Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Biện pháp phát triển kĩ năng giao tiếp cho HS mắc HCTK ở các trường tiểu học trên địa bàn quận liên chiểu thành phố đà nẵng (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.59 KB, 14 trang )

1

BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KĨ NĂNG GIAO TIẾP CHO
HỌC SINH MẮC HỘI CHỨNG TỰ KỶ Ở CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN LIÊN CHIỂU THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
SVTH: BÙI THỊ NHƯ HUYỀN
Lớp 07SDB, Khoa Tâm lí - giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng
GVHD: TS. HUỲNH THỊ THU HẰNG
Khoa Tâm lí - giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng

MỞ ĐẦU
*Lý do chọn đề tài
Tự kỷ là một dạng bệnh trong nhóm rối loạn phát triển xâm nhập ảnh hưởng
đến nhiều mặt của sự phát triển của trẻ.
HS mắc HCTK ở tiểu học là những HS có những “nét tự kỷ” học trong lớp hòa
nhập. Những HS này không được hưởng một phương pháp giáo dục phù hợp do các
giáo viên tiểu học chưa thực sự nắm rõ về dạng tật này và chưa có các kiến thức về
dạy học hòa nhập cho TTK.
Bên cạnh đó, những HS mắc HCTK này còn gặp rất nhiều khó khăn do HCTK
mang lại, đặc biệt là vấn đề khó khăn trong giao tiếp. Điều này gây trở ngại rất lớn
trong việc kết bạn, quan hệ xã hội, tham gia các hoạt động vui chơi, học tập của trẻ
dẫn đến trẻ trở nên lạc lõng, chán học và bỏ học…
Tại Quận Liên Chiểu TP Đà Nẵng , một số TTK đã được học hoà nhập. Tuy
nhiên, giáo viên và gia đình chưa biết quan tâm, khai thác những nhu cầu giao tiếp
ở trẻ, nếu có thì cũng không thường xuyên, phương pháp tiếp cận chưa phù hợp nên
khả năng giao tiếp của trẻ còn thấp.
Chính vì những lí do nêu trên, chúng tôi nghiên cứu: “Biện pháp phát triển kĩ
năng giao tiếp cho HS mắc HCTK ở các trường tiểu học trên địa bàn Quận
Liên Chiểu thành phố Đà Nẵng”.
*Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng phát triển kĩ năng giao tiếp cho HS mắc HCTK ở các


trường tiểu học trên địa bàn quận Liên Chiểu TP Đà Nẵng. Trên cơ sở đó đề xuất
những biện pháp phát triển kĩ năng giao tiếp cho trẻ.
*Khách thể và đối tuợng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Quá trình giáo dục hòa nhập cho HS mắc HCTK ở
tiểu học.
- Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp phát triển kĩ năng giao tiếp cho HS mắc
HCTK ở các trường tiểu học trên địa bàn quận Liên Chiểu thành phố Đà Nẵng.


2
*Giả thuyết khoa học
HS mắc HCTK gặp rất nhiều khó khăn trong giao tiếp khi học hòa nhập.
Nếu GV biết sử dụng các chiến lược giao tiếp phù hợp với TTK; thường xuyên tổ
chức các trò chơi phát triển kĩ năng giao tiếp và động viên trẻ tham gia; xây dựng
vòng tay bạn bè; phối hợp với phụ huynh lập kế hoạch phát triển kĩ năng giao tiếp
cho trẻ tại gia đình,… thì sẽ phát triển được kỹ năng giao tiếp cho TTK, từ đó giúp
trẻ dễ dàng hòa nhập hơn.
*Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về giáo dục hòa nhập cho HS mắc HCTK.
- Nghiên cứu thực trạng phát triển kĩ năng giao tiếp cho HS mắc HCTK ở các
trường tiểu học trên địa bàn quận Liên Chiểu thành phố Đà Nẵng
- Đề xuất các biện pháp để phát triển kĩ năng giáo tiếp cho HS mắc HCTK ở
các trường Tiểu học trên địa bàn quận Liên Chiểu – TP Đà Nẵng
* Phạm vi nghiên cứu:
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên khách thể là HS tiểu học trong các trường
tiểu học Hồng Quang, trường tiểu học Hải Vân, trường tiểu học Nguyễn Văn Trỗi
trên địa bàn quận Liên Chiểu thành phố Đà Nẵng.
* Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: quan sát, phỏng vấn, nghiên cứu sản

phẩm, lấy ý kiến chuyên gia.
* Cấu trúc của đề tài
Đề tài dài 75 trang, bao gồm mở đầu, nội dung và kết luận, với 10 bảng. Ngoài
ra, đề tài còn có 2 phụ lục, 14 sách và tài liệu tham khảo.
NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận về vấn đề phát triển giao tiếp cho HS mắc Hội chứng Tự kỷ
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Hội chứng Tự kỷ
HS mắc HCTK là những HS có những rối loạn phát triển lan tỏa phức tạp ở
những lĩnh vực sau: Tương tác xã hội, ngôn ngữ, hành vi định hình lặp đi lặp lại, rối
loạn cảm giác. Có 5 phân nhóm chuẩn đoán trong phổ Tự kỷ: Tự kỷ điển hình, Hội
chứng Aperger, Rối loạn Rett, rối loạn phân rã ở trẻ thơ, rối loạn phát triển lan tỏa –
không điển hình.
1.2.2. Kĩ năng giao tiếp


