Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam’

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.02 KB, 25 trang )

1
PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong BLTTHS Việt Nam năm 2003, người tham gia TTHS co
nhiều loại khác nhau và trong khoa học pháp lý cũng chưa co sư
thống nhất triệt để. Tuy nhiên thưc tế cho thấy, co người trong hoạt
động TTHS thì co quyền tham gia, co người co nghĩa vụ phải tham
gia và co người tham gia chỉ nhằm bảo đảm pháp chế XHCN. Trong
đo, người tham gia TTHS theo nghĩa vụ pháp lý thường ở vị thế yếu
trong hoạt động TTHS. Cho nên, bảo đảm quyền của người TGTT
theo nghĩa vụ pháp lý là vấn đề quan trọng gop phần giúp cơ quan
THTT giải quyết VAHS được khách quan, thuận lợi và đúng pháp
luật. Thưc tiễn giải quyết VAHS trong những năm qua cho thấy, mặc
dù BLTTHS đã co những quy định về quyền của người TGTT theo
nghĩa vụ pháp lý nhưng vẫn còn những bất cập và chưa co những quy
định cần thiết để bảo đảm thưc hiện co hiệu quả. Thưc tiễn bảo đảm
quyền của người TGTT chủ yếu chỉ thưc hiện được đối với bị can, bị
cáo mà chưa co sư quan tâm đúng mức đến việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người TGTT khác, trong đo co ngườiTGTT theo
nghĩa vụ pháp lý.
Mặt khác các quy định của pháp luật noi chung và pháp luật
TTHS noi riêng về vấn đề bảo đảm quyền của người TGTT theo
nghĩa vụ pháp lý còn nhiều bất cập. Các cơ quan THTT, mặc dù đã
co nhiều cố gắng trong việc bảo đảm quyền của người TGTT theo
nghĩa vụ pháp lý nhưng vẫn còn những vi phạm ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, chưa bảo đảm thưc hiện
đúng đắn quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS


2
Việt Nam. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định về


quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý chưa hoàn thiện; các
văn bản hướng dẫn chưa đầy đủ, kịp thời, thiếu thống nhất; chưa co
cơ chế thưc thi pháp luật bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa
vụ pháp lý một cách đồng bộ. Nhận thức của người THTT và sư thưc
hiện của cơ quan THTT về bảo đảm quyền của người TGTT theo
nghĩa vụ pháp lý còn hạn chế. Người TGTT luôn ở vị thế yếu nên ít
quan tâm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, cho nên việc nghiên
cứu làm sáng tỏ vấn đề lý luận và thưc tiễn bảo đảm quyền của người
TGTT theo nghĩa vụ pháp lý, để đưa ra những giải pháp hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả trong thưc tiễn áp dụng là vấn đề cấp
thiết. Vì vậy, tác giả chọn đề tài: “Bảo đảm quyền của người TGTT
theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam’’ làm đề tài luận án tiến sĩ
luật học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Làm rõ lý luận và thưc tiễn bảo đảm quyền của người TGTT theo
nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam; đưa ra những đề xuất, kiến
nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo đảm
quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu làm rõ lý luận về người TGTT và người TGTT
theo nghĩa vụ pháp lý; khái niệm, cơ sở, cơ chế, các yếu tố bảo đảm
quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam; Vấn
đề bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý của một số
nước trên thế giới; Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về
bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong TTHS.


3
- Khảo sát làm rõ thưc trạng quy định pháp luật TTHS trong

việc bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong
TTHS Việt Nam;
- Khảo sát làm rõ thưc tiễn bảo đảm quyền của người TGTT
theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam;
- Đề xuất các giải pháp tăng cường bảo đảm quyền của người
TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu vấn đề bảo đảm quyền của người TGTT
theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam gồm người làm chứng,
người giám định, người phiên dịch.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Quy định về quyền và bảo đảm quyền của người TGTT theo
nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam (trọng tâm nghiên cứu
BLTTHS 2003);
Thưc tiễn bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp
lý trong TTHS Việt Nam từ năm 2005 đến 2013 (Tập trung nghiên
cứu nội dung bảo đảm quyền của người làm chứng, người giám định,
người phiên dịch).
4. Những vấn đề mới của luận án
Nghiên cứu làm rõ, bổ sung lý luận về bảo đảm quyền của
người TGTT noi chung và quyền của người TGTT theo nghĩa vụ
pháp lý trong TTHS Việt Nam noi riêng. Quá trình nghiên cứu chúng
tôi sẽ tổng hợp, đánh giá tìm ra những ưu điểm, những hạn chế,
nguyên nhân của hạn chế trong các chế định pháp lý và thưc tiễn bảo
đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt


4
Nam. Từ đo đưa ra một số giải pháp, kiến nghị tăng cường bảo đảm

quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của đề tài luận án gop phần hoàn thiện hệ
thống pháp luật về quyền và bảo đảm quyền của người TGTT noi
chung và của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt
Nam noi riêng. Ngoài ra, đề tài còn co thể dùng làm tài liệu tham khảo,
nghiên cứu trong các Trường Đại học co đào tạo ngành luật, các cán bộ
nghiên cứu, cán bộ đang làm nhiệm vụ trưc tiếp đấu tranh với phòng
chống tội phạm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
PHẦN THỨ HAI: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Nghiên cứu các công trình liên quan đến đề tài luận án, tác giả
phân thành các nhom như sau:
- Đề tài khoa học, luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ luật học:
+ Đề tài khoa học cấp Bộ: PGS, TS. Nguyễn Thái Phúc, năm
2005 với đề tài “Bảo đảm quyền con người trong TTHS Việt Nam”[13].
+ Nguyễn Huy Hoàn, năm 2004 với luận án tiến sỹ luật học “Bảo
đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay” [8].
+ Lại Văn Trình, năm 2011 với luận án tiến sĩ luật học: “Bảo
đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS
Việt Nam” [27].
+ Nguyễn Huy Hoàn, năm 1998, với luận văn thạc sĩ luật học:
" Một số vấn đề bảo vệ quyền con người trong TTHS" [7].


