Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Bàn luận về vấn đề đổi mới toàn diện nội dung và phương pháp dạy học ở bậc học phổ thông trên quan điểm biện chứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.92 KB, 13 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
Mọi cái mới đều gây ra những dư luận xung quanh nó. Việc thay đổi
chương trình dạy học ở bậc học phổ thơng cũng khơng nằm ngồi quy luật đó.
Những dư luận xung quanh vấn đề này bao gồm cả khen và chê. Nhiều người
cho rằng: việc đổi mới là tất yếu, là cấp thiết trong thời đại mới, thời đại của
công nghệ thông tin, của khoa học phát triển và thời đại hội nhập quốc tế;
Nhưng cũng khơng ít ý kiến cho rằng việc đổi mới như hiện nay vẫn chưa
thực sự mang lại hiệu quả và còn nhiều bất cập như: vấn đề học tiếng việt của
học sinh tiểu học, nội dung kiến thức của từng môn học chưa phù hợp với
thực tế, cịn nhiều kiến thức chưa chính xác và cịn rất nhiều ý kiến khác nữa
được phát biểu và bàn luận trên nhiều khía cạnh khác nhau. Đứng trên lập
trường của phương pháp biện chứng, chúng ta thử nhìn nhận lại quá trình đổi
mới chương trình dạy học ở hệ thống giáo dục phổ thông bằng cách xét lại
những kết quả mà chúng ta đã đạt được từ sự đổi mới ấy.
Xuất phát từ mong muốn làm rõ ý nghĩa của việc thay đổi chương trình
giáo dục ở bậc học phổ thông nên tôi đã quyết định chọn đề tài “Bàn luận về
vấn đề đổi mới toàn diện nội dung và phương pháp dạy học ở bậc học phổ
thông trên quan điểm biện chứng” làm đề tài tiểu luận triết học của mình.
Hy vọng đề tài này sẽ góp thêm một ý kiến hữu ích cho cơng tác thay đổi
chương trình ở các bậc học phổ thơng. Tuy nhiên, để cho đề tài này mang tính
khách quan hơn, rất mong được sự đóng góp ý kiến của giảng viên và quý bạn
đọc. Tôi xin chân thành cảm ơn!
II. Phương pháp thực hiện đề tài:
- Tổng hợp tài liệu.
- Tìm hiểu thông tin dư luận xung quanh vấn đề nghiên cứu.


- Phân tích các ý kiến dư luận trên quan điểm của phép biện chứng duy
vật. Từ đó rút ra kết luận và đưa ra những kiến nghị cần thiết trong quá trình
thực hiện đổi mới chương trình ở bậc học phổ thông.




PHẦN II: NỘI DUNG
I. Lý luận chung.
1. Sự đấu tranh của các mặt đối lập trong một thể thống nhất:
Trong phép biện chứng duy vật, khái niệm mặt đối lập là sự khái quát
những thuộc tính, những khuynh hướng ngược chiều nhau tồn tại trong cùng
một sự vật hiện tượng, tạo nên sự vật hiện tượng đó. Do đó, cần phải phân
biệt rằng bất kỳ hai mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Bởi vì trong
các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan không phải chỉ tồn tại hai mặt
đối lập. Trong cùng một thời điểm ở mỗi sự vật hiện tượng có thể cùng tồn tại
nhiều mặt đối lập. Chỉ có những mặt đối lập là tồn tại thống nhất trong cùng
một sự vật như một chỉnh thể, nhưng có khuynh hướng phát triển ngược chiều
nhau, bài trừ, phủ định và chuyển hoá lẫn nhau (Sự chuyển hoá này tạo thành
nguồn gốc động lực, đồng thời quy định bản chất, khuynh hướng phát triển
của sự vật) thì có hai mặt đối lập như vậy mới gọi là hai mặt đối lập mâu
thuẫn. “Thống nhất” của hai mặt đối lập được hiểu với ý nghĩa không phải
chúng đứng cạnh nhau mà nương tựa vào nhau, tạo ra sự phù hợp cân bằng
như liên hệ phụ thuộc, quy định và ràng buộc lẫn nhau. Mặt đối lập này lấy
mặt đối lập kia làm tiền đề cho sự tồn tại của mình và ngược lại. Nếu thiếu
một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật thì nhất định khơng có sự tồn
tại của sự vật. Bởi vậy sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không
thể thiếu được cho sự tồn tại của bất kỳ sự vật hiện tượng nào.
Sự thống nhất này do những đặc điểm riêng có của bản thân sự vật tạo
nên.
Tuy nhiên, khái niệm thống nhất này chỉ mang tính tương đối. Bản thân
nội dung khái niệm cũng đã nói lên tính chất tương đối của nó: Thống nhất
của cái đối lập, trong thống nhất đã bao hàm và chứa đựng trong nó sự đối
lập.
Đấu tranh các mặt đối lập:



Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật khơng tách rời
sự đấu tranh chuyển hố giữa chúng. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong
một sự vật thống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn nhưng không nằm yên bên
nhau mà điều chỉnh chuyển hoá lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của
bản thân sự vật. Sự đấu tranh chuyển hoá, bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa các
mặt trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.
Khi bàn về mối quan hệ giữa sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập, Lênin chỉ ra rằng: “Mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự vật tồn tại
với ý nghĩa là chính nó – nhờ có sự thống nhất của các mặt đối lập mà chúng
ta nhận biết được sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan. Song
bản thân của sự thống nhất chỉ là tương đối và tạm thời. Đấu tranh giữa các
mặt đối lập mới là tuyệt đối. Nó diễn ra thường xuyên, liên tục trong suốt quá
trình tồn tại của sự vật. Kể cả trong trạng thái sự vật ổn định, cũng như khi
chuyển hoá nhảy vọt về chất. Lênin viết: “sự thống nhất (phù hợp, đồng nhất,
tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng
qua trong tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt
đối cũng như sự phát triển, sự vận động tuyệt đối”. [2,3]
2. Chuyển hố của các mặt đối lập:
Khơng phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn đến sự
chuyển hố giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến
một trình độ nhất định, hội đủ các điều kiện cần thiết mới dẫn đến chuyển
hoá, bài trừ và phủ định nhau. Trong giới tự nhiên, chuyển hoá của các mặt
đối lập thường diễn ra một cách tự phát, còn trong xã hội, chuyển hoá của các
mặt đối lập nhất thiết phải diễn ra thơng qua hoạt động có ý thức của con
người. Do đó, khơng nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập
chỉ là sự hốn đổi vị trí một cách đơn giản, máy móc. Thơng thường thì mâu
thuẫn chuyển hố theo hai phương thức:



+ Phương thức thứ nhất: Mặt đối lập này chuyển hố thành mặt đối lập
kia nhưng ở trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vật.
+ Phương thức thứ hai: Cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để thành
hai mặt đối lập mới hoàn toàn.
Từ những mâu thuẫn trên cho ta thấy trong thế giới hiện thực, bất kỳ sự
vật hiện tượng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt, những
thuộc tính có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đấu tranh
chuyển hoá của các mặt đối lập trong điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn.
Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, phổ biến của thế giới. Mâu thuẫn được
giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới hình thành. Sự vật mới lại nảy sinh
các mặt đối lập và mâu thuẫn mới.
Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau để
tạo thành sự vật mới hơn. Cứ như vậy mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới
khách quan thường xuyên phát triển và biến đổi khơng ngừng. Vì vậy, mâu
thuẫn là nguồn gốc và động lực của mọi quá phát triển.[2,3]
3. Quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất và ngược lại.
Lượng là tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mơ,
trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển của sự vật cũng như các thuộc
tính của nó. Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa chất và lượng. Giới hạn,
trong đó những thay đổi về mặt lượng của sự vật chưa gây ra những thay đổi
căn bản về chất được gọi là độ. Những thay đổi về lượng vượt quá giới hạn độ
sẽ làm cho chất của sự vật biến đổi căn bản. Điểm mà tại đó sự biến đổi căn
bản về chất được thực hiện được gọi là điểm nút. Bước nhảy là bước thay đổi
căn bản về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng trước đó gây ra. Mối quan
hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất cịn có chiều ngược lại.
Đến lượt nó, sự thay đổi về chất lại tác động đến lượng, thúc đẩy lượng tiếp
tục phát triển.[1,2,3]