3
Kĩ năng giao tiếp là khả năng nhận thức nhanh chóng những biểu hiện bên
ngoài và những biểu hiện tâm lí bên trong của đối tượng và bản thân của chủ thể
giao tiếp, là khả năng sử dụng hợp lí các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ,
biết cách tổ chức, điều chỉnh quá trình giao tiếp nhằm đạt mục đích giao tiếp.
1.2.3. Giáo dục hòa nhập
Giáo dục hòa nhập là phương thức giáo dục trong đó trẻ khuyết tật cùng học
với trẻ bình thường trong trường phổ thông ngay tại nơi trẻ sinh sống [1].
1.3. Đặc điểm chung của trẻ tự kỷ
1.3.1. Nhận thức
TTK có những mức độ nhận thức hết sức khác nhau từ chậm phát triển nặng,
trung bình đến nhẹ, thậm chí có cả những tài năng, thần đồng về học tập cũng bị tự
kỷ. Tuy nhiên, phần lớn TTK bị chậm phát triển trí tuệ.

a) Cảm giác, tri giác
TTK có những khó khăn trong việc cảm nhận giác quan, trẻ có thể thiếu nhạy
cảm hay quá nhạy cảm đối với một giác quan hay nhiều giác quan. So với trẻ bình
thường, ngưỡng cảm giác của trẻ có thể là quá cao hay quá thấp khiến cho trẻ không
thể tri giác chính xác sự vật, hiện tượng xung quanh hoặc tri giác quá khác thường
so với người bình thường. Điều này gây ra cho người tự kỷ khó khăn trong việc xử
lý thông tin từ môi trường. Vì vậy, trong trị liệu TTK người ta cũng quan tâm nhiều
đến trị liệu giác quan hay còn gọi là điều hòa cảm giác.
b) Tư duy, tưởng tượng
TTK gặp những khiếm khuyết khá nghiêm trọng trong nhận thức lý tính, đặc
biệt là chơi tưởng tượng, chơi đóng vai, giả vờ. Trẻ hầu như gặp khó khăn trong liên
kết giữa thực tại và tưởng tượng. Theo sự đánh giá của hầu hết những nhà nghiên
cứu về tự kỷ, trí nhớ của TTK rất tốt và sâu sắc, nhưng độ liên kết giữa các ký ức
trong trí nhớ lại rất rời rạc, không có độ liên kết cao. Do đó trẻ khó có thể hiểu trọn
vẹn ý nghĩa những gì trong trí nhớ, khó khăn trong việc tổng kết, khái quát để đưa
ra kết luận, rút kinh nghiệm.
1.3.2. Hành vi
-TTK thường ít quan tâm đến các chuẩn mực xã hội, muốn làm theo sở thích
cá nhân nên rất dễ có những hành vi gcông cộng
- TTK gặp khó khăn về ngôn ngữ, không biểu đạt được những ý nghĩ của mình
ra ngoài nên trẻ thường la hét, giận dữ khi người lớn không hiểu trẻ và không làm
theo ý muốn của trẻ
-TTK có những hành vi rập khuôn, lặp đi lặp lại
- TTK không thích sự thay đổi vì với trẻ sự không quen thuộc đồng nghĩa với
sự thiếu an toàn.


4
- TTK có những gắn bó bất thường đối với một vài đồ vật nào đó
- Những cá nhân bị tự kỷ cũng có thể phát triển những triệu chứng đa dạng

khác nhau, những rối loạn tinh thần xuất hiện bao gồm rối loạn tăng động kém chú
ý (ADHD), (chứng) loạn tâm thần, sự buồn chán, rối loạn ám ảnh cưỡng bức và
những rối loạn lo âu khác.
1.3.3. Kĩ năng tương tác xã hội
Kĩ năng tương tác xã hội của TTK là rất kém. Điều này làm giảm khả năng
giao tiếp của trẻ rất nhiều vì môi trường xã hội là môi trường quan trọng để phát
triển các kĩ năng giao tiếp. Chúng ta có thể xếp các chứng tật về tương tác xã hội
vào 4 loại hình chính, tuy rằng không có một phạm vi rõ rệt:
- Nhóm đối tượng xa lánh mọi người
- Nhóm đối tượng bị động
- Nhóm đối tượng hoạt động kỳ hoặc
- Nhóm đối tượng quá hình thức, khoa trương
1.3.4. Thể chất: TTK có sự phát triển thể chất giống như những trẻ bình thường
khác.
1.4. Những khó khăn trong giao tiếp của học sinh mắc HCTK
1.4.1. Khó khăn khi sử dụng các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ của trẻ tự
kỷ
1.4.1.1.

Thiếu sự tương tác mắt:

Giao tiếp bằng mắt kém làm ảnh hưởng tới giao tiếp xã hội và khả năng bắt
chước lời nói. Vì vậy, mà TTK thường gặp khó khăn trong giao tiếp đặc biệt trong
việc phát âm cũng như trong việc sử dụng lời nói. Điều này làm cho TTK khó khăn
khi tham gia xã hội, trẻ trở nên lạc lõng và xã hội cũng trở nên khó hiểu đối với
chúng.
1.4.1.2. Cử chỉ điệu bộ
Đa số TTK không hiểu và cũng không biết thể hiện ra ngoài những tín hiệu
ngôn ngữ phụ như sự diễn tả bằng nét mặt và cử chỉ. Đó giống như là một khiếm
khuyết “thực sự” và gây ra rất nhiều khó khăn trong việc học ngôn ngữ của TTK.

