Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Những khó khăn trong giao tiếp của học sinh mắc rối loạn tự kỷ ở các trường tiểu học trên địa bàn Quận Liên Chiểu thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 79 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn ñề tài
Báo của UBBAXH-CARITAS VIỆT NAM về các hoạt ñộng trợ giúp người
khuyết tật ( Tại Hội nghị CBR của Caritas Asia ở Cambodia) cho rằng. Hiện
nay, tỷ lệ trẻ tự kỷ trên thế giới là 1/150 trẻ, trẻ nam mắc nhiều hơn trẻ nữ, trẻ
em thành phố có số lượng mắc gấp ñôi so với trẻ em nông thôn. Số trẻ có dấu
hiệu tự kỷ ñược phát hiện ngày một gia tăng.
Ở Việt Nam, theo TS. Trần Thị Thu Hà và các bác sĩ chuyên môn thấy rằng
mô hình tàn tật của trẻ thay ñổi rất ghê gớm và số lượng trẻ tự kỷ ñang gia tăng.
Từ năm 1985 ñến 1995 chủ yếu là bệnh bại liệt, từ năm 1995 ñến năm 2000 thì
30% là bệnh bại não, từ 2000 trở lại ñây thì trẻ tự kỷ xuất hiện ngày càng ñông,
năm sau cao gấp 2,3 lần năm trước.
Rối loạn tự kỷ (Autism Spectrum Disorders - ASD) ở trẻ em thể hiện bằng
sự sút kém nghiêm trọng và lan tỏa các chức năng tâm thần trên các phương
diện: tương tác xã hội kém phát triển nghiêm trọng, ngôn ngữ phát triển chậm
và lệch lạc bất thường, hành vi và ứng xử nghèo nàn, ñịnh hình, lặp ñi lặp lại
[7]. Những rối loạn này làm cho trẻ không có khả năng hoà nhập cộng ñồng.
Điều ñó cho thấy mức ñộ ảnh hưởng của hội chứng này tới trẻ về mặt thể chất
và tinh thần là rất ñáng ngại. Trong ñó, khó khăn trong giao tiếp là vấn ñề ñầu
tiên.
Giao tiếp là một trong những yếu tố giúp con người tham gia các mối quan
hệ, tạo ra các mối quan hệ xã hội và tạo nên bản chất của con người. Giao tiếp là
một trong những phương thức tồn tại và phát triển cá nhân và xã hội, con người
còn sống thì còn hoạt ñông và giao tiếp. Giao tiếp là cơ sở ñầu tiên, là viên gạch
nền tảng của mọi nhận thức và ñịnh hướng cho việc hình thành nhân cách của
2
trẻ em. Các em giao tiếp ñể tìm hiểu về thế giới xung quanh, thể hiện yêu cầu,
ñòi hỏi, tham gia vào các hoạt ñộng học tập, vui chơi… [3].
Học sinh mắc rối loạn tự kỷ ở tiểu học thường là những trẻ mắc tự kỷ dạng
nhẹ, tức là có những “ nét tự kỷ” hoặc những trẻ ñã ñược can thiệp sớm ở lứa
tuổi mầm non ñược khắc phục những khó khăn của rối loạn tự kỷ nên ñược ñi


học. Đây là học sinh khuyết tật chưa có nhiều người biết ñến nên chúng gặp rất
nhiều thiệt thòi. Những học sinh này chưa có sự ñãi ngộ nào về chính sách giáo
dục vì chúng ñược xem là những ñứa trẻ bình thường. Các em không ñược xã
hội nhìn nhận do tự kỷ gây ra, hơn nữa các em không ñược hưởng một phương
pháp giáo dục phù hợp do giáo viên vẫn chưa thực sự nắm rõ về dạng trẻ này.
Bên cạnh ñó, hầu hết các giáo viên tiểu học chưa có các kiến thức về dạy hòa
nhập nếu có thì cũng chỉ là những lớp tập huấn ngắn hạn. Những học sinh mắc
rối loạn tự kỷ này không chỉ gặp những thiệt thòi kể trên mà các em còn gặp rất
nhiều khó khăn do chứng rối loạn tự kỷ mang lại, trong ñó khó khăn trong giao
tiếp là vấn ñề ñầu tiên.
Theo các nhà nghiên cứu có khoảng 50% trẻ em mắc rối loạn tự kỷ không
bao giờ sử dụng ngôn ngữ nói [11]. Những học sinh này khó khăn cả giao tiếp
ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. Những học sinh này gặp rất nhiều trong ñó có khó
khăn trong giao tiếp. Các em gặp khó khăn cả sử dụng ngôn ngữ và sử dụng
phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ. Các em khó khăn trong việc hiểu lời nói của
người khác, trong việc diễn ñạt các câu nói một cách mạch lạc, ñôi khi chưa rõ
ý, nếu có diễn ñạt ñược thì giọng nói của các em không có âm ñiệu, không nhấn
giọng. Đặc biệt khó khăn trong việc giao tiếp bằng mắt, cử chỉ, ñiệu bộ hay kém
khả năng biểu cảm ngôn ngữ cơ thể làm cho những học sinh này không cảm
nhận ñược người khác ñang nghĩ gì về mình, hài lòng hay không hài lòng và
người khác cũng cảm thấy khó hiểu với chúng. Những khó khăn ñó ñã gây trở
ngại rất lớn trong việc kết bạn, quan hệ xã hội hay tham gia các hoạt ñộng vui
3
chơi, học tập dẫn ñến các em cảm thấy chán học và bỏ học. Bên cạnh ñó, những
khó khăn này làm cho học sinh mắc rối loạn tự kỷ khó khăn khi tham gia xã hội.
Các em trở nên lạc lõng và xã hội cũng trở nên khó hiểu ñối với các em.
Quận Liên Chiểu thành phố Đà Nẵng là ñịa bàn chịu nhiều ảnh hưởng của
chất ñộc màu da cam do chiến tranh, thiên tai bão lụt, ô nhiễm môi trường do
gần khu công nghiệp… nên tỉ lệ học sinh khuyết tật cũng thuộc loại cao của
thành phố Đà Nẵng. Địa bàn có 13 trường tiểu học trong ñó ñã có tới 109 trẻ

