Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (972.31 KB, 39 trang )

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, trên nhiều diễn đàn và văn kiện của cộng đồng quốc tế cũng như trong
các chính sách, chương trình hành động của các quốc gia, vấn đề phát triển bền vững
đang nổi lên như một trong những mối quan tâm hàng đầu của toàn nhân loại. Ở Việt
Nam, phát triển bền vững là một trong những nội dung cơ bản để thực hiện đổi mới mô
hình tăng trưởng kinh tế, đồng thời cũng là mục tiêu quan trọng hàng đầu mà nền kinh
tế hướng tới. Trên bình diện toàn thế giới hay tại mỗi khu vực và ở mỗi quốc gia xuất
hiện biết bao vấn đề bức xúc lại mang tính phổ biến. Kinh tế càng tăng trưởng thì tình
trạng khan hiếm các loại nguyên liệu, năng lượng do sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên
không tái tạo được ngày càng tăng thêm, môi trường thiên nhiên càng bị hủy hoại, cân
bằng sinh thái bị phá vỡ, dẫn tới sự nổi giận của thiên nhiên gây ra những thiên tai vô
cùng thảm khốc. Đó là sự tăng trưởng kinh tế không cùng nhịp với tiến bộ và phát triển
xã hội, đôi khi ngược chiều với phát triển xã hội. Cụ thể là, có tăng trưởng kinh tế
nhưng không có tiến bộ và công bằng xã hội; tăng trưởng kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, đô thị hóa, dẫn tới làm méo mó nông thôn; tăng trưởng kinh tế nhưng thu
nhập của người lao động không tăng; tăng trưởng kinh tế nhưng văn hóa, đạo đức bị
suy đồi; tăng trưởng kinh tế lại làm dãn cách hơn sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội,
dẫn tới sự bất ổn trong xã hội và điều này đã trở thành một trong những vấn đề nóng
bỏng ở nhiều quốc gia.
Vận hội mới, thách thức mới đòi hỏi mỗi quốc gia muốn tồn tại và phát triển
bền vững cần xây dựng những chiến lược trong quá trình phát triển có sự điều tiết hài
hòa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo đảm bình ổn xã hội và bảo vệ môi trường đang trở
thành yêu cầu bức thiết đối với toàn thế giới.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề tăng trưởng kinh tế và phát triển bền
vững, nhóm đã chọn đề tài “Tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững của Việt
Nam” làm đề tài cho chuyên đề của nhóm.

1



2.Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu về đề tài “Tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững của Việt
Nam” nhằm mục tiêu:
-

Làm rõ một số vấn đề về lý luận và thực tiễn của tăng trưởng kinh tế và phát

triển bền vững của Việt Nam.
-

Đánh giá thực trạng tăng trưởng kinh tế và thực trạng phát triển bền vững

của Việt Nam những năm vừa qua.
-

Đề xuất một số giải pháp mang tính chủ quan nhằm thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay
4.Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp nghiên cứu định tính

2



PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG
1.1.Tăng trưởng kinh tế
1.1.1.Khái niệm
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về giá trị trong phạm vi một nền kinh tế. Tăng
trưởng kinh tế được phản ánh ở nhiều chỉ tiêu nhưng chỉ tiêu thường được sử dụng là
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP), thu nhập quốc dân
(NI), tăng trưởng vốn, lao động, sự gia tăng dung lượng thị trường... Sự tương tác giữa
các bộ phận cấu thành GDP như tiêu dùng nội địa, đầu tư, chi tiêu chính phủ và cán
cân thương mại sẽ làm thay đổi tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là sự biến đổi kinh tế theo chiều hướng tiến bộ, mở rộng qui
mô về mặt số lượng của các yếu tố của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định nh ưng
trong khuôn khổ giữ nguyên về mặt cơ cấu và chất lượng.
Quá trình tăng trưởng thể hiện các nguồn lực tăng trưởng như tài nguyên thiên
nhiên, vốn, lao động, công nghệ, quản lý, quan hệ, thị trường... được khai thác và sử
dụng có hiệu quả cao nhất. Tăng trưởng kinh tế bao hàm cả tăng trưởng theo chiều
rộng và chiều sâu, số lượng và chất lượng, ngắn hạn và dài hạn....
1.1.2.Một số thước đo của sự tăng trưởng
1.1.2.1.Tổng sản phẩm trong nước (GDP)
GDP là tổng giá trị bằng tiền của hàng hóa, dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra
trong phạm vi lãnh thổ quốc gia trong phạm vi lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ nhất
định (thường là một năm). GDP được tính bằng giá trị (tiền) mà không tính bằng hiện
vật

3


Theo wikipedia thì tổng sản phẩm trong nước, tức tổng sản phẩm quốc
nội hay GDP (viết tắt của Gross Domestic Product) là giá trị thị trường của tất cả hàng

hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một lãnh thổ nhất
định (thường là quốc gia) trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm).
GDP là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan trọng, phản ánh “toàn bộ kết quả cuối
cùng của các hoạt động sản xuất của tất cả các đơn vị thường trú trong nền kinh tế của
một nước trong một thời kỳ nhất định (quý, 6 tháng, 9 tháng và năm); phản ánh các
mối quan hệ trong quá trình sản xuất, phân phối thu nhập, sử dụng cuối cùng sản phẩm
hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân”.
1.1.2.2.Tổng sản phẩm quốc dân (GNP)
GNP (viết tắt cho Gross National Product bằng tiếng Anh) tức Tổng sản lượng
quốc gia hay Tổng sản phẩm quốc gia là một chỉ tiêu kinh tế đánh giá sự phát triển
kinh tế của một đất nước nó được tính là tổng giá trị bằng tiền của các sản phẩm cuối
cùng và dịch vụ mà công dân của một nước làm ra trong một khoảng thời gian nào đó,
thông thường là một năm tài chính, không kể làm ra ở đâu (trong hay ngoài nước).
GNP là toàn bộ giá trị sản phẩm và dịch vụ cuối cùng mà tất cả công dân một
nước tạo ra và có thể thu nhập trong một năm, không phân biệt sản xuất được thực hiện
trong nước hay ngoài nước.
GNP danh nghĩa (GNPn), đo lường tổng sản phẩm quốc dân sản xuất ra trong
một thời kỳ, theo giá cả hiện hành, tức là giả cả của cùng thời kỳ đó.
GNP thực tế (GNPr), đo lường tổng sản phẩm quốc dân sản xuất ra trong một
thời kỳ, theo giá cả cố định ở một thời kỳ được lấy làm gốc.
Với ý nghĩa là thước đo tổng thu nhập của nền kinh tế, sự gia tăng thêm GNP
thực tế đó chính là sự gia tăng tăng trưởng kinh tế, nó nói lên hiệu quả của các hoạt
động kinh tế đem lại.

4


1.1.2.3.Thu nhập bình quân đầu người
Thu nhập bình quân đầu người là chỉ tiêu kinh tế - xã hội quan trọng phản
ánh “mức thu nhập và cơ cấu thu nhập của các tầng lớp dân cư”. Chỉ tiêu này dùng để

đánh giá mức sống, phân hóa giàu nghèo, tính tỷ lệ nghèo làm cơ sở cho hoạch định
chính sách nhằm nâng cao mức sống của nhân dân, xóa đói, giảm nghèo.
Để tính được chỉ tiêu này, trước hết phải tính được thu nhập của hộ dân cư. Thu
nhập của hộ là toàn bộ số tiền và giá trị của hiện vật sau khi trừ chi phí sản xuất mà hộ
và các thành viên của hộ nhận được trong 1 thời kỳ nhất định (thường là 1 năm). Thu
nhập của hộ bao gồm:
(1) Thu từ tiền công, tiền lương;
(2) Thu từ sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản (sau khi đã trừ đi chi phí sản
xuất và thuế sản xuất);
(3) Thu từ sản xuất ngành nghề phi nông, lâm nghiệp và thủy sản (sau khi đã
trừ đi chi phí sản xuất và thuế sản xuất);
(4) Thu khác được tính vào thu nhập như do biếu, mừng, lãi tiết kiệm…
1.1.2.4. Sản phẩm quốc dân ròng (NNP)
NNP (viết tắt National Product) là tổng sản phẩm ròng quốc gia, là tổng giá
trị thị trường của tất cả sản phẩm cuối cùng và các dịch vụ được sản xuất hay cung ứng
bởi công dân của một quốc gia, tổng thu nhập của công dân một nước (GNP) trong một
khoảng thời gian nào đó trừ đi khấu hao.
Khấu hao được đo bằng giá trị của một phần GNP mà cần phải chi tiêu vào các
sản phẩm vốn nhằm duy trì luồng vốn hiện tại. Khấu hao là các khoản hao mòn trang
thiết bị và nhà xưởng của nền kinh tế.

5


1.1.2.5. Thu nhập quốc gia khả dụng (NDI)
Thu nhập quốc gia khả dụng là tổng thu nhập của quốc gia từ sản xuất, từ thu
nhập sở hữu và từ chuyển nhượng hiện hành, là tổng nguồn thu nhập có thể dùng cho
tiêu dùng cuối cùng và để dành (tiết kiệm) của quốc gia. Đây là chỉ tiêu cân đối của tài
khoản phân phối lại thu nhập. Tài khoản này cho biết số dư của thu nhập lần đầu được
chuyển thành thu nhập khả dụng các khoản chuyển nhượng xã hội bằng hiện vật như

thế nào.
Mục đích đưa ra các thước đo là để tiếp cận tới các trạng thái phát triển của nền
kinh tế, mỗi thước đo đều có ý nghĩa nhất định và được sử dụng tuỳ thuộc vào mục
đích nghiên cứu. Mặc dù đó là các thước đo phổ biến nhất hiện nay, nhưng đó chỉ là
những con số xấp xỉ về các trạng thái và tốc độ biến đối trong phát triển kinh tế, vì bản
thân các thước đo đó chưa thể phản ánh hết được các sự kiện phát triển cả mặt tốt lẫn
mặt chưa tốt. Chẳng hạn như các sản phẩm tự túc, công việc nội trợ gia đình, thời gian
nghỉ ngơi, sự tự do, thoải mái trong đời sống sinh hoạt, sự tổn hại do bị ô nhiễm môi
trường thì được tính bằng cách nào.
1.2. Phát triển kinh tế
1.2.1. Khái niệm
Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế. Nó bao
gồm sự tăng trưởng kinh tế và đồng thời có sự hoàn chỉnh về mặt cơ cấu, thể chế kinh
tế, chất lượng cuộc sống.
Phát triển kinh tế là quá trình thay đổi theo hướng tiến bộ về mọi mặt kinh tế xã hội của một quốc gia trong bối cảnh nền kinh tế đang tăng trưởng.
1.2.2. Những vấn đề cơ bản của phát triển kinh tế
Điều kiện đầu tiên là phải có sự tăng trưởng kinh tế (gia tăng về quy mô sản
lượng của nền kinh tế, nó phải diễn ra trong một thời gian tương đối dài và ổn định).