1.4.2. Khó khăn khi sử dụng ngôn ngữ
1.4.2.1. Giọng nói không có ngữ điệu
Giọng nói của TTK không được tự nhiên. Gần như tất cả các TTK mà nói
được thì nói với giọng khác thường không lên giọng, xuống giọng . một cách phù
hợp.
1.4.2.2. Dùng ngôn ngữ không đúng ngữ cảnh


5
TTK dùng lời nói chủ yếu là để nhu cầu của chúng được thoả mãn hơn là
mục đích có tính xã hội như nói làm vui lòng người khác. Trẻ nói những đòi hỏi mà
không cần biết khung cảnh lúc đó có thích hợp hay không.
a) Nhại lời
Tính nhại lời là một trong những bất thường hay thấy nhất ở TTK. Có khi trẻ
chỉ lặp lại một số lời nói nó vừa nghe được mà không có một lý do nào. Điều này
cho thấy trẻ có khả năng nghe và giữ lời nói đó trong bộ nhớ ngắn hạn đủ lâu để có
thể nhắc lại. Vì thế, điều này có nghĩa là ở trẻ có tồn tại hai trong số các cơ chế cần
thiết để sử dụng ngôn ngữ. Thế nhưng trẻ có hiểu không? Có thể không, hoặc có thể
chỉ một phần.
1.5. Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình giao tiếp của học sinh mắc Hội
chứng Tự kỷ
1.5.1. Những trở ngại về mặt sinh lí
TTK thường gặp phải vấn đề rối loạn khả năng xử lý thính giác(APD). Sự rối
loạn xử lí thính giác làm cho trẻ có khó khăn trong việc truyền và nhận thông tin,
làm cho thông tin sai lệch, hoặc không đầy đủ, dẫn đến cản trở trong việc giao tiếp
của các em.
Do không ý thức được khả năng xử lý thông tin ở TTK chậm, không hiệu
quả, rất dễ bị ức chế hoặc hoang mang lo sợ nếu đưa cho trẻ quá nhiều thông tin.
Khi chúng ta hỏi trẻ thì thường muốn trẻ trả lời ngay, nếu không thấy trẻ trả lời
ngay sẽ cho rằng trẻ không hiểu, không muốn trả lời...và chúng ta bắt đầu nhắc đi

nhắc lại, nói theo cách khác, thúc giục trẻ...Và khi làm như vậy vô hình chung
chúng ta càng làm cho trẻ rối trí hoặc ức chế hơn.
1.5.2. Những trở ngại về mặt tâm lí
Những trở ngại về mặt sinh lí khiến trẻ cảm thấy không tự tin trong quá trình
giao tiếp dẫn đến trẻ thường thụ động trong quá trình giao tiếp. Thêm vào đó, những
người xung quanh không hiểu những khó khăn đó, không cảm thông, kì thị, xa lánh,
… khiến cho trẻ ngày càng mặc cảm, tự ti, thiếu niềm tin vào người khác,…. Từ đó,
trẻ dần rút vào “vỏ tự kỷ”, thích sự cô lập, tránh giao tiếp với các bạn.Điều này
khiến cho quá trình giao tiếp của trẻ vốn khó khăn lại càng khó khăn hơn.
1.6. Vai trò của môi trường đối với sự phát triển giao tiếp của học sinh mắc Hội
chứng Tự kỷ
* Môi trường gia đình
Gia đình là nơi hình thành và phát triển những kĩ năng giao tiếp đầu tiên cho
trẻ. Gia đình đóng một vai trò thiết yếu và không thể thiếu trong việc thực hiện việc
hỗ trợ cho trẻ hòa nhập cộng đồng. Và hơn ai hết, các bậc phụ huynh là những
người mong đợi sự phát triển của con mình nhất. Chính họ sẽ là người kiên trì theo
đuổi, phấn đấu đến cùng cho sự phát triển và tương lai của con mình.


6
* Môi trường lớp học
- Tình bạn là yếu tố vô cùng quan trọng đối với lòng tự trọng và là thước đo để trẻ
có thể tự đánh giá bản thân mình. Trong mối quan hệ bạn bè, trẻ khao khát muốn trở thành
đối tượng chú ý và đánh giá của bạn cùng tuổi. Vì vậy, trẻ sẽ luôn cố gắng hết mình để
khẳng định bản thân. Tuy nhiên, nếu trẻ thường xuyên bị thua kém bạn và bạn không tôn
trọng trẻ thì trẻ sẽ có cảm giác bị bỏ rơi, nảy sinh tính không cởi mở, tính thụ động, tính
thù hằn… Vì vậy khi xây dựng vòng bạn bè cho trẻ thì phải chọn lựa những trẻ có thái độ
tốt , thông cảm, mong muốn giúp đỡ bạn yếu hơn,… để làm những người hỗ trợ đồng
đẳng.
- GV có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển nhân cách nói chung và kĩ

