Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Côngtác thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng trên địa bàn huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.62 KB, 84 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đã trải qua hơn nửa thế kỷ đấu tranh giành độc lập và bảo
vệ Tổ quốc, biết bao người đã hiến dâng tính mạng, xương máu, sức lực, trí
tuệ và cả tuổi trẻ của mình cho đất nước. Cuộc chiến tranh do bọn đế quốc và
các thế lực phản động gây ra đã để lại gần “57 vạn thương - bệnh binh, trên
75 vạn thân nhân của 1,2 triệu liệt sĩ, hơn 30 vạn người mất tích hầu hết là
những đảng viên, đoàn viên ưu tú; trên 2 vạn người bị địch bắt, tù đày, tra
tấn dã man, gần 2 triệu dân thường bị giết hại, 2 triệu người bị nhiễm chất
độc hóa học (khoảng 5 vạn trẻ em bị dị dạng và tật nguyền suốt đời)” [9, tr.
1]. Chiến tranh đã đi qua nhưng cho đến tận hôm nay vẫn còn nhiều người
đang phải gánh chịu những nỗi đau cả về thể xác lẫn tinh thần, hàng ngàn
thân nhân liệt sĩ vẫn chưa tìm thấy mộ người thân của mình, hàng vạn trẻ em
bị bệnh do chất độc hoá học để lại từ cha mẹ và đâu đó vẫn có những người
thiệt mạng do bom mìn còn sót lại, hàng triệu người mẹ mất con, vợ mất
chồng…
Đạo lý “uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “đền ơn đáp
nghĩa” là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và để phát huy những truyền
thống ấy Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã dành nhiều sự quan tâm chăm lo
cả về vật chất lẫn tinh thần đến đời sống của những người có công với cách
mạng. Các chính sách ưu đãi như “trợ cấp hàng tháng, phụ cấp hàng tháng,
trợ cấp một lần; bảo hiểm y tế; điều dưỡng phục hồi sức khỏe; nhà nước có
chính sách hỗ trợ người có công với cách mạng, thân nhân liệt sĩ có khó khăn
về nhà ở và huy động sự tham gia của xã hội, gia đình người có công với
cách mạng; được ưu tiên trong tuyển sinh, tạo việc làm; được hỗ trợ để theo
học tại cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân đến trình độ đại
học” [28, tr. 2] dành cho người có công với cách mạng và gia đình của họ đã
được cụ thể hóa trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về chính sách
đối với người có công với cách mạng. Các chính sách này đã và đang được
thực hiện một cách nghiêm túc và thiết thực, hơn nữa cả hệ thống chính trị và


1


toàn xã hội đang chung tay góp sức thực hiện những chính sách nói trên trong
nhiều năm qua và đạt được một số kết quả đáng khích lệ.
Tuy nhiên công tác thực hiện các chính sách đối với người có công với
cách mạng trong những năm qua vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn, do chúng ta
vẫn còn thiếu các nguồn lực để thực hiện một cách tốt nhất cho công tác này
trên địa bàn cả nước. Do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, thiên
tai diễn ra thường xuyên đã kiềm hãm sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
Vì thế công tác thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng có
lúc, có nơi còn chưa được quan tâm đầu tư đúng mức và thỏa đáng so với
những cống hiến, nhu cầu của những người có công với cách mạng. Đồng
thời việc thực thi các văn bản quy phạm pháp luật về chính sách đối với người
có công với cách mạng hiện nay còn chưa hoàn chỉnh, nhiều bất cập và phức
tạp; có những người khai man, giả mạo giấy tờ để được xác nhận là người có
công với cách mạng. Ngoài ra một số cán bộ lại lợi dụng quyền hạn của mình
để làm trái các quy định hoặc vi phạm các nguyên tắc quản lý, sử dụng kinh
phí ngân sách nhà nước, lợi dụng các chính sách đối với người có công với
cách mạng… để vi phạm pháp luật trên địa bàn cả nước, gây ảnh hưởng đến
quyền lợi của người có công với cách mạng.
Huyện Hoài Nhơn là một trong những cái nôi cách mạng của tỉnh Bình
Định, là vùng đất giàu truyền thống cách mạng, là quê hương của rất nhiều
người con đã hy sinh cả tính mạng hay một phần thân thể cho đất nước. Cho
đến nay Hoài Nhơn là địa phương có số lượng người có công với cách mạng
nhiều nhất của tỉnh Bình Định, vì vậy công tác tổ chức và quản lý nhà nước
về thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng đang là vấn đề
cấp thiết của địa phương.
Vì vậy, nghiên cứu và đánh giá công tác thực hiện chính sách đối với
người có công với cách mạng trên địa bàn huyện Hoài Nhơn có ý nghĩa về

mặt lý luận và thực tiễn trong công tác xây dựng chính sách đối với người có
công trong giai đoạn hiện nay. Với những lý do trên em chọn đề tài “Công
tác thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng trên địa bàn

2


huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định” làm khóa luận tốt nghiệp cử nhân của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Công tác thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng đã
và đang thu hút sự quan tâm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Đảng và
Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách dành cho đối tượng là người có
công với cách mạng. Công tác này cũng được nhiều nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu và tìm hiểu, trong đó có thể kể đến một số đề tài nghiên cứu như:
“Cẩm nang dành cho người quản lý lĩnh vực thương binh, liệt sĩ và người có
công cách mạng” của Tạ Vân Thiều (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội
năm 2002); “Tổ chức thực thi chính sách chăm sóc người có công tại phòng
Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Hoài Đức” của Bùi Thị Thương
(2006); “Nâng cao năng lực của cơ quan hành chính nhà nước trong thực hiện
pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng” của Phạm Hải Hưng (2007);
“Hiện trạng về chính sách ưu đãi người có công với cách mạng hiện nay” của
Trần Đình Hiếu (2008) và “Tình hình thực hiện chính sách người có công ở
phường Yên Phụ quận Tây Hồ, Hà Nội” của Phạm Thị Trang (2009)…
Trong đó đáng chú ý hơn cả là đề tài “Hoàn thiện công tác quản lý
người có công với cách mạng trên địa bàn huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa”
của tác giả Trịnh Văn Đệ. Đề tài này đã làm phong phú thêm nguồn tài liệu
cho khóa luận của em. Đề tài đã đi sâu vào việc nghiên cứu lý luận về chế độ,
chính sách đang thực hiện và việc triển khai thực hiện các chế độ, chính sách
ấy đối với người có công với cách mạng một cách khái quát. Tuy nhiên đề tài

lại chưa đưa ra được lý luận về chính sách xã hội, quản lý nhà nước đối với
lĩnh vực này cũng như chưa đánh giá những mặt thực hiện được, chưa được
của công tác thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng; chưa
rút ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về công tác
thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng, những giải pháp
cho việc xây dựng chính sách và chiến lược nhằm nâng cao chất lượng cuộc
sống của người có công với cách mạng như mục tiêu mà đề tài đã đưa ra.