6


Sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế: thể hiện ở tỷ trọng các vùng, miền, ngành,
thành phần kinh tế... thay đổi. Trong đó tỷ trọng của vùng nông thôn giảm tương đối so
với tỷ trọng vùng thành thị, tỷ trọng các ngành dịch vụ, công nghiệp tăng, đặc biệt là
ngành dịch vụ.
Cuộc sống của đại bộ phận dân số trong xã hội sẽ trở lên tươi đẹp hơn: giáo dục,
y tế, tinh thần của người dân được chăm lo nhiều hơn, môi trường được đảm bảo.
Phát triển kinh tế là một quá trình tiến hóa theo thời gian và do những nhân tố
nội tại (bên trong) quyết định đến toàn bộ quá trình phát triển đó.

1.2.3. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần để phát triển kinh tế. Ở những nước đang
phát triển, đặc biệt là những nước đang phát triển có mức thu nhập bình quân đầu
người thấp, nếu không đạt được mức tăng trưởng tương đối cao và liên tục trong nhiều
năm, thì khó có điều kiện kinh tế để cải thiện mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế chỉ là điều kiện cần, không phải là điều kiện đủ
để phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế có thể được thực hiện bởi những phương
thức khác nhau và do đó có thể dẫn đến những kết quả khác nhau. Nếu phương thức
tăng trưởng kinh tế không gắn với sự thúc đẩy cơ cấu kinh tế xã hội theo hướng tiến
bộ, không làm gia tăng, mà thậm chí còn làm xói mòn năng lực nội sinh của nền kinh
tế, sẽ không thể tạo ra sự phát triển kinh tế. Nếu phương thức tăng trưởng kinh tế chỉ
đem lại lợi ích kinh tế cho nhóm dân cư này, cho vùng này, mà không hoặc đem lại lợi
ích không đáng kể cho nhóm dân cư khác, vùng khác thì tăng trưởng kinh tế như vậy sẽ
khoét sâu vào bất bình đẳng xã hội. Những phương thức tăng trưởng như vậy, rốt cục,
cũng chỉ là kết quả ngắn hạn, không những không thúc đẩy được phát triển, mà bản
thân nó cũng khó có thể tồn tại được lâu dài.

7


1.3. Phát triển bền vững
1.3.1. Khái niệm
Phát triển bền vững là sự phát triển lâu dài phù hợp với yêu cầu của thế hệ hôm
nay mà không gây ra những thiệt hại cho thế hệ mai sau trong việc thỏa mãn nhu cầu
riêng và trong việc lựa chọn ngưỡng sống của họ.
Vấn đề phát triển bền vững có tới hơn 70 định nghĩa, trong đó các định nghĩa
căn bản đều xuất phát từ Ủy Ban Môi Trường và Phát triển Thế Giới (World
Commission on Environment and Development) thì "Phát triển bền vững là sự phát
triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng
phát triển của các thế hệ tương lai".

Phát triển bền vững được miêu tả như một biến đổi sâu sắc, trong đó việc sử
dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, việc chọn cơ cấu đầu tư, chọn các loại hình tiến
bộ kỹ thuật để áp dụng và chọn cơ cấu hành chính phù hợp với các nhu cầu hiện tại và
tương lai.
Phát triển bền vững là phát triển nền kinh tế xã hội theo hướng bền vững, toàn
diện và hiệu quả cao về mọi mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
Phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình phát
triển của xã hội loài người, vì vậy đã được các quốc gia trên thế giới đồng thuận xây
dựng thành Chương trình nghị sự cho từng thời kỳ phát triển của lịch sử.
1.3.2. Mục tiêu phát triển bền vững
a) Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của phát triển bền vững là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự
giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của
xã hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên; Tăng trưởng bền vững, có hiệu quả, đi
đôi với tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường, giữ vững ổn định

8


chính trị - xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ quốc gia; phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà được ba mặt là phát
triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.
b) Các mục tiêu cụ thể
Mục tiêu phát triển bền vững về kinh tế là đạt được sự tăng trưởng ổn định với
cơ cấu kinh tế hợp lý, đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống của nhân dân, tránh
được sự suy thoái hoặc đình trệ trong tương lai, tránh để lại gánh nặng nợ nần lớn cho
các thế hệ mai sau.
Mục tiêu phát triển bền vững về xã hội là đạt được kết quả cao trong việc thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm chế độ dinh dưỡng và chất lượng chăm sóc
sức khoẻ nhân dân ngày càng được nâng cao, mọi người đều có cơ hội được học hành

và có việc làm, giảm tình trạng đói nghèo và hạn chế khoảng cách giàu nghèo giữa các
tầng lớp và nhóm xã hội, giảm các tệ nạn xã hội, nâng cao mức độ công bằng về quyền
lợi và nghĩa vụ giữa các thành viên và giữa các thế hệ trong một xã hội, duy trì và phát
huy được tính đa dạng và bản sắc văn hoá dân tộc, không ngừng nâng cao trình độ văn
minh về đời sống vật chất và tinh thần.
Mục tiêu của phát triển bền vững về môi trường là khai thác hợp lý, sử dụng tiết
kiệm và có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý và kiểm soát
có hiệu quả ô nhiễm môi trường, bảo vệ tốt môi trường sống; bảo vệ được các vườn
quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu dự trữ sinh quyển và bảo tồn sự đa dạng sinh
học; khắc phục suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường.
1.3.3. Nguyên tắc phát triển bền vững ở Việt Nam
Con người là trung tâm của phát triển bền vững. Phát triển bền vững nhằm đáp
ứng đầy đủ mọi nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, xây dựng đất nước giàu
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