năng giao tiếp nói riêng cho trẻ. GV là người nhận ra những khó khăn của trẻ thông qua
quá trình dạy học: cách học, mức độ ngôn ngữ, mức độ tư duy,… Hiểu được những khó
khăn này, người GV sẽ lên kế hoạch và tổ chức những hoạt động phát triển kĩ năng giao
tiếp cho trẻ nhằm cải thiện tình trạng giao tiếp một cách khoa học và có hiệu quả dưới
nhiều hình thức khác nhau.
Như vậy, yếu tố môi trường có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giáo dục trẻ
bình thường nói chung và TTK nói riêng.
1.7.Tiểu kết chương 1
Việc nghiên cứu lí thuyết giúp chúng tôi thu thập và nắm vững thêm nhiều
kiến thức về TTK, GDHN cho TTK. Đặc biệt là chúng tôi đã có những hiểu biết sâu
rộng về đặc điểm giao tiếp của TTK để từ đó tìm ra những biện pháp phát triển kĩ
năng cho TTK một cách phù hợp.
- HS mắc HCTK ở tiểu học thường là những trẻ mắc tự kỷ dạng nhẹ, tức là có
những “ nét tự kỷ” hoặc những trẻ đã được can thiệp sớm ở lứa tuổi mầm non được
khắc phục những khó khăn của HCTK nên được đi học trong lớp hòa nhập.
- Khó khăn về giao tiếp là một tính chất căn bản của HCTK. Những HS mắc
HCTK khó khăn cả về giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. Nguyên nhân là do các
em khó kết nối các thông tin và thiếu khả năng khái quát, ngôn ngữ của các em còn
nhiều hạn chế. Thêm nữa, HS mắc HCTK thường biểu hiện ngại giao tiếp với
những người xa lạ, những người xung quanh, tránh xa những nơi đông người….
Điều này gây trở ngại rất lớn trong việc kết bạn, quan hệ xã hội, tham gia các hoạt
động vui chơi, học tập của trẻ dẫn đến trẻ trở nên lạc lõng, chán học và bỏ học…
2. Thực trạng phát triển kĩ năng giao tiếp cho học sinh mắc Hội chứng Tự kỷ
tại các trường tiểu học trên địa bàn quận Liên Chiểu - TP Đà Nẵng
2.1. Khái quát quá trình khảo sát
2.1.1. Mô tả địa bàn khảo sát
2.1.2. Mục tiêu khảo sát


7

- Tìm hiểu những cách thức mà GV đã sử dụng để phát triển kĩ năng giao tiếp
cho những HS mắc HCTK
2.1.3. Nội dung khảo sát
- Thực trạng phát triển kĩ năng giao tiếp cho HS mắc HCTK (nhận thức của
GV về những khó khăn trong giao tiếp của HS mắc HCTK; về vai trò của việc phát
triển kĩ năng giao tiếp cho HS mắc HCTK; về môi trường giáo dục tốt nhất cho trẻ;
mục tiêu, nội dung, cách thức GV tiến hành các biện pháp để phát triển kĩ năng giao
tiếp cho TTK; kì vọng của GV vào sự tiến bộ của trẻ; khó khăn trong giao tiếp của
TTK)
2.1.4. Phương pháp khảo sát: quan sát, nghiên cứu sản phẩm, phỏng vấn
2.1.5. Khách thể khảo sát: 7 GV CN và 8 HS mắc HCTK
2.2. Phân tích kết quả khảo sát
2.2.1. Thực trạng phát triển kĩ năng giao tiếp cho học sinh mắc Hội chứng Tự kỷ
thông qua phân tích các trường hợp
a) Trường hợp 1: Cô Hoàng Thị Lan, GVCN của HS mắc HCTK Nguyễn Thành
Anh Đức
Việc phát triển kĩ năng giao tiếp cho trẻ đã được GV quan tâm. Tuy GV chưa
có kế hoạch rõ ràng, cụ thể để giúp đỡ trẻ nhưng các biện pháp được tiến hành phù
hợp và đã mang lại những hiệu quả nhất định cho trẻ. Nếu GV đề ra được những
mục tiêu cụ thể để phát triển kĩ năng giao tiếp cho trẻ trong từng tháng và tiến hành
những biện pháp trên một cách có đường hướng, chi tiết hơn thì trẻ sẽ tiến bộ hơn
rất nhiều.
b) Trường hợp 2: Cô Hà Thị Thủy, GVCN của HS mắc HCTK Phan Duy Hoàng
GV chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển kĩ năng giao tiếp
cho trẻ, các biện pháp can thiệp chung chung, không cụ thể rõ ràng.
c) Trường hợp 3: Cô Dương Thị Tuyết, GVCN của HS mắc HCTK Nguyễn Hữu
Dũng
GV đã nhận thức được những khó khăn của trẻ trong giao tiếp. Tuy nhiên,GV
khá thờ ơ và không quan tâm đến sự phát triển về mọi mặt của trẻ. Như vậy, trẻ
không có được một môi trường giao tiếp thuận lợi từ GV, gia đình, bạn bè. Mọi

người đều phớt lờ trẻ khiến càng ngày càng thiếu tự tin và khó có thể hòa nhập
cộng đồng.
d) Trường hợp 4: Cô Lê Thị Thu Thảo, GVCN của Phan Văn Duy Bảo
GV chưa coi trọng việc phát triển kĩ năng giao tiếp cho trẻ chỉ tập trung vào vấn đề
hành vi của trẻ mà không biết rằng hành vi bất thường xảy ra là do trẻ không bộc lộ
được nhu cầu của bản thân cho người khác hiểu. Bảo được gia đình và giáo viên


8
yêu thương, bạn bè cảm thông nhưng chưa có ai thực sự hiểu trẻ. Chính vì vậy mọi
biện pháp giúp đỡ mà không xuất phát từ sự thấu hiểu trẻ thì sẽ khó đạt kết quả cao.
e) Trường hợp 5: Cô, GVCN của 2 HS mắc HCTK Trần Minh Phương và Nguyễn
Đình Thuận
GV đã hiểu rất rõ về HS của mình. GV đã đặt mục tiêu phát triển kĩ năng giao
tiếp cho trẻ lên ưu tiên và có những biện pháp phù hợp. Nhờ đó trẻ mới có thể tăng
cường sự tự tin để hòa nhập với bạn bè.
f) Trường hợp 7:
Trần Nguyên

