Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

CÁC QUY TẮC QUAN HỆ LUẬT SƯ VỚI CƠ QUAN THÔNG TIN ĐẠI CHÚNG VÀ QUY TẮC QUẢNG CÁO TRONG NGHỀ LUẬT SƯ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.44 KB, 26 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA LUẬT

ĐẠO ĐỨC NGHỀ LUẬT

CÁC QUY TẮC QUAN HỆ LUẬT SƯ VỚI CƠ
QUAN THÔNG TIN ĐẠI CHÚNG VÀ QUY
TẮC QUẢNG CÁO TRONG NGHỀ LUẬT SƯ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2016


Contents

Trang 2 / 26


MỞ ĐẦU
Nghề luật sư ở Việt Nam là một nghề cao quý, bởi hoạt động nghề nghiệp
của luật sư nhằm mục đích góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ; góp phần phát triển kinh tế, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh,
xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Tính chuyên nghiệp và đạo đức nghề nghiệp
là nền tảng cơ bản của nghề luật sư.
Nếu luật sư có đầy đủ những kiến thức chuyên môn và bao quát về pháp luật,
có kĩ năng phân tích các sự kiện pháp lý thì người hoạt động trong cơ quan thông
tin đại chúng ngoài kiến thức sâu rộng còn có khả năng phân tích mổ xẻ vấn đề
nhạy bén trước mọi tình huống, có đầu óc phán đoán và nhanh nhaỵ, bám sát thực
tế cuộc sống. Với khả năng tác động một cách rộng lớn, nhanh chóng và mạnh mẽ
vào xã hội, các cơ quan thông tin đại chúng góp phần trong định hướng dư luận xã
hội, tạo ra những luồng dư luận tích cực làm lành mạnh hoá đời sống xã hội, tạo đà


khai thác tốt sức mạnh nội lực cho quá trình phát triển phát triển kinh tế - xã hội của
từng địa phương và của cả nước. Và, đó chính là góp phần vào hoat động tư tưởng
của Đảng - xây dựng một xã hội công bằng văn minh.
Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển không ngừng của xã hội, đặt ra việc
cạnh tranh ngày càng cao giữa các hãng luật và luật sư, từ đó nhu cầu về việc quảng
cáo trong nghề luật sư cũng được đưa ra. Ở Việt Nam, việc các quảng cáo về luật sư
và các dịch vụ pháp lý còn chưa thật sự phổ biến và phong phú, chủ yếu thông qua
hình thức các mẩu quảng cáo nhỏ, các website công ty hoặc bằng hình thức truyền
miệng, mà ít xuất hiện dưới hình thức quảng cáo đại trà trên các phương tiện truyền
thông như các sản phẩm tiêu dùng thông thường khác.
Do đó, để hiểu rõ hơn về vấn đề này cũng như các quy định của pháp luật
liên quan đến quan hệ luật sư với cơ quan thông tin đại chúng và quảng cáo trong
nghề luật sư, chúng ta sẽ tìm hiểu đề tài“CÁC QUY TẮC QUAN HỆ LUẬT SƯ VỚI
CƠ QUAN THÔNG TIN ĐẠI CHÚNG VÀ QUY TẮC QUẢNG CÁO TRONG
NGHỀ LUẬT SƯ”.

Trang 3 / 26


Phần 1: CÁC QUY TẮC QUAN HỆ LUẬT SƯ VỚI CÁC CƠ
QUAN THÔNG TIN ĐẠI CHÚNG
1.1.. Khái niệm “ cơ quan thông tin đại chúng”
Trong xã hội hiện đại, không một tổ chức, lực lượng chính trị xã hội nào
không sử dụng Thông tin đại chúng như một phương tiện để thực hiện các mục tiêu,
nhiệm vụ của mình. Có thể hiểu, “thông tin đại chúng” là hoạt động chuyển giao
các thông điệp có tính chất phổ biến đến với công chúng một cách rộng rãi. Bản
chất của thông tin đại chúng cũng là hoạt động tuyên truyền xã hội. Nó thể hiện tính
phổ biến rộng rãi về mặt nội dung và đối tượng tác động của thông tin. Thông tin
đại chúng là một loại hình hoạt động chính trị xã hội.
Năm 2015, cả nước có 857 cơ quan báo chí, trong đó có 199 cơ quan báo chí

