Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

PHÁT TRIỂN DỊCH vụ BAO THANH TOÁN tại NGÂN HÀNG sài gòn THƯƠNG tín

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.99 KB, 76 trang )

Lời mở đầu:

Kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển và hướng tới mục tiêu trở thành
một nền kinh tế thị trường. Để đạt được mục tiêu đó, Việt Nam đã nổ lực rất nhiều
và để chứng minh cho những nổ lực đó là kể từ ngày 7/11/2006 Việt Nam đã trở
thành viên của Tổ chức thương mại quốc tế - WTO. Tuy nhiên, việc gia nhập
WTO đòi hỏi Việt Nam phải có những thay đổi về thể chế từ việc phải tạo ra một
sân chơi bình đẳng hơn cho các doanh nghiệp đến việc mở rộng cạnh tranh trong
những lĩnh vực dịch vụ quan trọng, đặc biệt là lĩnh vực tài chính – ngân hàng.
Từ nay đến năm 2008, ngành tài chính – ngân hàng Việt Nam sẽ mở cửa hội
nhập mạnh mẽ với khu vực và thế giới. Chính vì thế, đa dạng hóa và phát triển sản
phẩm mới là một trong những chiến lược để tồn tại và phát triển của bất kỳ ngân
hàng nào. Để đạt được mục tiêu đó, các ngân hàng phải nhanh chóng đưa vào áp
dụng những sản phẩm tài chính mới đã được phát triển trên thế giới, trong đó có
nghiệp vụ bao thanh toán – Factoring.
Thật ra bao thanh toán không phải là một nghiệp vụ hoàn toàn mới lạ, những
lợi ích mà bao thanh toán mang lại cho thương mại trong phạm vi quốc gia và trên
thế giới ngày càng được khẳng định và công nhận rộng rãi. Nghiệp vụ này có thể
giúp cho các doanh nghiệp giải quyết phần nào tình trạng thiếu vốn trong ngắn hạn
và trung hạn.
Với những kiến thức về nghiệp vụ bao thanh toán mà tôi đã học ở giảng
đường và qua tiếp xúc thực tế ở ngân hàng, tôi thật sự muốn đóng góp một phần
nhỏ của mình vào việc thúc đẩy sự phát triển của ngân hàng nói chung và ngân
hàng Sài Gòn Thương Tín nói riêng. Điều đó được thể hiện qua đề tài “Các giải

SVTH: Nguyễn Thanh Tú


pháp nhằm triển khai dịch vụ bao thanh toán tại ngân hàng TMCP Sài Gòn
Thương Tín”.
Đề tài gồm có 3 chương:


- Chương 1: Giới thiệu tổng quan về ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín
- Chương 2: Nói về thực trạng dịch vụ bao thanh toán tại Việt Nam và tại
ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín.
- Chương 3: Đưa ra những kiến nghị nhằm góp phần triển khai dịch vụ BTT
tại Sacombank.

Chương 1:

GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ
NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN THƯƠNG TÍN
(SACOMBANK)

1.1 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
1.2 CƠ CẤU TỔ CHỨC
1.3 CÁC HOẠT ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA NGÂN HÀNG:
1.3.1 Hoạt động huy động vốn
1.3.2 Hoạt động cho vay
1.3.3 Hoạt động cung cấp dịch vụ
1.3.4 Hoạt động đầu tư - liên doanh
1.4 NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC:
1.4.1 Tổng tài sản
1.4.2 Vốn chủ sở hữu
1.4.3 Hoạt động huy động vốn

SVTH: Nguyễn Thanh Tú


1.4.4 Hoạt động cho vay
1.4.5 Mạng lưới hoạt động
1.4.6 Hoạt động cung cấp dịch vụ

1.4.7 Kết quả hoạt động kinh doanh
1.4.8 Về các chỉ số tài chính
1.5 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN:

1.1 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Ngày 21/12/1991, Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank)
được chính thức cấp phép họat động trên cơ sở chuyển thể và sát nhập Ngân hàng
phát triển kinh tế Gò Vấp và 3 Hợp tác xã tín dụng : Tân Bình – Thành Công – Lữ
Gia. Khởi đầu, Ngân hàng có mức vốn điều lệ là 2,9 tỷ đồng, 4 điểm giao dịch chỉ
trong phạm vi TP. Hồ Chí Minh và tình hình tài chính, nhân sự không thực mạnh.
02/03/1993 khai trương chi nhánh Sacombank Hà Nội. Sacombank là
NHTMCP có hội sở chính tại TPHCM đầu tiên mở chi nhánh tại Hà Nội. Đồng
thời là NHTMCP đầu tiên thực hiện nghiệp vụ phát hành kỳ phiếu có mục đích để
huy động vốn và dịch vụ chuyển tiền nhanh từ HN đi TPHCM và ngược lại.
07/05/1995 tiến hành Đại hội Đại biểu cổ đông cải tổ, đây là bước ngoặc
quan trọng kể từ ngày thành lập Sacombank. Trong Đại hội này đã có một cuộc
cải tổ lớn trong HĐQT: ông Đặng Văn Thành giữ chức vụ Chủ tịch HĐQT. Đồng
thời thành lập nhóm hoạch định chính sách để tập trung xây dựng chiến lược phát
triển giai đọan 1996-2010.
10/1995 cho vay phân tán theo đề án kết hợp với cho vay tập trung có trọng
điểm là quan điểm chỉ đạo chiến lược về định hướng phát triển tín dụng của
Sacombank sau thời kỳ cải tổ. Đề án thực hiện thành công tại chi nhánh Gò Vấp là
cơ sở cho Sacombank nhân rộng phạm vi thực hiện trên toàn hệ thống và trở thành
tiền đề cho định hướng phát triển tín dụng ngày nay.
03/1996 Đại hội Đại biểu cổ đông Sacombank đã đồng thuận với sáng kiến
của ông Đặng Văn Thành trong việc phát hành cổ phiếu đại chúng để tăng đủ số

