hại đưa ra chủ
trương ly khai "Đạo đức" chống "Lễ" và đề cao "Thuật" trong phép trị nước.
Thân Bất Hại cho rằng "thuật" là cái "bí hiểm" của vua, theo đó nhà vua không
được lộ ra cho kẻ bề tôi biết là vua sáng suốt hay không, biết nhiều hay biết ít,
yêu hay ghét mình... bởi điều đó sẽ khiến bề tôi không thể đề phòng, nói dối và
lừa gạt nhà vua.
1.1.3. Thận Đáo (370-290 TCN), Ông là người nước Triệu và chịu
ảnh hưởng một số tư tưởng triết học về đạo của Lão Tử, nhưng về chính trị
ông lại đề xướng đường lối trị nước bằng pháp luật. Thận Đáo cho rằng Pháp
luật phải khách quan như vật "vô vi" và điều đó loại trừ thiên kiến chủ quan,
riêng tư của người cầm quyền. Phải nói rằng đây là một tư tưởng khá tiến bộ
mà sau này Hàn Phi Tử đã tiếp thu và hoàn thiện. Trong phép trị nước, đặc
biệt Thận Đáo đề cao vai trò của "Thế". Ông cho rằng: Người hiền mà chịu
khuất kẻ bất tiếu là vì quyền thế nhẹ, địa vị thấp: kẻ bất tiếu mà phục được
người hiền vì quyền trọng vị cao. Nghiêu hồi còn làm dân thường thì
không trị được ba người mà Kiệt khi làm thiên tử có thể làm loạn cả thiên
hạ, do đó biết rằng quyền thế và địa vị đủ để nhờ cậy được mà bậc hiền, trí
không đủ cho ta hâm mộ. Cây ná yếu mà bắn được mũi tên lên cao là nhờ sức
gió đưa đi, kẻ bất tiếu mà lệnh ban ra được thi hành là nhờ sức giúp đỡ của
quần chúng, do đó mà xét thì hiền và trí không đủ cho đám đông phục tùng,
mà quyền thế và địa vị đủ khuất phục được người hiền.
1.1.4. Thương Ưởng: Ông đã hai lần giúp vua Tần cải cách pháp luật
hành chính và kinh tế làm cho nước Tần trở nên hùng mạnh. Trong phép trị
nước Thương Ưởng đề cao "pháp" theo nguyên tắc "Dĩ hình khử hình" (dùng
hình phạt để trừ bỏ hình phạm). Theo ông pháp luật phải nghiêm và ban bố
cho dân ai cũng biết, kẻ trên người dưới đều phải thi hành, ai có tội thì phạt và
4
phạt cho thật nặng. Trong chính sách thực tiễn, Thương Ưởng chủ trương:
Tổ chức liên gia và cáo gian lẫn nhau, khuyến khích khai hoang, cày cấy,
nuôi tằm, dệt lụa, thưởng người có công, phạt người phạm tội. Đối với quý
tộc mà không có công thì sẽ hạ xuống làm người thường dân. Ông cũng là
người đã thực hiện cải cách luật pháp, thi hành một thứ thuế thống nhất, dụng
cụ đo lường thống nhất... nhờ đó chỉ sau một thời gian ngắn, nước Tần đã
mạnh hẳn lên và lần lượt thôn tính được nhiều nước khác. Với nội dung và
mục đích như trên "Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân định
danh phận, phải trái, tốt, xấu, thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều
qui về một mối, đều lấy pháp làm chuẩn. vì vậy, "Pháp" trở thành cái gốc
của thiên hạ.
1.2. Hàn Phi Tử (khoảng 280 – 233 TCN) kế thừa và phát triển xuất
sắc tư tưởng Pháp gia trở thành một Học thuyết tư tưởng chính trị hoàn
chỉnh: Ông là triết gia thời cuối Chiến Quốc, là người tập đại thành tư tưởng
Pháp gia. Xuất thân từ giới quý tộc, là công tử (con vua) nước Hàn, đã nhiều
lần dâng kế sách trị nước lên vua Hàn, nhưng không được vua Hàn trọng dụng.
Sau chạy sang nước Tần và bị Lý Tư ép phải tự tử trong ngục.
Theo ông, then chốt của việc xây dựng đất nước giàu mạnh là phải dựa
vào pháp luật. Có pháp luật, pháp luật được thi hành một cách phổ quát và
đúng đắn thì xã hội mới ổn định, xã hội ổn định lại là tiền đề quan trọng để xây
dựng đất nước giàu mạnh, làm cho dân chúng được yên bình, hạnh phúc. Hàn
Phi Tử đã đề xuất tư tưởng “trị nước bằng luật pháp” (dĩ pháp trị quốc), chủ
trương “luật pháp không phân biệt sang hèn” (pháp bất a quý), “hình phạt
không kiêng dè bậc đại thần, tưởng thưởng không bỏ sót kẻ thất phu” (hình
quá bất tị đại thần, thưởng thiện bất di tứ phu). Ông hết sức coi trọng tác dụng
của pháp luật và chủ trương xây dựng một lý luận pháp trị hoàn chỉnh, trong
đó lấy “pháp” làm hạt nhân, kết hợp chặt chẽ “pháp”, “thuật” với “thế”. Hàn
Phi hiểu rất rõ và sâu sắc về pháp luật, coi pháp luật là mệnh lệnh ban bố rõ
ràng ở nơi cửa công, hình phạt chắc chắn đối với lòng dân, thưởng cho những
kẻ cẩn thận giữ pháp luật, nhưng phạt những kẻ làm trái lệnh. Đây là một tư
5
tưởng hết sức tiến bộ so với đương thời, nội dung chủ yếu của “pháp” có thể
quy về hai khái niệm chủ yếu là “thưởng” và “phạt”.