in (86 báo trung ương, 113 báo địa phương), 658 tạp chí (521 tạp chí trung ương,
137 tạp chí địa phương), 01 hãng thông tấn quốc gia; có 105 báo, tạp chí điện tử
(tăng 7 báo so với năm 2014). Trong đó có 83 báo, tạp chí điện tử của cơ quan báo
chí in và 22 báo, tạp chí điện tử độc lập; có 67 đài PTTH (02 đài quốc gia là Đài
Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam; Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC
trước đây thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông, nay đã chuyển sang trực thuộc Đài
Tiếng nói Việt Nam; 64 đài địa phương) 1
Tại Việt Nam, các “cơ quan thông tin đại chúng” bao gồm các báo viết, tạp
chí, phát thanh và đài truyền hình, các cơ quan thông tấn và các báo điện tử. Các cơ
quan thông tin đại chúng là một công cụ quan trọng để duy trì một xã hội dân chủ
do chúng kết nối Nhà nước với người dân. Và tại khoản 2.2 Điều 2 Thông tư
72/2008/TT-BTC2 có quy định : ‘‘Cơ quan thông tin đại chúng’’ gọi tắt là các cơ
quan Báo, Đài ở trung ương và địa phương (Báo Lao động, Báo Công an Nhân dân,
Báo Tuổi trẻ, Thông Tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói
Việt Nam, …và các cơ quan Báo, Đài ở địa phương).

1 />2 Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định số 64/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2008 của Chính phủ về
vận động, tiếp nhận, phân phối và sử dụng các nguồn đóng góp tự nguyện hỗ trợ nhân dân khắc phục khó
khăn do thiên tai, hoả hoạn, sự cố nghiêm trọng, các bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo

Trang 4 / 26


Như vậy, với tình hình riêng biệt của hoạt động thông tin đại chúng ở nước
ta, các thành viên trong nhóm đã đưa ra một khái niệm bao quát như sau: “Cơ quan
thông tin đại chúng” là tổ chức thực hiện hoạt động phương tiện thông tin đại chúng
nhằm mang đến thông tin một cách rộng rãi đến công chúng. Trong đó, các cơ quan
này là cơ quan ngôn luận của Đảng, của chính quyền, của tổ chức xã hội lập ra và
tôn trọng theo pháp luật.
Các “cơ quan thông tin đại chúng” hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích đề ra

và hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước (cơ quan có
thẩm quyền: Bộ Thông tin và truyền thông, Sở Thông tin và truyền thông thực hiện
quản lý nhà nước trên địa bàn theo phân cấp của Ủy ban nhân dân tỉnh…)
Ví dụ: các cơ quan báo chí trên địa bàn tỉnh; Đài Phát thanh các huyện, thị
xã, thành phố; Đài Truyền thanh các xã, phường, thị trấn; các Đặc san, Bản tin;
Cổng thông tin điện tử (TTĐT) tỉnh, Trang TTĐT của các Sở, Ban, Ngành, đoàn thể
và UBND các huyện, thị, xã, thành phố;….

1.2. Các quy tắc quan hệ luật sư với các cơ quan thông tin đại chúng
Theo Chương VI - Các quy định khác được quy định trong Quy tắc đạo đức
và ứng xử nghề luật sư Việt Nam đã được ban hành kèm theo Quyết định số 68/QĐHĐLSTQ ngày 20 tháng 7 năm 2011 của Hội đồng luật sư toàn quốc:
“Quy tắc 26. Quan hệ với các cơ quan thông tin đại chúng
26.1. Luật sư cần phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng trong việc tuyên
truyền pháp luật, đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm và các tiêu cực xã hội;
26.2. Luật sư có thái độ tôn trọng và hợp tác với các cơ quan thông tin đại chúng
trong việc cung cấp thông tin trung thực, chính xác, khách quan theo yêu cầu của
các cơ quan này, nếu những thông tin đó không làm ảnh hưởng tới quy tắc bảo mật
theo quy định của pháp luật và quyền lợi hợp pháp của khách hàng;
26.3. Luật sư không được sử dụng cơ quan thông tin đại chúng để cố ý phản ánh
sai sự thật nhằm mục đích cá nhân, động cơ khác hoặc tạo dư luận nhằm bảo vệ
quyền lợi không hợp pháp của khách hàng hoặc phát ngôn gây ảnh hưởng đến an
ninh và lợi ích quốc gia.”
Trang 5 / 26