Cô Trần Thị Thanh Thủy, GVCN của HS mắc HCTK Nguyễn

GV đã nhận thức được những khó khăn về giao tiếp của trẻ. GV cũng đã hỗ trợ
trẻ rất nhiều trong vấn đề hòa nhập với bạn bè, cô đã tiến hành những biện pháp sâu
sát, phù hợp để tạo cho trẻ một môi trường giao tiếp thân thiện. GV đã coi trọng
vấn đề phát triển giao tiếp nên trẻ đã có những tiến bộ trông thấy.
h) Trường hợp 7: Cô Bùi Thị Thắm, GVCN của HS mắc HCTK Đoàn Anh Huy
Mặc dù GV đã nhận thức được những khó khăn về giao tiếp của trẻ và đã đề
cao vai trò của việc phát triển kĩ năng giao tiếp cho trẻ nhưng GV lại không có thời
gian để quan tâm đến việc lập kế hoạch giúp đỡ trẻ. GV cảm thấy trẻ không hợp tác
khi cô động viên trẻ tham gia chơi khiến cô nản lòng, không muốn tiếp tục nữa.

Chính vì vậy mà giao tiếp của trẻ bị chững lại và không phát triển được.
Nguyên nhân là do GV chưa hiểu trẻ, chưa nắm được nhu cầu, mong muốn
của trẻ nên phương pháp tiếp cận chưa phù hợp, chưa bám được vào sở thích của trẻ
nên không thể kích thích nhu cầu giao tiếp của trẻ. Nếu GV làm được diều đó thì
chắc chắn trẻ sẽ dễ dàng hòa nhập với các bạn hơn
2.2.3. Nhận định chung về thực trạng phát triển kĩ năng giao tiếp cho học sinh
mắc Hội chứng Tự kỷ
- Tất cả các GV đã nhận thức được những khó khăn trong giao tiếp của những
HS mắc HCTK. Một số GV đã nhận thức đúng về vai trò của việc phát triển kĩ năng
giao tiếp cho trẻ. Và thực tế cho thấy HS mắc HCTK trong lớp của những GV đó đã
có những tiến bộ về mặt giao tiếp làm tiền đề cho những tiến bộ trong học tập như
em Thuận, Phương, Đức, Nguyên.
- Một số GV đã có những biện pháp phù hợp để phát triển kĩ năng giao tiếp
cho trẻ. Tuy nhiên, mức độ thực hiện của các GV là khác nhau. Mặc dù nhận thức
đúng về cách thức tiến hành nhưng vẫn chưa đạt hiệu quả cao vì các GV chưa thật
sự hiểu trẻ, các biện pháp còn chung chung, chưa rõ ràng về mục tiêu. Việc triển
khai các biện pháp chưa được thực hiện một cách có khoa học.
- Đa số GV đều đồng ý rằng môi trường giáo dục hòa nhập là môi trường phát
triển giao tiếp tốt nhất cho trẻ.


9
- Kĩ năng giao tiếp của một số trẻ trong hơn một năm qua đã có những tiến bộ
nhưng vẫn còn ở mức thấp. Nguyên nhân chính là do GV và gia đình chưa biết quan
tâm, khai thác những nhu cầu giao tiếp ở các em. Đặc biệt việc giao tiếp với các em
không thường xuyên, các phương pháp tiếp cận còn chưa có mục tiêu rõ ràng, cụ
thể nên khả năng giao tiếp của các em còn thấp.
Nguyên nhân của thực trạng trên là do tất cả các GV đều chưa được tham gia
các lớp tập huấn về giáo dục hòa nhập cho HS mắc HCTK, chưa được cung cấp
những tài liệu về việc phát triển kĩ năng giao tiếp cho TTK. Ngoài ra còn phải kể

đến một số khó khăn khác như: mức sống còn thấp, thời gian làm việc nhiều và liên
tục đã ảnh hưởng đến công việc học tập, nghiên cứu, tìm tòi những biện pháp phát
triển kĩ năng giao tiếp nói riêng và kĩ năng học đường nói chung. Thiếu sự phối hợp
đồng bộ giữa nhà trường, giáo viên và gia đình trong việc chăm sóc giáo dục TTK.
2.3. Tiểu kết chương 2
Qua việc tìm hiểu thực trạng phát triển kĩ năng giao tiếp cho HS mắc HCTK
học hòa nhập ở các trường Tiểu học trên địa bàn quận Liên chiểu, chúng tôi nhận
thấy việc rèn luyện và phát triển kĩ năng giao tiếp cho HS mắc HCTK học hòa nhập
đã được các GV quan tâm nhưng vẫn chưa đúng mức, mức độ kĩ năng giao tiếp của
HS mắc HCTK đã có sự tiến bộ nhưng vẫn còn ở mức độ thấp. Công tác tổ chức
các hoạt động phát triển kĩ năng giao tiếp cho trẻ chưa thực sự hiệu quả. Vì vậy,
việc cần thiết lúc này là phải có những biện pháp phù hợp để khắc phục những hạn
chế và nâng cao chất lượng việc phát triển kĩ năng giao tiếp cho HS mắc HCTK.
3. Biện pháp phát triển kĩ năng giao tiếp cho học sinh mắc Hội chứng Tự kỷ tại
các trường tiểu học trên địa bàn quận Liên Chiểu TP đà Nẵng
3.1. Biện pháp phát triển kĩ năng giao tiếp cho học sinh mắc Hội chứng Tự kỷ
3.1.1. Sử dụng các chiến lược giao tiếp phù hợp với học sinh mắc HCTK
Ý nghĩa:
Do những trở ngại về mặt tâm sinh lý của TTK khiến cho trẻ gặp nhiều khó
khăn trong việc hiểu lời nói. Vì vậy, giao tiếp với HS mắc HCTK hiểu quả thì người
giao tiếp với trẻ cần phải tuân thủ một số nguyên tắc nhất định.
Những chiến lược giao tiếp hiệu quả:
* Nói chậm: khả năng xử lý thông tin của TTK chậm, TTK cần nhiều thời gian
hơn để xử lý, hiểu được và sử dụng phản hồi lại thông tin. Nói nhanh quá sẽ không
tạo cho trẻ cơ hội để suy nghĩ. Chúng ta cần cho trẻ thực hành, cải thiện khả năng
thu nhận và xử lý thông tin và đó là một quá trình lâu dài, không phải ngày một
ngày hai.
* Nói ít: Cung cấp cho trẻ lượng thông tin ít để trẻ có thể hiểu và phản hồi lại.
*Giao tiếp không lời: Trẻ cần hiểu được ngôn ngữ không lời, cử chỉ, dấu hiện,
vẻ mặt trong đời sống hàng ngày. Nếu trẻ không nhìn bạn, không giao tiếp mắt với