3


Trên cơ sở kế thừa thành quả của các nghiên cứu có trước, em thực
hiện đề tài “Công tác thực hiện chính sách đối với người có công với cách
mạng trên địa bàn huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định” với mong muốn làm
rõ thực trạng công tác thực hiện chính sách đối với người có công với cách
mạng trên địa bàn cũng như góp phần đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước về công tác thực hiện chính sách đối với người
có công với cách mạng trên địa bàn huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: nội dung của khóa luận chủ yếu nghiên cứu việc
áp dụng một số cơ chế, chính sách vào thực tiễn và thực trạng của quản lý nhà
nước về công tác thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng
trên địa bàn huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
Phạm vi nghiên cứu: khóa luận tìm hiểu công tác quản lý và thực hiện
chính sách đối với người có công với cách mạng trên địa bàn huyện Hoài
Nhơn, tỉnh Bình Định từ năm 2011 đến nay và định hướng đổi mới trong thời
gian tới.
4. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của khóa luận là trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và
thực tiễn về chế độ, chính sách, quản lý nhà nước về công tác thực hiện chính

sách đối với người có công với cách mạng, từ đó tìm ra những giải pháp phù
hợp nhằm tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý nhà nước về công tác thực hiện
chính sách đối với người có công với cách mạng trên địa bàn huyện Hoài
Nhơn, tỉnh Bình Định phù hợp với những yêu cầu đổi mới.
Nhiệm vụ của khóa luận này hướng đến:
- Có một cái nhìn tổng thể nhất về tình hình thực hiện chính sách đối với
người có công với cách mạng trên địa bàn huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
- Đánh giá công tác thực hiện chính sách đối với người có công với
cách mạng trên địa bàn huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
- Đưa ra những phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường quản lý
nhà nước về công tác thực hiện chính sách đối với người có công với cách
mạng, tạo động lực để các chính sách của Nhà nước được đưa vào thực tế đời

4


sống, đem lại hiệu quả tốt nhất; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của chính
quyền địa phương đối với công tác thực hiện chính sách người có công với
cách mạng trên địa bàn huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ nói trên, việc nghiên cứu đề
tài dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Ngoài ra
còn có một số phương pháp khác được sử dụng như phương pháp hệ thống,
phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp đánh giá và tổng
kết thực tiễn…
6. Ý nghĩa của khóa luận
Kết quả nghiên cứu của khóa luận sẽ làm cơ sở cho đổi mới căn bản
cách tiếp cận về công tác thực hiện chính sách đối với người có công với cách
mạng trên địa bàn huyện Hoài Nhơn, từ đó có những định hướng và giải pháp
để giải quyết một cách có hệ thống và toàn diện những vấn đề về giải quyết

chính sách đối với người có công với cách mạng đang đặt ra trên địa bàn
huyện Hoài Nhơn cũng như tại các địa phương khác của tỉnh Bình Định.
Những luận cứ lý thuyết và thực tiễn được trình bày trong khóa luận có
thể được sử dụng trong nghiên cứu, giảng dạy khối kiến thức quản lý nhà
nước và đặc biệt là khối kiến thức cơ sở ngành quản lý nhà nước về xã hội
cho đào tạo cử nhân quản lý nhà nước.
7. Kết cấu của khóa luận
Khóa luận gồm 85 trang, ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung
của khóa luận được kết cấu thành 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách đối với người có công với cách mạng.
Chương 2: Thực trạng công tác thực hiện chính sách đối với người có
công với cách mạng trên địa bàn huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
Chương 3: Những phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường quản
lý nhà nước về công tác thực hiện chính sách đối với người có công với cách
mạng trên địa bàn huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
Ngoài ra khóa luận còn được minh họa bằng 1 bản đồ hành chính, 1 sơ
đồ tổ chức và 7 bảng số liệu.
5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH
ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
1.1. Chính sách xã hội
1.1.1. Khái niệm chính sách xã hội
Chính sách là sách lược, kế hoạch của Nhà nước dựa vào đường lối
chính trị chung của Đảng và tình hình phát triển kinh tế - xã hội để đề ra,
nhằm đạt được một mục tiêu nhất định. Nói cách khác chính sách là việc mà
Nhà nước xác định các công việc cần làm và không cần làm trong thời gian
tới. Đó là một chuỗi các hoạt động được thực hiện bởi các nhà quản lý về

những vấn đề trong đời sống xã hội để từ đó điều hành và quản lý, phục vụ
nhân dân, duy trì và phát triển xã hội. Nhà nước quy định các chế tài, pháp lý
và các văn bản quy phạm pháp luật dựa trên cơ sở các chính sách được đưa ra
và tổ chức thực hiện trong đời sống xã hội.
Nghị quyết Đại hội VI của Đảng đã xác định “chính sách xã hội bao
trùm mọi mặt cuộc sống của con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo
dục và văn hoá, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc. Coi nhẹ
chính sách xã hội tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội”. Chính sách xã hội lần đầu tiên được đặt đúng vị trí và tầm
quan trọng của nó trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về chính sách xã hội, trong
đó định nghĩa của PGS-TS Lê Trung Nguyệt được xem là đầy đủ và chính xác
nhất, nó chỉ rõ chủ thể xây dựng và đề ra những nhiệm vụ cụ thể của chính
sách xã hội: “Chính sách xã hội là loại chính sách được thể hiện bằng pháp
luật của nhà nước thành một hệ thống quan điểm, chủ trương, phương hướng
và biện pháp để giải quyết những vấn đề xã hội nhất định, trước hết là những
vấn đề liên quan đến công bằng xã hội và phát triển an sinh xã hội, nhằm góp
phần ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội” [13, tr. 7].
1.1.2. Đặc điểm của chính sách xã hội
Chính sách xã hội có những đặc điểm riêng nhờ vậy mà người ta có thể
phân biệt nó với các chính sách khác như chính sách chính trị, kinh tế, văn

6


hóa, giáo dục, tư tưởng… Xét trên phương diện quản lý, chính sách xã hội có
những đặc điểm sau:
Một là, chính sách xã hội bao giờ cũng liên quan đến con người. Nó
bao trùm trên mọi mặt của đời sống xã hội nói chung và đời sống của con
người nói riêng, lấy con người làm đối tượng trung tâm tác động để hoàn