26.1. Luật sư cần phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng trong việc
tuyên truyền pháp luật, đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm và các tiêu cực
xã hội;
Trong bối cảnh thông tin phát triển mạnh mẽ và đa chiều như hiện nay,
không thể phủ nhận vai trò to lớn của các phương tiện thông tin đại chúng trong

việc tác động hay đưa ra các định hướng xã hội. Theo Điều 3 Luật Luật sư về Chức
năng xã hội của luật sư có quy định: “Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần
bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của
cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.”
Do vậy, luật sư phải có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan thông tin đại
chúng trong việc tuyên truyền pháp luật, đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm
và các tiêu cực xã hội để giúp người dân nắm bắt kịp thời những thông tin cần thiết,
nâng cao ý thức, hiểu biết pháp luật. Nếu nói rằng mỗi luật sư đều ý thức được
trách nhiệm xã hội nghề nghiệp thì cũng phải nhận thức được trách nhiệm phối hợp
với các tổ chức thông tin đại chúng để tuyên truyền pháp luật và phòng chống tội
phạm.
Ví dụ: Luật sư giải đáp, tư vấn pháp lý trên kênh truyền hình trung ương;
Luật sư hỗ trợ báo chí trong việt viết bào tuyên truyền phòng chống tội phạm…
26.2. Luật sư có thái độ tôn trọng và hợp tác với các cơ quan thông tin đại
chúng trong việc cung cấp thông tin trung thực, chính xác, khách quan theo yêu
cầu của các cơ quan này, nếu những thông tin đó không làm ảnh hưởng tới quy
tắc bảo mật theo quy định của pháp luật và quyền lợi hợp pháp của khách hàng;
Luật sư có thể chủ động trong việc phối hợp với các cơ quan thông tin đại
chúng. Mặt khác, trong trường hợp cơ quan truyền thông có yêu cầu cung cấp thông
tin quan trọng, cần thiết, thái độ của luật sư phải tôn trọng hợp tác và thông tin phải
trung thực và khác quan. Tuy nhiên, việc cung cấp thông tin cho công chúng không
được trái với nguyên tắc bảo mật và quyền lợi hợp pháp của khách hàng. Luật sư,
tổ chức hành nghề phải tự cân nhắc cũng như đưa ra các phán xét hợp lý trong việc
lựa chọn thông tin để cung cấp.
Trang 6 / 26


Ví dụ: Trường hợp sau khi kết thúc phiên tòa, báo chí cần luật sư cung cấp
thông tin về vụ án vừa được giải quyết, trong trường hợp này nếu những câu hỏi