Hàn Phi cho rằng, xây dựng pháp luật (lập pháp) cần phải xét đến các
nguyên tắc sau: Tính tư lợi; Hợp với thời thế; Ổn định, thống nhất; Phù hợp
với tình người, dễ biết dễ làm; Đơn giản mà đầy đủ; Thưởng hậu phạt nặng.
Đối với việc chấp pháp, nguyên tắc của Hàn Phi Tử là tăng cường giáo dục
pháp chế, tức là “dĩ pháp vi giáo”; Mọi người, đều bình đẳng trước pháp luật,
tức “pháp bất a quý”, “hình bất tị đại thần, thưởng thiện bất di tứ phu”. Đến
bản thân bậc quân chủ – nhà vua cũng phải tôn trọng và tuân thủ pháp luật: Kẻ
làm vua chúa là kẻ phải giữ pháp luật, căn cứ vào kết quả mà xét để lập công
lao; Nếu nhà vua biết bỏ điều riêng tư, làm theo phép công thì chẳng những
dân sẽ được yên, mà nước cũng được trị. Nếu xét theo ý nghĩa của những luận
điểm này thì có thể thấy rằng, mặc dù Hàn Phi chủ trương quân quyền thần
thánh không thể xâm phạm, song hình thái quân quyền này vẫn bị chế ước bởi
pháp quyền; Nghiêm khắc cẩn thận, “tín thưởng tất phạt”, không được tùy ý
thưởng cho người không có công, vô cớ sát hại người vô tội; Dùng sức mạnh
đạo đức hỗ trợ cho việc thi hành pháp luật.
Hàn Phi Tử chủ trương dùng pháp trị, song cũng rất chú trọng đến
“thuật” cai trị của người làm vua, để kiểm tra, giám sát bầy tôi, bởi vì “bầy tôi
đối với nhà vua không phải có tình thân cốt nhục, chỉ vì bị tình thế buộc không
thể không thờ”. Nhà vua dựa vào pháp trị để làm cho đất nước giàu mạnh,
song nếu “không có cái thuật để biết kẻ gian thì chỉ lấy cái giàu mạnh của nước
mà làm giàu có cho các quan đại thần mà thôi”. Do vậy, nhà vua phải có
“thuật” để dùng người. Đối với Hàn Phi Tử, “thuật” chính là một loạt các
phương pháp bổ nhiệm, miễn nhiệm, thi cử, thưởng phạt của nhà vua. Trong
đó, phép hình danh là một thuật không thể thiếu được của bậc quân chủ. Với
cách nhìn như vậy thì “pháp” và “thuật” gắn bó chặt chẽ với nhau: “Nhà vua
không có thuật trị nước thì ở trên bị che đậy; bầy tôi mà không có pháp luật thì
cái loạn sinh ra ở dưới. Hai cái không thể thiếu cái nào, đó đều là những công
cụ của bậc đế vương”.
6
Ngoài “pháp” và “thuật”, Hàn Phi Tử đặc biệt coi trọng “thế”. “Thế”
còn được gọi là “quyền thế”, “uy thế”, “thế trọng”, là uy thế, quyền thế của
người cầm quyền (nhà vua), tuân thủ theo nguyên tắc tập trung, không được
chia sẻ, không được để rơi vào tay người khác. Nó chỉ một sức mạnh quyền uy
tuyệt đối, cũng chính là quyền thống trị tối cao của ông vua, bao gồm quyền sử
dụng người, quyền thưởng phạt, v.v.. Hàn Phi Tử cho rằng, chỉ khi nào nắm
quyền thống trị trong tay, thì một người nào đấy mới là kẻ thống trị, mới có thể
cai trị dân chúng: Cái thế là cơ sở để thắng đám đông (Thế giả, thắng chúng
chi tư dã). Để yên ổn trị nước, bậc quân chủ tất phải nắm giữ quyền thế. Ông
quan niệm rất rõ ràng những điểm trọng yếu về thế: Vua không được cho bề tôi
mượn quyền thế; Vua không được dùng chung quyền thế với bề tôi; Cần sử
dụng thuật thưởng phạt để củng cố quyền thế; Vua phải duy trì địa vị độc tôn
của mình, không được để bề tôi quá quý hiển, đề phòng đại thần tiếm quyền.
Vì vậy, nếu chỉ xét về bản thân vị vua, thì “thế” là cái cốt lõi nhất, quan trọng
nhất, còn “pháp” và “thuật” chỉ là công cụ. Sử dụng “pháp”, “thuật”, “thế” cốt
yếu là để tăng cường sức mạnh của tập quyền quân chủ, tạo nên bối cảnh chính
trị “việc tuy ở bốn phương song then chốt ở tại trung ương, thánh nhân nắm
giữ cái chủ yếu, bốn phương đến phục dịch” (sự tại tứ phương, yếu tại trung
ương, thánh nhân chấp yếu, tứ phương lai hiệu); từ đó, góp phần tạo ra một xu
thế lịch sử cho việc xây dựng một nhà nước trung ương tập quyền phong kiến
thống nhất.