thiện và phát triển con người, hình thành các chuẩn mực và giá trị xã hội.
Hai là, chính sách xã hội mang tính xã hội và nhân văn sâu sắc, bởi vì
mục tiêu cơ bản của nó là hiệu quả xã hội. Công bằng xã hội là nội dung cơ
bản của chính sách xã hội. Nhà nước sử dụng các chính sách xã hội như một
công cụ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, định hướng các giá trị mới, hướng
vào cái thiện, cái tốt, hạn chế và đẩy lùi cái xấu, cái ác.
Ba là, chính sách xã hội của Nhà nước thể hiện trách nhiệm xã hội cao,
tạo những điều kiện, cơ hội như nhau để mọi người phát triển và hòa nhập
cộng đồng. Hiệu quả của chính sách xã hội là ổn định xã hội, nâng cao chất
lượng cuộc sống và đảm bảo công bằng xã hội.
Bốn là, chính sách xã hội còn mang tính kế thừa lịch sử, nó có sự thay
đổi theo thời gian và tùy thuộc vào đặc điểm của từng quốc gia, dân tộc. Bất
kỳ một khoa học nào cũng có đối tượng nghiên cứu của mình, đối tượng
nghiên cứu của khoa học chính sách nói chung và chính sách xã hội nói riêng
là hệ thống chính sách cũng như quy trình chính sách trên thực tiễn (hoạch
định, thực thi, đánh giá chính sách).
1.1.3. Chức năng của chính sách xã hội
Chính sách xã hội đảm bảo sự công bằng xã hội, thể hiện sự quan tâm
của hệ thống chính trị và của toàn xã hội đối với các lực lượng xã hội hội yếu
thế hơn (những người rất cần đến sự quan tâm, hỗ trợ và đùm bọc của xã hội).
Vì vậy, chính sách xã hội có những chức năng cơ bản:
Thứ nhất, chính sách xã hội có chức năng nhận thức. Chính sách xã hội
phát hiện ra tính quy luật của xã hội (phản ánh đời sống văn hóa, các quan hệ
văn hóa của xã hội), tính quy luật của chính trị và sự vận động của hệ thống
chính trị trong xã hội. Tất cả các quy luật này đều phản ánh nội dung của
chính sách và đóng vai trò quy định nội dung, phương hướng của chính sách
xã hội nên việc nhận thức nó là hết sức quan trọng của chính sách xã hội.

7



Thứ hai, chính sách xã hội có chức năng phân tích, dự báo, đề xuất biện
pháp cho công tác quản lý xã hội. Một chính sách xã hội khoa học phải gắn
liền với thực tiễn xã hội, điều này sẽ giúp cho các nhà quản lý, lãnh đạo phân
tích, dự báo những vấn đề xã hội trong tương lai gần hoặc xa, làm cơ sở để
đánh giá và đề xuất những chính sách xã hội cho thời gian đến.
Thứ ba, chính sách xã hội có chức năng thực tiễn. Chính sách xã hội
phản ánh đúng thực tiễn, đi vào thực tiễn một cách thích hợp, nó sẽ làm cho
xã hội luôn ở trạng thái ổn định, góp phần hoàn chỉnh cơ cấu xã hội, đẩy
mạnh tính tích cực của các thành viên trong xã hội, sử dụng tốt tiềm năng lao
động của đất nước. Sự hoàn thiện chính sách xã hội phụ thuộc vào sự tăng
trưởng và phát triển xã hội, nhưng chính sách xã hội không hoàn toàn phụ
thuộc một cách máy móc mà có tính độc lập tương đối. Mục tiêu của khoa
học chính sách xã hội là thông qua việc nghiên cứu thực tiễn các chính sách
để tìm ra những giải pháp, để cải tiến hệ thống chính sách, nâng cao chất
lượng hoạch định và thực thi chính sách của nhà nước hướng đến mục tiêu
cuối cùng là công bằng, an sinh và tiến bộ xã hội.
1.1.4. Phân loại chính sách xã hội
Do mục tiêu và chức năng của mình, chính sách xã hội đã trở thành một
lĩnh vực rất rộng lớn, nó thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống xã hội. Có
thể phân chia chính sách xã hội theo nhiều khía cạnh để tìm hiểu hoặc quản
lý.
Theo chủ thể hoạch định và phân tích, chính sách xã hội ở nhiều cấp
độ: nhà nước, khu vực, nơi làm việc, cộng đồng…
Theo nhóm xã hội điều chỉnh, chính sách xã hội có thể phân chia theo
các nhóm được tác động: nhóm nghề nghiệp, giới, tuổi, tộc người…
Thông thường người ta hay nói đến những lĩnh vực chủ chốt của chính
sách xã hội như: “chính sách bảo đảm thu nhập trong trường hợp bình
thường hoặc gặp rủi ro; chính sách thị trường lao động; chính sách xã hội
doanh nghiệp; chính sách nhà ở; chính sách gia đình, phụ nữ và trẻ em;

chính sách xã hội trong giáo dục; chính sách xã hội trong y tế; chính sách
giúp đỡ thanh niên; chính sách người cao tuổi, trợ giúp xã hội...” [10, tr. 9].
1.2. Người có công với cách mạng
1.2.1. Khái niệm người có công với cách mạng
8


NCCVCM là người đã có thành tích tham gia hoặc giúp đỡ cách mạng
trong lúc khó khăn, nguy hiểm và đã được Nhà nước công nhận. Cho đến nay
hầu như chưa có một định nghĩa cụ thể về NCCVCM. Theo Khoản 1, Điều 2
Văn bản hợp nhất Pháp lệnh ưu đãi NCCVCM năm 2012 “Người có công với
cách mạng” là những người: “Người hoạt động cách mạng trước ngày 01
tháng 01 năm 1945; Người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm
1945 đến ngày khởi nghĩa tháng Tám năm 1945; Liệt sĩ; Bà mẹ Việt Nam anh
hùng; Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; Anh hùng Lao động trong thời
kỳ kháng chiến; Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh;
Bệnh binh; Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học; Người
hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày; Người hoạt
động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc
tế; Người có công giúp đỡ cách mạng” [28, tr. 1;2].
Mặc dù Pháp lệnh ưu đãi NCCVCM được thực hiện từ lâu nhưng cho
đến nay chưa có một văn bản pháp luật nào nêu rõ khái niệm NCCVCM. Tuy
nhiên căn cứ các tiêu chuẩn đối với từng đối tượng là NCCVCM mà Nhà
nước ta đã quy định như trên, có thể hiểu khái niệm NCCVCM theo 2 nghĩa
sau:
Theo nghĩa rộng, NCCVCM là những người không phân biệt tôn giáo,
tín ngưỡng, dân tộc, giới tính, tuổi tác đã tự nguyện cống hiến sức lực, tài
năng trí tuệ, có người hy sinh cả cuộc đời mình cho sự nghiệp của dân tộc. Họ
là những người có thành tích đóng góp hoặc có những cống hiến xuất sắc
phục vụ cho lợi ích của dân tộc và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền

công nhận theo quy định của pháp luật.
Theo nghĩa hẹp, NCCVCM là những người không phân biệt tôn giáo,
tín ngưỡng, dân tộc, giới tính… có những đóng góp, những cống hiến xuất sắc
trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, được các
cơ quan tổ chức có thẩm quyền công nhận.
1.2.2. Đặc điểm của người có công với cách mạng
Từ khái niệm trên, có thể rút ra một số đặc điểm của NCCVCM sau
đây:

9


Một là, NCCVCM bao gồm người tham gia hoặc giúp đỡ cho cách
mạng, họ đã hy sinh một phần thân thể hay cả cuộc đời của mình hoặc có
thành tích đóng góp cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Hai là, NCCVCM là người có thành tích đóng góp hoặc cống hiến xuất
sắc vì lợi ích của dân tộc, những đóng góp, cống hiến của họ có thể là trong
các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc và cũng có thể là
trong cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Ba là, phạm trù NCCVCM là rất rộng, hiểu trong phạm vi hẹp thì đối
tượng NCCVCM là những người đã tham gia trong các cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Hơn nữa Pháp luật điều chỉnh vấn đề ưu đãi đối với NCCVCM (Pháp
lệnh ưu đãi NCCVCM và các văn bản điều chỉnh) chủ yếu điều chỉnh những
đối tượng này.
1.2.3. Phân loại người có công với cách mạng
Trong khái niệm về NCCVCM đã thể hiện rõ về từng loại đối tượng
NCCVCM như sau:
a) Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945
Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945 là người