của phía nhà báo phù hợp và những thông tin họ cần không làm ảnh hưởng đến quy
tắc bảo mật thì luật sư có thể trả lời. Còn ngược lại, luật sư có thể tử chối trả lời câu
hỏi vì tính chất bảo mật.
26.3. Luật sư không được sử dụng cơ quan thông tin đại chúng để cố ý
phản ánh sai sự thật nhằm mục đích cá nhân, động cơ khác hoặc tạo dư luận
nhằm bảo vệ quyền lợi không hợp pháp của khách hàng hoặc phát ngôn gây ảnh
hưởng đến an ninh và lợi ích quốc gia
Các phương tiện thông đại chúng đóng một vai trò quan trọng trong đời sống
xã hội không chỉ là kênh chủ yếu cung cấp kiến thức và thông tin mà chúng còn là
một công cụ hữu hiệu để quản lý, điều hành và cải cách xã hội. Chúng đã trở thành
một định chế trong xã hội với những qui tắc và chuẩn mực riêng. Có thể nói rằng,
các phương tiện truyền thông đại chúng đã trở thành một phần không thể thiếu
trong đời sống của mỗi cá nhân và tòan xã hội. Tại Quy tắc 26, khoản 3 này là một
quy định với hàm ý yêu cầu luật sư, tổ chức hành nghề không được lạm dụng các
phương tiện thông tin đại chúng cho các mục đích không chính đáng, vi phạm đạo
đức nghề nghiệp. Luật sư không được sử dụng cơ quan thông tin đại chúng để cố ý
phản ánh sai sự thật nhằm mục đích cá nhân, mục đích vụ lợi hoặc tạo dư luận, gây
sức ép không đáng có nhằm bảo vệ quyền lợi không hợp pháp của khách hàng hoặc
có những phát ngôn gây ảnh hưởng, khiêu khích ảnh hưởng đến xã hôi.
Ví dụ: Luật sư cố tình đem thông tin sai sự thật cung cấp cho phương tiện
thông tin đại chúng nhằm đánh lạc hướng dư luận, bảo vệ quyền lợi không hợp
pháp cho khách hàng của mình. Hoặc trường hợp, luật sư trả lời báo chi mang
thông tin phản động, gây ảnh hưởng đến an ninh và lợi ích quốc gia.
1.2.1. Vai trò của cơ quan thông tin đại chúng

Với vai trò “góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công
dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế – xã
hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh” (Điều 3, Luật luật sư 2006 (được sửa đổi, bổ sung năm
Trang 7 / 26



2012), vị thế của luật sư ngày càng được đề cao hơn. Bên cạnh đó, các cơ quan
thông tin đại chúng, đặc biệt là báo chí là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu
đối với đời sống xã hội. Nếu luật sư có đầy đủ những kiến thức chuyên môn và bao
quát về pháp luật, có kĩ năng phân tích các sự kiện pháp lý thì người hoạt động
trong cơ quan thông tin đại chúng ngoài kiến thức sâu rộng còn có khả năng phân
tích mổ xẻ vấn đề nhạy bén trước mọi tình huống, có đầu óc phán đoán và nhanh
nhaỵ, bám sát thực tế cuộc sống. Với khả năng tác động một cách rộng lớn, nhanh
chóng và mạnh mẽ vào xã hội, các cơ quan thông tin đại chúng góp phần trong định
hướng dư luận xã hội, tạo ra những luồng dư luận tích cực làm lành mạnh hoá đời
sống xã hội, tạo đà khai thác tốt sức mạnh nội lực cho quá trình phát triển phát triển
kinh tế - xã hội của từng địa phương và của cả nước. Và, đó chính là góp phần vào
hoat động tư tưởng của Đảng - xây dựng một xã hội công bằng văn minh.
Trong đó, hoạt động báo chí có rất nhiều nhiệm vụ quan trọng, trong đó bảo
đảm được “Tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, thành tựu văn hoá, khoa học, kỹ thuật trong nước và thế
giới theo tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí ; Luật sư và các cơ quan thông tin
đại chúng có mối quan hệ chặt chẽ, hộ trợ lẫn nhau, cung cấp những thông tin bổ
ích để góp phần nâng cao kiến thức, đáp ứng nhu cầu văn hoá lành mạnh của nhân
dân, bảo vệ truyền thống tốt đẹp của dân tộc, xây dựng và phát triển dân chủ xã hội
chủ nghĩa, tăng cường khối đoàn kết toàn dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc. Phản ánh và hướng dẫn dư luận xã hội ; làm diễn đàn thực hiện quyền tự
do ngôn luận của nhân dân. Phát hiện, biểu dương gương tốt, nhân tố mới ; đấu
tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật và các hiện tượng tiêu cực xã hội khác”
(Điều 6 Luật báo chí 1989).
1.2.2. Mối quan hệ hỗ trợ của Luật sư và Báo chí