9


Phát triển kinh tế song hành với bảo đảm an ninh lương thực, năng lượng để
phát triển bền vững. Khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên
nhiên trong giới hạn cho phép về mặt sinh thái và môi trường lâu bền.
Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường phải được coi là một yếu tố không
thể tách rời của quá trình phát triển. Yêu cầu bảo vệ môi trường luôn được coi là một
tiêu chí quan trọng trong việc lập quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế xã hội và trong phát triển bền vững.
Quá trình phát triển phải đảm bảo một cách công bằng nhu cầu của thế hệ hiện
tại và các thế hệ tương lai. Tạo ra những nền tảng vật chất, tri thức và văn hóa tốt đẹp
cho những thế hệ mai sau; sử dụng tiết kiệm những tài nguyên không thể tái tạo; giữ
gìn và cải thiện môi trường sống, phát triển hệ thống sản xuất sạch và thân thiện với
môi trường. Sống lành mạnh, hài hòa, gần gũi và yêu quý thiên nhiên.
Phải huy động tối đa sự tham gia của mọi người có liên quan trong việc lựa

chọn các quyết định về phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường.
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế thế giới để
phát triển bền vững. Chủ động phòng ngừa, ngăn chặn những tác động xấu đối với môi
trường do quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế gây ra.
Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường với bảo
đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội.
1.4. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững
1.4.1. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần
Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần cho phát triển nhưng không đồng nghĩa với
phát triển. Phát triển chỉ dựa trên tăng trưởng đơn thuần thì sự tăng trưởng đó không
lâu bền. Nhiều bài học kinh nghiệm cho thấy, nếu sự phát triển không tương ứng hoặc
chỉ đáp ứng đủ nhu cầu cho dân số hiện tại nhưng ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống

10


của dân số tương lai; phát triển dựa vào khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên,
không dựa trên cơ sở bảo vệ môi trường thì sự phát triển đó không thể gọi là bền vững.
Theo chuyên gia kinh tế thuộc ngân hàng thế giới thì “phát triển là nâng cao phúc lợi
cho nhân dân. Nâng cao tiêu chuẩn sống và cải tiến giáo dục, sức khỏe và bình đẳng về
cơ hội là tất cả những thành phần cơ bản của phát triển kinh tế bảo đảm tất cả các
quyền chính trị và công dân là một mục tiêu phát triển rộng hơn. Tăng trưởng kinh tế là
một cách cơ bản để có được sự phát triển, nhưng trong bản thân nó là một đại diện
không toàn vẹn của sự tiến bộ”. Tất cả các nước đều dặt ra mục tiêu phát triển, muốn
phát triển được phải dựa trên đôi cánh của tăng trưởng kinh tế. Nhưng tăng trưởng kinh
tế không phải đôi cánh duy nhất, mặc dù nó được coi là quan trọng nhất cho sự phát
triển.
1.4.2. Hậu quả của tăng trưởng kinh tế đối với phát triển bền vững
1.4.2.1. Tăng trưởng quá nhanh gây ra lạm phát
Tăng trưởng quá nhanh sẽ dẫn tới tình trạng lạm phát. Có sự đánh đổi giữa tăng

trưởng và lạm phát, vì để tăng trưởng thì phải tăng đầu tư, mà để tăng đầu tư thì phải
tăng tiền, tăng tín dụng. Mức lạm phát trung bình của Việt Nam cao hơn các nước
trong khu vực.
1.4.2.2. Tăng trưởng kinh tế làm gia tăng bất bình đẳng
Tăng trưởng kinh tế làm gia tăng tình trạng bất bình đẳng Tăng trưởng kinh tế
nhanh sẽ dẫn đến lạm phát. Khi có lạm phát tức là giá cả sẽ tăng lên. Giá cả tăng sẽ tác
động đến mọi người dân, nhưng tác động mạnh nhất là công chức nhà nước và người
nghèo. Ở phương tây, có một câu nói đùa nhưng đầy ý nghĩa: “ lạm phát là một loại
thuế hết sức dã man mà loại thuế này đánh mạnh nhất vào nhóm người nghèo khổ
nhất”. Trong nhóm người nghèo bị tác động mạnh ở Việt Nam có một phần rất đông là
nông dân, sản xuất nông nghiệp. Nói một cách đơn giản, giá cả tăng sẽ tác động đến tất
cả mọi tầng lớp, nhưng với những người giàu, có điều kiện sẽ ít bị tác động hơn vì

11


trong tổng thu nhập, họ chỉ phải sử dụng một phần cho chi tiêu hàng ngày. Còn những
người nghèo thì hầu hết thu nhập dùng cho chi tiêu hàng ngày, có bao nhiêu phải chi
hết, thậm chí không đủ mà chi. Vì vậy, giá cả càng tăng thì càng tác động tiêu cực đến
người nghèo và quá trình đó sẽ làm phân hóa giàu nghèo càng mạnh hơn.
1.4.2.3. Tăng trưởng kinh tế làm cạn kiệt tài nguyên, hủy hoại môi trường
Tăng trưởng kinh tế làm kiệt quệ tài nguyên thiên nhiên, hủy hoại môi trường
sinh thái. Cách thức phát triển của loài người trong mấy chục năm qua đã tạo ra áp lực
làm kiệt quệ tài nguyên thiên nhiên, phá vỡ cân bằng sinh thái, tổn hại đến môi trường
– cơ sở tồn tại của chính bản thân con người. Trong khi loài người chiếm lĩnh từ đỉnh
cao của khoa học thì cũng là lúc phải đối mặt với nhiều thách thức từ môi trường; con
người luôn bị đặt vào những tình huống bất ngờ không lường trước được: thiên tai, lũ
lụt, hạn hán…
1.4.2.4. Tăng trưởng kinh tế làm lu mờ các giá trị truyền thống văn hóa
Tăng trưởng kinh tế hủy hoại giá trị truyền thống của quốc gia. Theo xu thế của

thế giới nhiều quốc gia thực hiện chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ
quốc tế, mở rộng quan hệ hợp tác với tất cả các nước, các tổ chức quốc tế nhằm tạo
môi trường quốc tế thuận lợi để đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế xã hội, với xu
thế ấy không ít quốc gia đã đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế mà không chú ý đến
việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, dần hủy họa những giá trị của dân tộc, từ đó dẫn
đến sự suy giảm về đạo đức, lối sống và những giá trị nhân văn khác.