SVTH: Nguyễn Thanh Tú



vốn điều lệ là 70 tỷ đồng theo đúng quy định của Chính phủ. Đây là một bước
ngoặc quan trọng của Sacombank, và cũng là lần đầu tiên một Ngân hàng TMCP
duy nhất ở Việt Nam có cơ cấu cổ đông đại chúng.
Năm 1999, Sacombank trở thành thành viên của Hiệp hội viễn thông liên
Ngân hàng toàn cầu (SWIFT), tiếp theo sau đó là gia nhập Hiệp hội thẻ quốc tế
Visa, Master và tiếp nhận được sự ủy thác tín dụng và tài trợ kỹ thuật của nhiều tổ
chức kinh tế tài chính nước ngoài.
Năm 2001, Tập Đoàn Tài Chính Anh Quốc (Dragon Capital) tham gia góp
10% vốn điều lệ, mở đường cho sự tham gia góp vốn cổ phần của công ty Tài
Chính Quốc Tế IFC và Ngân hàng ANZ nâng số vốn cổ phần của các cổ đông
nước ngoài lên gần 30% vốn điều lệ, giúp cho Sacombank có cơ hội tiếp cận và
phát triển nghiệp vụ ngân hàng tiên tiến, nâng cao khả năng quản trị rủi ro, điều
hành hoạt động theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế, hỗ trợ phát triển nguồn nhân
lực chuyên nghiệp.
Năm 2002, thành lập các tổ chức tín dụng ngoài địa bàn ở những nơi chưa có
chi nhánh từ việc thử nghiệm thành công đầu tiên là việc thành lập Tổ chức tín
dụng tại huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương trực thuộc chi nhánh Gò Vấp TPHCM.
06/2004 Sacombank ký kết hợp đồng triển khai hệ thống corebanking T-24
với công ty TEMENOS (Thụy Sỹ), khởi đầu cho quá trình hiện đại hóa công nghệ
ngân hàng của Sacombank trong tiến trình phát triển và hội nhập.
08/03/2005 khai trương họat động Chi nhánh Sacombank 8/3 tại TPHCM đã
gây ấn tượng và thu hút được nhiều khách hàng nữ trong và ngoài nước.
12/07/2006 Ngân hàng Nhà nước và Ủy Ban Chứng khoán Nhà nước chọn
Sacombank là Ngân hàng TMCP đầu tiên được niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm
giao dịch chứng khoán TPHCM với số vốn niêm yết là 1.900 tỷ đồng. Từ đây,cổ
phiếu STB được tự do giao dịch, tính thanh khoản cao hơn và thu hút nhiều nhà
đầu tư hơn. Sacombank có nhiều cơ hội để tăng nhanh vốn điều lệ từ việc phát
hành thêm cổ phiếu thông qua đấu giá trên thị trường chứng khoán, nhất là thời kỳ
hậu WTO.


SVTH: Nguyễn Thanh Tú


15/03/2007 Đại hội cổ đông đánh dấu chặng đường 15 năm hình thành và
phát triển, Sacombank đã chủ động tăng tốc trên nhiều mặt, chuẩn bị cho thời kỳ
cạnh tranh sau hội nhập: tăng trưởng vốn điều lệ ở mức cao nhất, đạt 2.089 tỷ; mở
rộng mạng lưới hoạt động rộng nhất, gần 163 điểm giao dịch ở 38 tỉnh, thành phố;
có đội ngũ các bộ nhân viên gần 3.800 người với chất lượng nhân sự ngày càng
được nâng cao; xây dựng được nhiều mối quan hệ với các nhà đầu tư nước ngoài
để thu hút nguồn vốn ngắn, trung và dài hạn từ FMO, RDF II, SMEDF; đã thiết
lập được quan hệ với 7.900 đại lý và 210 ngân hàng trên 82 quốc gia.
ĐẠI HỘI CỔ ĐÔNG

1.2 CƠ CẤU TỔ CHỨC
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ

BAN KIỂM SOÁT

VĂN PHÒNG
HĐQT

BAN TỔNG GIÁM ĐỐC

KHỐI DỊCH VỤ
DOANH NGHIỆP

Phòng tiếp thị và PT SP DN
Phòng thẩm định DN
Phòng tài trợ thương mại


KHỐI DỊCH VỤ
CÁ NHÂN

Phòng tiếp thị và PT SP CN
Phòng Tín dụng cá nhân
Trung tâm thẻ

KHỐI NGÂN QUỸ

KHỐI ĐIỀU HÀNH

KHỐI HỖ TRỢ

KHỐI CN THÔNG
TIN

Phòng Kinh doanh tiền tệ
Phòng Nguồn vốn
Phòng Đầu tư
Phòng Ngân quỹ và thanh toán
Phòng Kế hoạch
Phòng chính sách
Phòng Tài chính kế toán

Phòng Hành chính quản trị
Phòng Đối ngoại
Phòng Xây dựng cơ bản
Trung tâm đào tạo

Phòng Kỹ thuật hạ tầng

Phòng Quản lý ứng dụng

Phòng Kiểm tra kiểm soát nội bộ
Phòng Nhân sự
Phòng Quản lý rủi ro

SVTH: Nguyễn Thanh Tú

CÁC CHI NHÁNH SỞ GIAO DỊCH THUỘC KHU VỰC
CÁC CÔNG TY TRỰC THUỘC


Các bộ phận trong sơ đồ tổ chức có chức năng và nhiệm vụ như sau:
Cũng như công ty cổ phần, đại hội cổ động của Sacombank là cơ quan
quyền lực cao nhất của ngân hàng. Cụ thể chức năng và nhiệm vụ của các bộ phận
phòng ban như sau:
• Hội đồng quản trị: là bộ phận quản trị toàn ngân hàng.
• Chủ tịch hội đồng quản trị: phụ trách chung bộ phận quản lý ngân hàng
do HĐQT bầu ra, là người thay mặt HĐQT chịu trách nhiệm trước đại
hội cổ đông và pháp luật về chủ trương, đường lối trong mọi hoạt động
kinh doanh, quản trị và điều hành ngân hàng. Chủ tịch HĐQT có nhiệm
vụ sau:
+ Triệu tập và chủ trì các phiên họp HĐQT, các buổi họp của
HĐQT với người đứng đầu bộ máy điều hành hoặc kiểm soát
viên.
+ Triệu tập và tham gia điều khiển các đại hội.
• Phó chủ tịch thứ nhất: thay thế chủ tịch HĐQT trong việc hành xử các
nhiệm vụ và quyền lợi khi chủ tịch HĐQT vắng mặt, phó chủ tịch thứ
nhất được HĐQT phân công trực tiếp phụ trách một hoặc một số mảng
hoạt động của ngân hàng.

• Phó chủ tịch: do HĐQT bầu ra, chịu trách nhiệm trước HĐQT và trước
chủ tịch HĐQT trong lĩnh vực được phân công từ khâu nghiên cứuhoạch định đến khâu nghiên cứu chỉ đạo giám sát quá trình tổ chức thực
hiện của bộ máy điều hành ngân hàng.
• Ủy viên thường trực: là người có kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ
ngân hàng. Ủy viên thường trực do chủ tịch HĐQT đề nghị và được tập
thể HĐQT thông nhất phân công. Ủy viên thường trực có trách nhiệm
cùng với chủ tịch HĐQT điều phối mọi hoạt động của toàn bộ thường
trực HĐQT.