Mỗi nghề nghiệp đều mang nét đặc thù riêng trong hoạt động của mình, báo
chí và nghề luật nói chung và nghề luật sư nói riêng luôn có mối quan hệ tác động

qua lại lẫn nhau. Nếu luật sư có đầy đủ những kiến thức chuyên môn và bao quát về
pháp luật, có kĩ năng phân tích các sự kiện pháp lý thì người làm báo ngoài kiến
thức sâu rộng còn có khả năng phân tích mổ xẻ vấn đề nhạy bén trước mọi tình

Trang 8 / 26


huống, có đầu óc phán đoán và nhanh nhaỵ, bám sát thực tế cuộc sống. Mối quan
hệ hỗ trợ của luật sư và báo chí được thể hiện trên những mặt sau:
Thứ nhất, với đặc thù của nghề báo chí, không thể yêu cầu một nhà báo phải
hiểu toàn diện về những quy định của pháp luật. Do đó, luật sư trở thành một kênh
thông tin hữu ích để các nhà báo khai thác có hiệu quả về quy định pháp luật, quan
điểm cá nhân về các vụ việc diễn ra. Để thực hiện giải đáp, tư vấn pháp luật trên
báo, các nhà báo cũng cần sự hỗ trợ của các luật sư để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu
pháp luật của nhân dân, Thông qua quan điểm của luật sư, nhà báo có thêm những
nhìn nhận đánh giá sâu sắc hơn về các vụ việc.
Thứ hai, do đặc thù của báo chí là thực hiện hoạt động thông tin, yêu cầu cơ
bản của thông tin là phải nhanh nhạy, kịp thời, cập nhật. Nên việc đánh giá ưu,
nhược điểm của các quy định pháp luật từ phía các luật sư qua các vụ việc thực
tiễn, được báo chí phản ánh sắc nét, nhanh chóng, phát hiện những bất cập, bất hợp
lý trong các văn bản pháp luật, những quy định không phù hợp, lỗi thời, chồng chéo
của hệ thống pháp luật để kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét sửa
đổi, bổ sung và hoàn thiện. Như vậy, luật sư và nhà báo – với những đặc thù nghề
nghiệp sẽ bổ trợ cho nhau trong việc nhận diện, đánh giá quy định pháp luật.
Thứ ba, báo chí chia sẻ với luật sư về những khó khăn, cổ vũ những quan
điểm đúng đắn, đồng thời cũng phát hiện những tiêu cực, những sai trái của các luật
sư để phê phán nhằm mục đích xây dựng. Các luật sư điển hình tốt thông qua báo
chí không chỉ là tấm gương cho các luật khác học tập mà còn giúp người dân tin
tưởng vào công lý vẫn được thực thi dựa trên công bằng xã hội. Chắc các bạn đọc
còn nhớ luật sư Võ An Đôn – người bảo vệ quyền lợi cho gia đình nạn nhân Ngô

Thanh Kiều- người bị 5 công an TP Tuy Hòa (Phú Yên) đánh chết vào tháng
05/2012.Trước sự đấu tranh mạnh mẽ của Luật sư Đôn và báo chí, 5 công an và sau
đó Phó trưởng Công an TP Tuy Hòa cũng bị khởi tố. Sau lần đứng ra bảo vệ cho gia
đình nạn nhân Kiều, anh Đôn đã bị công an, toà án và Viện Kiểm Sát Nhân Dân
thành phố Tuy Hoà kiến nghị thu hồi chứng chỉ hành nghề. Tuy nhiên, ngay sau đó,
Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên đã có kết luận chính thức cho rằng kiến nghị của liên
ngành tố tụng TP Tuy Hòa đòi thu hồi chứng chỉ hành nghề của Luật sư Võ An Đôn
là không có cơ sở, không phù hợp với quy định của pháp luật. Đây là một trong số
Trang 9 / 26


rất nhiều những luật sư đã ra sức đấu tranh bảo vệ quyền lợi cho người dân “thấp cổ
bé họng”, tạo được niềm tin cho người dân vào pháp luật nước nhà và các luật sư
khác nhìn nhận lại bản thân mình có ý chí đấu tranh, dám đứng lên bảo vệ công lý.
Thứ tư, báo chí góp phần đổi mới nhận thức của xã hội, tạo nên sự đồng
thuận, sự cảm thông, chia sẻ của xã hội đối với nghề luật nói chung và nghề luật sư
nói riêng. Báo chí với những đặc trưng của mình là công cụ quan trọng, góp phần
tích cực, chủ động để xã hội có nhận thức đúng về luật sư.