khuyết tật ñược học hoà nhập. Hiện nay, trên ñịa bàn vẫn chưa có một cuộc
khảo sát nào về những trẻ có rối loạn tự kỷ và cũng chưa có công trình nào
nghiên cứu về những khó khăn trong giao tiếp của học sinh mắc rối loạn tự kỷ.
Với tất cả những lý do trên, chúng tôi chọn ñề tài: “Những khó khăn trong
giao tiếp của học sinh mắc rối loạn tự kỷ ở các trường tiểu học trên ñịa bàn
Quận Liên Chiểu thành phố Đà Nẵng” làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục ñích nghiên cứu
Nghiên cứu ñề tài này, chúng tôi nhằm mục ñích tìm hiểu những khó khăn
trong giao tiếp của học sinh mắc rối loạn tự kỷ ở các trường tiểu học trên ñịa bàn
quận Liên Chiểu thành phố Đà Nẵng. Từ ñó, ñề xuất những ñịnh hướng can
thiệp giúp ñỡ trẻ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Quá trình giáo dục giáo tiếp của học sinh mắc rối
loạn tự kỷ ở tiểu học.
- Đối tượng nghiên cứu: Những khó khăn trong giao tiếp của học mắc rối
loạn tự kỷ ở các trường tiểu học trên ñịa bàn quận Liên Chiểu thành phố Đà
Nẵng.
4. Giả thuyết khoa học
4
Hiện nay, ở các trường tiểu học trên ñịa bàn Quân Liên Chiểu thành phố Đà
Nẵng có những học sinh mắc rối loạn tự kỷ. Các em gặp rất nhiều khó khăn
trong ñó khó khăn về giao tiếp là vấn ñề ñầu tiên. Các em thường khó khăn khi
sử dụng ngôn ngữ: Khó khăn trong việc hiểu lời nói và diễn ñạt lời nói…. Đặc
biệt các em khó khăn khi sử dụng phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ: tránh giao
tiếp bằng mắt, không có khả năng sử dụng hay ít khi hiểu ngôn ngữ cử chỉ, ánh
mắt, ñiệu bộ. Chính nhưng khó khăn này ñã gây trở ngại rất lớn trong việc kết
bạn, quan hệ xã hội hay tham gia các hoạt ñộng vui chơi, học tập dẫn ñến các
em cảm thấy chán học và bỏ học. Nếu như biết ñược những khó khăn ñó của các
em thì sẽ giúp các em có cơ hội ñể khắc phục và phát triển khả năng giao tiếp.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về giao tiếp của học sinh mắc rối loạn tự kỷ.
- Nghiên cứu những khó khăn trong giao tiếp của học sinh mắc rối loạn tự
kỷ ở các trường tiểu học trên ñịa bàn quận Liên Chiểu thành phố Đà Nẵng từ ñó
ñề xuất những ñịnh hướng can thiệp giúp ñỡ trẻ.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên khách thể là học sinh tiểu học trong
các trường tiểu học Hồng Quang, trường tiểu học Hải Vân, trường tiểu học
Nguyễn Văn Trỗi trên ñịa bàn quận Liên Chiểu thành phố Đà Nẵng.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận
Tiến hành ñọc, phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá, khái quát hoá trong
nghiên cứu các nguồn tài liệu lý luận có liên quan ñến ñề tài nhằm xây dựng cơ
sở lý luận chung cho vấn ñề nghiên cứu.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
5
6.2.1. Phương pháp ñiều tra bằng Ankét
- Mục ñích :
+ Tìm hiểu nhận thức của giáo viên và học sinh bình thường về vấn ñề giao
tiếp của học sinh mắc rối loạn tự kỷ.
+ Tìm hiểu nhu cầu giao tiếp của học sinh mắc rối loạn tự kỷ.
- Nội dung : Xây dựng phiếu câu hỏi cho giáo viên, học sinh bình thường
và học sinh mắc rối loạn tự kỷ ñiều tra những khó khăn trong giao tiếp dành cho
học sinh mắc rối loạn tự kỷ.
- Đối tượng : Giáo viên, học sinh mắc rối loạn tự kỷ, học sinh bình thường.
6.2.2. Phương pháp quan sát
- Mục ñích : Đây là phương pháp hỗ trợ cho phương pháp ñiều tra bằng
ankét nhằm thu thập thông tin về những khó khăn trong giao tiếp của học sinh
mắc rối loạn tự kỷ.
- Nội dung : Quan sát những khó khăn về giao tiếp của học sinh mắc rối

loạn tự kỷ. Cách giao tiếp của chúng.
- Đối tượng : Học sinh mắc rối loạn tự kỷ.
6.2.3. Nhóm phương pháp phỏng vấn
- Mục ñích : Đây là phương pháp hỗ trợ cho phương pháp ñiều tra bằng
ankét nhằm tìm hiểu sâu hơn về những khó khăn của học sinh mắc rối loạn tự kỷ
.
- Nội dung : Trao ñổi với giáo viên và trẻ nhằm xác ñịnh hóa những thông
tin thu ñược từ phương pháp nghiên cứu bằng ankét và phương pháp quan sát.
- Đối tượng : Giáo viên, học sinh mắc rối loạn tự kỷ, bạn bè của học sinh
mắc rối loạn tự kỷ.
6.2.4. Nhóm phương pháp thống kê toán học
6
Phương pháp thống kê toán học ñược sử dụng ñể xử lý các kết quả nghiên
cứu về ñịnh lượng .
7. Cấu trúc khóa luận.
Ngoài phần mở ñầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, khóa
luận gồm 2 chương nội dung chính.
Chương 1: Cơ sở lý luận về vấn ñề giao tiếp của học sinh mắc rối loạn tự
kỷ.
Chương 2: Những khó khăn trong giao tiếp của học sinh mắc rối loạn tự kỷ
ở các trường tiểu học trên ñịa bàn quận Liên Chiểu thành phố Đà Nẵng.

















7
NỘI DUNG
Chương 1
Cơ sở lý luận về vấn ñề giao tiếp của học sinh mắc rối loạn tự kỷ
1.1. Tổng quan vấn ñề nghiên cứu
Trên thế giới có rất nhiều công trình nghiên cứu về giao tiếp :
Giữ thế kỷ XIX, trong bản thảo Kinh tế - Triết học 1884, Các Mác (1818-
1883) ñã bàn về nhu cầu xã hội giữa con người với con người trong hoạt ñộng
xã hội và tiêu dùng, xã hội loại người phải giao tiếp thực sự với nhau. Mác chỉ
ra rằng trong sản xuất vật chất và tái tạo con người, buộc con người phải giao
tiếp với nhau. Con người chỉ trở thành con người khi có những quan hệ thực
hiện với những người khác, có giao tiếp trực tiếp với người khác.
Đến thế kỷ XX, vấn ñề giáo tiếp càng ñược các nhà triết học, tâm lý học, xã
hội học quan tâm nhiều hơn, Gmit (1863 -1931) ñã ñưa ra thuyết qua lại tượng
trương ông khẳng ñịnh vai trò của giao tiếp ñối với sự tồn tại của con người.
Mác Tinbubow (1876- 1965) trong một tác phẩm nổi tiếng của mình dưới nhan
ñề: “Tôi và bạn” ñã cho rằng tồn tại là ñối thoại, sau trở thành nguyên tắc ñối
thoại, góp phần phát triển lý luận về giao tiếp.
Nghiên cứu ñặc ñiểm giao tiếp của trẻ em ( A.V. Đapôrôdet, M.I.Lixina,
G.A.Uruntaeva,A.G.Ruxcaia,…) Theo ñó, trong suốt lứa tuổi tiểu học hình
thành hai hình thức giao tiếp cơ bản: giao tiếp giữa trẻ em và người lớn và giao
tiếp giữa trẻ em với bạn cùng tuổi và khác tuổi. Dựa vào ñộng cơ giao tiếp của
trẻ M.I.Lixina và một số tác giả ñã hệ thống các dạng thức giao tiếp của trẻ em