II. Thay đổi chương trình giảng dạy ở bậc học phổ thông là một tất yếu
khách quan
Hầu hết những ý kiến cho rằng việc thay đổi chương trình sách giáo
khoa là không cần thiết trong giai đoạn hiện nay đều tập trung vào vấn đề tài
chính vì rõ ràng việc thay toàn bộ hệ thống sách giáo khoa như thế này là cực
kỳ tốn kém. Tuy nhiên, những người phê phán công cuộc này đã không thấy
được bản chất của vấn đề này mà chỉ tập trung trên một khía cạnh về kinh tế.
Vấn đề đặt ra ở đây là: “Vì sao phải thay đổi chương trình sách giáo khoa ở
bậc học phổ thơng?”. Có thể nói rằng, hệ thống giáo dục của Việt Nam đang
đi sau thế giới khoảng 30 năm nếu khơng muốn nói là hơn. Chương trình giáo
khoa cũ chú trọng đào tạo con người lao động với đầy đủ kiến thức lý thuyết
mà quên mất rằng con người khơng chỉ sống bằng lý thuyết sng đó được.
Con người phải được đặt vào chính mơi trường sống của họ, làm quen với tư
liệu sản xuất mà họ có và học cách làm chủ nó, có như vậy việc học mới đạt
được mục tiêu đào tạo ra những người lao động năng động, sáng tạo và chủ
động trong lao động. Điều này đã được nhiều nước trên thế giới đặc biệt là
các nước phương Tây cực kỳ chú trọng, không phải ở các nước này không
chú trọng về việc bổ sung kiến thức lý thuyết mà ngoài vốn kiến thức lý
thuyết vừa phải ra, họ chú trọng vào việc rèn luyện kỹ năng cho học sinh mà
đặc biệt là kỹ năng làm việc độc lập, tự chủ, nhằm phát huy tính sáng tạo, chủ
động của mỗi người kết hợp rèn luyện kỹ năng làm việc theo nhóm để phát
huy tinh thần tập thể, sự tích cực của mỗi thành viên trong nhóm đồng thời
phát huy tinh thần tương trợ lẫn nhau trong quá trình học tập.
Năm 2006, nước ta trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức Thương mại
thế giới (WTO), chính thức bước vào thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, đó
thực sự là một cơ hội lớn để chúng ta phát triển kinh tế đất nước nhưng cũng
là một thách thức không nhỏ khi khoảng cách về kinh tế, văn hóa, giáo dục,…
của chúng ta và các nước trên thế giới càng ngày càng xa. Vậy, làm thế nào
để chúng ta có thể rút ngắn và dần dần tiến tới lấp đầy khoảng cách đó? Chỉ