10
bạn, không biểu lộ thái độ khi giao tiếp với bạn, không kiểm tra chia sẻ với bạn, bạn
nên sử dụng chiến lược giao tiếp không lời.
* Khoảng cách giao tiếp: Ở gần trẻ để trẻ cảm nhận và ý thức được sự hiện
diện của bạn rồi hãy truyền đạt với trẻ những gì bạn muốn, một cách chậm rãi.
3.1.2. Xác định nhiệm vụ chơi, nội dung chơi phù hợp với khả năng và nhu cầu
của HS mắc HCTK khi tổ chức hoạt động chơi cho tập thể.
Ý nghĩa giáo dục: Việc lôi kéo trẻ tham gia trò chơi bằng cách xác định nhiệm
vị chơi và nội dung chơi phù hợp sẽ giúp trẻ:
- Khắc phục tình trạng rụt rè, ngại giao tiếp; giúp trẻ trở thành thành viên tích
cực trong lớp.
- Giúp trẻ mạnh dạn, tự tin, cư xử có văn hóa
- Giúp trẻ phát huy các mặt mạnh và loại bỏ dần những khiếm khuyết của bản
thân.
Nội dung: Khi tổ chức các trò chơi tập thể cần xác định vị trí, vai của HS mắc
HCTK trong trò chơi. Việc xác định vị trí của trẻ trong trò chơi cần dựa vào những
yếu tố sau: những đánh giá về khả năng, nhu cầu của trẻ; mức độ khuyết tật của trẻ;
tình trạng sức khỏe; điều kiện vật chất, thời gian và không gian; sở thích và năng
khiếu của trẻ
Cách tiến hành: Lên kế hoạch trò chơi cho cả lớp, trong đó cần xác định cụ thể
nhiệm vụ, nội dung chơi phù hợp dành riêng cho trẻ TK
3.1.3. Xây dựng vòng bạn bè
*Ý nghĩa giáo dục
- Đối với HS mắc HCTK: HS mắc HCTK học với trẻ bình thường nảy sinh
tâm lí, mặc cảm, tự ti, nhút nhát, rụt rè, những HS bình thường sẽ giúp các em xóa
đi mặc cảm đó giúp các em có một cuộc sống tốt đẹp hơn, dễ hòa nhập hơn .
- Đối với trẻ bình thường: khi giúp đỡ HS mắc HCTK sẽ giúp HS bình thường
có cơ hội khắc sâu kiến thức, giúp những HS này sống tình cảm và có trách nhiệm

hơn.
- Đối với giáo viên: vòng tay bạn bè sẽ hỗ trợ giáo viên giúp đỡ HS mắc
HCTK. Đây là cơ hội để giáo viên xây dựng tập thể HS đoàn kết vững mạnh. Hơn
nữa giáo viên sẽ tốn ít thời gian cho việc cung cấp kiến thức mới cho HS mắc
HCTK.
*Phương pháp xây dựng vòng bạn bè
Vòng 1: Vòng thân thiện gần gũi
Vòng 2: Vòng thân tình
Vòng 3: Vòng những người cùng tham gia.


11
Vòng 4: Vòng chia sẻ
*Các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của vòng bạn bè: tổ chức nhiều
hoạt động khác nhau để tăng sự hiểu biết, tạo cơ hội cho trẻ thể hiện; động viên,
khuyến khích kịp thời những hành vi, biểu hiện tốt; tuyên truyền phổ biến rộng các
điển hình.
*Lưu ý:
- Lựa chọn những HS làm người hướng dẫn, giúp đỡ không nhất thiết là các
HS giỏi mà điều quan trọng là các HS này biết cách hỗ trợ cho HS mắc HCTK.
Thực tế, những HS nhút nhát hay cảm thấy bị cô lập trong xã hội thường trở thành
những người hướng dẫn rất tốt. Điều này làm tăng tính tự tin của các em cũng như
làm cho việc học tập của chính em tiến bộ hơn.
- Những HS được chọn để trở thành người trong vòng 1 của HS mắc HCTK,
dù là những HS giỏi hay không giỏi, đều cần phải tập huấn để thực hiện vai trò làm
người hướng dẫn, hỗ trợ. GV nên lựa chọn và tập huấn nhiều người để làm hướng
dẫn vì vai trò này không nên chỉ giao cho một HS duy nhất, nó sẽ ảnh hưởng đến
học tập cũng như vui chơi của em đó.
3.1.4. Biện pháp phối hợp với phụ huynh để phát triển giao tiếp cho trẻ trong
sinh hoạt hằng ngày