với người lớn và giao tiếp của trẻ em với trẻ em [12].
Các tác giả Tara Winterton, David warden, Rae Pica quan tâm ñến vấn ñề
hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ nhỏ. Họ ñã chỉ ra những yếu tố cơ bản có
ảnh hưởng ñến sự phát triển giao tiếp của trẻ nhỏ như: hoàn cảnh, môi trường,
8
gia ñình, các cộng ñồng cũng như ñặc ñiểm cơ quan phát âm và trạng thái cơ thể
trẻ. Theo họ, vấn ñề quan trọng là tìm kiếm, quan sát và sử dụng các yếu tố trên
ñể luyện tập kỹ năng giao tiếp cho trẻ.
Các tác giả L.M. sipisưna, O.V.Dairinxcaia,T.A.Nhicôlôva ñặc biệt quan
tâm ñến xúc cảm, tình cảm trong quá trình phát triển giao tiếp cho trẻ và ñã ñưa
ra phương pháp “cùng – xúc - cảm – trong – tình - huống”. Điều quan trọng ở
ñây là nhà giáo dục phải biết ñặt mình vào vị trí của trẻ ñể từ ñó phân tích phản
ứng của trẻ (nghĩa là phân tích tình cảm, ý nghĩ, hành vi có thể xảy ra) trong tình
huống cụ thể ñể tìm biện pháp giáo dục phù hợp.
Ở Việt Nam, vấn ñề giao tiếp mới ñược nghiên cứu từ cuối những năm
1970 ñến những năm 1980. Nghiên cứu khía cạnh tâm lý giao tiếp của trẻ em,
vấn ñề ñặc ñiểm giao tiếp, hình thành nhu cầu và kỹ năng giao tiếp của trẻ ñược
phản ánh trong các công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Ánh Tuyết,
Nguyễn Thạc, Ngô Công Hoàn, Lê Xuân Hồng, Nguyễn Xuân Thức [3]. Qua
ñó, các tác giả ñã cho thấy vai trò của nhóm bạn bè trong mô hình hoạt ñộng ở
lớp; ñặc ñiểm giao tiếp của trẻ; việc hình thành tính tích cực giao tiếp của trẻ.
Tóm lại, nhiều công trình nghiên cứu lí luận và thực tiễn của các tác giả
trong và ngoài nước ñều ñã ñề cập ñến nhiều khía cạnh giao tiếp của trẻ em lứa
tuổi tiểu học. Tuy nhiên chưa có công trình nào ñề cập vấn ñề những khó khăn
về học của học sinh mắc rối loạn tự kỷ tại các trường tiểu học trên ñịa bàn quận
Liên Chiểu – Thành phố Đà Nẵng.
1.2. Một số vấn ñề chung về giao tiếp
1.2.1. Khái niệm giao tiếp
Tâm lý học ñại cương, tâm bệnh học và tâm lý học xã hội coi giao tiếp như
một quá trình hoạt ñộng, một quá trình tiếp xúc tâm lý, tiếp xúc nhân cách hoặc

một quá trình xác lập quan hệ xã hội.
9
- Giao tiếp là hoạt ñộng xác lập, vận hành quan hệ giữa người với người ñể
thực hiện hóa các quan hệ xã hội giữa người với nhau ( TS. Phạm Minh Hạc,
1998).
- Giao tiếp là một quá trình quan hệ tác ñộng qua lại giữa các cá thể, là quá
trình thông tin quan hệ giữa con người với con người, là quá trình hiểu biết lẫn
nhau, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau, trao ñổi cảm xúc với nhau (
B.Parughin,1971).
- Giao tiếp là sự truyền ñi, phát ñi một thông tin từ một người hay một
nhóm người cho một người hay một nhóm người khác, trong mối quan hệ tác
ñộng lẫn nhau (tương tác). Thông tin hay thông ñiệp ñược người phát và người
nhận giải mã, cả hai bên ñều vận dụng một mã chung (Nguyễn Khắc Viện,
2001).
Tóm lại : Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người và người, thông qua ñó
con người trao ñổi với nhau về thông tin, về cảm xúc tri giác lẫn nhau và ảnh
hưởng tác ñộng qua lại lẫn nhau. Hay nói khác ñi giao tiếp xác lập và vận hành
quan hệ người – người, hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa chủ thể này và
chủ thể khác.
1.2.2. Chức năng của giao tiếp
a) Nhóm chức năng xã hội
- Chức năng thông tin: Chức năng thông tin ñược biểu hiện dưới khía cạnh
truyền thông (trao ñổi thông tin) của giao tiếp: Qua giao tiếp con người trao ñổi
cho nhau những thông tin nhất ñịnh.
- Chức năng tổ chức phối hợp hoạt ñộng: Trong một tổ chức, một công việc
thường do nhiều người thực hiện. Để có thể hoàn thành công việc một cách tốt
ñẹp, những bộ phận những con người này phải thống nhất với nhau, tức là phối
hợp với nhau một cách nhịp nhàng. Muốn vậy, họ phải tiếp xúc với nhau, trao
10
ñổi bàn bạc, phân công nhiệm vụ cho từng bộ phận, từng người phổ biến quy

trình, cách thức thực hiện công việc và quá trình thực hiện phải có những “tín
hiệu” ñể mọi người hành ñộng một cách thống nhất.
- Chức năng ñiều khiển: Chức năng ñiều khiển ñược thực hiện ở khía cạnh
ảnh hưởng tác ñộng qua lại của giao tiếp. Trong giao tiếp chúng ta ảnh hưởng,
tác ñộng ñến người khác, và ngược lại người khác cũng ảnh hưởng, tác ñộng ñến
chúng ta bằng nhiều hình thức khác nhau như : thuyết phục, ám thị…
- Chức năng phê bình và tự phê bình : Trong xã hội mỗi người là một
“chiếc gương”. Giao tiếp với họ chính là chúng ta soi mình trong chiếc gương
ñó. Từ ñó cúng ta thấy ñược những ưu ñiểm, những thiếu sót của mình và tự sửa
chữa hoàn thiện bản thân.
b) Nhóm chức năng tâm lý
- Chức năng cảm xúc: Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta cần những xúc
cảm cần ñược bộc lộ. Những niềm vui hay nỗi buồn, sung sướng hay ñau khổ,
lạc quan hay bi quan, chúng ta muốn ñược người khác cùng chia sẽ. Chỉ trong
giao tiếp chúng ta mới tìm thấy sự ñồng cảm, cảm thông và giải tỏa ñược cảm
xúc của mình.
- Chức năng ñộng viên, khích lệ: Chức năng ñộng viên, khích lệ của giao
tiếp liên quan ñến lĩnh vực cảm xúc trong ñời sống tâm lý con người. Trong giao
tiếp con người con khơi dậy ở nhau những cảm xúc.
- Chức năng thiết lập, phát triển, củng cố các mối quan hệ: Giao tiếp không
chỉ là hình thức biểu hiện các mối quan hệ giữa con người với con người, mà
còn là cách thức biểu hiện các mối quan hệ mới, phát triển củng cố các mối quan
hệ ñã có.
- Chức năng hình thành, phát triển tâm lý nhân cách: Giao tiếp là ñiều kiện
ñể tâm lý, nhân cách của các nhân phát triển bình thường. Trong quá trình giao
11
tiếp, nhiều phẩm chất của con người, ñặc biệt là các phẩm chất ñạo ñức ñược
hình thành phát triển.
Như vậy, giao tiếp có nhiều chức năng quan trọng. Trong cuộc sống của
mỗi chúng ta, khi các quan hệ giao tiếp cơ bản không thực hiện ñược ñầy ñủ các