SVTH: Nguyễn Thanh Tú


• Các ủy viên: mỗi ủy viên của HĐQT có chức năng phụ trách các mảng
công tác còn lại, thuộc chức năng quản trị ngân hàng.
• Thư ký HĐQT: là người giúp HĐQT trong việc đều hòa, phối hợp mọi
hoạt động của cơ quan ngân hàng với các thành viên HĐQT giữa các co
quan quản trị với cơ quan kiểm soát, điều hành ngân hàng cùng cổ đong
tại ngân hàng và các đơn vị bên ngoài.
• Các kiểm soát viên: là đội ngũ am hiểu về mặt kỹ thuật, nghiệp vụ ngân
hàng, ít nhất có một kiểm soát viên có chuyên môn về kế toán ngân
hàng. Kiểm soát viên chịu trách nhiệm trườc Đại hội cổ đông và trước
pháp luật nhà nước công tác kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh
doanh, điều hành ngân hàng giữa hai nhiệm kỳ Đại hội cổ đông. Mục
đích kiểm tra của kiểm soát viên để mọi hoạt động của ngân hàng theo
đúng pháp luật của nhà nước, đúng quy định của ngành, đúng nghị
quyết của HĐQT và các quyết định cụ thể của HĐQT nhằm đảm bảo an
toàn và vững chắc của ngân hàng.
• Tổng giám đốc: tốt nghiệp Đại học Kinh tế - Tài chính ngân hàng hoặc
tương đương, có ít nhất 03 năm công tác tại ngân hàng và phải có bãn
lĩnh chính trị vững vàng. Tổng giám đốc là người có trách nhiệm quản

lý và điều hành mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng thông qua việc
phân công và ủy quyền cho phó giám đốc vớivai trò tham mưu theo
ngành và quản lý theo tuyến đường của nghiệp vụ. Tổng giám đốc đồng
thới là người tham mưu cho HĐQT về mặt hoạhc định các mục tiêu,
chính sách của ngân hàng. Tổng giám đốc được quyền từ chối thực hiện
những quyết định của chủ tịch, phó chủ tịch hoặc các thành viên của
HĐQT nếu thấy trái pháp luật, trái quy định.
• Phó giám đốc: tùy theo quy mô địa bàn và nội dung hoạt động, tổng
giám đốc có thể đề nghị HĐQT bổ nhiệm từ hai phó giám đốc trở lên.

SVTH: Nguyễn Thanh Tú


Việc phân công và ủy quyền cụ thể cho các phó giám đốc cho tổng giám
đốc quyết định sau khi đã thông qua HĐQT.
• Các trưởng phòng: phụ trách chuyên môn nghiệp vụ của các phòng như
phìng hành chính tổ chức, kế hoạch đầu tư, tài chính - kế toán.
• Việc đều hành chi nhánh: SACOMBANK có nhiều chi nhánh trực
thuộc, trong đó có chi nhánh trung tâm đặt tại hội sở ngân hàng để tách
hoạt động kinh doanh cụ thể hằng ngày tại hội sở ra khách hàngỏi trách
nhiệm điều hành trực tiếp của tổng giám đốc nhằm giúp tổng giám đốc
và các phòng nghiệp vụ của ngân hàng có điều kiện quản lý và điều
hành mọi hoạt động của toàn ngân hàng. Tại các chi nhánh có các
phòng như: phòng kế hoạch kinh doanh, phòng kế toàn – ngân quỹ,
phòng hành chính quản trị. Mỗi phòng nghiệp vụ ở chi nhánh thực hiện
nghiệp vụ chuyên môn của mình.
• Chức năng và nghiệp vụ của giám đốc chi nhánh: do HĐQT bổ nhiệm
và miễn nhiệm, chịu trách nhiệm trước tổng giám đốc, trước HĐQT,
trước pháp luật trong việc điều hành cà quản lý mọi hoạt động kinh
doanh của chi nhánh và các phòng ban của phòng giao dịch trực thuộc

chi nhánh theo chế độ thủ trưởng một đơn vị hạch toán phụ thuộc.
• Chức năng và nghiệp vụ của trưởng phòng giao dịch của chi nhánh:
trưởng phòng giao dịch của chi nhánh có trách nhiệm thực hiện kinh
doanh tiền tệ, tín dụng của Ủy nhiệm của giám đốc chi nhánh với sự
chuẩn y của tổng giám đốc SACOMBANK trong phạm vi giới hạn nhất
định tùy theo nhu cầu của thị trường nơi phòng giao dịch đặt tại.

SVTH: Nguyễn Thanh Tú


1.3 CÁC HOẠT ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA NGÂN HÀNG
Cũng như các ngân hàng TMCP khác, Sacombank cũng hoạt động như một
định chế tài chính trung gian, là trung gian đáp ứng các nhu cầu dịch vụ của khách
hàng cũng như sử dụng nguồn vốn từ kết quả hoạt động kinh doanh để tiếp tục đầu
tư kinh doanh. Các hoạt động cơ bản của hệ thống Sacombank có thể tóm lược
thành các hoạt động chính sau:
1.3.1 Hoạt động huy động vốn:
Là hoạt động mang lại nguồn tiền chủ yếu giúp ngân hàng có cơ sở thực
hiện các hoạt động kinh doanh khác
- Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn dưới các hình thức tiền gửi có
kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn và chứng chỉ tiền gửi.
- Vay vốn của Ngân hàng Nhà nước và từ các Tổ chức tín dụng khác.
- Tiếp nhận nguổn vốn đầu tư phát triển từ Nhà nước hoặc tiếp nhận các nguồn
vốn ủy thác đầu tư từ các tổ chức kinh tế trong nước và quốc tế như FMO, RDF II,
SMEDF,…
1.3.2 Hoạt động cho vay:
Đây là hoạt động mang lại nguồn lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng, hoạt
động cho vay của ngân hàng chủ yếu bao gồm các hoạt động sau:
- Phân chia theo thời hạn cho vay, có 3 loại sản phấm cho vay bao gồm sản
phẩm cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.