được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận đã tham gia tổ chức cách
mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945.
b) Người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến
ngày khởi nghĩa tháng Tám năm 1945
Họ là những người được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận
đứng đầu một tổ chức quần chúng cách mạng cấp xã hoặc thoát ly hoạt động
cách mạng kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến ngày khởi nghĩa tháng Tám
năm 1945.
c) Liệt sĩ
Liệt sĩ là người đã hy sinh vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc,
bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế hoặc vì lợi ích của Nhà nước, của
nhân dân được Nhà nước truy tặng Bằng “Tổ quốc ghi công” thuộc một trong
các trường hợp: chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ chiến đấu; trực tiếp đấu
10


tranh chính trị, đấu tranh binh vận có tổ chức với địch; hoạt động cách mạng,
hoạt động kháng chiến bị địch bắt, tra tấn vẫn không chịu khuất phục, kiên
quyết đấu tranh hoặc thực hiện chủ trương vượt tù, vượt ngục mà hy sinh; làm
nghĩa vụ quốc tế; đấu tranh chống tội phạm; dũng cảm thực hiện công việc
cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc phòng, an ninh; dũng cảm cứu người, cứu
tài sản của Nhà nước và nhân dân; do ốm đau, tai nạn khi đang làm nhiệm vụ
quốc phòng, an ninh ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn;
khi đang trực tiếp làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ do cơ quan có
thẩm quyền giao; trực tiếp làm nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu hoặc diễn tập
phục vụ quốc phòng, an ninh có tính chất nguy hiểm; thương binh hoặc người
hưởng chính sách như thương binh quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 19
của Pháp lệnh ưu đãi NCCVCM năm 2012 chết vì vết thương tái phát…
d) Bà mẹ Việt Nam anh hùng
Bà mẹ Việt Nam anh hùng là những bà mẹ có nhiều cống hiến, hy sinh

vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế
thuộc các trường hợp sau: có 2 con là liệt sĩ và có chồng hoặc bản thân là liệt
sĩ; có 2 con mà cả 2 con là liệt sĩ hoặc chỉ có 1 con mà con đó là liệt sĩ; có từ
3 con trở lên là liệt sĩ; có 1 con là liệt sĩ, chồng và bản thân là liệt sĩ…
đ) Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; Anh hùng Lao động trong
thời kỳ kháng chiến
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân là người được Nhà nước tặng
hoặc truy tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân” theo quy
định của pháp luật.
Anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng chiến là người được Nhà nước
tuyên dương “Anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng chiến” vì có thành tích
xuất sắc trong lao động, sản xuất phục vụ kháng chiến.
e) Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh
Thương binh là quân nhân, công an nhân dân bị thương làm suy giảm
khả năng lao động từ 21% trở lên, được cơ quan, đơn vị có thẩm quyền cấp
“Giấy chứng nhận thương binh” và “Huy hiệu thương binh” thuộc một trong
11


các trường hợp: chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ chiến đấu; bị địch bắt, tra
tấn vẫn không chịu khuất phục, kiên quyết đấu tranh, để lại thương tích thực
thể; làm nghĩa vụ quốc tế; đấu tranh chống tội phạm; dũng cảm thực hiện
công việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc phòng, an ninh; dũng cảm cứu
người, cứu tài sản của Nhà nước và nhân dân; làm nhiệm vụ quốc phòng, an
ninh ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; khi đang trực
tiếp làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ do cơ quan có thẩm quyền
giao; trực tiếp làm nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu hoặc diễn tập phục vụ quốc
phòng, an ninh có tính chất nguy hiểm.
Người hưởng chính sách như thương binh là người không phải là quân
nhân, công an nhân dân, bị thương làm suy giảm khả năng lao động từ 21%

trở lên thuộc một trong các trường hợp nêu trên được cơ quan có thẩm quyền
cấp “Giấy chứng nhận người hưởng chính sách như thương binh”.
Thương binh loại B là quân nhân, công an nhân dân bị thương làm suy
giảm khả năng lao động từ 21% trở lên, công tác đã được cơ quan, đơn vị có
thẩm quyền công nhận trước ngày 31 tháng 12 năm 1993.
g) Bệnh binh
Bệnh binh là quân nhân, công an nhân dân mắc bệnh làm suy giảm khả
năng lao động từ 61% trở lên khi xuất ngũ về gia đình được cơ quan, đơn vị
có thẩm quyền cấp “Giấy chứng nhận bệnh binh” thuộc một trong các trường
hợp: chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ chiến đấu; hoạt động liên tục ở địa bàn
có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn từ mười lăm tháng trở lên; hoạt
động ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn chưa đủ mười
lăm tháng nhưng đã có đủ mười năm trở lên công tác trong Quân đội nhân
dân, Công an nhân dân; đã công tác trong Quân đội nhân dân, Công an nhân
dân đủ mười lăm năm nhưng không đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí; làm
nghĩa vụ quốc tế; thực hiện công việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc
phòng, an ninh; khi đang làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ do cơ
quan có thẩm quyền giao.

12


Bệnh binh là quân nhân, công an nhân dân mắc bệnh làm suy giảm khả
năng lao động từ 41% đến 60% đã được cơ quan, đơn vị có thẩm quyền công
nhận trước ngày 31 tháng 12 năm 1994.
Bệnh binh là quân nhân, công an nhân dân mắc bệnh khi thực hiện
nhiệm vụ đã xuất ngũ về gia đình, nay bị rối loạn tâm thần có liên quan đến
bệnh cũ làm suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.
h) Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học
Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học là người được

cơ quan có thẩm quyền công nhận đã tham gia công tác, chiến đấu, phục vụ
chiến đấu từ tháng 8 năm 1961 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 tại các vùng
mà quân đội Mỹ sử dụng chất độc hoá học và do nhiễm chất độc hoá học dẫn
đến một trong các trường hợp sau đây: mắc bệnh làm suy giảm khả năng lao
động từ 21% trở lên; vô sinh; sinh con dị dạng, dị tật.
i) Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù,
đày
Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày
là người được cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền công nhận trong thời
gian bị tù, đày không khai báo có hại cho cách mạng, cho kháng chiến, không
làm tay sai cho địch.
k) Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và
làm nghĩa vụ quốc tế
Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và
làm nghĩa vụ quốc tế được hưởng các chế độ ưu đãi quy định tại Điều 31 của
Pháp lệnh ưu đãi NCCVCM năm 2012 là người tham gia kháng chiến được
Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến, Huy chương kháng chiến.
l) Người có công giúp đỡ cách mạng
Người có công giúp đỡ cách mạng là người đã có thành tích giúp đỡ
cách mạng trong lúc khó khăn, nguy hiểm, bao gồm người được tặng Kỷ niệm
chương “Tổ quốc ghi công” hoặc Bằng “Có công với nước”; người trong gia
đình được tặng Kỷ niệm chương “Tổ quốc ghi công” hoặc Bằng “Có công với
13