5
+ Hoàng Hùng Hải, năm 2000, với luận văn thạc sĩ luật học
"Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người trong xét xử hình sự ở
nước ta hiện nay" [6].

- Sách chuyên khảo:
+ TS. Trần Quang Tiệp, năm 2003 với cuốn sách “Bảo vệ
quyền con người trong luật Hình sự, luật TTHS Việt Nam” [21].
+ TS. Võ Thị Kim Oanh, năm 2010, với cuốn sách “ Bảo đảm
quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam” 12].
- Bài báo, tạp chí khoa học:
+ TS. Phan Thị Hương Thủy, năm 2006: “Người làm chứng và
quyền của người làm chứng trong BLTTHS 2003 - Thực trạng và định
hướng hoàn thiện” [20].
+ PGS.TS. Nguyễn Thái Phúc, năm 2007: “Bảo vệ người làm
chứng và quyền miễn trừ làm chứng trong TTHS”, đăng trên Tạp chí
KHPL số 3(40)/2007 [14].
+ TS. Trần Quang Tiệp, năm 2005: “Về lời khai của người
làm chứng trong VAHS”, đăng trên Tạp chí KHPL 4/2005 [22].
+ PGS.TS. Trần Đình Nhã, năm 2010: “Hoàn thiện cơ sở
pháp lý về bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại trong
VAHS”, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử ngày
26/6/2010 [11].
+ TS. Phạm Mạnh Hùng, năm 2012: “Vấn đề bảo vệ nhân
chứng, người tố giác và những người TGTT khác trong vụ án tham
nhũng”, đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 07 tháng 4/2012 [9].
+ ThS Nguyễn Nông, năm 2011: “Người phiên dịch, người
giám định và vấn đề tính hợp pháp của chứng cứ”, đăng trên tạp chí
Kiểm sát VKSNDTC, tháng 09/2011 [10].


6
+ Hồ Thanh Giang, năm 2012: “Vấn đề phiên dịch trong hoạt
động điều tra các VAHS do người nước ngoài thực hiện trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh”, đăng trên Tạp chí khoa học giáo dục

CSND, số 18 tháng 01/2012, tr 81-83 [5].
Tình hình nghiên cứu trên cho thấy, ở trong nước chưa co công
trình khoa học nào nghiên cứu một cách hệ thống, sâu sắc, toàn diện
về vấn đề “Bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý
trong TTHS Việt Nam’’. Vì vậy, vấn đề này cần được tiếp tục nghiên
cứu hoàn thiện trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam.
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
- Về bảo đảm quyền con người co một số công trình như:
+ Barry M. Hager, The Rule of law: A Lexicon for Policy
Makers, Mansfield Center for Pacific Affairs, 1999. Đây là tài liệu
chuyên khảo đong gop cho Hội thảo quốc tế tại Tokyo năm 1999 về
vấn đề “Nhà nước pháp quyền: Sư thừa nhận tại châu Á” [35].
+ K.W. Lidstone, Human rights in the English criminal trial –
Human rights in criminal procedure, Editor: Jonh M. Andrew, United
Kingdom National Committee of Comparative Law, 1982 [41].
+ Stephanos Stavros, The guarantees for accused persons
under Article 6 of the European Convention on Human Rights,
Martinus Nijhoff, 1993 [45].
- Về bảo đảm quyền của người làm chứng, người giám định, người
phiên dịch trong TTHS co một số công trình khoa học như:
+ Clive Harfield, “Police Operational Handbook: Practice and
Procedure” [36].
+ Jeremy Gans Criminal process and human rights, The
Federation Press, New South Wales – Australia, 2011 [43].


7
+ Traci Ellyn Sitzer, The impact of court interpreter on Juror
decision-making, đề tài Thạc sỹ khoa học chuyên ngành Tâm lý học
trường Đại học California State University, July 2000 [47].

+ Morris Ploscowe The Expert Witness in Criminal Cases in
France, Germany, and Italy, Law and Contemporary Problems Vol.
2, No. 4, pp. 504-509 [42].
+ Bas de Wilde A Fundamental Review of the ECHR Right to
Examine Witnesses in Criminal Cases, International Journal Evidence
& Proof, Vol. 17, pp. 157-182, 2013 [34].
+ Richard J. Bonnie and Christopher Slobogin, The Role of
Mental Health Professionals in the Criminal Process: The Case for
Informed Speculation, Virginia Law Review, Vol. 66, No. 3, pp. 427522, April 1980 [44].
+ Harold L. Korn Law, Fact, and Science in the Courts,
Columbia Law Review, Vol. 66, No. 6, pp. 1080-1116, June 1966 [37].
+ Wanda Romberger, “The provision of court interpreter
services in the 21st century” [48].
+ Williamson B. C. Chang và Manuel U. Araujo, “Interpreters
for the defense: Due process for the non-English-speaking
defendants” [49].
+ Susan Berk-Seligson, “The bilingual courtroom: Court
interpreters in the judicial proccess” [46].
+ Kathy Laster và Veronica L. Taylor, Interpreters and the
legal system [40].
+ Ikuko Nakane, Partial Non-use of Interpreters in Japanese
Criminal Court Proceedings, Japanese Studies, Vol. 30, No. 3, p.p
443-459, The University of Melbourne – Australia, 2010 [38].