12


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ VẤN ĐỀ
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Tăng trưởng kinh tế qua các năm và những thành tựu đạt được
Thực hiện đường lối đổi mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới
- thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Từ năm 1986 - 1990: GDP tăng 4,4%/năm. Việc thực hiện tốt ba chương trình
mục tiêu phát triển về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu được
đánh giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung của công nghiệp hóa Xã hội chủ
nghĩa trong chặng đường đầu tiên. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý
cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống kinh tế xã
hội và giải phóng sức sản xuất.
Từ năm 1991 - 1995: Nền kinh tế khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái,
đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao liên tục và toàn diện. GDP bình quân năm
tăng 8,2%. Đất nước ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bắt đầu đẩy mạnh công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Giai đoạn từ năm 1996 - 2000 là bước phát triển quan trọng của thời kỳ mới,
đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Chịu tác động của khủng hoảng tài

chính - kinh tế khu vực cùng thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp đặt nền kinh tế
nước ta trước những thử thách. Tuy nhiên, giai đoạn này, Việt Nam duy trì được tốc độ
tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước 7%/năm.
Từ năm 2001 - 2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục; GDP
bình quân mỗi năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 8,4%; GDP theo giá

13


hiện hành, đạt 838 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt trên 10 triệu đồng, tương
đương với 640 USD.
Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, nước ta
đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà phê, thứ 4 về cao su, thứ 2 về hạt
điều, thứ nhất về hạt tiêu.
Từ năm 2006 – 2010 tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân năm đạt 7%. Mặc dù
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn đầu tư nước
ngoài vào nước ta đạt cao. Trong 5 năm, tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỉ USD,
vượt 77% so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỉ
USD, gấp hơn 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001-2005.
GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD.
Trong năm 2011, mặc dù sự phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn
cầu còn rất chậm, song mức tăng trưởng kinh tế bình quân vẫn đạt 7%/năm, tuy thấp
hơn kế hoạch (7,5% - 8%), nhưng vẫn được đánh giá cao hơn bình quân các nước trong
khu vực.
Như vậy, trong vòng 20 năm (1991 - 2011), tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt
7,34%/năm, thuộc loại cao ở khu vực Đông Nam Á nói riêng, ở châu Á và trên thế giới
nói chung; quy mô kinh tế năm 2011 gấp trên 4,4 lần năm 1990, gấp trên 2,1 lần năm
2000 (thời kỳ 2001 - 2011 bình quân đạt 7,14%/năm).

14



Sơ đồ 2.1. GDP Việt Nam giai đoạn 1995-2012
(Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam)
Năm 2012, GDP tăng 5,03% so với năm 2011. Mức tăng trưởng tuy thấp hơn
mức tăng 5,89% của năm 2011, nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp khó khăn thì
đây là mức tăng trưởng hợp lý. Về sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản ước tính tăng
3,4% so với năm 2011; công nghiệp tăng 4,8% so với năm 2011. Chỉ số giá tiêu dùng
năm 2012 tăng 6,81%. Đầu tư phát triển tăng 7% so với năm trước và bằng 33,5%
GDP. Xuất, nhập khẩu hàng hóa tăng 18,3%. Kim ngạch xuất khẩu có thể vượt qua
mốc 100 tỷ USD, tỷ lệ kim ngạch xuất, nhập khẩu so với GDP năm 2011 đã đạt xấp xỉ
170%, đứng thứ 5 thế giới.
Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá,
trong đó sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực đã
bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng đa
dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng bước nâng cao khả
năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong nước và
mở rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp

15


mới, công nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn định. Môi trường đầu tư
liên tục được cải thiện, nhờ đó đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho phát
triển. Cơ cấu kinh tế của Việt Nam đã bước đầu chuyển dịch theo hướng hiện đại.
Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm khu vực nông lâm ngư
nghiệp, tăng khu vực dịch vụ và công nghiệp – xây dựng. Tỷ trọng nông nghiệp trong
GDP giảm dần, năm 1986 là 38,6%, năm 2008 còn 20,9%; cơ cấu trồng trọt và chăn
nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và
hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công nghiệp và xây

dựng tăng nhanh và liên tục với thiết bị, công nghệ ngày càng hiện đại: năm 1988 là
29,6%, năm 2009 lên 38,7%. Tỷ trọng khu vực dịch vụ đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên
42,8% năm 2008

Sơ đồ 2.2. Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế phân theo khu vực
kinh tế từ 1986-2009 (Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam)
Nông nghiệp có sự biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất
thấp và thiếu hụt lớn, sang không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu gạo với
khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc tế; xuất

16


khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng thứ hạng cao
trên thế giới.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ
nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý;... có bước phát triển
theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
Thành