nước” trước cách mạng tháng Tám năm 1945; người được tặng Huân chương
kháng chiến hoặc Huy chương kháng chiến; người trong gia đình được tặng
Huân chương kháng chiến hoặc Huy chương kháng chiến.
1.3. Chính sách đối với người có công với cách mạng
Chính sách đối với NCCVCM góp phần thể hiện tinh thần nhân văn

của quốc gia. Nó không chỉ là sự giúp đỡ, chia sẻ mà còn là nghĩa vụ của nhà
nước, nhân dân và toàn xã hội đối với những NCCVCM. Chính sách ưu đãi
NCCVCM nhằm ghi nhận và tri ân những con người đã có công, đã có những
cống hiến đặc biệt cho sự nghiệp đấu tranh và bảo vệ đất nước; nhằm đảm
bảo công bằng xã hội đồng thời duy trì và phát triển những giá trị tinh thần
cao đẹp của dân tộc, giáo dục truyền thống yêu nước cho các thế hệ tương lai.
a) Khái niệm chính sách đối với người có công với cách mạng
Chính sách đối với NCCVCM là những quy định bằng văn bản của
Nhà nước, đó là sự đãi ngộ đặc biệt cả về vật chất và tinh thần của Nhà nước
và xã hội nhằm ghi nhận và đền đáp công lao đối với những NCCVCM và
thân nhân của họ. Nó thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước và
toàn xã hội đối với NCCVCM, góp phần tạo ra sự công bằng, bình đẳng, ổn
định, phát triển và tiến bộ xã hội.
b) Vai trò của chính sách đối với người có công với cách mạng
Chính sách đối với NCCVCM là những giá trị tinh thần cao đẹp của
dân tộc, là mục tiêu chính trị xã hội quan trọng của mỗi đất nước. Chính sách
đối với NCCVCM có những vai trò như sau:
Thứ nhất, chính sách đối với NCCVCM cụ thể hóa ý chí của Nhà nước,
là cơ sở pháp lý để quản lý công tác thực hiện chế độ, chính sách đối với
NCCVCM theo đúng quy trình và tạo sự thống nhất trong quá trình thực hiện;
Thứ hai, chính sách đối với NCCVCM nhằm ghi nhận và tri ân những
cống hiến đặc biệt của NCCVCM cho đất nước, góp phần ổn định đời sống
của những NCCVCM. Đây là tiền đề quan trọng để thực hiện chính sách ưu
đãi NCCVCM;
Thứ ba, chính sách đối với NCCVCM nhằm đảm bảo công bằng cho xã
hội, vì ai cống hiến nhiều cho đất nước người đó phải được hưởng nhiều. Đây
14


không phải là sự đền bù những hi sinh của NCCVCM mà là sự đền ơn đáp

nghĩa không chỉ là vật chất thuần túy mà còn hàm chứa trong đó cả đạo lý,
truyền thống nhân văn của dân tộc, lòng biết ơn sâu sắc của thế hệ hôm nay
đối với những người đã hy sinh vì nghĩa vụ dân tộc;
Thứ tư, chính sách đối với NCCVCM góp phần thể hiện truyền thồng
đạo lý tốt đẹp của dân tộc, sự đoàn kết, quan tâm và giúp đỡ lẫn nhau của
nhân dân ta. Thực hiện chính sách đối với NCCVCM không chỉ bảo vệ, giúp
đỡ mà còn thể hiện nghĩa vụ của nhà nước, của xã hội đối với những
NCCVCM;
Thứ năm, chính sách đối với NCCVCM là những giá trị tinh thần cao
đẹp của dân tộc, giáo dục cho thế hệ trẻ, thế hệ tương lai ý thức trách nhiệm
của mình đối với những NCCVCM đã sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp dân tộc.
c) Một số chính sách đối với người có công với cách mạng
Về vật chất, chính sách ưu đãi về vật chất đối với NCCVCM được thể
hiện bằng các chính sách ưu đãi sau:
Thứ nhất, chính sách trợ cấp bằng tiền cho các đối tượng hưởng ưu đãi
xã hội như: trợ cấp, phụ cấp hàng tháng; trợ cấp mai táng phí; trợ cấp tiền tuất
hàng tháng; ưu đãi giáo dục và đào tạo…
Thứ hai, chính sách trợ cấp bằng hiện vật cho các đối tượng hưởng ưu
đãi xã hội như: xây dựng nhà tình nghĩa; cấp thẻ bảo hiểm y tế; cấp các dụng
cụ chỉnh hình; quà tặng…
Thứ ba, chính sách trợ cấp điều dưỡng phục hồi sức khỏe, phục hồi
chức năng, vay vốn ưu đãi để sản xuất, được miễn hay giảm thuế theo quy
định của pháp luật…
Về tinh thần, chính sách đối với NCCVCM nhằm đảm bảo đời sống
tâm tư, tình cảm của NCCVCM, bên cạnh những chính sách ưu đãi về vật
chất thì những chính sách ưu đãi về tinh thần cho những đối tượng này cũng
là một hình thức cần quan tâm và phát triển song hành. Những NCCVCM rất
cần được quan tâm, chăm sóc về mặt tinh thần để vươn lên trong cuộc sống,
hòa nhập cùng cộng đồng. Cũng như các chính sách về vật chất nêu trên,
chính sách về tinh thần sẽ thể hiện được sự ghi nhớ công ơn, tri ân của thế hệ

15


hôm nay đối với lớp NCCVCM. Chính sách này được thể hiện dưới những
hình thức sau: tặng Bằng khen, Huân chương, Kỷ niệm chương: phong tặng
các danh hiệu như “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, “Anh hùng lực lượng vũ
trang”, “Anh hùng lao động trong thời kỳ kháng chiến”, Huân chương kháng
chiến, Huy chương kháng chiến; tặng Bằng “Tổ quốc ghi công” hoặc Bằng
“Có công với nước”; dùng tên NCCVCM để đặt tên các trường học, học viện,
đường phố, các công trình công cộng; dựng tượng đài, bia tưởng niệm, nghĩa
trang dành cho NCCVCM; ưu tiên con em các đối tượng NCCVCM trong
tuyển sinh giáo dục đào tạo; tổ chức các câu lạc bộ, sinh hoạt văn hóa, văn
nghệ cho NCCVCM.
1.4. Quản lý nhà nước về công tác thực hiện chính sách đối với
người có công với cách mạng
1.4.1. Khái niệm
a) Quản lý nhà nước
Theo giáo trình Lý luận hành chính nhà nước của PGS-TS Nguyễn Hữu
Hải Học viện Hành chính thì: “Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội
đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng pháp luật và chính sách để
điều chỉnh hành vi của cá nhân trên tất cả các mặt của đời sống xã hội do
các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ nhân dân, duy
trì sự ổn định và phát triển xã hội”.
Như vậy quản lý nhà nước là sự tác động, tổ chức, điều chỉnh mang
tính quyền lực nhà nước, thông qua hoạt động của bộ máy nhà nước bằng
phương tiện, công cụ, cách thức tác động của Nhà nước đối với các lĩnh vực
của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và các lĩnh vực khác của đời
sống xã hội theo đường lối, nghị quyết, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Hiện nay quản lý nhà nước được hiểu theo 2 nghĩa
sau:

Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là hoạt động tổ chức, điều hành của
cả bộ máy nhà nước, nghĩa là bao hàm cả sự tác động tổ chức của quyền lực
nhà nước trên các phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo cách

16


hiểu này quản lý nhà nước được đặt trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ”.
Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước chỉ giới hạn trong hoạt động thực thi
quyền hành pháp (hành chính nhà nước) chủ yếu là quá trình tổ chức, điều
hành trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước đối với các quá trình xã
hội và hoạt động của con người theo pháp luật, nhằm đạt được những mục
tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ mà quản lý nhà nước đặt ra. Đồng thời các cơ quan
nhà nước nói chung cần thực hiện các hoạt động có tính chất chấp hành, điều
hành, tính chất hành chính nhà nước nhằm xây dựng, tổ chức bộ máy và củng
cố chế độ công tác nội bộ của mình.
b) Quản lý nhà nước về công tác thực hiện chính sách đối với người có
công với cách mạng
Quản lý nhà nước về công tác thực hiện chính sách NCCVCM là việc
các cơ quan nhà nước tổ chức và thực hiện các chế độ, chính sách đối với
NCCVCM làm cho các quy định của pháp luật được thực hiện một cách
nghiêm túc, đầy đủ, chính xác nhất, nhằm đảm bảo sự công bằng giữa các đối
tượng NCCVCM, gia đình và thân nhân của NCCVCM, giữa các địa phương,
giữa các đồng bào dân tộc với nhau; góp phần nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cũng như thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với những hy sinh to lớn
của NCCVCM đối với đất nước.
1.4.2. Cơ sở pháp lý của việc thực hiện chính sách đối với người có
công với cách mạng
Ngay sau khi giành được chính quyền, từ những ngày đầu của cuộc

kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác Hồ đã ký sắc lệnh số 20/SL ngày
16/02/1947 về Ưu đãi người có công. Từ năm 1986 đến nay trong vấn đề ưu
đãi đối với NCCVCM, hệ thống pháp luật nước ta đã có những thay đổi quan
trọng để phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của thời kỳ đổi mới. Nhà nước
đã đề ra nhiều văn bản luật đối với NCCVCM, trong đó nổi bật nhất là việc
ban hành Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt
sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp
đỡ cách mạng năm 1994 và Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự nhà nước
17


“Bà mẹ Việt Nam anh hùng” năm 1994. Đây là hai văn bản pháp luật nhằm
thể chế hóa Hiến pháp năm 1992, đánh dấu sự tiến bộ trong hệ thống chính
sách ưu đãi đối với NCCVCM, cùng với các nghị định, thông tư hướng dẫn
thi hành hai pháp lệnh này tạo thành hệ thống pháp luật về ưu đãi NCCVCM.
Năm 1998 và năm 2000, Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng,
liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng
chiến, người có công giúp đỡ cách mạng năm 1994 lại được sửa đổi cho phù
hợp với điều kiện mới và quá trình cải cách hành chính. Cơ quan hành chính
với tư cách là cơ quan hành pháp đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn, quy
định chi tiết và tổ chức thực hiện, đưa pháp luật vào đời sống xã hội.
Năm 2005, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh ưu đãi
NCCVCM số 26/2005/PL-UBTVQH11 thay thế Pháp lệnh ưu đãi người hoạt
động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt
động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng năm 1994 vì không còn
phù hợp, chưa thực sự công bằng; Chính phủ và các bộ cũng đã ban hành nghị
định, thông tư hướng dẫn.
Năm 2012, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số
04/2012/UBTVQH13 ngày 16/7/2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp
lệnh ưu đãi NCCVCM năm 2005. Ngày 30/7/2012 Văn phòng Quốc hội đã

hợp nhất các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung của Pháp lệnh ưu đãi NCCVCM
thành Văn bản hợp nhất số 01/VBHN-VPQH.
Ngày 09/4/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 31/2013/NĐ-CP
quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi
NCCVCM. Ngày 15/5/2013 Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành
Thông tư số 05/2013/TT-BLĐTBXH hướng dẫn về thủ tục lập hồ sơ, quản lý
hồ sơ, thực hiện chế độ ưu đãi NCCVCM và thân nhân của họ.
1.4.3. Nguyên tắc quản lý của việc thực hiện chính sách đối với
người có công với cách mạng
Quản lý công tác thực hiện chính sách đối với NCCVCM cũng như
quản lý kinh tế, quản lý xã hội... đều phải tuân thủ theo quy định của pháp
luật. Nhưng quản lý công tác thực hiện chính sách đối với NCCVCM ngoài
18


tuân thủ theo quy định của pháp luật thì còn phải tuân thủ theo các nguyên tắc
cơ bản đó là:
Một là, tuân thủ theo Pháp lệnh ưu đãi NCCVCM. Chúng ta đang sống
và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật thì cơ quan quản lý công tác thực hiện
chính sách đối với NCCVCM cũng vậy, trước hết phải tuân thủ theo pháp
luật, theo pháp lệnh của từng thời kỳ áp dụng để tạo môi trường lành mạnh,
trong sáng và kỷ cương cho đất nước.
Hai là, tuân thủ theo nguyên tắc đảm bảo quyền lợi của NCCVCM.
Thực hiện chi đúng, chi đủ, chi kịp thời cho NCCVCM, có như vậy một mặt
đảm bảo nguyên tắc, một mặt ổn định đời sống vật chất, tinh thần cho xã hội
nói chung và những NCCVCM nói riêng.
Ba là, tuân thủ theo nguyên tắc dân chủ. Mọi chế độ, quyền lợi của
NCCVCM phải được công khai dân chủ, niêm yết trước nhân dân để nhân
dân biết và đóng góp ý kiến.
Bốn là, tuân thủ theo nguyên tắc bình đẳng. Mọi đối tượng là