Hàn Phi Tử cho rằng "Pháp", "Thuật", "Thế" cần phải kết hợp làm một,
trong đó "Pháp" là trung tâm, "Thuật và "Thế" là những điều kiện tất yếu trong
việc thi hành pháp luật. Pháp luật phải vì lẽ phải và phải phục vụ lợi ích chung
"việc phạt tội không loại trừ bậc đại thần, việc thưởng công không bỏ sót công
kẻ thất phu" (hình quá bất tị đại thần, thưởng thiện bất di tứ phu).
Hàn Phi Tử phê phán mạnh mẽ lý thuyết chính trị của Nho gia, ông cho
rằng cách cai trị dựa trên nhân đức của nhà cầm quyền dưới các tên gọi như
“nhân trị”, đức trị” hay “lễ trị”, lý tưởng chính trị Nghiêu, Thuấn là trái với
7
thực tế và nếu áp dụng quan niệm đó sẽ làm hỏng pháp độ, dẫn đến loạn đất
nước.
Ngoài các nội dung "Pháp", "Thuật", "Thế" đã nêu ở trên, tư tưởng
Pháp gia còn hết sức coi trọng việc xây dựng quân đội hùng mạnh đủ sức đè
bẹp và thôn tính các nước khác. Pháp gia cũng rất chú trọng phát triển nông
nghiệp, tích trữ lương thực và của cải làm cho đời sống của xã hội no đủ.
Tư tưởng pháp trị đã hình thành khá sớm trong lịch sử tư tưởng Trung
Quốc cổ đại với Quản Trọng là người khởi xướng. Sự nghiệp thống nhất và
phát triển đất nước của Trung Quốc lúc bấy giờ đòi hỏi tư tưởng pháp trị phải
phát triển lên một trình độ mới trong đó tư tưởng về "Pháp", "Thuật", "Thế"
vừa được phát triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau trong một học thuyết
duy nhất. Hàn Phi Tử đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử đó. Tư tưởng
chủ đạo của pháp gia là muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật làm trọng
và nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nước có đông dân bao
nhiêu thì vẫn "trị quốc bình thiên hạ" được. Học thuyết chính trị của Pháp gia
đã được vương quốc Tần ra sức vận dụng và kết cục đã đưa nước Tần đến
thành công trong việc kết thúc cục diện phân tán cát cứ, thống nhất được đất
nước Trung Hoa sau những năm dài chiến tranh khốc liệt.
Như vậy, những tư tưởng về pháp trị của pháp gia đã có những đóng
góp to lớn cho sự phát triển của tư tưởng Trung Quốc cổ đại và nhất là cho sự
nghiệp thống nhất đất nước Trung Hoa lúc bấy giờ. Cần phải khẳng định rằng
trong bối cảnh xã hội Trung Hoa cuối thời Chiến quốc, tư tưởng chính trị của
pháp gia mà tiêu biểu nhất là Hàn Phi Tử, bảo vệ cho lập trường, lợi ích của
giai cấp địa chủ mới, có nhiều yếu tố tích cực đáp ứng được yêu cầu phát triển
của lịch sử, đã khai thông các bế tắc xã hội, tạo điều kiện cho lực lượng sản
xuất phát triển.
2- XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XHCN VIỆT NAM
Tư tưởng chính trị phái Pháp gia vẫn còn nhiều yếu tố có giá trị có thể
vận dụng trong xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở
8
nước ta hiện nay. Đó là quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế
XHCN, xây dựng, hoàn thiện và nâng cao hiệu lực, hiệu quả bộ máy nhà nước
Việt Nam XHCN, đảm bảo mọi quyền lực chính trị thuộc về nhân dân lao
động. Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì
dân, trong sạch, vững mạnh, quản lý có hiệu lực, hiệu quả cao mọi lĩnh vực
kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối nội, đối ngoại của đất nước luôn là
mối quan tâm, là nhiệm vụ hàng đầu của Ðảng và nhân dân ta.
2.1. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân (Gọi tắt là xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN).