+ Cho vay ngắn hạn: thời gian cho vay dưới 12 tháng
+ Cho vay trung hạn: thời gian cho vay từ 12 tháng đến 60 tháng

SVTH: Nguyễn Thanh Tú


+ Cho vay dài hạn: thời gian cho vay lớn hơn 60 tháng
- Phân chia theo hình thức cho vay, có 2 loại sản phẩm cho vay bao gồm cho
vay theo món và cho vay theo hạn mức.
- Phân chia theo đối tượng cho vay, có 3 loại sản phẩm cho vay bao gồm cho
vay cá nhân, cho vay doanh nghiệp và cho vay tập thể hay Hợp tác xã.
1.3.3 Hoạt động cung cấp dịch vụ:
Ngân hàng ngày càng chú trọng đến các loại hình hoạt động này vì các hoạt
động dịch vụ thường mang lại cho Ngân hàng nguồn lợi không nhỏ trong khi
không có rủi ro. Các hoạt động dịch vụ đã được Sacombank triển khai trong thời
gian vừa qua là:
- Dịch vụ thanh toán quốc tế dưới các hình thức mở thư tín dụng (L/C) cho
khách hàng, thu hộ bằng D/P và D/A, chi hộ bằng T/T và M/T, tài trợ xuất khẩu,

- Dịch vụ kinh doanh ngoại tệ và vàng bạc với các nghiệp vụ phái sinh liên
quan như swap, future, option,…
- Dịch vụ chuyển tiền.
- Một số hoạt động dịch vụ khác như: bảo lãnh, phát hành và chấp nhận thẻ,
các hoạt động chi hộ, quản lý ngân quỹ, e-banking (SMS, SMA), …
1.3.4 Hoạt động đầu tư - liên doanh:
Sacombank hiện đã đầu tư xây dựng một số công ty trực thuộc chuyên
doanh một số sản phẩm chủ yếu như:
- Công ty quản lý Nợ và khai thác tài sản - AMC

SVTH: Nguyễn Thanh Tú



- Công ty Chứng khoán Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín - SBS
- Công ty địa ốc Sài Gòn Thương Tín - Sacomreal
- Công ty Kinh doanh Kiều hối Sài Gòn Thương Tín - Sacomrex
- Công ty Cho thuê Tài Chính Sài Gòn Thương Tín - Sacom Leasing
- Trung Tâm thẻ Sài Gòn Thương Tín
Ngoài ra Sacombank còn liên doanh thành lập công ty Liên doanh Quản
lý Quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam - VMF với tỷ lệ góp vốn là 51%. Thời gian
sắp tới, Sacombank dự kiến sẽ tiếp tục thành lập một số công ty liên doanh khác
như công ty liên doanh vàng, công ty liên doanh thẻ, công ty liên doanh bảo hiểm,

1.4 NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC
1.4.1 Tổng tài sản:
Tổng tài sản dến cuối năm đạt 24.776 tỷ đồng, tăng 71,4% so với năm
trước. Tổng tài sản tăng 7,9 lần so với năm 2001, với tốc độ tăng bình quân hàng
năm là 52%. Cơ cấu tổng tài sản được cấu trúc hài hòa nhằm đảm bảo tình sinh
lời cao nhưng vẫn đảm bảo khả năng thanh khoản. Trong tổng tài sản, tài sản có
sinh lời chiếm tỷ trọng 82,5%.

SVTH: Nguyễn Thanh Tú


Biểu đồ 1: Biểu đồ tổng tài sản giai đoạn 2001 - 2006

1.4.2 Vốn chủ sở hữu:
Đến cuối năm 2006, vốn điều lệ của Ngân hàng là 2.089 tỷ đồng, tăng
67,2% so với đầu năm và tăng 11 lần so với năm 2001, với tốc độ tăng trưởng
hàng năm là 62,3%. Cơ cấu góp vốn của các đối tác chiến lược nước ngoài chiếm
30% theo đúng quy định của NHNN.

Vốn chủ sở hữu đạt 2.870 tỷ đồng, chiếm 11,6% trên tổng nguồn vốn, tăng
52,1% so với đầu năm, gấp 13,25 lần so với năm 2001, đạt tốc độ tăng bình quân
hàng năm là 69,9%.

SVTH: Nguyễn Thanh Tú


Biểu đồ 2: Biểu đồ vốn điều lệ giai đoạn 2001 - 2007

1.4.3 Hoạt động huy động vốn:
Đến cuối năm 2006, tổng nguồn huy động (quy ra VND) của Ngân hàng
đạt 21.338 tỷ đồng, trong đó, huy động VND chiếm tỷ trọng 72%, huy động vàng
chiếm tỷ trọng 12%, huy động ngoại tệ chiếm tỷ trọng 16%.
Cũng như các Ngân hàng khác, hoạt động huy động vốn chủ yếu của
Sacombank là huy động tiền gửi tiết kiệm từ dân cư. Đến nay, sản phẩm tiền gửi
của Ngân hàng đã phong phú, đa dạng hơn với hàng loạt sản phẩm, hàng chục kỳ
hạn, phục vụ cho mọi đối tượng khách hàng từ tổ chức đến dân cư. Việc giao dịch
không chỉ được thực hiện tại quầy mà còn có thể thực hiện tại nhà, tại đơn vị hay
qua mạng internet theo yêu cầu của khách hàng.
Bên cạnh đó, Ngân hàng cũng tăng cường mở rộng mối quan hệ với các
tổ chức, định chế nước ngoài nhằm tiếp cận nguồn vốn ủy thác đầu tư trung và dài
hạn. Đến nay, nguồn vốn này chiếm tỷ trọng xấp xỉ 1% trong tổng nguồn vốn.

SVTH: Nguyễn Thanh Tú


Biểu đồ 3: Biểu đồ nguồn vốn huy động giai đoạn 2001 - 2006

1.4.4 Hoạt động cho vay:
Tính tới thời điểm 31/12/2006, tổng dư nợ cho vay (quy ra VND) của

Sacombank đạt 14.394 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 58,4% trong tổng tài sản. Trong đó
cho vay bằng VND chiếm tỷ trọng 78,9%, cho vay bằng ngoại tệ chiếm tỷ trọng
21,1%. Tỷ lệ nợ quá hạn (nợ nhóm 2 đến nhóm 5) chiếm 0,95% tổng dư nợ cho
vay. Dự phòng rủi ro tín dụng tại thời điểm 31/12/2006 là 81 tỷ đồng, trong đó dự
phòng cụ thể xấp xỉ 22 tỷ đồng. Bên cạnh các giải pháp trên nhằm làm tăng sự an
toàn và lành mạnh trong hoạt động tín dụng, Ngân hàng cũng hiện đại hoá và tăng
cường sử dụng các công cụ xếp hạng và quản lý tín dụng nhằm hạn chế tối đa các
rủi ro tín dụng.