NCCVCM đều phải được bình đẳng trong xã hội.
1.4.4. Nội dung của việc thực hiện chính sách đối với người có công
với cách mạng
Nội dung quản lý nhà nước về công tác thực hiện chính sách đối với
NCCVCM bao gồm nhiều loại hoạt động cơ bản có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau:
a) Tổ chức bộ máy quản lý
Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về công tác thực hiện chính sách đối
với NCCVCM cũng là một nội dung quan trọng trong công tác quản lý nhà
nước về thực hiện chính sách đối với NCCVCM, vì vậy công tác tổ chức bộ
máy quản lý cần lưu ý một số vấn đề cơ bản như sau:
- Vị trí và chức năng giữa ngành Lao động – Thương binh và Xã hội
với các ngành tài chính, giáo dục, quốc phòng, công an... cần phân định rõ
ràng, không được chồng chéo nhau. Trong đó ngành Lao động – Thương binh
và Xã hội thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực: việc làm,
dạy nghề, lao động, tiền lương, tiền công, bảo hiểm xã hội (bảo hiểm xã hội
19


bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp), an toàn lao động,
người có công, bảo trợ xã hội, bảo vệ và chăm sóc trẻ em, bình đẳng giới,
phòng chống tệ nạn xã hội; quản lý các dịch vụ công trong các ngành, lĩnh
vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước.
- Mối quan hệ giữa ngành Lao động – Thương binh và Xã hội với chính
quyền địa phương là một vấn đề rất quan trọng trong việc tổ chức bộ máy
quản lý công tác thực hiện chính sách đối với NCCVCM, bởi vì trong việc
thực hiện và quản lý công tác thực hiện chính sách đối với NCCVCM rất cần
sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương các cấp. Điều này càng
quan trọng hơn đối với các nước ở trình độ phát triển kinh tế - xã hội chưa
cao, trình độ dân trí, trình độ hiểu biết và chấp hành pháp lệnh của một bộ

phận đối tượng thấp.
b) Công tác quản lý
Công tác quản lý thực hiện chính sách đối với NCCVCM là một hoạt
động quan trọng, vì vậy công tác này cần tiến hành quản lý đảm bảo đúng thủ
tục, quy trình đề ra. Để thực hiện công việc này ngành Lao động – Thương
binh và Xã hội ở các cấp phải điều tra, nắm bắt các thông tin trong thực tế đời
sống nhân dân để phản ánh kịp thời đến các cơ quan chức năng nắm bắt, xử lý
kịp thời và đúng quy định. Công tác quản lý thực hiện chính sách đối với
NCCVCM gồm:
Thứ nhất, công tác xét duyệt, quản lý về chính sách đối với các đối
tượng là NCCVCM. Đây là công tác chuyên môn nghiệp vụ của người thực
hiện nhiệm vụ quản lý để trình nhà quản lý hướng dẫn, chỉ đạo về chuyên
môn nghiệp vụ đối với công chức phụ trách mảng văn hóa, xã hội ở cấp cơ sở,
các đối tượng chính sách và gia đình họ; người thực hiện nhiệm vụ quản lý
trên lĩnh vực này phải tiến hành thống kê, kê khai chính xác, đúng quy định
của Nhà nước và thường xuyên lập báo cáo với các cấp.
Thứ hai, ban hành văn bản hướng dẫn việc thực hiện các chính sách và
pháp luật của Nhà nước về lĩnh vực NCCVCM.
Thứ ba, phối hợp với các ngành, đoàn thể xây dựng phong trào toàn
dân chăm sóc, giúp đỡ NCCVCM và các đối tượng chính sách xã hội.
20


Thứ tư, công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm. Bộ phận thanh
tra, kiểm tra trên lĩnh vực thực hiện chính sách đối với NCCVCM tham mưu
cho các cấp chính quyền, các nhà lãnh đạo, quản lý của lĩnh vực này; đồng
thời phối hợp với các ngành, các cấp tổ chức thanh tra, kiểm tra, xử lý vi
phạm nhằm hạn chế các tiêu cực trong việc thực hiện và quản lý công tác thực
hiện chính sách đối với người có công với cách mạng.
Ngoài ra trong tổ chức việc thực hiện chính sách đối với NCCVCM còn

có tổ tài vụ giúp các cấp chính quyền, các nhà lãnh đạo quản lý thực hiện và
quản lý tài vụ chi trả kinh phí uỷ quyền cho các đối tượng theo quy định của
Nhà nước.
c) Tổ chức thực hiện
Kế hoạch triển khai công tác thực hiện chính sách đối với NCCVCM từ
trung ương đến địa phương bằng nhiều hình thức như tập huấn cho cán bộ chủ
chốt và cán bộ nghiệp vụ; đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng
đến tận thôn bản cho nhân dân được biết, được hiểu công tác một cách thấu
đáo… Trong thời gian đến cần dựa trên điều kiện thực tiễn để xây dựng kế
hoạch cho từng quý, từng tháng; trên cơ sở xác định mục tiêu hàng tháng, tổ
chức thanh tra, kiểm tra, theo dõi kế hoạch thực hiện đúng thời hạn, thực hiện
các phương pháp quản lý chặt chẽ, chống khai man để hưởng sai quy định.
Kết quả việc tổ chức thực hiện được đánh giá chất lượng của việc xây
dựng kế hoạch, đánh giá hiệu quả các biện pháp quản lý công tác thực hiện
chính sách đối với NCCVCM; đồng thời phản ánh tâm tư nguyện vọng, nắm
bắt đời sống của NCCVCM trên địa bàn.
1.5. Sự cần thiết của việc quản lý nhà nước về thực hiện chính sách
đối với người có công với cách mạng
1.5.1. Xuất phát từ vị trí, vai trò của công tác thực hiện chính sách
đối với người có công với cách mạng
Trong tình hình hiện nay, khi đất nước đã bước vào thời kỳ xây dựng
và phát triển, bên cạnh những kết quả đã đạt được thì trong nước những mặt
tiêu cực của xã hội đang tiềm ẩn, nảy sinh nhiều vấn đề xã hội hết sức bức
xúc; các thế lực thù địch nước ngoài vẫn không ngừng chống phá cách mạng
21


Việt Nam bằng các thủ đoạn diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ… thì vai trò
của NCCVCM lại càng có ý nghĩa lớn lao đó là:
Thứ nhất, NCCVCM là cái nôi, là chỗ dựa tinh thần cho việc tuyên

truyền, giáo dục sâu sắc ý thức, đạo đức đối với các thế hệ con cháu về lòng
kính trọng sự hy sinh vô bờ bến, về tinh thần đoàn kết dân tộc cao đẹp, chịu
nhiều gian khổ của của thế hệ cha ông để bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt
Nam Xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, NCCVCM còn là thước đo, còn là tinh thần lao động cần cù,
sáng tạo trong lao động, trong học tập, trong sự nghiệp phát triển kinh tế.
Nhiều NCCVCM bị tàn tật nhưng họ vẫn vươn lên làm kinh tế giỏi “thương
binh tàn nhưng không phế” đây là những minh chứng cho thế hệ con cháu
thấy “ không có việc gì khó…” để cùng chung sức, chung lòng bảo vệ và xây
dựng đất nước Việt Nam Xã hôi chủ nghĩa ngày càng giàu mạnh.
Đạo lý tốt đẹp ngàn đời của dân tộc ta là uống nước nhớ nguồn, ăn quả
nhớ kẻ trồng cây, nên ngay từ những ngày đầu thành lập nước trong điều kiện
đất nước còn nhiều khó khăn, Đảng, Chính phủ và Bác Hồ đã đặc biệt quan
tâm tới công tác thương binh liệt sĩ và đã lấy ngày 27/7/1947 là ngày thương
binh liệt sĩ đầu tiên ở nước ta. Suốt mấy chục năm qua, Đảng và Nhà nước đã
ban hành nhiều chính sách ưu đãi đối với NCCVCM và thân nhân của
NCCVCM. Đây là những chính sách lớn và thường xuyên được bổ sung, sửa
đổi cho phù hợp với từng thời kỳ cách mạng và đến nay đã hình thành một hệ
thống chính sách mà các nội dung đều gắn liền với việc thực hiện chính sách
kinh tế xã hội và liên quan đến đời sống hàng ngày của hàng triệu người có
công. Hồ Chí Minh đã nói: “thương binh, bệnh binh, gia đình bộ đội, gia đình
liệt sĩ là những người có công với Tổ quốc. Bởi vậy bổn phận của chúng ta là
phải biết ơn, thương yêu và giúp đỡ họ”. Việc thực hiện chính sách ưu đãi đối
với NCCVCM là bổn phận, trách nhiệm của toàn xã hội với tinh thần đền ơn
đáp nghĩa. Mục đích của chính sách là đảm bảo cho NCCVCM có được cuộc
sống ấm no, ổn định về vật chất và tinh thần và tạo điều kiện cho NCCVCM
sử dụng được khả năng lao động của mình vào những hoạt động có ích cho xã