chức năng này thì ñiều này không những sẽ ảnh hưởng tiêu cực ñến cuộc sống
và hoạt ñộng, mà còn ñể lại những dấu ấn tiêu cực trong sự phát triển tâm lý,
nhân cách của mỗi chúng ta.
1.2.3. Phương tiện giao tiếp
Giao tiếp là một quá trình xã hội thường xuyên bao gồm các ứng xử rất ña
dạng và phong phú, thể hiện qua ngôn ngữ nói và viết, qua nét mặt, cử chỉ, tư
thế, giọng nói, trang phục, cách sử dụng không gian trong giao tiếp… Đó là một
hệ thống toàn vẹn, không có sự tách rời giữa biểu hiện ngôn ngữ và phi ngôn
ngữ trong giao tiếp.
1.2.3.1. Giao tiếp ngôn ngữ
Giao tiếp ngôn ngữ là sự giao tiếp ñược tiến hành thông qua hệ thống tín
hiệu thứ hai: lời nói và chữ viết.
Đây là hình thức giao tiếp ñặc trưng cơ bản nhất trong hệ thống giao tiếp xã
hội bởi nó có những chức năng: chức năng thông báo, chức năng diễn cảm và
chức năng tác ñộng.
Giao tiếp ngôn ngữ có thể ñược biểu hiện qua nhiều hình thức. Trong giao
tiếp, tuỳ vào ñối tượng, mục ñích, hoàn cảnh… mà người ta sử dụng các hình
thức biểu ñạt ngôn ngữ khác nhau. Theo như cách chia của trường phái Palo
Alto thì có giao tiếp chỉ ñịnh và giao tiếp loại suy, hay bác sĩ Nguyễn Khắc Viện
thì lại gọi là giao tiếp nói chỉ (chỉ ñịnh) và giao tiếp nói ví (loại suy). Trong
tiếng Việt, tương ứng với các cách gọi như trên ta còn có thể gọi là hiển ngôn
(nói chỉ) hay hàm ngôn (nói ví).
12
- Kiểu chỉ nói theo những quy ước rõ ràng ngôn ngữ nói hay viết với từ
vựng, ngữ nghĩa nhất ñịnh. Ngôn ngữ toán học, vi tính, chữ người mù thuộc kiểu
này.
- Kiểu ví vận dụng giọng nói, tư thế, cử chỉ tức những kênh cận ngôn ngữ
hay phi ngôn ngữ diễn tả tình cảm, và những yếu tố chủ quan, quan hệ cảm xúc
giữa hai bên ñối thoại.
- Ngôn ngữ tình thái nhằm phản ánh khía cạnh tâm lý, xã hội của chủ thể,

giúp cho ñối tượng hiểu ñược tốt hơn ý nghĩa của nội dung thông tin. Ngôn ngữ
tình thái phản ánh thái ñộ của người nói ñối với thông tin mình nói ra, cách
người ñó ñánh giá tính hiện thực hay không hiện thực, mức ñộ của tính xác thực,
tính tất yếu, tính khả năng, tính chất mong muốn hay ñáng tiếc của ñiều thông
báo.
Việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp còn phụ thuộc vào hoàn cảnh giao
tiếp, chủ thể và ñối tượng giao tiếp cũng như mối quan hệ giữa họ.
1.2.3.2. Giao tiếp phi ngôn ngữ
Giao tiếp phi ngôn ngữ ñược thể hiện thông qua sự vận ñộng của cơ thể như
cử chỉ, tư thế, nét mặt; thông qua cách trang phục hoặc tạo ra khoảng không gian
nhất ñịnh khi tiếp xúc.
Giao tiếp phi ngôn ngữ ra ñời trước giao tiếp ngôn ngữ, có cội nguồn sinh
học dựa trên cơ sở hành vi bản năng gắn liền với quá trình tiến hoá, di truyền từ
thế giới ñộng vật. Trong giao tiếp phi ngôn ngữ, không phải lúc nào cũng có sự
tham gia của ý thức, vì thế nên qua hình thức giao tiếp này người ta thường bộc
lộ chân thật các cảm nghĩ, thái ñộ, ý kiến… của mình, tuy nhiên lại không dễ
hiểu ñược chúng. Đây là kiểu giao tiếp ñược thể hiện thông qua sự vận ñộng của
cơ thể như cử chỉ, tư thế, nét mặt; thông qua sự vận ñộng của cơ thể như cử chỉ,
tư thế, nét mặt.
13
Giao tiếp phi ngôn ngữ có hai chức năng cơ bản ñó là:
- Chức năng biểu hiện trạng thái cảm xúc nhất thời: thông qua nét mặt, ñiệu
bộ, giọng nói… chủ thể giao tiếp biểu hiện các tâm tư, sắc thái trạng thái cảm
xúc khác nhau, các trạng thái cảm xúc này lan truyền sang ñối tượng giao tiếp,
làm ảnh hưởng rất lớn ñến ñối tượng giao tiếp.
- Chức năng biểu hiện các ñặc trưng cá nhân: Thông qua “ngôn ngữ cơ thể”
như cử chỉ, ánh mắt, giọng nói, ñiệu bộ, trang phục…một cách vô tình hay hữu
ý, chủ thể giao tiếp nhận biết ñược ñối tượng giao tiếp của mình là ai, tính cách
như thế nào, trình ñộ văn hóa, nghề nghiệp, ñịa vị xã hội…của họ ra sao.
Như vậy, nếu chúng ta biết cách quan sát kỹ lưỡng, học ñược một số kỹ