Giá trị (Tỷ đồng)

phần kinh

2005

2006

2007


2008

2009

2010

565.42

600.30

635.75

663.50

689.98

633.18

663.53

702.01

735.4

765.2

5

5


9

3

1

7

0

7

42

47

781.40

822.73

872.38

923.19

984.36

926.92

1.000.47


1.060.58

1.110.7

1.175.7

nước
Kinh tế tập

7

9

9

9

3

8

5

7

7

4


98.11

101.55

104.92

108.08

111.16

86.00

90.15

94.10

98.4

102.9

thể
Kinh tế tư

0
132.62

4
152.32

6

176.28

4
195.62

4
214.06

0
148.91

5
161.49

3
174.44

56
184.9

65
197.4

nhân
Kinh tế cá

8
550.66

3

568.86

3
591.18

2
619.49

9
659.13

9
692.00

4
748.82

1
792.04

91
827.3

80
875.2

thể
Khu vực có

9


2

0

3

0

9

6

3

22

94

241.81

276.45

312.51

337.04

353.24

326.96


352.12

378.23

407.9

442.4

4

7

8

7

7

7

3

6

76

41

tế/Năm

Kinh tế
Nhà nước
Kinh tế
ngoài Nhà

vốn đầu tư
nước ngoài

2011

2012

2013

2014

Bảng 2.1. Giá trị tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế phân theo khu vực kinh tế từ
2005-2014 (Nguồn: Số liệu của tổng cục thống kê)

Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập
trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế. Cơ
chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo hướng xóa
bao cấp, thực hiện mô hình công ty, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh
nghiệp trong kinh doanh. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn
các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy
tăng trưởng và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực kinh tế cá thể đóng góp khoảng
38% GDP của cả nước. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương

17



đối cao, trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu
nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp
vào ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho nhiều người dân.

Sơ đồ 2.3. Giá trị tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế phân theo khu vực
kinh tế từ 2005-2014 (Nguồn: Theo số liệu bảng 2.1)
Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng
của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Cơ cấu lao động có sự
chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu hàng hóa
xuất khẩu có cải thiện đáng kể. Kim ngạch xuất khẩu thường xuyên tăng với tốc độ hai
con số, giai đoạn 2011-2015 tăng đến 18%/năm.
Xuất khẩu chuyển dịch theo hướng tăng dần tỉ trọng sản phẩm công nghiệp và
giảm dần tỉ trọng sản phẩm nông nghiệp, giảm dần sản phẩm nguyên liệu thô. Đã hình
thành các vùng kinh tế trọng điểm để làm động lực cho phát triển kinh tế vùng, miền và
cả nước. Phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung nhằm thu hút vốn đầu tư
phát triển, đồng thời hình thành các vùng chuyên môn hoá cây trồng, vật nuôi gắn với
chế biến công nghiệp.

18


Các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá. Ngành công
nghiệp và xây dựng duy trì tốc độ tăng trưởng khá liên tục, tốc độ triển khai ứng dụng
các thành tựu khoa học và công nghệ được cải thiện. Sản phẩm công nghiệp phát triển
ngày càng đa dạng và chất lượng, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm
cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất
khẩu; chú trọng đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao.
Khu vực nông nghiệp phát triển khá ổn định; công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn có sự chuyển biến quan trọng, từ lúc cả nuớc còn thiếu ăn nay

đã trở thành nước xuất khẩu gạo với khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần
vào an ninh lương thực quốc tế; xuất khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản
với khối lượng lớn đứng thứ hạng cao trên thế giới.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ
nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý có bước phát triển theo
hướng tiến bộ, hiệu quả.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển, nhất là hạ tầng giao thông, điện,
thông tin, viễn thông, thủy lợi, hạ tầng đô thị, giáo dục, y tế. Việc ứng dụng khoa học
công nghệ, nhất là công nghệ cao, đã tạo những tiền đề để bước đầu chuyển sang xây
dựng kinh tế tri thức.
2.1.2. Hạn chế
Tăng trưởng chủ yếu dựa vào khai thác nguồn tài nguyên và các yếu tố tác động
đầu vào (vốn, lao động) của nền kinh tế, còn tác động của các nhân tố tổng hợp, chủ
yếu là nhân tố khoa học, công nghệ... thì rất thấp. Mặt khác, nguồn vốn sử dụng kém
hiệu quả, lãng phí, thất thoát nhiều, chất lượng nhân lực còn hạn chế, chưa tạo được
động lực cho sự phát triển kinh tế và năng suất lao động.

19


Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm hơn dự kiến. Mặt khác, trình độ công nghệ ở
nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ còn thấp, chi phí năng lượng,
nguyên nhiên liệu cho một đơn vị sản phẩm trong quy trình sản xuất khá lớn, nhưng
sản phẩm làm ra lại đơn điệu, chất lượng thấp, giá thành cao...
Nguồn nhân lực kỹ năng lao động, có tay nghề cao thiếu trầm trọng, đang là vật
cản kìm hãm chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Tài chính quốc gia còn hạn hẹp; thu ngân sách nhà nước chủ yếu mới đáp ứng
nhu cầu chi thường xuyên và trả nợ, phần lớn vốn đầu tư phát triển phải dựa vào các
khoản vay trong nước và ngoài nước thông qua hình thức phát hành trái phiếu, và huy

động vốn để xây dựng một số công trình giao thông, thuỷ lợi, giáo dục.
Kết cấu hạ tầng kinh tế kém phát triển, thiếu đồng bộ gây nhiều hạn chế cho các
hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước và khả năng hợp tác kinh tế với nước ngoài.
2.2. Thực trạng phát triển bền vững tại Việt Nam những năm vừa qua
2.2.1. Thành tựu
2.2.1.1. Lĩnh vực kinh tế
Nền kinh tế Việt Nam đã từng bước chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hoá tập
trung sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế tăng
trưởng với tốc độ cao và tương đối ổn định.
Trong nông nghiệp, sản xuất lương thực không những bảo đảm an ninh lương
thực vững chắc cho đất nước mà còn đưa Việt Nam vào danh sách những nước xuất
khẩu gạo hàng đầu của thế giới. Nhờ bảo đảm an ninh lương thực, các cây công nghiệp
hàng hoá và chăn nuôi có điều kiện phát triển.
Công nghiệp đã được cơ cấu lại và dần dần tăng trưởng ổn định. Các ngành dịch
vụ đã được mở rộng và chất lượng phục vụ đã được nâng lên, đáp ứng nhu cầu tăng
trưởng kinh tế và phục vụ đời sống dân cư..