Tuy Chủ tịch Hồ Chí Minh không trực tiếp dùng thuật ngữ nhà nước
pháp quyền XHCN, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN, theo Người là nhà nước thực hiện quyền lực của nhân dân, dựa
vào sức mạnh của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Trong bản Hiến
pháp đầu tiên của nước ta (1946) do đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn
thảo, ngay từ Điều 1 đã khẳng định: Tất cả quyền bính trong nước là của toàn
thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai
cấp; Người đề nghị Chính phủ lâm thời "tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng
tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu...", để nhân dân tự do lựa chọn những
người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà. Đó là Nhà nước thực
hiện chức năng chuyên chính vô sản nhằm bảo vệ thành quả cách mạng và xây
dựng thành công CNXH ở Việt Nam. Nhà nước pháp quyền XHCN phải là
một nhà nước được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ của hiến pháp và
pháp luật, thể hiện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Từ năm 1919, tại
điều 7 trong 8 Yêu sách của nhân dân An Nam, Nguyễn Ái Quốc đã viết:
“Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”. Ngay từ những năm
1922, trong bài "Việt Nam yêu cầu ca" có 8 điều thì có một điều (Điều 7)
Người viết:
“Bảy xin hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”
9
Theo Người: Pháp luật là phép của dân, dùng để ngăn cản những hành
động có hại cho dân, để bảo vệ lợi ích chung của đại đa số nhân dân. Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn luôn chủ trương đề cao việc quản lý nhà nước bằng công cụ
pháp luật. Trước khi có Hiến pháp, Người cho rằng, một xã hội không thể sống
một ngày không có pháp luật, cho nên Người đã ký Sắc lệnh giữ lại mọi luật lệ
của chế độ cũ, chỉ trừ những điều luật trái với nền độc lập, tự do. Đồng thời,
Người ký một loạt Sắc lệnh cấp bách: Sắc lệnh bảo đảm tự do cá nhân, Sắc
lệnh bãi bỏ thuế thân, Sắc lệnh tổ chức Tòa án độc lập với hành chính... Đó là
nền tảng trước mắt và lâu dài cho một nhà nước pháp quyền. Tư tưởng pháp
quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong hoạt động của Chính phủ, của
các cấp chính quyền, của các tổ chức, Người đòi hỏi tất cả mọi tổ chức và cá
nhân phải chấp hành pháp luật, không ai được đứng trên, đứng ngoài pháp luật.
Trong điều kiện có chính quyền người đặc biệt quan tâm, nhắc nhở đội ngũ cán
bộ công chức: Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục
khoét, có dịp ăn của đút, có dịp "dĩ công vi tư". Thực chất những căn bệnh đó
là vi phạm quyền làm chủ của nhân dân lao động, là độc tố phản văn hóa đi
ngược lại bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nội dung quan trọng
của Nhà nước pháp quyền là khẳng định cội nguồn quyền lực nhà nước là ở
nhân dân, trong đó nhà nước là của nhân dân chứ không phải nhân dân là của
nhà nước; Nhà nước pháp quyền đề cao tính hợp hiến, hợp pháp trong tổ chức
và hoạt động của nhà nước, nhà nước chỉ được làm những điều pháp luật cho
phép, còn nhân dân được làm tất cả những điều pháp luật không cấm. Một mặt,
pháp luật bảo đảm cho sự phát triển tự do tối đa của nhân dân, mặt khác pháp
luật xây dựng và duy trì xã hội trật tự, ổn định, trong đó không chỉ mỗi công
dân, mỗi cá nhân, mà bản thân nhà nước và những người đứng đầu chính
quyền cũng phải tôn trọng pháp luật. Hai mặt dân chủ và pháp luật trong nhà
nước pháp quyền gắn bó hữu cơ, làm tiền đề tồn tại cho nhau và tạo nên bản
chất của Nhà nước pháp quyền trong lịch sử nhân loại; Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ: Nhà nước bảo đảm quyền tự do dân chủ cho công dân nhưng nghiêm
cấm lợi dụng các quyền tự do dân chủ để để xâm phạm đến lợi ích của Nhà
10
nước, của nhân dân. Những tư tưởng của Người về xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN mang giá trị trường tồn soi sáng chúng ta trong tiến trình xây
dựng nhà nước Pháp quyền XHCN Việt Nam.
2.1. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam
Nhận thức quan điểm về nhà nước pháp quyền XHCN là một trong hai
đóng góp lớn về lý luận của Đảng ta trong quá trình đổi mới tư duy lý luận về
chủ nghĩa xã hội. Đây cũng là một kết quả của quá trình đấu tranh giữa nhận
thức mới và nhận thức cũ. Trước đổi mới, Đảng ta chưa dùng khái niệm nhà
nước pháp quyền, mà dùng khái niệm kiểu nhà nước, nhà nước chuyên chính
vô sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, tư tưởng về nhà nước pháp
quyền vẫn được thể hiện. Đó là, nhà nước - công cụ thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân. Cụm từ “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” lần đầu tiên
được sử dụng tại Hội nghị Trung ương 2 khóa VII (11- 1991). Đến Hội nghị
giữa nhiệm kỳ, khóa VII (Tháng 1/1994) Đảng ta chính thức dùng khái niệm
"nhà nước pháp quyền XHCN". Những nội dung đặc trưng của nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam từng bước được làm rõ và khẳng định. Những đặc
trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được xác định ở
những nội dung chủ yếu sau: Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân trong đó nền tảng là khối đại đoàn kết toàn dân tộc với nòng cốt là liên
minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức; Nhà nước hợp
hiến, quản lý và điều hành xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục,
nâng cao đạo đức và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; Nhà nước được
tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ; Nhà nước do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Trong quá trình nhận thức ngày càng rõ hơn vị trí, vai trò của pháp luật,
Đảng ta đã sử dụng khái niệm “nhà nước pháp quyền” và từng bước xác định
rõ ràng, cụ thể những yêu cầu, đặc trưng phù hợp với các đặc điểm về chính
11
trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của nước ta, nhất là những đặc điểm đó được đặt
trong bối cảnh của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Từ chỗ sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau như: “Nhà nước cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam”; “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”; “Nhà nước pháp
quyền Việt Nam”; “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”; “Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân” ... đến nay, trong các văn kiện chính thức của
Đảng đã thống nhất sử dụng khái niệm “Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam”.