8
+ Judicial Committee of the Privy Council Right to an
Interpreter, Journal of Criminal Law, Vol. 58, 1994 [39].
1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu
Đây là một vấn đề kho nhưng rất quan trọng cả về lý luận và

thưc tiễn, hơn nữa vấn đề này lại chưa được các công trình khoa học
nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống, đồng bộ và đầy đủ. Vì vậy,
tác giả chọn đề tài: “Bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ
pháp lý trong TTHS Việt Nam” làm luận án tiến sĩ luật học của mình.
2. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu
2.1. Câu hỏi nghiên cứu
Thứ nhất, người TGTT được hiểu như thế nào? Thứ hai, bảo
đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý được hiểu như thế nào?
Thứ ba, thưc trạng về quyền và bảo đảm quyền của người TGTT theo
nghĩa vụ pháp lý trong TTHS như thế nào? Thứ tư, những ưu điểm,
tồn tại hạn chế và nguyên nhân của thưc trạng bảo đảm quyền của
người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý; Thứ năm, hoàn thiện pháp luật
TTHS nhằm tăng cường bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa
vụ pháp lý như thế nào nào?
2.2. Lý thuyết nghiên cứu
Luận án được thưc hiện trên cơ sở phương pháp duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và pháp luật. Các quan điểm của Đảng về xây dưng nhà nước
pháp quyền XHCN, cải cách tư pháp, sửa đổi hoàn thiện BLTTHS.
Các lý thuyết liên quan đến bảo đảm quyền của người TGTT
trong TTHS noi chung và lý thuyết về quyền, bảo đảm quyền của
người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam noi riêng.


9
2.3. Giả thuyết nghiên cứu
Quyền con người, quyền công dân và quyền của người TGTT
theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS co mối quan hệ mật thiết với nhau,
bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS
thưc chất là nhằm bảo đảm quyền con người.

Về lý luận và thưc tiễn các tiêu chí, nội dung, biện pháp bảo
đảm quyền con người trong TTHS đều co thể vận dụng vào việc bảo
đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý. Để quyền của
người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý co thể thưc hiện được đòi hỏi phải
co cơ chế bảo đảm thưc hiện.
Hoàn thiện quy định của pháp luật TTHS về quyền của người
TGTT theo nghĩa vụ pháp lý co thể hạn chế được những bất cập,
thiếu sot, thiếu hiệu quả trong việc bảo đảm quyền của người TGTT
theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam.
2.4. Hướng tiếp cận của đề tài nghiên cứu
Luận án kế thừa co chọn lọc, phân tích và bình luận các kết
quả nghiên cứu đã được công bố trước đo, với mục đích là nhằm giải
quyết các vấn đề như: khái niệm và phân loại người TGTT theo
nghĩa vụ pháp lý; khái niệm bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa
vụ pháp lý, cơ chế bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ
pháp lý. Vấn đề bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp
lý của một số nước trên thế giới. Làm rõ thưc trạng bảo đảm quyền
của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam; tìm ra
những tồn tại hạn chế và nguyên nhân của no. Xác định luận cứ khoa
học làm cơ sở cho việc đề ra giải pháp nhằm tăng cường bảo đảm
quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam.


10
2.5. Dự kiến kết quả nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ, bổ sung lý luận về bảo đảm quyền của
người TGTT noi chung và bảo đảm quyền của người TGTT theo
nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam noi riêng. Quá trình nghiên
cứu chúng tôi sẽ tổng hợp, đánh giá tìm ra những ưu điểm, hạn chế,
nguyên nhân của hạn chế thiếu sot trong việc bảo đảm quyền của

người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam. Từ đo đưa
ra một số giải pháp tăng cường bảo đảm quyền của người TGTT theo
nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam.
3. Mục tiêu và phương pháp nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp tăng cường bảo đảm quyền của người
TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Phương pháp luận
Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, luận án được hoàn thành dưa
trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin về duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử. Quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật Nhà
nước về bảo đảm quyền con người, quyền công dân, quyền của người
TGTT trong TTHS Việt Nam.
3.2.2. Phương pháp cụ thể
Trong quá trình thưc hiện đề tài luận án chúng tôi dư kiến sẽ
sử dụng các phương pháp cụ thể như: Phương pháp phân tích tổng
hợp, phương pháp thống kê và phân tích số liệu thống kê, phương pháp
phân tích tổng kết kinh nghiệm thưc tiễn, phương pháp chuyên gia,
phương pháp điều tra điển hình, phương pháp điều tra xã hội học.