có một cách đó là nâng cao trình độ lao động, phát triển nền kinh tế tri thức và
để làm được điều này chúng ta không thể dựa vào chương trình giáo khoa
hiện tại. Nếu đào tạo theo chương trình cũ, thì như đã nói ở trên, chúng ta chỉ
đào tạo ra được những con người lý thuyết, nhút nhát, khơng tự làm chủ được
khả năng của mình,… bởi vì những gì họ học được chỉ là lý thuyết, chưa từng
thấy những cơng cụ sản xuất hiện đại thì làm sao có thể vận hành nó để sản
xuất ra của cải vật chất được. Trong điều kiện như vậy, chương trình sách
giáo khoa cũ có sự mâu thuẩn gay gắt với sự phát triển đi lên của xã hội,
nhiều kiến thức tỏ ra khơng cịn phù hợp, khơng đáp ứng được nhu cầu hoàn
thiện nhân cách và kỹ năng của người học trong hoàn cảnh mới và một bộ
sách giáo khoa mới được biên soạn theo hướng đổi mới hình thức tiếp cận
kiến thức và chú trọng vào việc rèn luyện kỹ năng, thao tác được xem như
một “làn gió mát lành thổi vào công cuộc giáo dục đang trở nên gị bó, oi
bức”. Đứng trước cơ hội và thách thức đó, ngành Giáo dục và Đào tạo đã có
chủ trương đổi mới tồn diện nội dung chương trình dạy học ở bậc học phổ
thông nhằm đào tạo ra nguồn nhân lực để đáp ứng được nhu cầu phát triển
của thời đại.
Bên cạnh việc thay đổi về chương trình nội dung sách giáo khoa với
nhiều kiến thức mới được cập nhật, nhiều kiến thức khơng cịn phù hợp đã
được thay thế, bổ sung; Bộ Giáo dục và đào tạo còn chủ trương thay đổi
phương pháp dạy học, chuyển từ phương pháp truyền thống, nặng về đọc,
chép sang phương pháp phát huy tính tích cực của người học, chú trọng rèn
luyện phương pháp tự học,… Cùng với việc đổi mới nội dung thì việc đổi mới
về phương pháp dạy học trong giai đoạn hiện nay cũng đã góp phần đào tạo ra
những con người chủ động hơn, sáng tạo hơn trong cuộc sống và lao động,
đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng cao trong nền kinh tế hội nhập.
Xét trên quan điểm biện chứng duy vật chúng ta thấy rằng khi lượng
thay đổi – trình độ sản xuất, nhận thức của nhân loại trên toàn cầu đã phát

triển mạnh mẽ, tạo ra nhiều sự đột phá; thì chất cũng sẽ có những biến đổi căn


bản để phù hợp với sự thay đổi của lượng – phải thay đổi cách thức giáo dục
và đào tạo con người. Quy luật về mối quan hệ giữa lượng và chất đã được Bộ
Giáo dục và Đào tạo vận dụng trong cơng tác thay đổi chương trình một cách
đúng đắn và sáng tạo, phù hợp với quy luật của sự phát triển, khơng hề tỏ ra
nơn nóng, q trình thay đổi diễn ra trong nhiều năm, chứ không làm ào ạt
một lúc, điều này vừa giúp tiết kiệm ngân sách quốc gia nhưng đồng thời tạo
ra sự tích lũy kinh nghiệm và thu nhận những ý kiến đóng góp của dư luận để
ngày càng hồn thiện một chương trình đủ khả năng làm thay đổi bộ mặt giáo
dục hiện nay.
Như vậy, qua việc phân tích này chúng ta thấy rằng việc đổi mới chương
trình sách giáo khoa và phương pháp dạy học là một tất yếu khách quan, hoàn
toàn phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đã mang lại những hiệu quả
vô cùng to lớn trong công tác giáo dục. Không công nhận những thành quả
của công tác này là rơi vào lập trường chủ quan, siêu hình, đi ngược lại với
sự phát triển của lịch sử, xã hội.
III. Những hạn chế và giải pháp khắc phục trong cơng tác thay đổi chương
trình:
Chủ trương thay đổi chương trình ở bậc học phổ thơng là hồn toàn hợp
lý, phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội, đây cũng không phải là lần đầu
tiên chúng ta tiến hành thay đổi chương trình. Tuy vậy, trong q trình thực
hiện nó cũng đã xuất hiện nhiều hạn chế, có thể nói rằng hạn chế cũng là một
tất yếu khách quan không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, việc nghiên cứu, tìm ra
những hạn chế và kịp thời khắc phục những hạn chế đó sẽ làm tăng hiệu quả
của cơng tác thay sách nói riêng và chiến lược phát triển giáo dục nói chung,
góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế quốc gia.
Qua một thời gian tìm hiểu dư luận xung quanh vấn đề thay đổi chương
trình sách giáo khoa, tôi đã nhận thấy một số hạn chế cơ bản sau:



- Hầu hết các cuốn sách giáo khoa mới hiện nay có khá nhiều lỗi cả về
chính tả và kiến thức.
Ví dụ: “SGK Tiếng Việt lớp 4 tập 1 trang 28 khái niệm như sau : "Tiếng
cấu tạo nên từ. Từ chỉ gồm một tiếng gọi là từ đơn. Từ gồm hai hay nhiều
tiếng gọi là từ phức".
Tôi thiết nghĩ, khi khái niệm về từ loại như vậy chưa chính xác theo tơi
tham khảo nhiều thì "từ chỉ gồm một tiếng có nghĩa gọi là từ đơn"…”
() [4]
“Tơi xin đề cập đến một sai lầm nghiêm trọng của sách Hình học nâng
cao 10. Đặc biệt sự sai sót này lại xảy ra ngay trong bài đầu tiên của chương
đầu tiên nghĩa là sai sót ngay trong bài học đầu tiên. Trong §1 Các định
nghĩa của Chương I: VECTƠ sau mục 1. Vectơ là gì ? là mục 2. Hai vectơ
cùng phương, cùng hướng. Chúng ta hãy tập trung chú ý vào mục này. Sách
giáo khoa nêu : "Với mỗi vectơ AB (khác vectơ - không ), đường thẳng AB
được gọi là giá của vectơ AB. Còn đối với vectơ - khơng AA thì mọi đường
thẳng đi qua A đều gọi là giá của nó. "Tiếp đó sách giáo khoa định nghĩa:
“ Hai vectơ được gọi là cùng phương nếu chúng có giá song song hoặc trùng
nhau”. Rõ ràng vectơ-khơng cùng phương với mọi vectơ “Bây giờ ta xét lập
luận sau: "Cho hình bình hành ABCD, Ta có đường thẳng AB là giá của
vectơ-không AA; đường thẳng CD là giá của vectơ CD mà AB // CD
Nên vectơ-không AA cùng phương với vectơ CD (1). Mặt khác đường thẳng
AD cũng là giá của vectơ-không AA mà AD cắt CD Nên vectơ-không AA
không cùng phương với vectơ CD (2) "Rõ ràng mệnh đề (2) là mệnh đề phủ
định của mệnh đề (1) nhưng cả hai đều đồng thời đúng. Như vậy từ sách giáo
khoa ta suy ra hai mệnh đề phủ định nhau nhưng đồng thời cùng đúng.
Do đó ta cần giải quyết vấn đề: vì sao lại nảy sinh hai mệnh đề phủ định
nhau nhưng đồng thời cùng đúng? sách giáo khoa sai ở đâu? Sự xuất hiện



của mâu thuẫn trên là do sách định nghĩa giá của vectơ-không. Để giải quyết
vấn đề trên theo tôi rất đơn giản, ta chỉ làm như sau:
● Chỉ định nghĩa giá của vectơ khác vectơ-không.
● Định nghĩa sự cùng phương của hai vectơ khác vectơ-không ( dựa trên
khái niệm giá của vectơ ).
● Sau đó qui ước: vectơ-khơng cùng phương với mọi vectơ.
Rõ ràng trình bày mục hai vectơ cùng phương như trên sẽ không dẫn
đến mâu thuẫn”. (Phan Gia Sinh – Hội An).[4]