năng sử dụng hiệu quả cử ñộng cơ thể cũng như không gian… thì hiệu quả giao
tiếp sẽ ñược nâng lên rất nhiều. Qua giao tiếp phi ngôn ngữ, chúng ta hoàn toàn
có thể nhận ra ñược tính cách, tâm trạng hay vị trí xã hội của một người dù ta
mới tiếp xúc lần ñầu. Giao tiếp phi ngôn ngữ ñã và ñang ñược sự quan tâm
nghiên cứu của rất nhiều nhà khoa học thuộc nhiều trường phái tâm lý hội trên
thế giới.
1.3. Đặc ñiểm giao tiếp của học sinh mắc rối loạn tự kỷ.
1.3.1. Khái niệm học sinh mắc rối loạn tự kỷ.
Năm 1934, Kanner ñã ñưa ra ñịnh nghĩa trẻ tự kỷ là những trẻ không tạo
lập mối quan hệ với con người, thường có thái ñộ bàng quan, thờ ơ với mọi
người xung quanh, có biểu hiện chậm nói chủ yếu giao tiếp qua các cử chỉ ñôi
khi có vẽ kỳ dị, cùng các hoạt ñộng vui chơi ñơn giản, mang tính lặp ñi lặp
lại.[7]
Năm 1969, Rutter ñã ñưa ra 4 ñặc trưng chủ yếu của tự kỷ:
- Thiếu quan tâm và ñáp ứng trong quan hệ xã hội.
- Rối loạn ngôn ngữ: Từ mức ñộ không có lời ñến lời nói lập dị
14
- Hành vi, hành ñộng dị thường: Từ mức ñộ chơi hạn chế, cứng nhắc cho
ñến khuân mẫu hành vi phức tạp mang tính nghi thức và thúc ép
- Khởi phát sớm trước 30 tháng
Định nghĩa theo DSM-IV-TR: tự kỷ nằm trong nhóm các rối loạn phát triển
lan toả (PDD: Pervasive Developmental Disorders): Là một nhóm hội chứng
ñược ñặc trưng bởi suy kém nặng nề và lan toả trong những lãnh vực phát triển:
tương tác xã hội, giao tiếp và sự hiện diện của những hành vi và các ham
thích rập khuôn [8].
Như vậy có nhiều khái niệm về trẻ tự kỷ. Tuy nhiên các khái niệm này
không ñối lập nhau mà bổ sung cho nhau ñể ñưa ñến khái niệm hoàn chỉnh về
trẻ tự kỷ.
Theo chúng tôi, học sinh mắc rối loạn tự kỷ là những học sinh có những rối
loạn phát triển lan tỏa phức tạp ở những lĩnh vực sau: Tương tác xã hội, ngôn

ngữ, hành vi ñịnh hình lặp ñi lặp lại, rối loạn cảm giác. Có 5 phân nhóm chuẩn
ñoán trong phổ tự kỷ: Tự kỷ ñiển hình, hội chứng Aperger, Rối loạn Rett, rối
loạn phân rã ở trẻ thơ, rối loạn phát triển lan tỏa – không ñiển hình.
1.3.2. Đặc ñiểm phát triển của học sinh mắc rối loạn tự kỷ
1.3.2.1. Cảm giác, tri giác.
Phản ứng với các cảm giác gần kề: Đây là các cảm giác sờ mó, nếm, ngửi,
cảm giác về rung ñộng, ñau ñớn, nóng lạnh. Tất cả các cảm giác này ñều có sự
tiếp xúc với thân thể, khác với các cảm nhận từ xa như nhìn và nghe. Trẻ tự kỷ
hoặc rất nhạy cảm hoặc kém nhạy cảm với mọi thứ xung quanh. Trẻ có thể liếm
và ngửi người khác như một món ñồ ăn. Một số trẻ khác thì lại có phản ứng rõ
rệt khi bị người khác ñụng ñến mình và có ai tỏ ý muốn vuốt ve thì chúng lại lùi
ra xa, có trẻ lại tỏ ra quá nhạy cảm với một số mùi, có trẻ lại rất ghét khi ñụng
chạm ñến quần áo của chính mình. Cũng có những trẻ không cảm thấy nóng hay
15
lạnh và trong mùa nóng vẫn có thể mặc áo len hoặc ăn mặc phong phanh khi trời
lạnh. Một trong những ñặc ñiểm ñáng ngạc nhiên nhất là trẻ tỏ ra không biết
ñau, có nhiều trẻ bị gãy xương, xưng răng, ñau bụng hay bị các vết trầy xước
cũng không hề kêu ca gì, khi chúng tự mình làm ñau thì cũng không hề chạy ñến
người lớn ñể ñược chăm sóc. Ngược lại, cũng có trẻ lại quá nhạy cảm với các
vết thương, chỉ hơi một chút xíu là cũng ñủ ñể trẻ la toáng lên, ñiều này gây trở
ngại rất lớn cho những người chăm sóc trẻ.
1.3.2.2. Tư duy, tưởng tượng:
Trí tưởng tượng: Một ñứa trẻ tự kỷ không sử dụng trí tưởng tượng của nó
khi chơi với ñồ chơi và thay vì nhận thức những ñồ vật trong tình trạng toàn vẹn
của chúng, thì trẻ có thể quá chú ý ñến một chi tiết nhỏ của một món ñồ chơi,
một con người hay một ñồ vật nào ñó. Chẳng hạn khi chơi với một bộ phận nhỏ,
như cái bánh xe hay bộ phận giảm xóc hơn là dùng nó như một chiếc xe lửa ñể
chơi.
Một trẻ tự kỷ quả là có ñeo ñuổi những hoạt ñộng thu hút trí tưởng tượng,
như ñọc sách chẳng hạn, song những sinh hoạt này có tính lặp ñi lặp lại và rập

khuôn. Thí dụ: trẻ có thể ñọc ñi ñọc lại chỉ một cuốn sách duy nhất hay cứ xem
mãi một cuốn phim...
Các trẻ mắc rối loạn tự kỷ hầu như không biết chơi các trò chơi giả vờ và
các hoạt ñộng tưởng tượng một cách giống như các trẻ khác. Chúng cầm các ñồ
chơi hay các ñồ vật khác lên chỉ là ñể có cảm giác về sự ñụng chạm, hay số khá
hơn có thể sử dụng các món ñồ chơi công cụ thu nhỏ như bộ làm bếp, hay cho
xe lửa chạy trên ñường ray, nhưng cũng rất ñơn giản ở một số ñộng tác.
1.3.2.3. Tương tác xã hội
Do không quan tâm với mọi thứ xảy ra ở xung quanh nên kỹ năng tương
tác xã hội của trẻ tự kỹ là rất kém. Điều này làm giảm khả năng giao tiếp của trẻ
16
rất nhiều vì môi trường xã hội là môi trường quan trọng ñể phát triển các kỹ
năng giao tiếp. Khó hoà nhập với các bạn khi ñến trường. Trẻ ghét làm theo ý
người khác và thường chúng chống ñối một cách quyết liệt. Chúng luôn muốn
mọi ý thích của mình ñược ñáp ứng ngay lập tức. Vì vậy sự tương tác của trẻ chỉ
mang tính yêu cầu chứ không phải là nhằm ñể bày tỏ cảm xúc hay chia sẻ kinh
nghiệm.
Thực ra, các chứng tật về tướng tác xã hội ở trẻ Tự kỷ rất ña dạng và phức
tạp, nhưng ñại ñể ta có thể xếp vào 4 loại hình chính, tuy rằng không có một
phạm vi rõ rệt.
a) Nhóm ñối tượng xa lánh mọi người:
Những trẻ này thường có biểu hiện coi như mọi người không tồn tại. Khi có
ai gọi, trẻ không phản ứng, có ai nói với mình trẻ cũng không trả lời, trên khuôn
mặt hầu như không biểu lộ cảm xúc nào, trừ những lúc trẻ giận dữ, buồn hoặc
vui cực ñộ. Trẻ có thể nhìn bạn rất kỹ hoặc lờ ñi, chỉ liếc qua một cái, nếu chạm
tay vào người trẻ thì nó co lại. Nếu trẻ muốn lấy một vật gì thì thường nắm lấy
mu bàn tay hay cách tay của người lớn mà không ñặt tay vào lòng bàn tay họ,
sau ñó kéo họ ñến gần vật mà nó muốn lấy, khi ñã ñược như ý, trẻ lại lờ họ ñi.
b)Nhóm ñối tượng bị ñộng:
Đây là loại ít gặp nhất, các trẻ loại này không hoàn toàn tách rời khỏi người