11
4. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan về vấn đề nghiên cứu, kết luận,
phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án cấu trúc
thành 3 chương:
Chương 1: Nhận thức chung về bảo đảm quyền của người
TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam.
Chương 2: Thưc trạng pháp luật về quyền và bảo đảm thưc hiện

quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam.
Chương 3: Yêu cầu cần quán triệt và giải pháp tăng cường bảo
đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý TTHS Việt Nam.
PHẦN THỨ BA: NỘI DUNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA
NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG THEO NGHĨA VỤ PHÁP LÝ
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chương 1 của luận án được trình bày từ trang 23 đến trang 44,
trong đo tập trung làm rõ những nội dung cụ thể sau:
1.1. Nhận thức về người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ
pháp lý
1.1.1. Khái niệm chủ thể tố tụng hình sự
Chủ thể TTHS là các cơ quan, tổ chức, hoặc cá nhân co quyền,
nghĩa vụ, trách nhiệm tiến hành hoặc tham gia vào việc giải quyết VAHS
theo quy định của pháp luật để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền
và lợi ích hợp pháp của tập thể hoặc của công dân.
1.1.2. Khái niệm người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ pháp lý
Người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý là người bắt buộc phải
TGTT theo yêu cầu của các cơ quan THTT, họ co trách nhiệm cùng


12
các cơ quan THTT, người THTT giải quyết VAHS và được pháp luật
quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý gồm người làm chứng, người giám
định, người phiên dịch.
1.2. Một số vấn đề cơ bản về bảo đảm quyền của người
tham gia tố tụng theo nghĩa vụ pháp lý
1.2.1. Khái niệm bảo đảm quyền của người tham gia tố tụng theo
nghĩa vụ pháp lý

Bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong
TTHS là việc bảo đảm về cơ sở pháp lý, các điều kiện, yếu tố để duy
trì sư ổn định, phát triển và hoàn thiện về quyền con người, quyền
công dân noi chung và bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa
vụ pháp lý trong TTHS noi riêng, bao gồm các yếu tố cơ bản như: co
hệ thống các quy phạm pháp luật về lĩnh vưc này đầy đủ, không
ngừng được hoàn thiện; co hệ thống các cơ quan THTT hoàn chỉnh,
đội ngũ người THTT co chất lượng, hoạt động co hiệu lưc, hiệu quả
đáp ứng với yêu cầu của hoạt động TTHS; co cơ chế giám sát chặt
chẽ, thông suốt nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ
thể TTHS.
1.2.2. Cơ sở bảo đảm quyền của người tham gia tố tụng
theo nghĩa vụ pháp lý
Bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong
TTHS xuất phát từ những tiền đề sau đây:
- Sư thừa nhận về giá trị xã hội của quyền con người, quyền
công dân trong Nhà nước noi chung và trong lĩnh vưc hoạt động TTHS
noi riêng phải được biểu hiện ở tính hiện thưc của chúng, tức là các
quyền con người, quyền công dân được Nhà nước thừa nhận và ghi
nhận trong pháp luật phải được thưc thi một cách nghiêm chỉnh.


13
- Sư thừa nhận yêu cầu tăng cường pháp chế - yêu cầu tuân thủ
nghiêm chỉnh pháp luật trong các lĩnh vưc khác nhau của đời sống xã
hội. Bảo đảm pháp chế trong hoạt động TTHS chính là bảo đảm cao
nhất về quyền con người, quyền công dân, trong đo co quyền của
người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS.
- Sư nhận thức về những hậu quả to lớn, thậm chí không thể khắc
phục được của những vi phạm quyền con người, quyền công dân trong

lĩnh vưc TTHS gây ra cho các chủ thể TGTT.
- Bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong
TTHS là một dạng bảo đảm pháp lý về quyền và lợi ích hợp pháp của
các chủ thể tham gia vào hoạt động TTHS.
- Toàn bộ hoạt động TTHS do luật điều chỉnh gồm: + Các bảo
đảm chung là những bảo đảm cho sư hoạt động, vận hành bình
thường của các cơ quan THTT, bảo đảm hoạt động điều tra, truy tố
xét xử VAHS khách quan đúng pháp luật. + Các bảo đảm riêng là
những bảo đảm về quyền, lợi ích hợp pháp của những người TGTT
trong những tư cách tố tụng cụ thể.
1.2.3. Cơ chế bảo đảm quyền của người tham gia tố tụng
theo nghĩa vụ pháp lý
Bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong
TTHS phải hội tụ đầy đủ các yếu tố bảo đảm quyền con người, quyền
công dân: Về hệ thống pháp luật bảo đảm quyền của người TGTT
theo nghĩa vụ pháp lý; về hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng; về
tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp; về cơ chế
phối hợp hoạt động giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; về cơ chế
giám sát trong hoạt động TTHS; về giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử
lý vi phạm.


14
1.3. Vấn đề bảo đảm quyền của người tham gia tố tụng
theo nghĩa vụ pháp lý của một số nước trên thế giới
Trình bày vấn đề bảo đảm quyền của người TGTTHS trong
pháp luật TTHS Nga, Mỹ, Anh, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan.
1.4. Bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tố
tụng hình sự theo quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam
Một là, phải gắn liền với việc thưc hiện đúng đường lối, chủ

trương của Đảng. Hai là, phải trên cơ sở giữ vững bản chất giai cấp
của Nhà nước. Ba là, phải gắn liền với việc ngăn ngừa co hiệu quả và
xử lý kịp thời và nghiêm minh các loại tội phạm. Bốn là, phải gắn
liền với việc phát huy mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia vào
công tác tư pháp. Năm là, phải gắn liền với việc xây dưng các cơ
quan THTT trong sạch, vững mạnh và từng bước hiện đại, gop phần
xây dưng bảo vệ Đảng và Nhà nước.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ BẢO ĐẢM
THỰC HIỆN QUYỀN CỦA NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG
THEO NGHĨA VỤ PHÁP LÝ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM
Chương 2 của luận án được trình bày từ trang 55 đến trang
111, trong đo tập trung làm rõ những nội dung cụ thể sau:
2.1. Thực trạng pháp luật về quyền của người tham gia tố
tụng theo nghĩa vụ pháp lý
2.1.1. Quy định về các nguyên tắc tố tụng liên quan đến việc
bảo đảm quyền của người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ pháp lý
Trình bày các nguyên tắc liên quan như: Nguyên tắc tôn trọng và
bảo vệ các quyền cơ bản của công dân (Điều 4); Nguyên tắc bảo đảm