Quá trình hình thành quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà
nước pháp quyền XHCN cũng chính là quá trình nhận thức và vận dụng chủ
nghĩa Mác - Lênin nói chung, học thuyết Mác - Lênin về nhà nước nói riêng
cho phù hợp với đặc điểm cụ thể và định hướng phát triển của xã hội Việt
Nam. Có thể khẳng định, những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
về nhà nước được Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức và vận dụng ngày càng
nhuần nhuyễn, sáng tạo và hiệu quả trong quá trình xây dựng và hoàn thiện
nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
Trong những năm qua, thực hiện đường lối của Ðảng, việc xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN đã được đẩy mạnh, đạt được kết quả tích cực, tổ chức
bộ máy Nhà nước ngày càng được hoàn thiện hơn, phương thức hoạt động của
Nhà nước được đổi mới; Nhà nước quản lý chủ yếu bằng luật pháp, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước, giảm
bớt các mệnh lệnh hành chính can thiệp vào các lĩnh vực kinh tế, hiệu lực, hiệu
quả quản lý của Nhà nước được nâng lên, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu
của công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Công tác xây dựng pháp luật được tăng cường, hoạt động của Quốc hội
trong lĩnh vực giám sát tình hình và kết quả thực hiện các chủ trương, chính
sách của Ðảng và Nhà nước được đẩy mạnh, chất lượng được nâng cao hơn.
Cơ cấu tổ chức, bộ máy của Chính phủ từng bước được sắp xếp, điều chỉnh
12
theo hướng tinh gọn; các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực được thành lập với
những chức năng, nhiệm vụ được điều chỉnh, đổi mới, tập trung vào lĩnh vực
quản lý nhà nước, quản lý vĩ mô, giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng, tách
khỏi quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Cải cách hành
chính được chú trọng, nhất là ở những lĩnh vực có quan hệ tới đời sống của
nhân dân và hoạt động của doanh nghiệp, bước đầu đạt được một số kết quả.
Cải cách tư pháp được đẩy mạnh. Tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp được đổi mới. Tổ chức bộ máy chính quyền địa phương các cấp được
củng cố, kiện toàn, chất lượng, hiệu quả hoạt động từng bước được nâng lên.
Việc đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức được
quan tâm...
Tuy nhiên, công tác xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN chưa theo
kịp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước. Năng lực xây dựng
thể chế còn hạn chế, hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ,
thống nhất. Công tác điều hành, tổ chức thực thi pháp luật có những mặt còn
yếu. Tổ chức bộ máy ở một số cơ quan nhà nước còn chưa hợp lý, chức năng,
nhiệm vụ của một số cơ quan chưa đủ rõ, còn chồng chéo. Chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới của đất
nước. Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu đề ra, còn nhiều thủ tục hành
chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước trên một số lĩnh vực còn yếu. Cải cách tư pháp còn chậm, chưa đồng bộ.
Công tác điều tra, giam giữ, truy tố, xét xử trong một số trường hợp chưa chính
xác, tình trạng án tồn đọng, án bị hủy còn nhiều. Công tác phòng, chống tham
nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề ra. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí
vẫn còn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Sự nghiệp đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc của đất nước ta trong thời kỳ mới đòi hỏi phải tiếp tục
đẩy mạnh, thực hiện tốt hơn, có hiệu quả hơn nhiệm vụ xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN.
Qua các kỳ đại hội, đến Đại hội XI Đảng ta tiếp tục khẳng định các quan
điểm về xây dựng “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do
13
nhân dân, vì nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo”. Đây là một bước tiến dài
trên con đường nhận thức về nhà nước pháp quyền ở nước ta.
Một trong tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (Bổ sung phát triển năm 2011), thông qua tại Đại hội toàn quốc lần thứ
XI của Đảng (gọi tắt là Cương lĩnh), xác định là: Có Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh
đạo. Cương lĩnh cũng xác định rõ bản chất và các nguyên tắc cơ bản về tổ
chức, hoạt động của nhà nước pháp quyền XHCN mà nhân dân ta phấn đấu
xây dựng:
- Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức, do Ðảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
- Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện
đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân
và chịu sự giám sát của nhân dân.
- Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm
soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp.
- Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất
của Trung ương.
Ðây là những quan điểm cơ bản chỉ đạo việc xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Chiến lược Phát
triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 và Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương khóa X tại Ðại hội XI đề ra các yêu cầu, nhiệm vụ và giải pháp cụ
thể xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong thời gian thực hiện Chiến
lược và trong nhiệm kỳ Ðại hội XI để bảo đảm thực hiện thắng lợi Chiến lược,
cũng như mục tiêu, nhiệm vụ của nhiệm kỳ Ðại hội XI. Yêu cầu tiếp tục đẩy
mạnh việc xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN là phải bảo đảm
14
Nhà nước ta thật sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; nhà nước
phải chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của mọi
người dân.
2.2. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN
theo tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI (thể hiện trong Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội và Báo cáo Chính trị) tập trung vào 3 vấn
đề lớn sau:
Thứ nhất, Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước.
Ðổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm để Quốc hội thật sự là cơ
quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội. Cải tiến, nâng cao chất lượng các kỳ
họp của Quốc hội, hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân
tộc và các Ủy ban của Quốc hội; nhất là cải tiến, nâng cao chất lượng xây dựng
pháp luật, quyết định và giám sát các vấn đề quan trọng của đất nước. Tiếp tục
đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng nền hành
chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh, tổ chức tinh gọn, hợp lý;
xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, tổ chức bộ máy của
các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan của Chính phủ; thực hiện phân cấp hợp lý
cho chính quyền địa phương, đồng thời nâng cao chất lượng quy hoạch và tăng
cường thanh tra, kiểm tra, giám sát của Trung ương; đẩy mạnh cải cách hành
chính, bãi bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân.
Ðẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng hệ thống tư
pháp trong sạch, vững mạnh. Hoàn chỉnh chính sách, pháp luật về hình sự, dân
sự, thủ tục tố tụng tư pháp. Ðổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động
của hệ thống tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, các tổ chức bổ trợ tư
pháp... Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của chính
quyền địa phương, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các cấp; tiếp tục thực
hiện thí điểm chủ trương không tổ chức hội đồng nhân dân quận, huyện,
phường; nghiên cứu tổ chức chính quyền đô thị, hải đảo.
15
Thứ hai, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có phẩm chất
và năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Bổ sung, hoàn
thiện quy chế quản lý cán bộ, công chức, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền, trách nhiệm của cán bộ, công chức ở từng vị trí công tác. Nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất
đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý nhà nước. Ðổi mới chính sách đãi
ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ, có cơ chế loại
bỏ những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, không có uy tín
với nhân dân.
Thứ ba, Tích cực phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết
kiệm bằng các giải pháp đồng bộ: hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh cải cách
hành chính, nhất là trong các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, lãng phí; thực
hiện công khai, minh bạch về kinh tế, tài chính trong các cơ quan, đơn vị,
doanh nghiệp nhà nước, các dự án đầu tư, mua sắm từ ngân sách nhà nước,
quản lý, sử dụng đất đai, tài sản công; thực hiện kê khai, công khai tài sản, thu
nhập của cán bộ, công chức. Xử lý nghiêm cán bộ tham nhũng, tịch thu tài sản
do tham nhũng mà có. Có cơ chế bảo vệ, khuyến khích người đấu tranh chống
tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Phát huy vai trò của nhân dân, của các cơ quan
dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các phương tiện thông tin đại chúng
trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Ðể thực hiện được mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân, vì dân đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới như Ðại hội lần thứ XI của Ðảng đã chỉ rõ bốn
nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN.
Đẩy mạnh việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm là nhà
nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo;
thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế và đời sống xã hội; giải quyết đúng
mối quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, với
16
nhân dân, với thị trường. Nâng cao năng lực quản lý và điều hành của nhà
nước theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ
cương. Nhà nước chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích chính
đáng của mọi người dân.
Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để
bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên
tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát
giữa các cơ quan trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế của nhà nước phù hợp với
yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục
hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để vận hành có hiệu quả nền
kinh tế và thực hiện tốt các cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.
Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 cho phù hợp với tình hình
mới (Trong năm 2013). Tiếp tục xây dựng, từng bước hoàn thiện cơ chế kiểm
tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các
cơ quan công quyền.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự
là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất. Hoàn thiện cơ chế bầu cử đại biểu Quốc hội để cử tri lựa chọn và bầu
những người thực sự tiêu biểu vào Quốc hội. Tiếp tục phát huy dân chủ, tính
công khai, đối thoại trong thảo luận, hoạt động chất vấn tại diễn đàn Quốc hội.
Nghiên cứu xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch
nước để thực hiện đầy đủ chức năng nguyên thủ quốc gia, thay mặt Nhà nước
về đối nội, đối ngoại và thống lĩnh các lực lượng vũ trang; quan hệ giữa Chủ
tịch nước với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây
dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh, có hiệu
lực, hiệu quả; tổ chức tinh gọn và hợp lý; tăng tính dân chủ và pháp quyền
trong điều hành của Chính phủ; nâng cao năng lực dự báo, ứng phó và giải
17
quyết kịp thời những vấn đề mới phát sinh. Tổng kết, đánh giá việc thực hiện
chủ trương sắp xếp các bộ, sở, ban, ngành quản lý đa ngành, đa lĩnh vực để có
chủ trương, giải pháp phù hợp. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục
hành chính; giảm mạnh và bãi bỏ các loại thủ tục hành chính gây phiền hà cho
tổ chức và công dân. Nâng cao năng lực, chất lượng xây dựng và tổ chức thực
hiện các cơ chế, chính sách. Đẩy mạnh xã hội hoá các loại dịch vụ công phù
hợp với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh việc
thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư
pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con
người.
Tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương. Nâng
cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân các cấp,
bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định và tổ chức
thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân cấp. Nghiên cứu tổ chức,
thẩm quyền của chính quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo. Tiếp tục thực hiện
thí điểm chủ trương không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận, phường.
Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực
đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy chế quản lý cán bộ, công chức; phân
định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm quyền của mỗi cán bộ, công
chức; tăng cường tính công khai, minh bạch, trách nhiệm của hoạt động công
vụ. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước.
Có chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ, công chức hoàn thành
nhiệm vụ và có cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm
vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân. Tổng kết việc thực hiện "nhất thể
hóa" một số chức vụ lãnh đạo Đảng, nhà nước để có chủ trương phù hợp. Đây
là điểm mới so với Đại hội X.
Thứ tư, tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống
tham nhũng, lãng phí.
18
Phòng và chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm là nhiệm vụ
vừa cấp bách, vừa lâu dài. Mọi cán bộ lãnh đạo của Đảng, nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân từ trung ương đến cơ sở và từng đảng viên
phải gương mẫu thực hiện và trực tiếp tham gia đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí. Tiếp tục hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh cải cách hành chính
phục vụ phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tập trung vào các lĩnh vực dễ xảy
ra tham nhũng, lãng phí. Nghiên cứu phân cấp, quy định rõ chức năng cho các
ngành, các cấp trong phòng, chống tham nhũng. Chú trọng các biện pháp
phòng ngừa tham nhũng, lãng phí. Thực hiện chế độ công khai, minh bạch về
kinh tế, tài chính trong các cơ quan hành chính, đơn vị cung ứng dịch vụ công,
doanh nghiệp nhà nước.
Công khai, minh bạch về cơ chế, chính sách, các dự án đầu tư, xây dựng
cơ bản, mua sắm từ ngân sách nhà nước, huy động đóng góp của nhân dân,
quản lý và sử dụng đất đai, tài sản công, công tác tiếp nhận, bổ nhiệm cán bộ.
Thực hiện có hiệu quả việc kê khai và công khai tài sản, thu nhập của cán bộ,
công chức theo quy định. Cải cách chính sách tiền lương, thu nhập, chính sách
nhà ở bảo đảm cuộc sống cho cán bộ, công chức để góp phần phòng, chống
tham nhũng. Tổng kết, đánh giá cơ chế và mô hình tổ chức cơ quan phòng,
chống tham nhũng để có chủ trương, giải pháp phù hợp.
Coi trọng và nâng cao vai trò của các cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng và của nhân
dân trong việc giám sát cán bộ, công chức, phát hiện, đấu tranh chống tham
nhũng, lãng phí; cổ vũ, động viên phong trào tiết kiệm trong sản xuất và tiêu
dùng.
2.3. Xây dựng chính quyền đô thị, một xu hướng tất yếu trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở nước ta. Góp phần xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam.
Một trong những nội dung quan trọng của xây dựng và hoàn thiện nhà
nước pháp quyền XHCN là cải cách tổ chức bộ máy chính quyền địa phương
19
theo tinh thần nghị quyết đại hội XI của Đảng, trong đó, việc thiết kế mô hình
chính quyền đô thị hiệu quả đang là một yêu cầu cấp bách. Quá trình đô thị hóa
ở Việt Nam diễn ra đồng thời với quá trình chuyển đổi nền kinh tế, thể chế
kinh tế - chính trị và hiện đại hóa về nhiều mặt dẫn đến sự điều chỉnh không
theo kịp yêu cầu thực tiễn, nhất là trong bối cảnh phát triển nhanh của các đô
thị lớn trong vòng 20 năm qua là thách thức rất lớn cho quá trình đổi mới hệ
thống tổ chức chính quyền đô thị. Yêu cầu quản lý cao ở đô thị lớn ngày càng
khác biệt so với tính chất quản lý lãnh thổ nói chung hay quản lý khu vực nông
thôn. Khoảng cách giữa mục tiêu xây dựng bộ máy “tập trung, thống nhất,
thông suốt, bộ máy tinh gọn và hợp lý, tăng cường tính chuyên nghiệp, giải
quyết nhanh gọn công việc của người dân” và thực tế tại các khu vực đô thị
ngày càng lớn hơn.
Những bất cập không chỉ ở trong khu vực quản lý đô thị, mà còn có tính
hệ thống. Có thể quan sát được những dấu hiệu như đùn đẩy trách nhiệm giữa
các cấp và tồn tại nhiều việc hai, ba cấp cùng có trách nhiệm và ra nghị quyết
nhưng không rõ ràng cấp nào giải quyết vấn đề gì ?. Trong thiết kế hệ thống,
cấp cơ sở, cấp dân bầu, cấp có trách nhiệm chưa quy về một mối. Cấp dưới
trong hệ thống hành chính trở thành cấp lệ thuộc khi cấp trên giao việc và trách
nhiệm, đôi khi không tương xứng. Trên thực tế, đã có nhiều chuyển biến trong
vấn đề trao quyền rộng rãi hơn cho các đô thị, nhưng chưa đồng đều. Tại các
đô thị lớn, vấn đề tự chủ tương đối về tài chính ngày càng trở nên rõ ràng và
cấp thiết. Tuy nhiên, việc phân cấp vẫn chưa đến với cấp đô thị trực thuộc tỉnh
hoặc trực thuộc huyện. Bộ máy và cách thức quản lý ở thị trấn vẫn khá giống ở
xã và ở huyện vẫn giống với thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh. Cấp dưới cấp
tỉnh chưa được quyết định mức thu phí, lệ phí, chính sách ưu đãi. Đây vẫn còn
là vấn đề tranh luận và cân nhắc trong thiết kế mô hình chính quyền đô thị sắp
tới.