lớn. Trẻ chấp nhận việc tiếp xúc, không xa lánh nhưng không chủ ñộng, và cũng
như nhóm trẻ trên, trẻ ít giao tiếp qua ánh mắt.
Khi còn nhỏ, trẻ rất dễ bảo nên các trẻ khác cũng thích chơi với nó. Tuy
nhiên, nó chỉ thích hợp với những trò chơi mà chúng là người ñược chăm sóc
như trò chơi mẹ con, bác sĩ và bệnh nhân, khi ñổi qua các trò chơi tích cực, trẻ
dễ dàng bị loại ra vì không có vai trò nào thích hợp.
17
Nói chung, dạng trẻ này ít có vấn ñề hơn các nhóm trẻ Tự kỷ khác, tuy
nhiên khi lớn hơn chúng vẫn có thể bị rối nhiễu nặng hơn nếu không nhận ñược
sự chăm sóc trong lúc còn bé.
c) Nhóm ñối tượng hoạt ñộng kỳ hoặc:
Đứa trẻ thuộc nhóm này thường tỏ ra tích cực trong việc tiếp cận người
khác, thường là ñối với những người hay chăm sóc mình, luôn luôn ñòi hỏi theo
yêu cầu của mình mà không hề chú ý ñến thái ñộ hay phản ứng của người khác.
Khi tiếp xúc, trẻ thường nhìn chằm chằm vào người ñối diện hay có khi ôm thật
chặt. Khi không ñược chú ý như ñòi hỏi, trẻ trở nên cáu gắt hay hung hãn.
Nhóm này hơi khó chuẩn ñoán vì các kiểu tiếp cận tích cực của trẻ dễ khiến
người ta lầm lẫn là trẻ không có vấn ñề về tương tác xã hội.
d) Nhóm ñối tượng quá hình thức, khoa trương:
Kiểu hành vi này thường chỉ xuất hiện ở tuổi thanh niên, thường phát triển
ở những ñối tượng có khả năng cao nhất và nói năng lưu loát. Các ñối tượng này
có cách ứng xử lễ ñộ và mang tính hình thức. Họ tỏ ra cố gắng trong các cách
ứng xử, và thường bám một cách cứng nhắc vào các nguyên tắc giao tiếp. Thực
ra thì họ không hiểu rõ các nguyên tắc này, vì thế trong các tình huống cần sự
linh hoạt, biến ñổi ñi chút ít thì họ dễ dàng phạm phải những sai lầm, nhiều khi
rất sơ ñẳng.
Trong các nhóm nhỏ hơn thì thường cho thấy việc không nắm vững các ý
nghĩa và cảm xúc của người khác, ngay cả khi các trẻ này muốn tỏ ra mình là
người tử tế và muốn giúp người khác.
1.3.2.5. Đặc ñiểm hành vi.

a) Hành vi ñịnh hình:
Theo Kanner, hành vi ñịnh hình là biểu hiện ñiển hình của trẻ tự kỷ. Qua
quan sát lâm sàng cho thấy TTK có những hành vi rập khuôn, lặp ñi lặp lại: Trẻ
18
thích ñi ñi lại lại trong phòng, búng ngón tay, xoay ñồ vật, và ñứng dậy nhảy tới
nhảy lui từ chân sau lên chân trước; Thích bật tắt các nút ñiện hay ñiện
tử….Những trẻ khác nhau sở thích về các hành vi ñịnh hình khác nhau.
b) Không thích sự thay ñổi.
Hầu như TTK muốn tất cả mọi thứ phải quen thuộc, gần gũi, trẻ rất ghét sự
thay ñổi, xáo trộn từ những ñồ dùng cá nhân, ñồ dùng học tập cho ñến nơi chốn
sinh hoạt hàng ngày. Đối với TTK, sự không quen thuộc ñồng nghĩa với sự thiếu
an toàn, trẻ sẽ cảm thấy bất an khi có một người lạ, ñồ vật lạ hay ñến một nơi xa.
Do ñó, việc báo trước cho trẻ chuẩn bị tư tưởng ñể ñón nhận một ñiều mới lạ là
một việc hết sức quan trọng.
c) Thiếu nhạy cảm hoặc quá nhạy cảm.
Ngày nay, những chuyên gia dạy TTK rất quan tâm ñến giác quan của trẻ.
Theo quan sát của các chuyên gia, hầu hết TTK ít nhiều ñều có vấn ñề về giác
quan, biểu hiện các trẻ hay ñưa các ñồ vật lên ngửi, liếm. Các rối loạn khác như
ăn muối không thấy mặn, ăn chanh không chua, quay tròn lâu không chóng mặt,
thích leo trèo, thích lộn ñầu xuống ñất, bịt tai khi nghe thấy âm thanh thông
thường.
d) Những gắn bó bất thường
TTK ở một giai ñoạn nào ñó có những gắn bó với ñồ vật theo cách không
bình thường như: hàng ngày chỉ sưu tầm các tờ báo , vở chai, ñồ hộp, tò lịch, sợi
dây, cọng cỏ…TTK thích những ñồ vật trong sinh hoạt gia ñình như: chén, bát,
xoong…nhưng hoàn toàn không thích ñồ chơi bình thường.
e) Hành vi gây phiền toái nơi cộng ñồng.
TTK thường ít quan tâm ñến chuẩn mực của xã hội, muốn làm theo sở thích
cá nhân nên rất dễ có những hành vi trái ngược với sự mong ñợi của người khác
như: la khóc khi người lớn không ñáp ứng sở thích của trẻ, chụp nhanh những