15
quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật (Điều 5); Nguyên
tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của mỗi công dân
(Điều 6); Nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dư, nhân
phẩm, tài sản của công dân (Điều 7); Nguyên tắc bảo đảm quyền
khiếu nại, tố cáo trong TTHS (Điều 31)
2.1.2. Quy định về địa vị pháp lý của người tham gia tố tụng
theo nghĩa vụ pháp lý

Xác định tư cách TGTT của họ là nhằm giúp cơ quan THTT,
người THTT giải quyết VAHS được khách quan, toàn diện, đúng
pháp luật, đồng thời bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người
TGTT.
2.1.3. Quy định về thủ tục tố tụng hình sự đối với người
tham gia tố tụng theo nghĩa vụ pháp lý
Trình bày về thủ tục thủ tục điều tra, xét xử, khiếu nại, tố cáo,
giải thích và bảo đảm thưc hiện các quyền và nghĩa vụ của những
người TGTT.
2.2. Thực trạng bảo đảm thực hiện quyền của người tham
gia tố tụng theo nghĩa vụ pháp lý trong tố tụng hình sự Việt Nam
2.2.1. Thực trạng bảo đảm thực hiện quyền của người làm
chứng
Thứ nhất, một số vấn đề không được BLTTHS 2003 quy định
cản trở việc người làm chứng tham gia hoạt động TTHS.
Thứ hai, về bảo đảm thưc hiện quyền của người làm chứng
theo Điều 55 BLTTHS.
- Về bảo đảm quyền yêu cầu cơ quan triệu tập người làm
chứng bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dư, nhân phẩm, tài sản và
các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người làm chứng khi TGTT.


16
Qua khảo sát 1.073 hồ sơ vụ án co người làm chứng, chưa co cơ
quan, đơn vị chức năng nào tổ chức một cách chủ động, bài bản việc
bảo vệ người làm chứng trong VAHS theo như quy định của pháp
luật…[xem phụ lục số 2].
- Về quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan,
người co thẩm quyền THTT của người làm chứng. Qua khảo sát thưc
tiễn TTHS từ 1.399 người làm chứng chỉ co 156 người làm chứng

thưc hiện quyền khiếu nại (chiếm 11.15%). Như vậy, số người làm
chứng thưc hiện quyền khiếu nại trong TTHS chiếm ỷ lệ rất thấp
[xem phụ lục số 2].
- Về quyền được cơ quan triệu tập thanh toán chi phí đi lại và
những chi phí khác theo quy định của pháp luật của người làm chứng
(Khoản 3 Điều 55 BLTTHS). Qua khảo sát 1.399 người làm chứng
TGTT trong 1.073 vụ án co người làm chứng thì không co trường
hợp nào được cơ quan THTT thanh toán chi phí làm chứng theo quy
định [xem phụ lục số 2].
Thứ ba, về một số quy định khác trong BLTTHS không được
thưc hiện một cách triệt để bảo đảm quyền và lợi ích của người làm
chứng khi TGTT. Về bảo đảm quyền của người làm chứng chưa
thành niên, về người giám hộ cho người làm chứng chưa thành niên,
về trách nhiệm của người co thẩm quyền THTT giải thích quyền và
nghĩa vụ của người làm chứng khi TGTT…
Nguyên nhân của thưc trạng bảo đảm quyền của người làm
chứng trong TTHS co thể được khái quát như sau:
- Về quy định của luật thưc định: BLTTHS không quy định về
biện pháp cụ thể để bảo đảm thưc hiện quyền của người làm chứng;
Không co quy định đồng bộ giữa các Bộ luật; Không co chế độ


17
khuyến khích vật chất và tinh thần đối với những người làm chứng,
nhiều quy định trong luật chỉ mang tính hình thức; Không co chế tài
đối với từ chối khai báo phù hợp với từng trường hợp, mới chỉ co quy
định về xử lý hình sư, cần quy định thêm về chế tài về xử phạt hành
chính; Không co cơ chế bảo vệ người làm chứng hữu hiệu, việc áp
dụng các biện pháp bảo vệ tính mạng sức khỏe cho người làm chứng
chưa co quy định thống nhất, áp dụng tùy tiện. Không co cơ chế bảo

vệ cho những người thân thích của họ; Chưa phân loại người làm
chứng để bảo đảm cho họ các quyền mà luật quy định.
- Về người THTT: Tình trạng quyền của người làm chứng bị vi
phạm từ chính những người co thẩm quyền THTT trong thưc tế vẫn
thường xảy ra.
- Về ý thức của người làm chứng. Người làm chứng thường
không ý thức được vai trò quan trọng của việc TGTT gop phần vào
cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
2.2.2. Thực trạng bảo đảm thực hiện quyền của người giám
định trong tố tụng hình sự
Thứ nhất, về quyền tìm hiểu tài liệu của vụ án có liên quan đến
đối tượng phải giám định. Qua khảo sát thưc tiễn 866 người giám
định, co 82 người giám định được bảo đảm quyền tìm hiểu tài liệu
của vụ án co liên quan đến đối tượng phải giám định (chiếm 9.46%)
Như vậy, thưc tiễn TTHS việc bảo đảm quyền này của người giám
định là rất hạn chế [xem phụ lục số 4].
Thứ hai, về quyền yêu cầu cơ quan trưng cầu giám định cung
cấp những tài liệu cần thiết cho việc kết luận. Qua khảo sát thưc tiễn
866 người giám định, co 37 người giám định được bảo đảm quyền