Về vấn đề sai sót trong biên soạn và in ấn, Bộ Giáo dục cần có trách
nhiệm và kế hoạch đính chính một cách kịp thời nhằm đảm bảo cung cấp cho
học sinh một hệ thống kiến thức đầy đủ và chính xác.
- Việc chỉ xem sách giáo khoa như một loại tài liệu tham khảo của giáo
viên (Trước đây sách giáo khoa được xem là pháp lệnh) và “đẻ” ra một cái
gọi là “Chuẩn kiến thức bộ môn”. Điều này vừa giúp cho người giáo viên khi
lên lớp khơng cịn phụ thuộc vào sách giáo khoa, có thể tự do sáng tạo bài dạy
của mình miễn sao đúng theo “Chuẩn kiến thức bộ môn” là được. Nói như
vậy thì “Chuẩn kiến thức bộ mơn” này có gì khác so với cuốn sách giáo khoa
trước đây?... Rồi còn sách giáo viên, sách thiết kế bài giảng, sách bài tập,…
Như vậy, chúng ta thấy rằng nếu tập trung vào biên soạn 1 cuốn sách giáo
khoa hoàn hảo chắc chắn sẽ đạt chất lượng cao hơn và tiết kiệm ngân sách
hơn là sử dụng thêm cuốn “chuẩn kiến thức bộ môn”.
- Giá sách giáo khoa quá cao so với mức thu nhập bình quân của người
nghèo. Và vấn đề độc quyền xuất bản sách giáo khoa hiện nay của nhà xuất
bản Giáo dục. Đây là điều không tránh khỏi trong giai đoạn hiện nay nhưng
tôi thấy những ý kiến dưới đây cũng có thể đáng được xem xét và vận dụng:


“- Sách giáo khoa do Bộ Giáo dục soạn thảo cần được ấn vào

CD hay DVD, và gởi đến các trường để lưu trữ tham khảo và
cho phép sao chép.
- Vì đọc sách trong CD/DVD làm mất nhiều thời giờ và cần có
máy vi tính, nên Bộ cần cho in ra sách gởi bán với giá vừa phải,
nếu quá đắt thì đành phải dùng CD/DVD vậy.
- Cho phép các nhà xuất bản in lại sách, sau khi trả một số tiền
bản quyền tùy theo số sách sẽ in ra. Nhà xuất bản phải in đúng
nguyên bản của Bộ giáo dục, nhưng được phép in thêm các ghi
chú để giải thích, bình luận, ý kiến bổ túc... để giúp cho sự học
hỏi. Số lượng sách bán được sẽ tùy thuộc khả năng ghi chú
hữu ích riêng của mỗi Nhà xuất bản, ghi chú giảng giải hay thì
nhiều người mua. Bộ Giáo dục cũng thu thập được kinh nghiệm
do các ghi chú bình luận của các nhà xuất bản, và điều chắc
chắn là Nhà xuất bản sẽ mời các giáo sư danh tiếng hợp tác.
- Theo Bộ trưởng Văn hóa Thơng tin Phạm Quang Nghị chua
xót nhận xét. (Theo VNExpress 23/3/2006) Theo ông, "nếu có sự thay đổi một
vài bài, một vài chữ, có thể in gộp các bài cần sửa ấy vào một cuốn, hướng
dẫn cho cho giáo viên, học sinh sử dụng, thay vì bỏ cả bộ sách cũ mua sách
mới. Như thế, sẽ tiết kiệm được rất nhiều ngân sách nhà nước
và tiền của nhân dân."…” ()[4]
- Một hạn chế nữa cũng rất đáng phải quan tâm đó là hiện nay trên thị
trường sách giáo khoa tồn tại những cuốn sách giáo khoa khác nhau: sách in
thử để dạy thực nghiệm, sách tái bản có đính chính,… học sinh thật khó để
biết được quyển nào là in thử và quyển nào là tái bản và chỉ thực sự nhận thấy
khi đã sử dụng. Thiết nghĩ, Bộ Giáo dục nên thu hồi lại những quyển sách
giáo khoa chưa được chỉnh sửa trên thị trường để tránh những sự nhầm lẫn
đáng tiếc.