19
ñồng tiền từ tay nhân viên bán hàng hay món ñồ chơi từ tay ñưa trẻ bên cạnh.
Mặc dù trẻ có những hành vi gây phiền toái nơi cộng ñồng nhưng theo các
chuyên gia nghiên cứu về TTK chúng ta vẫn nên cho trẻ ñến nơi cộng ñồng.
Điều ñó giúp trẻ hòa nhập với mọi người và lâu dài sẽ có lợi cho sự phát triển
của trẻ.
f) La hét, giận dữ
TTK có những sở thích, thói quen kỳ lạ nên trẻ thường ứng xử không ñúng
với những chuẩn mực xã hội thông thường. Khi người lớn thấy vậy và ngăn
chăn hành vi bất thường ñó sẽ làm trẻ khó chịu và có những hành vi nỗi cáu gây
hấn. Đồng thời do TTK gặp khó khăn trong ngôn ngữ, không diễn ñạt ñược ý
nghĩa của mình ra ngoài nên người lớn không hiểu trẻ. Vì vậy, sự khó chịu của
trẻ xuất hiện khá thường xuyên so với trẻ bình thường.
g) Những hành vi liên quan khác
Những cá nhân bị tự kỷ cũng có thể phát triển những triệu chứng ña dạng
khác nhau. Những rối loạn tinh thần xuất hiện bao gồm những rối loạn tăng
ñộng kém chú ý, loạn tâm thần, sự buồn chán, rối loạn ám ảnh cưởng bức và
những lối loạn lo âu khác. Những cá nhân bị tự kỷ cũng có thể có những biểu
hiện những hành vi phá phách. Trẻ có thể tấn công lại bản thân hay những người
khác.
1.3.2.6. Thể chất
Trẻ tự kỷ có sự phát triển thể chất theo ñường lối rõ ràng như những trẻ
bình thường khác và phù hợp với lứa tuổi. Thậm chí giữa trẻ bình thường và trẻ
tự kỷ ta không thể phân biệt ñược sự khác nhau về thể chất giữa hai trẻ này.
Không giống như các trẻ mắc các tật khác như: khiếm thính, khiếm
thị...có những ñặc ñiểm nổi bật về sự phát triển thể chất khác với trẻ bình
thường. Do nguyên nhân gây ra các khuyết tật này là do bẩm sinh hay di truyền
20
ảnh hưởng tới não bộ gây nên sự phát triển không bình thường về thể chất của
trẻ.

Với trẻ tự kỷ ngoài sự phát triển không bình thường về ngôn ngữ, hành vi
và trí tuệ thì thể chất của các em phát triển hoàn toàn bình thường. Đó là những
ñứa trẻ nhìn bề ngoài không ai nói các em mang trong mình loại tật nào cả, và
khi tiếp xúc với các em ta mới phát hiện ñược sự không bình thường ở các em.
Vì vậy mà khi trưởng thành vẫn có khả năng lập gia ñình và tìm kiếm việc
làm. Nhưng vì nhìn bề ngoài của họ bình thường nên người ngoài khó có thể
chấp nhận và thông cảm với khuyết tật của họ.
1.3.3. Đặc ñiểm giao tiếp của học sinh mắc rối loạn tự kỷ.
Trẻ tự kỷ mức ñộ nhẹ
- Khả năng nói mô phạm rất ñều hoặc quá to.
- Thường lặp ñi lặp lại trong khi giao tiếp và không quan tân ñến hứng thú
của người khác,
- Rất hạn chế trong hiểu ngôn ngữ cơ thể hoặc biểu cảm bằng mặt
- Nói quá nhiều về những sở thích riêng, không quan tâm ñến sở thích của
người khác
Trẻ tự kỷ mức ñộ vừa
- Sự phát triển ngôn ngữ chậm hoặc hạn chế . Khoảng 5- 20 giây sau mới
phản ứng lại
- Các kỹ năng hội thoại rất nghèo nàn
- Không hiểu cách chuyển lượt
- Hạn chế trong việc hiểu lộ qua mặt
- Tránh giao tiếp bằng mắt
- Hạn chế trong việc hiểu ngôn ngữ cơ thể
21
Trẻ tự kỷ mức ñộ nặng
- Không dùng những giao tiếp có nghĩa
- Lặp ñi lặp lại một số từ và tên. Một số trẻ nhắc lại những gì chúng nghe
thấy
- Rất ít biểu hiện tình cảm trên mặt và ít hoặc không giao tiếp bằng mắt
- Không hiểu ngôn ngữ cơ thể

1.3.4. Những khó khăn trong giao tiếp của học sinh mắc rối loạn tự kỷ
1.3.4.1. Những khó khăn khi sử dụng ngôn ngữ
a) Diễn ñạt lời nói:
Giọng nói của những học sinh mắc rối loạn tự kỷ không ñược tự nhiên. Gần
như tất cả các các em tự kỷ mà nói ñược thì nói với giọng khác thường hoặc
phẳng lì không lên giọng, xuống giọng. Một số các em giọng không phẳng thì
lại cao giọng một cách bình thường và cũng không biến ñổi trầm bổng. Nếu có
sự thay ñổi thì thì nó lại lên xuống như hát một cách nhịp nhàng chứ không nhấn
mạnh vào chữ cần nhấn mạnh. Điều này cho thấy có lẽ các em tự kỷ không hiểu
ñược giọng nói có ý nghĩa như thế nào vào việc chúng ñịnh bày tỏ.
Các em có thể trả lời câu hỏi kể ñược một câu chuyện ngắn , trong vốn từ
của trẻ có có các từ mô tả, từ sở hữu . Trẻ có thể mô tả các vật , sự giống nhau
và khác nhau của chúng mô tả cách thức làm ra vật như thế nào ...Các câu hỏi
cái gì? Làm như thế nào? ở ñâu? Các em sử dụng và có thể trả lời ñược các câu
hỏi này . Tuy nhiên câu hỏi tại sao? thì trẻ chỉ trả lời ñược trong những tình
huống thường gặp.
b) Cách dùng ngôn ngữ:
Các em tự kỷ dùng lời nói chủ yếu là ñể nhu cầu của chúng ñược thoả mãn
hơn là mục ñích có tính xã hội như nói làm vui lòng người khác... Các em tự kỷ
22
không thể hiểu ñược người ñối diện ñã hiểu hay ñã nghe ñủ chưa và khi nào thì
cần ngưng chủ ñề ñó lại và chuyển sang chủ ñề khác.
c) Nhại lời:
Tính nhại lời là một trong những bất thường hay thấy nhất ở các em tự kỷ.
Đôi lúc trẻ chỉ lặp lại một số lời nói nó vừa nghe ñược mà không có một lý do
nào. Điều này cho thấy trẻ có khả năng nghe và giữ lời nói ñó trong bộ nhớ ngắn
hạn ñủ lâu ñể có thể nhắc lại. Vì thế, ñiều này có nghĩa là ở trẻ có tồn tại hai
trong số các cơ chế cần thiết ñể sử dụng ngôn ngữ. Thế nhưng trẻ có hiểu
không? Có thể không, hoặc có thể chỉ một phần.
1.3.4.2. Những khó khăn khi sử dụng phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ

a) Khó khăn về giao tiếp mắt
Thiếu sự tương tác bằng mắt: học sinh mắc rối loạn tự kỷ không tương tác
bằng mắt. Thiếu tương tác mắt có nghĩa là học sinh mắc rối loạn tự kỷ không
nhận những tín hiệu. học sinh mắc rối loạn tự kỷ có khuynh hướng không nhìn
vào mắt người khác ñể có ñược thông tin, tức nhìn vào sự thay ñổi nét mặt ñể
ñoán biết cảm xúc, quan ñiểm ñể hiểu ñược người ñối diện ñang muốn nói ñiều
gì và họ hài lòng hay không hài lòng qua ánh mắt, nét mặt ấy. Tức học sinh mắc
rối loạn tự kỷ không hiểu ñược những gì mà người khác có thể biểu lộ qua ánh
mắt và nét mặt ñể thể hiện những ý tưởng, nguyện vọng hay hành vi của mình.
Nhưng ngược lại, với những ñồ vật mà chúng thích thì chúng có thể ngồi chơi
hàng giờ mà không chán. Tương tự với chương trình tivi mà chúng yêu thích,
chúng có thể ngồi xem chăm chú suốt cả ngày. Với những thứ mà chúng quan
tâm chúng thể hiện sự chú ý ñặc biệt ñến mức dường như quên hết mọi thứ. Mọi
thứ ở xung quanh cũng không có ảnh hưởng tới chúng, kể cả các âm thanh.
23
Giao tiếp bằng mắt kém làm ảnh hưởng tới giao tiếp xã hội và khả năng bắt
chước lời nói. Vì vậy mà trẻ tự kỷ thường gặp khó khăn trong giao tiếp ñặc biệt
trong việc phát âm cúng như trong việc sử dụng lời nói.
b) Khó khăn trong việc sử dụng cử chỉ, ñiệu bộ
Thường thì học sinh mắc rối loạn tự kỷ dường như không hiểu hoặc thậm
chí không chú ý chút nào và không ý thức ñược những cử chỉ mà người khác
dùng ñể chỉnh ñốn hành vi của chúng. Cử chỉ, ñiệu bộ có thể là hình thức giao
tiếp vô thức nhất sử dụng với trẻ ñể giao tiếp một số thứ với “tín hiệu” cảm xúc
khẳng ñịnh hoặc phủ ñịnh ở mức ñộ cao. Những khó khăn trong việc tiếp nhận
của trẻ thường ñi kèm với việc không có khả năng sử dụng cử chỉ ñể diễn tả suy
nghĩ một cách rõ ràng.
Một số cử chỉ mang tính phổ biến như nét mặt thể hiện sự chán ghét, sự
xấu hổ, sự ñồng cảm, nỗi buồn, sự thân ái ... học sinh mắc rối loạn tự kỷ có vẻ
không nhận ñược giá trị xã hội của ñiều này, và vì thế thường không dùng
những thể hiện mang tính giao tiếp này. Dường như việc thiếu hụt sự ñịnh

hướng bẩm sinh làm cho cử chỉ không ñược sử dụng khi giao tiếp – bởi vì phần
lớn học sinh mắc rối loạn tự kỷ có thể thể hiện cảm xúc phản ứng trên mặt
chúng
1.3.5. Một số yếu tố ảnh hưởng ñến quá trình giao tiếp của học sinh mắc rối
loạn tự kỷ
Qua việc phân tích như trên, ta nhận thấy trong giao tiếp của học sinh mắc
rối loạn tự kỷ gặp phải một số hạn chế do cả nguyên nhân khách quan và nguyên
nhân chủ quan.
Những học sinh mắc rối loạn tự kỷ thường gặp một số trở ngại trong giao
tiếp :
24
Đó có thể là những trở ngại về mặt sinh lý: Do một số cấu trúc chức năng
của cơ thể các em hoặc bị giảm khả năng ở một số giác quan mà trẻ thường có
khó khăn trong việc truyền và nhận thông tin, làm cho thông tin sai lệch, hoặc
không ñầy ñủ, dẫn ñến cản trở trong việc giao tiếp của các em.
Đó có thể là những trở ngại về mặt tâm lý: Khả năng ngôn ngữ và khả năng
nhận thức của các em bị hạn chế. Các em thiếu nhu cầu giao tiếp. Thường thì
các em muốn giao tiếp nhưng việc thể hiện các nhu cầu ñó không phù hợp. Học
sinh này thường có những phản ứng thất thường, chậm chạp.
Ngoài những trở ngại tâm sinh lý của các em ảnh hưởng ñến quá trình giao
tiếp còn những cản trở về mặt xã hội:
Môi trường giao tiếp: Tiếng ồn, nhiệt ñộ …thêm vào ñó có thể do gia ñình
không dành nhiều thời gian tiếp xúc, chăm sóc trẻ ñúng mức.
Những người xung quanh có những thái ñộ kì thị, lánh xa trẻ khiến trẻ
không có môi trường giao tiếp. Dẫn ñến những học sinh mắc RLTK thường
thiếu niềm tin vào người khác, né tránh giao tiếp: trẻ có những mặc cảm, tự ti
…Vì vậy trẻ không thích giao tiếp với mọi người.
1.4. Tiểu kết chương 1
Trong chương này, chúng tôi ñã nghiên cứu lý luận về một số vấn ñề
chung về giao tiếp, những ñặc ñiểm phát triển của trẻ tự kỷ. Qua ñó, giúp chúng

ta có cái nhìn toàn diện, khái quát về TTK. Đồng thời, chúng ta hiểu ñược những
khó khăn trong giao tiếp của học sinh mắc rối loạn tự kỷ. Những học sinh này
thường gặp khó khăn khi sử dụng ngôn ngữ: trong việc diễn ñạt lời nói của
mình, giọng nói không diễn cảm, không lên không xuống, lời nói thì thường có
nội dung nghèo nàn, vốn từ ít ỏi. Những học sinh này khó khăn khi sử dung
phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ: các em thường gặp khó khăn trong giao tiếp
bằng mắt dẫn ñến khó khăn trong việc sử dụng lời, khó khăn trong việc thay ñổi
25
tư thế, khả năng biểu cảm ngôn ngữ giao tiếp cơ thể. Các em có những khó khăn
trên là do các em khó kết nối các thông tin và thiếu khả năng khái quát, ngôn
ngữ của các em còn nhiều hạn chế. Học sinh mắc rối loạn tự kỷ thường biểu
hiện ngại giao tiếp với những người xa lạ, những người xung quanh, tránh xa
những nơi ñông người vì vậy giao tiếp của các em thường hạn chế.





















×