*Ý nghĩa giáo dục:
Phụ hynh đóng một vai trò thiết yếu và không thể thiếu trong việc thực hiện
việc hỗ trợ cho trẻ hòa nhập. Đồng thời, phụ huynh là người hợp tác cần thiết nhất
trong mọi kế hoạch, hoạt động phát triển dành cho trẻ. Họ chính là người hiểu trẻ
nhất, vì là người luôn chăm sóc và gần gũi con mình. Và hơn ai hết, các bậc phụ
huynh là những người mong đợi sự phát triển của con mình nhất, đặc biệt là những
sự phát triển về mặt giao tiếp và ngôn ngữ, là những cột mốc phát triển có thể giúp
họ hiểu và tương tác với con mình. Chính họ sẽ là người kiên trì theo đuổi, phấn
đấu đến cùng cho sự phát triển và tương lai của con mình.
* Nội dung:
- Nâng cao nhận thức cho phụ huynh về vai trò của gia đình trong việc phát
triển giao tiếp cho trẻ
- Hướng dẫn gia đình cách hỗ trợ trẻ khi ở nhà.
* Cách tiến hành:
- GV cần giúp phụ huynh hiểu đúng và nhận thức đúng về vai trò của họ trong
trong quá trình phát triển kĩ năng giao tiếp cho trẻ
- GV tìm hiểu một số vấn đề ban đầu về trẻ và gia đình, đồng thời giúp phụ
huynh có một phần nhận định được tính chất nghiêm túc của việc phát triển kĩ năng
giao tiếp và thấy được tình trạng của trẻ vào thời điểm đó.


12
- Đặt ra những yêu cầu cụ thể đối với phụ huynh, đặc biệt là việc thực hiện
các hoạt động phát triển kĩ năng giao tiếp cho một cách kiên nhẫn, hợp tác và
thường xuyên.
- Giữ sự liên hệ, tương tác thường xuyên với phụ huynh
- Thường xuyên cung cấp thông tin về các vấn đề liên quan đến lĩnh vực phát
triển giao tiếp cho TTK. Người giáo viên cần biên tập lại các thông tin này sao cho
thật dễ hiểu và gần gũi với phụ huynh.
- Cùng phụ huynh lập kế hoạch cho các mục tiêu phát triển của trẻ.

- Hướng dẫn phụ huynh tổ chức các hoạt động cụ thể nhằm phát triển kĩ năng
giao tiếp cho HS mắc HCTK tại gia đình. Các hoạt động được tổ chức tại gia đình
sẽ là sự củng cố và phát triển cho các hoạt động tại trường.
* Một số hoạt động cụ thể tiến hành tại gia đình:
1. Tăng cường kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho TTK
2. Phát triển mối quan hệ với mọi người
3. Tập cho trẻ bắt chước.
4. Cần tạo điều kiện để trẻ được lắng nghe, và được giải thích với những hình
ảnh cụ thể, sinh động qua vật thật, tranh ảnh…
5. Lựa chọn đồ chơi cho trẻ
6. Tổ chức trò chơi cho trẻ
7. Sử dụng các phương tiện máy móc một cách khéo léo, hợp lý. Việc bỏ mặc
trẻ với các phương tiện nghe nhìn là một điều hết sức tai hại.
* Trong việc dạy trẻ, một điều rất quan trọng là cần kết hợp giữa sự vui thích và
yêu cầu. Nếu muốn trẻ học tốt, trẻ phải có sự vui thích trong khi học (vì vậy việc
hướng dẫn từ ngữ nên thông qua các trò chơi là chính, hay phải biến ngay cả
những hoạt dộng bình thường – như ăn uống… cũng trở thành những trò chơi.
3.2. Khảo nghiệm tính khả thi và phù hợp của biện pháp
Để kiểm tra tính phù hợp và khả thi của các biện pháp, chúng tôi đã xin ý kiến
của 30 giáo viên có kinh nghiệm về giáo dục hòa nhập. Nhìn chung, phần lớn các
GV đều cho rằng các biện pháp đề xuất phù hợp và mang tính khả thi cao.
3.4.Tiểu kết chương 3
Trong chương 3, chúng tôi trình bày các biện pháp phát triển kĩ năng giao tiếp
cho HS mắc HCTK học hòa nhập. Mỗi biện pháp đều được chúng tôi trình bày rõ
mục tiêu, nội dung, ý nghĩa giáo dục, tổ chức thực hiện.
Tất cả các biện pháp đề xuất đều hướng đến việc tạo ra một môi trường giao
tiếp thân thiện, tích cực (gia đình, bạn bè, cô giáo) để trẻ có thể tự tin phát huy hết
tiềm năng của bản thân, khắc phục những khó khăn về mặt giao tiếp. Chính vì vậy,