Và hạn chế lớn nhất, cơ bản nhất của chương trình cả cũ và mới đều mắc

phải đó là tính phù hợp giữa kiến thức lý thuyết và thực tiễn có lẽ chưa được
quan tâm, chú ý đúng mức. Điều này gây ra khơng ít khó khăn cho học sinh
và cả giáo viên trong q trình lên lớp.
Ví dụ: Bộ môn sinh học là một môn khoa học thực nghiệm, mơn khoa
học nghiên cứu về các lồi sinh vật, dạy học sinh học không thể tách rời thế
giới tự nhiên. Tuy nhiên trong quá trình biên soạn sách giáo khoa sinh học lại
mắc phải một số khiếm khuyết như: Sách giáo khoa Sinh học 7: Thời gian học
cấu tạo và mổ ếch đồng theo phân phối chương trình thì học sinh lớp 7 được
học vào đầu học kỳ II, tức là khoảng tháng 2, lúc này thật khơng dễ tìm kiếm
được vật mẫu hổ trợ cho công tác dạy và học vì đây là thời gian ếch đồng
đang ngủ đơng – một tập tính vơ cùng quan trọng của ếch đồng được đề cập
trong bài học. Hoặc những khiếm khuyết tương tự được tìm thấy trong sách
giáo khoa Sinh học 9, bài thực hành “Tập dượt thao tác giao phấn” với đối
tượng là lúa, bí ngơ,… lại được học vào thời điểm cuối học kỳ I, khi mà các
loài cây này đã qua mùa ra hoa,… Tôi thiết nghĩ, khi biên soạn những nội
dung này, những người có trách nhiệm cần chú ý đến tính phù hợp giữa kiến
thức lý thuyết mà học sinh được học và thực tiễn khách quan của tự nhiên.
Trên đây là một số những hạn chế cơ bản của nội dung chương trình
sách giáo khoa mới, những hạn chế này không thuộc về bản chất của sự vật,
vì vậy, việc cần thiết nhất là phải khắc phục những hạn chế này để góp phần
nâng cao hiệu quả vốn có của chương trình mới.


PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
I. Kết luận:
Vấn đề đổi mới chương trình sách giáo khoa là hồn tồn phù hợp với
quy luật phát triển kinh tế, chính trị, xã hội ở trong nước cũng như trên thế
giới trong giai đoạn hiện nay. Đáp ứng được những tiêu chuẩn về một chương
trình có tính hệ thống, tồn diện và chính xác.
Sách giáo khoa mới đã đáp ứng được nhu cầu học tập của một bộ phận

lớn người học trong xã hội. Góp phần vào mục tiêu đào tạo con người trong
thời đại mới. Nâng cao ý thức tự học, tự nghiên cứu và kích thích người học
tìm kiếm thêm những thông tin bổ trợ cho những kiến thức đã học, làm cho
học sinh trở nên tích cực, chủ động trong hoạt động học tập của mình nhờ đó
mà kiến thức sẽ được học sinh nhớ lâu hơn.
Đó là những kết quả mà chúng ta không thể không thừa nhận. Tuy nhiên
quá trình triển khai thực hiện vấn đề này cũng phát sinh những hạn chế nhất
định như những sai sót trong biên soạn, giá cả, nguồn gốc của sách giáo khoa
hay tính liên hệ thực tiễn chưa cao
II. Kiến nghị - đề xuất.
Bộ giáo dục và đào tạo cần kịp thời đính chính những sai sót cơ bản của
chương trình sách giáo khoa mới, tìm cách hạ giá thành của sách giáo khoa
nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho mọi đối tượng học sinh đều đảm bảo có đủ
sách giáo để học tập đặc biệt là đối tượng học sinh có hồn cảnh khó khăn.
Đồng thời chuẩn hóa và ban hành những bộ sách chính thống, thu hồi những
bộ sách chưa được chỉnh sửa nhằm giúp học sinh và gia đình của họ khỏi phải
rơi vào tình huống dở khóc dở cười khi mua phải những bộ sách như vậy.



×