SVTH: Nguyễn Thanh Tú


Biểu đồ 4: Biểu đồ dư nợ cho vay giai đoạn 2001 - 2006

1.4.5 Mạng lưới hoạt động:
Sacombank là một trong những Ngân hàng TMCP có mạng lưới hoạt
động rộng khắp, phân bố tại khắp các vùng kinh tế trọng điểm trên cả nước. Tính
tới thời điểm đầu tháng 04/2007, toàn hệ thống Sacombank có 108 phòng giao
dịch và 53 chi nhánh hiện diện tại 38/64 tỉnh thành trên cả nước. Ngoài ra,
Saombank còn thiết lập được quan hệ với 7.900 đại lý và 210 ngân hàng trên 82
quốc gia. Mạng lưới này một mặt tạo điều kiện thuận lợi hơn cho Sacombank phát
triển các dịch vụ Ngân hàng, đặc biệt là các dịch vụ thanh toán không dùng tiền
mặt, chuyển tiền, thanh toán quốc tế… mặt khác lại giúp Ngân hàng quảng bá và
khẳng định thương hiệu trên thị trường tài chính.
1.4.6 Hoạt động cung cấp dịch vụ:
Thanh toán quốc tế: tổng doanh số thanh toán quốc tế của Sacombank
trong năm 2006 đạt 1.917.886.000 USD tăng 26% so với năm 2005. Thiết lập
được mối quan hệ với hàng ngàn đại lý tại nhiều quốc gia trên khắp các châu lục,
tham gia Hiệp hội viễn thông Liên ngân hàng toàn cầu (SWIFT), từ đó, nâng cấp


SVTH: Nguyễn Thanh Tú


dịch vụ, rút ngắn thời gian thanh toán, nâng cao uy tín hoạt động của Ngân hàng.
Vừa qua, Asia Money - Một tạp chí hàng đầu với các giải thưởng châu Á trong
lĩnh vực Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng bán lẻ và Ngân hàng thương mại đã trao
giải thưởng "Ngân hàng có dịch vụ ngoại hối tốt nhất Việt Nam năm 2006" cho
Sacombank vì các thành tích trong lĩnh vực thanh toán quốc tế và ngoại hối.
Kinh doanh ngoại tệ: thu nhập ròng từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ của
Sacombank năm 2006 đạt 4,178 tỷ đồng. Bên cạnh đó, Sacombank cũng chú trọng
đẩy mạnh các nghiệp vụ phái sinh liên quan như nghiệp vụ hoán đổi (SWAP), kỳ
hạn (FUTURE), quyền chọn (OPTION), giao ngay (SPOT),… nhằm góp phần đa
dạng hóa sản phẩm đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Dịch vụ chuyển tiền: hoạt động chuyển tiền của Ngân hàng đã có chỗ
đứng và ngày càng khẳng định được vị thế thể hiện qua doanh số ngày càng tăng
nhờ mạng lưới rộng khắp và dày đặc. Trong 09 tháng đầu năm 2006, tổng doanh
số chuyển tiền của Ngân hàng xấp xỉ 80 ngàn tỷ đồng.
Các dịch vụ khác: Các dịch vụ khác như cho thuê ngăn tủ, thu hộ, chi hộ,
quản lý ngân quỹ, tư vấn đầu tư, e-banking cũng đã được triển khai và đã thu được
những kết quả nhất định.

SVTH: Nguyễn Thanh Tú


1.4.7 Kết quả hoạt động kinh doanh:
Kết quả hoạt động kinh doanh của Sacombank trong thời gian qua luôn tăng
với tỷ trọng cao. Năm 2006 là năm Sacombank đạt mức lợi nhuận cao nhất từ
trước tới nay. Lợi nhuận trước thuế đạt 611,33 tỷ đồng, tăng 95,4% so với năm
trước, bằng 15,5 lần so với năm 2001 và đạt mức tăng trưởng bình quân hàng năm
trong giai đoạn 2001 – 2006 là 74%.

Biểu đồ 5: Biểu đồ lợi nhuận trước thuế giai đoạn 2001 - 2006

1.4.8 Về các chỉ số tài chính:
Tỷ suất sinh lợi trên vốn điều lệ và quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ (ROE)
bình quân là 20,56%, xấp xỉ với năm trước;
Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) bình quân là 2,08%, cao hơn năm
trước (1,85%);
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 11,82% (>8%) theo quy định của NHNN;
Tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn 15,54% (<40% theo quy
định của NHNN);

SVTH: Nguyễn Thanh Tú


Mặc dù tổng tài sản và vốntự có tăng nhanh, nhưng các tỷ số tỷ suất sinh lợi
vẫn duy trì khá tốt, ngang bằng và cao hơn năm trước, các tỷ lệ an toàn vốn đảm
bảo theo quy định của NHNN. Cho thấy Sacombank phát triển ổn định, bền vững
và chấp hành tốt các chủ trương chính sách của Nhà nước.
Sau 15 năm hoạt động, Sacombank đã từng bước khẳng định thương hiệu và
đoạt nhiều giải thưởng do Chính phủ Việt Nam và các tập đoàn tài chính quốc tế
uy tín trao tặng: Ngọn Hải Đăng, Thương hiệu Việt nổi tiếng, Doanh nghiệp
Việt Nam uy tín chất lượng, Ngân hàng tốt nhất tại Việt Nam trong cho vay các
doanh nghiệp vừa và nhỏ do SMEDF bình chọn, Ngân hàng có dịch vụ ngoại
hối tốt nhất Việt Nam do các định chế tài chính khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương bình chọn, thực hiện xuất sắc thanh toán quốc tế do tập đoàn City
Group trao tặng.
1.5 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN:
Nhìn lại chặng đường 15 năm đã qua, Sacombank có thể tự hào về những
thành tựu đạt được. Để đạt được những thành tựu đó thì không thể không có:
- Một định hướng, chiến lược phát triển đúng đắn, mang tính dự báo;

- Một tập thể cán bộ nhân viên đoàn kết, đồng tâm hợp sức, dám nghĩ dám
làm vì một mục tiêu chung: “Phát triển vì lợi ích Ngân hàng”;
- Sự hậu thuẫn, hỗ trợ to lớn từ phía các cổ đông, từ các cấp lãnh đạo thẩm
quyền…
Tất cả những yếu tố: “thiên thời, địa lợi, nhân hoà” này đã, đang và sẽ tiếp
tục là tiền đề cho sự phát triển của Sacombank trong thời gian tới, hướng đến một
chu kỳ phát triển mới trong bối cảnh hội nhập mà ở đó Sacombank tự tin vững
bước trên con đường tiến tới mục tiêu: “Ngân hàng bán lẻ - đa năng - hiện đại nhất
Việt Nam” và phấn đấu để trong giai đoạn 10 năm tiếp theo sẽ hình thành một tập
đoàn Tài chính đa chức năng, đa sở hữu mà trong đó Sacombank là một đơn vị hạt
nhân.


MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN KINH DOANH 2007

SVTH: Nguyễn Thanh Tú


- Tổng tài sản:
Tăng nhanh quy mô vốn để phát triển hoạt động. Dự kiến năm 2007, tổng tài sản
của ngân hàng đạt trên 40.000 tỷ đồng, tăng hơn 70% so với năm trước.
- Vốn điều lệ:
Tiếp tục tăng cường năng lực tài chính qua việc tăng vốn điều lệ bằng việc trả cổ
tức bằng cổ phiếu và phát hành cổ phiếu mới. Dự kiến vốn điều lệ đạt mức 4.450 tỷ đồng
vào cuối năm, tăng xấp xỉ 113% so với năm 2006.
- Nguốn vốn huy động từ khách hàng:
Đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động bằng các giải pháp chủ yếu: (i)
xây dựng chính sách thu hút tiền gửi thanh toán, (ii) cải tiến, hoàn thiện các sản phẩm
tiền gửi hiện có, song song (iii) phát triển các sản phẩm mới dựa trên việc ứng dụng công
nghệ ngân hàng hiện đại. Dự kiến vốn huy động tăng 65% so với năm 2006. Trong đó

nguồn vốn có lãi suất thấp phấn đấu đạt từ 20% - 25%.
- Cho vay khách hàng:
Đẩy mạnh mở rộng thị phần với sự tăng trưởng tín dụng một cách hợp lý, thận
trọng nhằm giảm thiểu rủi ro. Với các biện pháp:
(i). Xây dựng chính sách khách hàng vay vốn theo định hướng ngân hàng bán lẻ;
(ii). Hoàn thiện chính sách và quy trình tín dụng, xây dựng danh mục cho vay;
(iii). Cải tiến, phát triển sản phẩm cho vay phù hợp với từng địa bàn, tầng lớp dân cư;
(iv). Chuẩn hóa chính sách kiểm soát rủi ro;
(v). Nâng cao nghiệp vụ đội ngũ nhân viên tín dụng và thẩm định.
Dự kiến dư nợ tín dụng tăng khoảng 61% so với năm trước. Tỷ lệ nợ quá hạn luôn
được khống chế ở mức dưới 2%
- Hoạt động dịch vụ:
Chú trọng giảm dần tỷ lệ cho vay trên tổng nguồn vốn huy động thông qua đầu tư
vào các lĩnh vực khác nhau. Bên cạnh đó, chú trọng đa dạng hóa hoạt động dịch vụ, nhất
là hoạt động kinh doanh tiền tệ, chuyển tiền, thẻ và các dịch vụ tài chính ngân hàng hiện
đại với phương thức bán hàng tiên tiến và đội ngũ bán hàng chuyên nghiệp.
- Lợi nhuận:
Tiếp tục duy trì và gia tăng tỷ lệ thu nhập phi tín dụng trên tổng thu nhập của
ngân hàng, bao gồm: thu dịch vụ, thu phi tín dụng và thu khác thông qua chất lượng ngày

SVTH: Nguyễn Thanh Tú


càng nâng cao. Dự kiến tốc độ tăng trưởng lợi nhuận trước thuế không dưới 120% so với
năm 2006. Phấn đấu mức thu nhập từ phi tín dụng chiếm trên 30% trên tổng thu nhập
ngân hàng.
- Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng:
Tiếp tục đầu tư, hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, hoàn tất việc triển khai phần
mềm lõi T24 trên toàn hệ thống mạng lưới, giúp tăng cường khả năng quản lý, điều hành
cũng như tạo điều kiện cho việc phát triển các sản phẩm dịch vụ trên nền tảng ứng dụng

công nghệ ngân hàng hiện đại.
- Mở rộng mạng lưới:
Tiếp tục đầu tư mở rộng mạng lưới, chủ động chiếm lĩnh và mở rộng thị trường,
tăng thị phần. Dự kiến đến cuối năm 2007, mạng lưới của Sacombank trải dài khắp mọi
miền đất nước khoảng 220 điểm, phủ sóng đến 44/64 tỉnh thành trên cả nước.
- Phát triển nguồn nhân lực:
Nâng cấp chất lượng nguồn nhân lực; Xây dựng và phát triển đội ngũ nhân viên
năng động chuyên nghiệp, gắn bó với ngân hàng thông qua chính sách tuyển dụng tiên
tiến, đào tạo và tái đào tạo cùng chính sách đãi ngộ thích hợp mang tính cạnh tranh cao.
Dự kiến số lượng cán bộ nhân viên khoảng 4.700 người vào cuối năm 2007.

2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BAO THANH TOÁN:
2.1.1 Lịch sử hình thành sản phẩm bao thanh toán (BTT)
Nghiệp vụ BTT có lịch sử phát triển lâu dài, xuất phát từ hoạt động đại lý
hưởng hoa hồng khoảng 2000 năm trước dưới thời đế chế La Mã, phát triển ở Anh
vào thế kỷ 15 dưới hình thức ứng trả trước một phần cho người ủy nhiệm (nhà
cung ứng sản phẩm), và phát triển mạnh từ thế kỷ 19 thông qua các nhà đại lý
thanh toán ngành dệt may của Mỹ, ngành công nghiệp điện, hóa chất, sợi tổng
hợp…Với lịch sử lâu đời nên định nghĩa nghiệp vụ BTT cũng hết sức đa dạng.
Theo công ước về BTT quốc tế của UNIDROIT 1988, nghiệp vụ BTT được
định nghĩa như là một dạng tài trợ bằng việc mua bán các khoản nợ ngắn hạn
trong giao dịch thương mại giữa tổ chức tài trợ và bên cung ứng. Theo đó, tổ chức
tài trợ thực hiện tối thiểu hai trong số các chức năng sau: Tài trợ bên cung ứng
(gồm cho vay và ứng trước tiền), quản lý sổ sách liên quan đến các khoản phải

SVTH: Nguyễn Thanh Tú


thu, thu nợ các khoản phải thu, bảo đảm rủi ro không thanh toán của bên mua
hàng.