22



hội, tiếp tục duy trì và phát huy phẩm chất, truyền thống tốt đẹp của mình góp
phần phục vụ cho sự nghiệp đổi mới đất nước.
Ưu đãi NCCVCM là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, đó
là sự đãi ngộ đặc biệt của Đảng, Nhà nước đối với NCCVCM, là trách nhiệm
và là sự ghi nhận, tôn vinh những cống hiến của họ đối với đất nước. Pháp
lệnh ưu đãi NCCVCM không chỉ mang tính chính trị, kinh tế, xã hội mà còn
mang tính nhân văn sâu sắc; nó thể hiện truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân
tộc Việt Nam; giáo dục cho các thế hệ trẻ ý thức trách nhiệm, ý thức rèn
luyện, phấn đấu vươn lên để cống hiến, hy sinh cho sự nghiệp gìn giữ, xây
dựng và phát triển đất nước, bảo vệ những giá trị tốt đẹp, những thành quả to
lớn mà cha ông ta đã ra sức đấu tranh và gìn giữ. Vì vậy những chính sách ưu
đãi đối với NCCVCM là những chính sách vô cùng quan trọng. Thực hiện tốt
các chính sách đối với NCCVCM sẽ góp phần vào sự ổn định xã hội, giữ
vững thể chế chính trị và ngược lại.
Pháp lệnh về ưu đãi NCCVCM là công cụ quan trọng trong việc quản lý
xã hội trên lĩnh vực này, nhằm thể chế hóa các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước đối với NCCVCM; tạo môi trường pháp lý thuận lợi để
các cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân nâng cao nhận thức, tham gia tích cực
vào việc đền ơn đáp nghĩa, chăm lo cho NCCVCM; tạo sự đồng thuận cao
trong việc thực hiện chính sách đối với NCCVCM; góp phần bảo đảm công
bằng xã hội và tạo điều kiện thuận lợi để NCCVCM xây dựng cuộc sống và
tiếp tục khẳng định vai trò của mình trong cộng đồng xã hội.
1.5.2. Xuất phát từ tình hình thực hiện chính sách đối với người có
công với cách mạng
Quản lý nhà nước về công tác thực hiện chính sách đối với NCCVCM
là việc các cơ quan nhà nước tổ chức thực hiện chế độ, chính sách ưu đãi đối
với NCCVCM làm cho các quy định được thực hiện một cách đầy đủ và đúng
đắn nhất; đảm bảo sự công bằng giữa các các đối tượng, gia đình, giữa các
vùng miền, giữa các dân tộc với nhau; góp phần nâng cao đời sống vật chất,

tinh thần và thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với những công lao to lớn của
23


NCCVCM với đất nước. Chính vì lẽ đó việc tổ chức và thực thi các giải pháp
quản lý phải đảm bảo tính thống nhất cao; mỗi một cơ quan quản lý công tác
thực hiện chính sách đối với NCCVCM không thể tuỳ tiện đề ra những giải
pháp quản lý công tác này đi trái ngược với quy định của toàn ngành. Tuy
nhiên điều đó không có nghĩa là thủ tiêu tính sáng tạo của từng cơ quan quản
lý về công tác thực hiện chính sách đối với NCCVCM trong việc tìm tòi các
giải pháp cụ thể, miễn là các giải pháp đó phù hợp với tình hình thực tế và hỗ
trợ cho các giải pháp chung nhất toàn ngành.
Các chính sách, chủ trương, đường lối, pháp luật… với vai trò là công
cụ quản lý giúp nhà quản lý thực hiện được các mục tiêu đề ra. Nếu chính
sách phù hợp với điều kiện khách quan và các nhân tố chủ quan thì chính sách
mới chỉ thành công trên phương diện lý thuyết mà mục tiêu quản lý chưa thực
hiện được. Quản lý là khoa học và cũng là nghệ thuật, suy cho cùng cốt lõi của
quản lý chính là quản lý con người; vì vậy để chính sách NCCVCM đi vào
cuộc sống, được mọi người dân chấp hành thực hiện thì khi đề ra các chính
sách các nhà làm luật cần phải nghiên cứu sâu sắc về nhân tố con người.
Trên thực tế hiện nay công tác thực hiện thủ tục hành chính về chế độ,
chính sách đối với NCCVCM còn vấp phải nhiều tồn tại từ nhiều nguyên
nhân khác nhau, đã gây khó khăn, cản trở cho cả cán bộ, công chức thực hiện
chính sách và cả người thực hiện chính sách. Ví dụ như việc ban hành văn
bản thiếu tính thống nhất, thẩm quyền ban hành và giải quyết công việc còn
chồng chéo nhau; thủ tục hành chính còn rườm rà dẫn đến việc giải quyết các
chính sách đối với NCCVCM gặp nhiều khó khăn; một số văn bản quy phạm
pháp luật hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh ưu đãi người có công chưa đầy đủ,
thiếu thống nhất; một số quy định hướng dẫn về điều kiện, tiêu chuẩn, quy
trình, trách nhiệm xác nhận NCCVCM chưa đồng bộ, thiếu hợp lý; có nội

dung quá khắt khe gây khó khăn cho đối tượng, có nội dung quá thông thoáng
tạo kẽ hở cho các phần tử xấu lợi dụng dẫn đến tiêu cực. Bên cạnh những tồn
tại trên thì công tác thực hiện chính sách đối với NCCVCM còn gặp không ít
khó khăn về đội ngũ nguồn nhân lực quản lý, một phần là do trình độ, năng lực

24


và nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức còn hạn chế, một phần là do công
tác tuyên truyền hướng dẫn người dân thực hiện chính sách còn kém, thể hiện:
Thứ nhất, trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý NCCVCM còn
yếu kém, một bộ phận cán bộ quản lý yếu cả về trình độ và phẩm chất đạo
đức, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Thứ hai, năng lực quản lý của đội ngũ quản lý NCCVCM còn nhiều
hạn chế chưa đáp ứng được phương pháp quản lý, chưa áp dụng công nghệ
thông tin để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý.
Thứ ba, sự nhận thức của một bộ phận cán bộ và nhân dân đối với
NCCVCM còn nhiều hạn chế.

Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH
2.1. Tổng quan về huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định
2.1.1. Lịch sử hình thành

25



×