20


Cơ sở hạ tầng giao thông vận tải phát triển nhanh, đáp ứng khá tốt cho yêu cầu
phát triển kinh tế-xã hội. Giá trị dịch vụ vận tải, kho tàng, thông tin liên lạc tăng 1,8
lần.
Du lịch đã có bước phát triển khá, nhiều trung tâm du lịch được nâng cấp, trùng
tu, cải tạo, các loại hình du lịch phát triển đa dạng, đặc biệt trong những năm gần đây
đã tập trung khai thác nâng cao giá trị nhân văn và bản sắc văn hoá dân tộc trong các
tuyến du lịch, làm cho du lịch càng thêm phong phú, hấp dẫn khách du lịch trong và
ngoài nước.
Dịch vụ bưu chính viễn thông phát triển nhanh, mạng lưới viễn thông trong
nước đã được hiện đại hoá về cơ bản. Nhiều phương tiện thông tin hiện đại đạt tiêu

chuẩn quốc tế đã được phát triển, bước đầu đáp ứng nhu cầu thông tin, giao dịch
thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Do sản xuất phát triển và thực hiện các chính sách điều tiết tài chính, tiền tệ có
hiệu quả, môi trường kinh tế vĩ mô đã ổn định, tạo điều kiện cho thu hút đầu tư và nâng
cao mức sống nhân dân.
2.2.1.2. Lĩnh vực xã hội
Đầu tư của Nhà nước cho các lĩnh vực xã hội ngày càng tăng, hiện chiếm trên
25% vốn ngân sách nhà nước, trong đó đặc biệt ưu tiên đầu tư cho xóa đói giảm nghèo,
giải quyết việc làm, giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân,
phòng chống các tệ nạn xã hội, khoa học - công nghệ, bảo vệ môi trường cũng như các
dịch vụ xã hội cơ bản khác.
Một hệ thống luật pháp đã được ban hành đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn và
phù hợp hơn với yêu cầu đổi mới của đất nước trong tình hình mới.

21


Nhiều chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển xã hội đã, đang được triển
khai thực hiện và đạt hiệu quả xã hội cao. Các chương trình mục tiêu quốc gia đã được
triển khai thực hiện và đạt hiệu quả tốt về mặt xã hội.
Các quỹ quốc gia về xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ tạo việc làm, quỹ đền ơn đáp
nghĩa, quỹ tình thương, quỹ hỗ trợ trẻ em nghèo vượt khó... đã được thành lập và hoạt
động có hiệu quả.
Đời sống nhân dân ở cả thành thị và nông thôn đã được cải thiện rõ rệt. Công
cuộc xóa đói giảm nghèo đạt được những thành tựu được dư luận trong nước và thế
giới đánh giá cao.
Đến năm 2000, cả nước đạt tiêu chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo
dục tiểu học, trên 90% dân cư được tiếp cận với dịch vụ y tế, 60% số hộ gia đình có
nước sạch, sóng truyền hình đã phủ 85%, sóng phát thanh phủ 95% diện tích cả nước.
Các chỉ tiêu xã hội được cải thiện hơn rất nhiều. Chỉ số phát triển con người

(HDI) của Việt Nam đã tăng từ 0,611 năm 1992 lên 0,682 năm 1999. Xếp hạng HDI
trong số 162 nước, Việt Nam đứng thứ 120 năm 1992; thứ 101 năm 1999 và thứ 109
trên 175 nước vào năm 2003. So với một số nước có GDP trên đầu người tương đương,
thì HDI của Việt Nam cao hơn đáng kể.
2.2.1.3. Lĩnh vực môi trường
Nhiều chính sách quan trọng về quản lý, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo
vệ môi trường đã được xây dựng và thực hiện trong những năm gần đây. Hệ thống
quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đã được hình thành ở cấp Trung ương và địa
phương. Công tác quản lý môi trường, giáo dục ý thức và trách nhiệm bảo vệ môi
trường cho mọi tổ chức, cá nhân ngày càng được mở rộng và nâng cao chất lượng.
Công tác giáo dục và truyền thông về môi trường đang được đẩy mạnh. Nội dung bảo
vệ môi trường đã được đưa vào giảng dạy ở tất cả các cấp học trong hệ thống giáo dục