18
yêu cầu cơ quan trưng cầu giám định cung cấp những tài liệu cần
thiết cho việc kết luận (chiếm 4.27%). [xem phụ lục số 4].
Thứ ba, về quyền tham dự vào việc hỏi cung, lấy lời khai và
đặt câu hỏi về những vấn đề có liên quan đến đối tượng giám định.
Qua khảo sát thưc tiễn 866 người giám định, không co người giám
định nào được bảo đảm quyền tham dư vào việc hỏi cung, lấy lời
khai và đặt câu hỏi về những vấn đề co liên quan đến đối tượng giám
định. [xem phụ lục số 4].

Thứ tư, về quyền từ chối việc thực hiện giám định trong trường
hợp thời gian không đủ để tiến hành giám định, các tài liệu cung cấp
không đủ hoặc không có giá trị để kết luận, nội dung yêu cầu giám
định vượt quá phạm vi hiểu biết chuyên môn của mình. Qua khảo sát
thưc tiễn 866 người giám định, không co người giám định nào được
bảo đảm quyền từ chối việc thưc hiện giám định trong trường hợp
thời gian không đủ để tiến hành giám định, các tài liệu cung cấp
không đủ hoặc không co giá trị để kết luận, nội dung yêu cầu giám
định vượt quá phạm vi hiểu biết chuyên môn của mình. [xem phụ lục
số 4].
Thứ năm, về quyền ghi riêng ý kiến kết luận của mình vào bản
kết luận chung nếu không thống nhất với kết luận chung trong
trường hợp giám định do một nhóm người giám định tiến hành. Qua
khảo sát thưc tiễn 89 vụ giám định do tập thể tiến hành giám định, co
05 người giám định thưc hiện quyền ghi riêng ý kiến kết luận của
mình vào bản kết luận chung nếu không thống nhất với kết luận
chung trong trường hợp giám định do một nhom người giám định
tiến hành (chiếm 13.51%).


19
Nghiên cứu các vụ án phải trưng cầu giám định, chúng tôi
nhận thấy những tồn tại chủ yếu như: Trong thời gian gần đây hiệu
quả hoạt động GĐTP còn dừng lại ở mức độ nhất định, chưa đáp ứng
yêu cầu của hoạt động tố tụng theo tinh thần cải cách tư pháp; một
trong những vấn đề bức thiết của các tổ chức GĐTP hiện nay là tình
trạng đội ngũ giám định viên còn rất thiếu về số lượng và yếu về chất
lượng; về mức bồi dưỡng giám định hiện nay cũng đang là vấn đề
bất cập; việc hình thành lưc lượng GĐTP còn rất phân tán theo Bộ,
ngành và địa phương…

Nguyên nhân của những bất cập này chủ yếu nằm ở việc hệ
thống văn bản pháp luật về hình sư, TTHS và GĐTP chưa đạt đến sư
đồng bộ, liên thông cần thiết. Vì thế, luận án đã chỉ ra vấn đề không
những phải đổi mới hoạt động trưng cầu, yêu cầu và thưc hiện giám
định mà còn đổi mới cả hoạt động đánh giá kết luận giám định. Mặt
khác, vấn đề đổi mới hoạt động trưng cầu, yêu cầu và thưc hiện giám
định, hoạt động đánh giá kết luận giám định chưa được thưc hiện
thông qua tư duy và hoạt động xây dưng, thưc thi cơ chế GĐTP phục
vụ quá trình giải quyết VAHS.
2.2.3. Thực trạng bảo đảm thực hiện quyền của người phiên
dịch trong tố tụng hình sự
BLTTHS không quy định cho người phiên dịch bất cứ một
quyền năng TTHS nào mà chỉ quy định nghĩa vụ của họ khi tham gia
hoạt động TTHS. Điều này là chưa phù hợp với nguyên tắc quyền
phải đi đôi với nghĩa vụ pháp lý. Đây là một trong những bất cập của
BLTTHS 2003 về quy định quyền và bảo đảm quyền của người phiên
dịch trong TTHS hiện nay.