Còn hiệp hội BTT thế giới FCI thì định nghĩa BTT là một loại hình dịch vụ
tài chính trọn gói bao gồm sự kết hợp giữa tài trợ vốn hoạt động, bảo hiểm rủi ro
tín dụng, theo dõi các khoản phải thu và dịch vụ thu hộ. Đó là một sự thỏa thuận
giữa người cung cấp dịch vụ BTT (factor) với người cung ứng hàng hóa dịch vụ
hay còn gọi là người bán hàng trong quan hệ mua bán hàng hóa (seller). Theo như
thỏa thuận factor sẽ mua lại các khoản phải thu của người bán dựa trên khả năng
trả nợ của người mua trong quan hệ mua bán hàng hóa (buyer) hay còn gọi là con
nợ trong quan hệ tín dụng (debtor).
Ngoài ra, đối với một số tổ chức cung cấp dịch vụ BTT khác thì nghiệp vụ
BTT được định nghĩa là việc mua lại các khoản phải thu, hay việc cung cấp tài trợ
tài chính ngắn hạn thông qua việc trả các khoản phải thu ngay lập tức bằng tiền
mặt để cải thiện dòng ngân lưu của khách hàng (clients) đồng thời nhận lấy rủi ro
tín dụng. Các dịch vụ đi kèm gồm có quản lý nợ, quản lý sổ cái bán hàng, xếp
hạng hạn mức tín dụng và thu hộ.
Trong một nghiệp vụ BTT thông thường sẽ có sự xuất hiện của ít nhất ba bên: tổ
chức BTT (factor), khách hàng của tổ chức BTT (client hay seller) và con nợ của
tổ chức BTT (debtors hay buyers). Đối với các loại BTT xuất nhập khẩu thì sẽ có
hai đơn vị BTT, một đơn vị ở nước của nhà xuất khẩu và một đơn vị ở nước của
nhà nhập khẩu. Ngoài ra, khi một khách hàng ký kết hợp đồng thực hiện nghiệp vụ
BTT đối với factor, họ sẽ bán không phải là một mà một số các khoản phải thu từ
nhiều khách hàng khác nhau, cho nên trong một nghiệp vụ BTT có thể có rất nhiều
con nợ của factor.
2.1.2 Khái niệm và chức năng của nghiệp vụ bao thanh toán
2.1.2.1 Khái niệm:

SVTH: Nguyễn Thanh Tú


Theo Hiệp hội BTT quốc tế (FCI), BTT là một dịch vụ tài chính trọn gói,
kết hợp việc tài trợ vốn lưu động, phòng ngừa rủi ro tín dụng, theo dõi công nợ và

thu hồi nợ. Đó là sự thỏa thuận giữa đơn vị BTT và người bán, trong đó đơn vị
BTT sẽ mua lại khoản phải thu của người bán, thường là không truy đòi, đồng thời
có trách nhiệm đảm bảo khả năng chi trả của người mua. Nếu người mua phá sản
hay mất khả năng chi trả vì những lý do tín dụng thì đơn vị BTT sẽ thay người
mua trả tiền cho người bán. Khi người mua và người bán ở hai nước khác nhau thì
dịch vụ này được gọi là BTT quốc tế.
Theo Điều 1 Những quy định chung về hoạt động BTT quốc tế ấn bản tháng
06/2004 của FCI (General Rules for International Factoring Verion FCI June
2004), hợp đồng BTT là một hợp đồng, theo đó nhà cung cấp sẽ chuyển nhượng
các khoản phải thu (hay một phần của các khoản phải thu) cho một đơn vị BTT, có
thể vì hoặc không vì mục đích tài trợ, để thực hiện ít nhất một trong các chức năng
sau đây:
- Kế toán sổ sách các khoản phải thu;
- Thu nợ các khoản phải thu;
- Phòng ngừa rủi ro nợ xấu.
Theo điều 2 Chương I Công ước UNIDROIT về BTT quốc tế (UNIDROIT
Convention on International Factoring) định nghĩa: BTT là một dạng tài trợ bằng
việc mua bán các khoản nợ ngắn hạn trong giao dịch thương mại giữa tổ chức tài
trợ và bên cung ứng, theo đó tổ chức tài trợ thực hiện tối thiểu hai trong số các
chức năng sau: tài trợ bên cung ứng gồm cho vay và ứng trước tiền, quản lý sổ
sách liên quan đến các khoản phải thu, thu nợ của các khoản phải thu, bảo đảm rủi
ro không thanh toán của bên mua hàng.
Đối với một số tổ chức cung cấp dịch vụ BTT khác thì nghiệp vụ này được
định nghĩa là việc mua lại các khoản phải thu hay việc cung cấp tài trợ tài chính
ngắn hạn thông qua việc trả các khooản phải thu ngay lập tức bằng tiền mặt để cải
thiện dòng ngân lưu của khách hàng (client) đồng thời nhận lấy rủi ro tín dụng (rủi
ro khi người mua không thanh toán, người mua không nhận hàng…). Các dịch vụ

SVTH: Nguyễn Thanh Tú



đi kèm gồm có: quản lý nợ, quản lý sổ cái bán hàng, xếp hạng hạn mức tín dụng
và thu hộ.
Theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ban hành ngày 06/09/2004 của
Thống đốc NHNN, BTT là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho
bên bán hàng thông qua việc mua bán các khoản phải thu phát sinh từ việc mua
bán hàng hóa giữa bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua
bán.
BTT là sự tổng hợp tính chất của các hoạt động tài trợ cho người bán, tài
trợ dựa trên hóa đơn, tài trợ thương mại hay chiết khấu hóa đơn.
Về cơ bản, BTT là hình thức cho vay ngắn hạn, trong đó người cho vay
được đảm bảo bằng cách nắm giữ quyền được đòi khoản phải thu của người đi
vay.
Nói tóm lại, BTT được hiểu là sự chuyển nhượng nợ của người mua
hàng (con nợ) từ người bán hay cung ứng dịch vụ (chủ nợ cũ) sang đơn vị
BTT (chủ nợ mới). Đơn vị BTT đảm bảo việc thu nợ, tránh các rủi ro không
trả nợ hoặc không có khả năng trả nợ của người mua. Đơn vị BTT có thể trả
trước toàn bộ hay một phần các khoản nợ của người mua cùng với một khoản
hoa hồng tài trợ và phí thu nợ. Mọi rủi ro không thu được tiền hàng đều do
người tài trợ gánh chịu.
Ngoài ra, nghiệp vụ BTT còn bao gồm một số dịch vụ như quản lý tài
khoản phải thu của khách hàng, cung cấp các thông tin kinh tế, tiền tệ, tín dụng và
thương mại nhằm tăng thu và giữ tốt quan hệ với khách hàng lâu dài.
2.1.2.2 Chức năng:
Nghiệp vụ BTT có 3 chức năng cơ bản là chức năng dịch vụ thanh toán, chức năng
tài chính và chức năng bảo hiểm rủi ro tín dụng.
a/ Chức năng dịch vụ thanh toán
Tổ chức BTT sẽ đảm bảo mọi nhiệm vụ BTT cho người mua về những
khoản thanh toán chuyển nhượng, đảm nhiệm nghiệp vụ nhờ thu hoặc thông báo
cho người mua giải quyết những vướng mắc trong hoạt động BTT. Như vậy tổ