22


quốc dân. Việc thực hiện những chính sách trên đã góp phần tăng cường quản lý, khai
thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; phòng ngừa, ngăn chặn ô
nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường; phục hồi và cải thiện một cách rõ rệt chất lượng
môi trường sinh thái ở một số vùng.
2.2.2.Những tồn tại chủ yếu
2.2.2.1.Về nhận thức
Quan điểm phát triển bền vững chưa được thể hiện một cách rõ rệt và nhất quán
qua hệ thống chính sách và các công cụ điều tiết của Nhà nước. Các chính sách kinh tế
xã hội còn thiên về tăng trưởng nhanh kinh tế và ổn định xã hội mà chưa quan tâm đầy
đủ, đúng mức đến tính bền vững khi khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên và
bảo vệ môi trường. Mặt khác, các chính sách bảo vệ môi trường lại chú trọng việc giải
quyết các sự cố môi trường, phục hồi suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường, mà
chưa định hướng phát triển lâu dài nhằm đáp ứng những nhu cầu tương lai của xã hội.
Quá trình lập quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và quá trình xây dựng

chính sách bảo vệ môi trường còn chưa được kết hợp chặt chẽ, lồng ghép hợp lý với
nhau. Cơ chế quản lý và giám sát sự phát triển bền vững chưa được thiết lập rõ ràng và
có hiệu lực.
2.2.2.2. Về kinh tế
Nguồn lực phát triển còn thấp nên những yêu cầu về phát triển bền vững ít có đủ
điều kiện vật chất để thực hiện. Đầu tư được tập trung chủ yếu cho những công trình
mang lại lợi ích trực tiếp, còn rất ít đầu tư cho tái tạo các nguồn tài nguyên thiên nhiên
và bảo vệ môi trường.
Số nợ hiện nay của Việt Nam so với các nước khác chưa thuộc loại cao và chưa
tới giới hạn nguy hiểm, song nó đang tăng lên nhanh chóng và sẽ có nguy cơ đe doạ
tính bền vững của sự phát triển trong tương lai.

23


Xu hướng giảm giá các sản phẩm thô trên thị trường thế giới gây ra nhiều khó
khăn cho tăng trưởng nông nghiệp ở Việt Nam. Với cơ cấu sản xuất như hiện nay, để
đạt được một giá trị thu nhập như cũ từ thị trường thế giới, Việt Nam đã phải bán đi
một số lượng hàng hoá hiện vật nhiều hơn trước.
Các mục tiêu phát triển của các ngành có sử dụng tài nguyên thiên nhiên còn
mâu thuẫn nhau và chưa được kết hợp một cách thoả đáng. Các cấp chính quyền ở cả
Trung ương và địa phương chưa quản lý có hiệu quả việc sử dụng tài nguyên thiên
nhiên và bảo vệ môi trường.
2.2.2.3. Về xã hội
Sức ép về dân số tiếp tục gia tăng, tình trạng thiếu việc làm ngày một bức xúc,
tỷ lệ hộ nghèo còn cao vẫn là những trở ngại lớn đối với sự phát triển bền vững. Chất
lượng nguồn nhân lực còn thấp. Số lượng và chất lượng lao động kỹ thuật (về cơ cấu
ngành nghề, kỹ năng, trình độ) chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động.
Khoảng cách giàu nghèo và phân tầng xã hội có xu hướng gia tăng nhanh chóng
trong nền kinh tế thị trường.

Một số tệ nạn xã hội như nghiện hút, mại dâm, căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS,
tham nhũng còn chưa được ngăn chặn có hiệu quả, gây thất thoát và tốn kém các nguồn
của cải, tạo ra nguy cơ mất ổn định xã hội và phá hoại sự cân đối sinh thái.
2.2.2.4. Về sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường
Lĩnh vực bảo vệ môi trường gắn bó mật thiết với phát triển bền vững. Vì vậy
các Bộ luật và các chính sách về tài nguyên - môi trường là một bộ phận không tách rời
của quá trình phát triển. Tuy nhiên, hệ thống văn bản trong lĩnh vực này còn thiếu
nhiều quy định cần được xem xét và bổ sung trong bối cảnh môi trường nước ta ngày
càng xuống cấp nghiêm trọng.

24


Thiếu chính sách cụ thể khuyến khích công nghệ sản xuất sạch hơn. Các chính
sách còn thiếu tính hệ thống và thiếu đồng bộ. Nhiều Bộ Luật thiếu chi tiết đòi hỏi văn
bản hướng dẫn thi hành Luật dài hơn so với Luật; tính ổn định không cao vì thay đổi
quá nhanh;
Tác dụng răn đe của các hệ thống pháp luật thấp, chế tài xử phạt còn quá nhẹ,
chỉ là những giải pháp tạm thời có tính chất cảnh cáo. Các chính sách thưởng phạt yếu,
việc thực thi Luật pháp không đầy đủ và nghiêm túc làm cho các chính sách bảo vệ
môi trường không có hiệu cao như mong đợi.
Hiện tượng khai thác bừa bãi và sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên, gây
nên suy thoái môi trường và làm mất cân đối các hệ sinh thái đang diễn ra phổ biến.
Một số cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, bệnh viện…gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng.
Quá trình đô thị hoá tăng lên nhanh chóng kéo theo sự khai thác quá mức nguồn
nước ngầm, ô nhiễm nguồn nước mặt, không khí và ứ đọng chất thải rắn. Đặc biệt, các
khu vực giàu đa dạng sinh học, rừng, môi trường biển và ven biển chưa được chú ý bảo
vệ, đang bị khai thác quá mức.
Quản lý nhà nước về môi trường mới được thực hiện ở cấp Trung ương, ngành,

tỉnh, chưa hoặc có rất ít ở cấp quận huyện và chưa có ở cấp phường xã. Một số quy
hoạch phát triển kinh tế xã hội vùng đã được xây dựng, song chưa có cơ chế bắt buộc
các địa phương và các ngành tham gia khi xây dựng và thực hiện quy hoạch này.
2.3. Thành tựu và hạn chế của việc tăng trưởng kinh tế nhằm mục tiêu phát
triển bền vững ở Việt Nam
2.3.1. Thành tựu
2.3.1.1. Về kinh tế

25


×