20
2.3. Nhận xét đánh giá chung thực trạng bảo đảm quyền của
người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ pháp lý
Đánh giá thưc trạng bảo đảm quyền của người TGTTHS theo
nghĩa vụ pháp lý trên các nội dung: về hệ thống pháp luật đảm bảo
quyền của người TGTTHS theo nghĩa vụ pháp lý trong hoạt động tư
pháp; về tổ chức và hoạt động của các cơ quan THTT; về cơ sở vật chất
kỹ thuật điều kiện làm việc của các cơ quan THTT; về cơ chế phối hợp
trong hoạt động của các cơ quan THTT; Về cơ chế giám sát hoạt động
TTHS.
Chương 3

YÊU CẦU CẦN QUÁN TRIỆT VÀ GIẢI PHÁP
TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI THAM GIA
TỐ TỤNG THEO NGHĨA VỤ PHÁP LÝ TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chương 3 của luận án được trình bày từ trang 112 đến trang
151, trong đo tập trung làm rõ những nội dung cụ thể sau:
3.1. Yêu cầu cần quán triệt trong việc tăng cường bảo
đảm quyền của người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ pháp lý
Tăng cường bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp
lý cần quán triệt các yêu cầu: Đảm bảo quyền của người TGTT theo
nghĩa vụ pháp lý ở nước ta trong thưc tiễn áp dụng pháp luật TTHS;
yêu cầu xây dưng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì
dân; yêu cầu của quá trình hội nhập và hợp tác quốc tế; quán triệt
quan điểm bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong TTHS
của Nhà nước ta; yêu cầu tăng cường pháp chế XHCN trong TTHS.
3.2. Giải pháp tăng cường bảo đảm quyền của người tham
gia tố tụng theo nghĩa vụ pháp lý trong tố tụng hình sự Việt Nam


21
3.2.1. Bảo đảm quyền của người làm chứng trong tố tụng
hình sự
Thứ nhất, bổ sung quyền của người làm chứng trong BLTTHS.
Một là, quyền được đọc và kiến nghị sửa đổi bổ sung biên bản phiên
tòa. Hai là, bảo vệ người thân thích của người làm chứng. Ba là, bảo
đảm quyền của người làm chứng chưa thành niên trong TTHS. Bốn
là, đối với người làm chứng bị hạn chế về mặt thể chất và tinh thần.
Thứ hai, về biện pháp bảo đảm quyền của người làm chứng.
- Những biện pháp chung như: …Quy định rõ trong các văn
bản pháp luật TTHS thẩm quyền, thủ tục, trình tư điều kiện áp dụng

các biện pháp bảo vệ người làm chứng và những người TGTT khác;
Ban hành những quy định trong văn bản pháp luật TTHS cho phép áp
dụng các biện pháp bảo vệ người làm chứng và những người TGTT
khác để tránh nguy cơ bị đe dọa, trả thù; Nghiên cứu đưa vấn đề
chuyển người làm chứng đến nước khác định cư trong các trường
hợp đặc biệt vào nội dung tương trợ tư pháp với một số nước theo
nguyên tắc co đi co lại...
- Những biện pháp bảo vệ người làm chứng trong giai đoạn khởi
tố và giai đoạn điều tra: Không thể hiện những thông tin cá nhân về
người làm chứng trong biên bản lấy lời khai hay còn gọi là lời khai
người làm chứng khuyết danh; Không để người làm chứng nhận dạng
trưc tiếp bị can mà chỉ nhận dạng qua ảnh hay qua hình ảnh video…
- Những biện pháp bảo vệ người làm chứng ở giai đoạn xét xử:
Người làm chứng co quyền yêu cầu giữ bí mật về cá nhân khi họ ra làm
chứng tại phiên tòa và TA co thể cấm báo chí không được phát hình ảnh
hay đăng báo ảnh chụp về họ, không được ghi âm lời khai người làm
chứng; Thẩm vấn kín người làm chứng hoặc tiến hành phiên xử kín…


22
3.2.2. Bảo đảm quyền của người giám định trong tố tụng
hình sự
Một là, nhập quyền tìm hiểu tài liệu của vụ án co liên quan đến
đối tượng phải giám định và yêu cầu cơ quan trưng cầu giám định cung
cấp những tài liệu cần thiết cho việc kết luận, thành quyền yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân trưng cầu giám định cung cấp những tài liệu cần
thiết cho việc giám định. Hai là, bổ sung quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án
liên quan đến đối tượng giám định của người giám định để bảo đảm người
giám định đưa ra được kết luận giám định chính xác, khách quan và co cơ sở
khoa học. Ba là, bổ sung quyền được biết trước sư tham gia của ĐTV,

KSV khi giám định tại Điều 60 BLTTHS. Bốn là, bổ sung quyền
được tham gia phiên tòa của người giám định tại Điều 60 BLTTHS.
Năm là, bổ sung vào Khoản 4 Điều 200 BLTTHS quyền của người
giám định được xem biên bản phiên tòa, quyền ghi ý kiến sửa đổi bổ
sung vào biên bản phiên tòa và ký xác nhận. Sáu là, bổ sung quyền
kháng cáo theo Điều 231 BLTTHS.
3.2.3. Bảo đảm quyền của người phiên dịch trong tố tụng
hình sự
Thứ nhất, bổ sung quyền của người phiên dịch trong BLTTHS:
Một là, quyền đề nghị người THTT, người TGTT giải thích thêm lời
noi cần phiên dịch; Hai là, quyền được đọc và xác nhận nội dung lời
dịch trong văn bản TTHS; Ba là, quyền ghi riêng ý kiến kết luận của
mình vào biên bản TTHS co liên quan đến nội dung phiên dịch; Bốn
là, quyền được hưởng thù lao phiên dịch, các khoản phí đi lại và các
chế độ khác theo quy định của pháp luật; Năm là, quyền từ chối
phiên dịch trong trường hợp co lý do chính đáng.
Thứ hai, kiến nghị xây dựng và ban hành các quy định về cơ