Trong xu thế cải cách, vấn đề cải cách tổ chức bộ máy chính quyền đô
thị đã và đang được nhìn nhận tích cực với chủ trương từ Trung ương cho đến
sự đồng thuận ở nhiều địa phương. Năm 2013, các địa phương sẽ góp ý cho dự
20
thảo Hiến pháp mới đều hướng đến giải quyết các vấn đề có tính cốt lõi như
hình thành quyền lực; cơ sở của trách nhiệm và bất tín nhiệm; cách thức giám
sát đối với bộ máy hành pháp ở địa phương và Trung ương. Những đề xuất và
thực hiện thí điểm mô hình hợp nhất chức danh bí thư và chủ tịch, bỏ cấp hội
đồng nhân dân trung gian, bầu trực tiếp chức danh chủ tịch UBND các xã và
thị trấn; bỏ hội đồng nhân dân quận và phường, đổi tên UBND thành ủy ban
hành chính và trao quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm cho hội đồng nhân dân cùng
cấp...
Trong thời gian tới chúng ta cần cải cách và đổi mới cách thức tổ chức
chính quyền đô thị bằng những quan điểm và giải pháp sau:
Thứ nhất, Bỏ bớt cơ quan quyền lực cấp trung gian và cấp địa phương
để hội đồng nhân dân thực quyết và thực quyền;
Thứ hai, Giảm đầu mối giám sát, chỉ đạo và tập trung quyền lực cho
chính quyền đô thị cấp trên - cấp có thẩm quyền về ngân sách;
Thứ ba, Tập trung quyền lực cho người đứng đầu đô thị, đồng thời tăng
trách nhiệm giải trình và giám sát;
Thứ tư, Gia tăng thực quyền cho cơ quan giám sát là hội đồng nhân dân.
Những vấn đề quan trọng đó, cần tiếp tục được nghiên cứu, thảo luận, kể
cả việc nghiên cứu, khảo sát kinh nghiệm của nước ngoài để hoàn thiện mô
hình tổ chức chính quyền đô thị nước ta.
21
KẾT LUẬN
Học thuyết pháp trị của Pháp gia nói chung, của Hàn Phi nói riêng, chủ
trương lấy pháp luật làm căn bản trong việc cai trị đất nước, chủ trương nhà
cầm quyền không phải chú trọng nhiều đến việc tu thân theo nghĩa là đặt ra
luật pháp cho rõ ràng và ban bố cho mọi người cũng biết để tuân theo nghiêm
chỉnh. Vì vậy, về nguyên tắc, chủ trương pháp trị đối lập với chủ trương nhân
trị. Nhưng xét cho cùng pháp trị cũng chỉ là một hình thức cụ thể của nhân trị
mà thôi. Trong thời đại bấy giờ, chủ trương của phái Pháp gia dùng pháp luật
để trị nước là đúng đắn. Nhờ vậy, nước Tần đã trở nên hùng mạnh và thống
nhất được Trung Quốc. Nhưng mặt khác, phái này quá nhấn mạnh biện pháp
trừng phạt nặng nề, phủ nhận tình cảm đạo đức, thủ tiêu văn hóa giáo dục…là
đi ngược lại xu hướng phát triển của văn minh nhân loại. Vì vậy, do thực hành
triệt để pháp trị mà nhà Tần đã thống nhất được đất nước và cũng do thực hành
triệt để pháp trị mà nhà tần mất nước. Từ thời Hán về sau, dù Pháp gia không
chính thức được công nhận,nhưng những tư tưởng có giá trị của phái này đã
được các học phái khác hấp thụ để bổ sung, hoàn chỉnh quan điểm của mình.
Tư tưởng chính trị phái Pháp gia vẫn còn nhiều yếu tố có giá trị có thể
vận dụng trong xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở
nước ta hiện nay. Chúng ta phải biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo những yếu tố
tích cực của học thuyết pháp gia về các quan điểm "Pháp", "Thuật", "Thế".
Cần phải xây dựng và sớm hoàn thiện hệ thống luật pháp, tăng cường pháp chế
XHCN; trong công tác tổ chức cần bổ nhiệm cán bộ có trình độ, năng lực và
thật sự dân chủ, khách quan thì mới tuyển chọn được người có tài vào làm việc
tại bộ máy công quyền; tăng cường vị trí, vai trò, quyền lực của thiết chế Chủ
tịch nước, đổi mới, cải cách và xây dựng chính quyền đô thị và nông thôn phù
hợp với xu thế phát triển của đất nước. Kết hợp một cách hài hoà các quan
điểm trên, trong đó cũng phải đề cao đức trị, phát triển sự nghiệp giáo dục, gắn
với xây dựng nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc.
22
Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, của mọi cấp, mọi
ngành và toàn thể nhân dân ta. Mỗi chúng ta hãy nêu cao ý chí cách mạng, tích
cực học tập, lao động sáng tạo để xây dựng nhà nước ta là nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân thực sự trong sạch, vững
mạnh, hiệu quả, đủ năng lực quản lý, điều hành xây dựng nước ta thật sự dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh./.