13
chúng tạo nên những tác động tổng hợp và đồng bộ đến quá trình phát triển kĩ năng
giao tiếp cho TTK.
Kết quả khảo nghiệm cho thấy các biện pháp mà đề tài xây dựng đều phù hợp
và mang tính khả thi cao.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua quá trình nghiên cứu lí luận và thực tiễn, chúng tôi rút ra được một số kết
luận sau:
Khó khăn về giao tiếp là một tính chất căn bản của HCTK. Những HS mắc
HCTK khó khăn cả về giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. Nguyên nhân là do trẻ
bị rối loạn khả năng xử lí thính giác khiến cho trẻ khó kết nối thông tin và thiếu khả
năng khái quát dẫn đến ngôn ngữ bị hạn chế. Những trở ngại về mặt sinh lí đó khiến
trẻ cảm thấy không tự tin trong quá trình giao tiếp dẫn đến trẻ thường thụ động
trong quá trình giao tiếp. Thêm vào đó, những người xung quanh không hiểu những
khó khăn đó, không cảm thông, kì thị, xa lánh,… khiến cho trẻ ngày càng mặc cảm,
tự ti, thiếu niềm tin vào người khác,…. Từ đó, trẻ dần rút vào “vỏ tự kỷ”, thích sự
cô lập, tránh giao tiếp với các bạn. Điều này khiến cho quá trình giao tiếp của trẻ
vốn khó khăn lại càng khó khăn hơn. Tuy nhiên, nếu chúng ta hiểu những khó khăn
đó và tạo ra được một môi trường giao tiếp thân thiện, tích cực để hỗ trợ trẻ khắc
phục những khó khăn trên thì trẻ sẽ dễ dang hòa nhập cộng đồng hơn.
- Kết quả khảo sát cho thấy việc rèn luyện và phát triển kĩ năng giao tiếp cho
HS mắc HCTK học hòa nhập đã được quan tâm nhưng vẫn chưa đúng mức, kĩ năng
giao tiếp của một số HS mắc HCTK đã có tiến bộ nhưng vẫn còn ở mức độ thấp.
Công tác tổ chức các hoạt động phát triển kĩ năng giao tiếp cho trẻ chưa có đường
hướng rõ ràng nên chưa thực sự hiệu quả.
- Từ những nghiên cứu lí luận và thực tiễn, chúng tôi đề xuất một số biện pháp
phát triển kĩ năng giao tiếp cho HS mắc HCTK. Đó là: Sử dụng các chiến lược giao
tiếp phù hợp với HS mắc HCTK; Xác định nhiệm vụ chơi, nội dung chơi cho TTK

khi tổ chức hoạt động chơi cho tập thể; Xây dựng vòng bạn bè; Phối hợp với phụ
huynh lên kế hoạch phát triển kĩ năng giao tiếp cho trẻ thông qua sinh hoạt hằng
ngày. Để kiểm chứng tính khả thi và phù hợp của biện pháp chúng tôi đã sử dụng
phương pháp lấy ý kiến chuyên gia và được 100% ý kiến đánh giá là phù hợp và có
tính khả thi.
2. Khuyến nghị
Để việc phát triển kĩ năng giao tiếp cho HS mắc HCTK có hiệu quả, chúng tôi
xin đưa ra một số khuyến nghị sau:


14
* Đối với Sở giáo dục – đào tạo
- Hỗ trợ chính sách cho những GV trong lớp HS mắc HCTK và gia đình của
HS mắc HCTK .
- Tổ chức khám sàng lọc nhằm phát hiện ra những HS mắc HCTK.
- Thường xuyên tổ chức tập huấn cho GV về GDHN cho HS mắc HCTK
- Cung cấp cho các trường tiểu học GV hỗ trợ hòa nhập
* Đối với sở y tế
- Mở các trung tâm học tập cộng đồng nhằm giúp cộng đồng nói chung và
các bậc cha mẹ có con mắc HCTK hiểu rõ hơn về cách phát hiện, chăm sóc, nuôi
dạy TTK.
* Đối với ngành văn hóa thông tin
- Tuyên truyền, phổ biến cho cộng đồng cách phát hiện, nuôi dạy, chăm sóc
HS mắc HCTK bằng cách phát tờ rơi, thông báo trên đài báo.
- Nâng cao nhận thức cộng đồng, giúp họ hiểu rõ về những TTK tránh thái độ
xa lánh, phân biệt đối xử với các em.
* Đối với trường Tiểu học
- Chú trọng, quan tâm hơn đối với việc giảng dạy, giáo dục HS mắc HCTK.
- Tổ chức các buổi trao đổi kinh nghiệm dạy HS mắc HCTK của các GV trong
trường.

* Đối với giáo viên
- Thường xuyên nâng cao kiến thức, kỹ năng, phương pháp nhằm giúp đỡ
phần nào HS mắc HCTK, quan tâm nhiều hơn nữa đến HS này, xây dựng vòng tay
bạn bè, đôi bạn cùng tiến, luôn khuyến khích trẻ khi có những tiến bộ dù chỉ nhỏ
nhất.
- GV nên thiết lập và thực hiện tốt hơn KHGDCN cho HS mắc HCTK, đặc
biệt quan tâm đến việc phát triển kĩ năng giao tiếp cho TTK
* Đối với phụ huynh HS
- Thường xuyên cập nhật thông tin về cách nuôi dạy chăm sóc TTK.
- Thành lập hội phụ huynh có con bị mắc HCTK để có thể trao đổi thông tin,
kinh nghiệm về cách nuôi dạy TTK.
- Phối hợp với GV trong việc GD trẻ. Cần hình thành những kĩ năng cần thiết
tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập và phát triển nhân cách của trẻ.



×