23
quan có chức năng phiên dịch và người phiên dịch. Luận án kiến
nghị kiến nghị xây dưng và ban hành các quy định về cơ quan co
chức năng phiên dịch và người phiên dịch: Một là, cần lập tổ chức
phiên dịch chuyên ngành - tổ chức “phiên dịch công” do nhà nước
quản lý; Hai là, thành lập một đội ngũ phiên dịch viên công.
3.2.4. Nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng hình sự nhằm
bảo đảm quyền của người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ pháp lý
Tăng cường hướng dẫn áp dụng BLTTHS; nâng cao năng lưc,
trình độ của người THTT; tăng cường ý thức, trách nhiệm của người
THTT; tăng cường hiệu quả các hoạt động nâng cao ý thức pháp luật

cho người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý; tăng cường quan hệ phối
hợp giữa cơ quan THTT và cơ quan hữu quan khác để nâng cao hiệu
quả bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý; tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm bảo đảm quyền
của người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ pháp lý; khắc phục kịp thời
co hiệu quả thiệt hại do hành vi vi phạm của người tiến hành tố tụng
gây ra.
3.2.5. Hoàn thiện quy định về người tham gia tố tụng trong
Bộ luật Tố tụng hình sự 2003
Một là, quy định bổ sung “Người bị bắt” thành một điều luật
vào Chương 4 BLTTHS 2003. Hai là, quy định bổ sung “Người
chứng kiến” thành một điều luật “Người chứng kiến” vào Chương 4
BLTTHS 2003. Ba là, quy định bổ sung “Người bảo vệ quyền lợi của
người bị nghi thưc hiện tội phạm” thành một điều luật vào Chương 4
BLTTHS 2003.


24
KẾT LUẬN
Bảo đảm quyền con người noi chung, quyền của người làm
chứng, người giám định, người phiên dịch noi riêng trong TTHS là vấn
đề rộng và chưa được nghiên cứu nhiều trong khoa học luật TTHS
nước ta. Đây là một vấn đề kho nhưng rất quan trọng cả về lý luận và
thưc tiễn, nên chúng tôi đã quyết định chọn đề tài: “Bảo đảm quyền
của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam”. Với
khả năng co hạn, chúng tôi đã cố gắng nghiên cứu và đạt được một số
kết quả khiêm tốn sau đây: 1.Luận án đã làm rõ lý luận về chủ thể
TTHS, người TGTT, người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý; 2.Một số vấn
đề lý luận về quyền và bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ
pháp lý trong TTHS Việt Nam; cơ sở, cơ chế và các yếu tố bảo đảm

quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam;
3.Luận án nghiên cứu tìm hiểu vấn đề quyền và bảo đảm quyền của
một số nước trên thế giới như Nga, Anh, Mỹ, Nhật, Thái lan, Trung
quốc; 4.Luận án đã hệ thống đánh giá các quy định của BLTTHS 2003
về quyền và thưc trạng bảo đảm quyền của người TGTT theo nghĩa vụ
pháp lý trong TTHS Việt Nam, từ đo tìm ra được những hạn chế, bất
cập, nguyên nhân của những bất cập, hạn chế; 5.Luận án làm rõ quan
điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về bảo đảm quyền con người,
quyền công dân trong TTHS; từ đo đã đưa ra được một số giải pháp,
kiến nghị nhằm tăng cường bảo đảm quyền của người TGTT theo
nghĩa vụ pháp lý trong TTHS; giải pháp tăng cường bảo đảm quyền
của người làm chứng, người giám định, người phiên dịch trong TTHS;
giải pháp về cơ chế bảo đảm thưc hiện quyền của người TGTT theo
nghĩa vụ pháp lý trong TTHS.


25
Để đảm bảo quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong
TTHS Việt Nam, BLTTHS cần được sửa đổi, bổ sung một cách toàn
diện, hệ thống theo những nội dung cơ bản như: hoàn thiện quyền của
người làm chứng trong pháp luật TTHS, trong đo bổ sung một số
quyền của người làm chứng, giải pháp về cơ chế và biện pháp bảo đảm
quyền của người làm chứng (về cơ chế bảo đảm quyền của người làm
chứng, về biện pháp bảo đảm quyền của người làm chứng); giải pháp
bảo đảm quyền của người giám định trong TTHS Việt Nam; giải pháp
bảo đảm quyền của người phiên dịch trong TTHS Việt Nam.
Đồng thời với việc hoàn thiện các quy định của BLTTHS,
cũng cần thưc hiện các giải pháp khác thuộc về cơ chế bảo đảm
quyền của người TGTT theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS Việt Nam.
Trong số đo, các giải pháp quan trọng là: tăng cường hướng dẫn áp

dụng BLTTHS; nâng cao năng lưc, trình độ của người THTT; tăng
cường ý thức, trách nhiệm của người THTT; tăng cường hiệu quả các
hoạt động nâng cao ý thức pháp luật cho người TGTT theo nghĩa vụ
pháp lý; tăng cường quan hệ phối hợp giữa cơ quan THTT và cơ
quan hữu quan khác để nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền của người
TGTT theo nghĩa vụ pháp lý; Tăng cường công tác thanh tra, kiểm
tra, giám sát nhằm bảo đảm quyền của người tham gia tố tụng theo
nghĩa vụ pháp lý; Khắc phục kịp thời co hiệu quả thiệt hại do hành vi
vi phạm của người tiến hành tố tụng gây ra; giải pháp hoàn thiện quy
định về người tham gia tố tụng trong BLTTHS 2003.


×