SVTH: Nguyễn Thanh Tú


chức BTT phải thực hiện tất cà những nghiệp vụ ngân hang phục vụ cho khách
hang (người bán). Tổ chức BTT còn thực hiện chức năng kiểm tra và giám sát khả
năng thanh toán của người mua, thống kê kế hoạch sản xuất và doanh thu cho
người bán, xác định thuế suất và thuế doanh thu. Qua đó chúng ta có thể coi BTT
như là một nhà tài chính, NH phục vụ đắc lực cho người bán.
b/ Chức năng tài chính
Tổ chức BTT đảm nhiệm chức năng tài chính tín dụng cung ứng cho người
mua. Cụ thể là tổ chức BTT sẽ thực hiện 2 nghiệp vụ tài chính ứng trước và chiết
khấu.
• Nghiệp vụ ứng trước: cho dù hợp đồng BTT được ký kết từ trước, nhưng
ngày có hiệu lực là ngày thanh toán theo định kỳ thanh toán của người mua. Do đó
muốn sử dụng vốn trước ngày này, người bán có thể vay tín dụng của tổ chức
BTT. Tổng mức tín dụng này không phụ thuộc vào khả năng thanh toán của người
mua, trung bình từ 70 – 90% giá trị khoản phải thu. Đây cũng là điều khác với các
loại tín dụng ứng trước thong thường. Hình thức tín dụng này được thực hiện như
tín dụng luân chuyển và người bán trả lãi suất cho khoản tín dụng này như lãi suất
luân chuyển thông thường và hạn mức từ 70 – 90% khoản thanh toán. Nhưng vì
đây là hợp đồng mua bán các khoản thanh toán, nếu xét về lý thì sau khi xuất hang
ngưới bán có quyền bán các khoản phải thu này theo giá thỏa thuận nhưng làm
như vậy người bán sẽ phải trả một cái giá quá đắt. Thông thường để tạo diều kiện
cho người bán đồng thời khuyến khích người bán sử dụng dịch vụ BTT, các tổ
chức BTT đưa số lượng thanh toán còn lại tử 10 – 30% của các khoản phải thu vào
tài khoản tiền gửi của người bán. Người bán cũng được hưởng lãi suát từ khoản
tiền gửi này cho đến khi người mua thanh toán. Khi người mua thanh toán và tổ
chức BTT nhận được khoản thanh toán này thì khi đó tổ chức BTT sẽ thu hồi
khoản tín dụng ứng trước cộng với lệ phí BTT (bao gồm lệ phí hợp đồng, lệ phí

dịch vụ, lệ phí rủi ro) và lãi suất tín dụng ứng trước nếu có. Số còn lại cộng với lãi
suất từ các khoản tiền gửi sẽ được trả cho người bán.

SVTH: Nguyễn Thanh Tú


Qua đó cho thấy, BTT thể hiện ưu thế của nó hơn các khoản tín dụng khác.
Nó tạo điều kiện thuận lợi cho người bán trong vấn đề vốn kinh doanh. Phần lãi từ
tài khoản tiền gửi đã giảm bớt lãi suất vốn vay – một khoản tiền gửi thực chất là
chưa có nguồn. Đó là điều vô lý. Nhưng không có nó thì không xảy ra hành vi
mua bán các khoản thanh toán nữa, phải chăng đây là một nghệ thuật NH. Hơn thế
nữa, tài khoản tiền gửi là cơ sở bảo đảm an toàn cho NH (tổ chức BTT) một khi sự
cung ứng không bảo đảm đủ điều kiện của hợp đồng thương mại.
• Nghiệp vụ chiết khấu: Với hình thức này, người bán có thể bán tất cả các
chứng từ thanh toán và vận chuyển cho tổ chức BTT và nhận tiền ngay tức khắc.
Nhưng tỷ lệ chiết khấu khá cao (từ 10 – 30%) và phụ thuộc vào khả năng thanh
toán của người mua. Hay nói cách khác tỷ lệ này bao hàm cả lệ phí rủi ro và lãi tín
dụng kể từ ngày mua cho tới ngày định kỳ thanh toán.
Để được chiết khấu các khoản thanh toán, người bán phải thực hiện các biện
pháp cần thiết để chống lại các rủi ro có thể xảy ra và phải nộp lệ phí cho dịch cụ
này. Do đó nghiệp vụ chiết khấu không ưu việt như nghiệp vụ ứng trước tài chính
và không phải thong dụng trong hoạt động BTT. Tuy vậy nó cũng có ưu thế hơn
nghiệp vụ chiết khấu của tín dụng chứng từ, vì đây là nghiệp vụ chiết khấu không
bảo lưu, trong khi chiết khấu hối phiếu trong hoạt động tín dụng thư được phép
truy đòi người phát hành hối phiếu.
c/ Bảo hiểm rủi ro tín dụng
Với chức năng này, các tổ chức BTT đảm nhiệm những rủi ro do khả năng
không thanh toán của người mua. Nhưng rủi ro này xảy ra một khi người mua
không có đủ khả năng thanh toán trong một thời hạn quy định và khi đó tổ chức
BTT không có quyền truy đòi đối với người bán.

Khác với bảo hiểm hàng hóa khác, các nhà BTT phải gánh chịu mọi rủi ro (ví
dụ rủi ro phá sản…) mà không được đòi hỏi người bán phải gánh chịu một phần.
Do đó chúng ta có thể coi đây là sự bảo đảm tuyệt đối. Nhưng tổ chức BTT chỉ
gánh chịu những rủi ro do người mừ a gây ra mà không gánh chịu những rủi ro về
chính trị cũng như những rủi ro chủ quan về người bán.

SVTH: Nguyễn Thanh Tú


×