Trang 10 / 26


Phần 2: CÁC QUY TẮC QUẢNG CÁO TRONG NGHỀ LUẬT

2.1. Khái niệm “Quảng cáo”
Cùng với sự phát triển không ngừng của xã hội, đặt ra việc cạnh tranh ngày
càng cao giữa các hãng luật và luật sư, từ đó nhu cầu về việc quảng cáo trong nghề
luật sư cũng được đưa ra. Ở Việt Nam, việc các quảng cáo về luật sư và các dịch vụ
pháp lý còn chưa thật sự phổ biến và phong phú, chủ yếu thông qua hình thức các
mẩu quảng cáo nhỏ, các website công ty hoặc bằng hình thức truyền miệng, mà ít

xuất hiện dưới hình thức quảng cáo đại trà trên các phương tiện truyền thông như
các sản phẩm tiêu dùng thông thường khác.
Quảng cáo chính là chiếc chìa khóa, mở ra cánh cửa nối liền giữa người
cung cấp dịch vụ pháp lý – tức các luật sư và công ty, văn phòng luật, và khách
hàng. Do đó, việc đảm bảo lợi ích các bên, đặc biệt là phía người tiếp nhận thông
tin quảng cáo là rất quan trọng. Vì những lẽ đó, các vấn đề về quảng cáo của Luật
sư đã được quy định rất cụ thể trong Bộ quy tắc đạo đức về chuẩn mực đạo đức
nghề Luật sư Việt Nam của Liên đoàn Luật sư toàn quốc như một chuẩn mực đạo
đức bắt buộc đối với người cung cấp dịch vụ pháp lý có nhu cầu thực hiện các
quảng cáo, và bị ràng buộc không chỉ bằng trách nhiệm về đạo đức mà còn là trách
nhiệm về mặt pháp lý, cụ thể, theo quy tắc số 27 về “ Quảng cáo” có quy định như
sau:“Luật sư, tổ chức hành nghề luật sư quảng cáo theo quy định của pháp luật và
phải chịu trách nhiệm về các cam kết trong quảng cáo về chất lượng dịch vụ đối
với xã hội”
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 2, Luật Quảng cáo 2012 thì Quảng cáo là
việc sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu đến công chúng sản phẩm, hàng hóa,
dịch vụ có mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ không có mục đích sinh lợi; tổ
chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời
sự; chính sách xã hội; thông tin cá nhân.
Việc quảng cáo được thực hiện thông qua hình ảnh, âm thanh, tiếng nói, chữ
viết, biểu tượng, màu sắc, ánh sáng và các hình thức tương tự.

Trang 11 / 26


2.2. Các hình thức quảng cáo trong nghề luật:
Theo hướng dẫn của Liên Đoàn Luật Sư về Bộ Quy tắc Đạo Đức Nghề
Luật thì các hình thức quảng cáo mà luật sư hoặc người cung cấp dịch vụ pháp lý
có thể thực hiện bao gồm:
2.2.1. Quảng cáo gián tiếp


Luật sư, tổ chức hành nghề luật sư có thể quảng cáo dịch vụ pháp lý thông
qua các phương tiện quảng cáo được phép ví dụ như qua các phương tiện thông tin
đại chúng, qua internet, báo chí hoặc các ấn phẩm định kỳ, các quảng cáo ngoài trời
v.v.
2.2.2. Quảng cáo trực tiếp

1. Ngoài việc quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, luật sư,
tổ chức hành nghề luật sư có thể đề nghị cung cấp dịch vụ pháp lý thông
qua việc liên hệ trực tiếp đến khách hàng cụ thể và gửi các thông tin
quảng cáo dịch vụ pháp lý cho các khách hàng này.
Tuy nhiên, đối với hình thức quảng cáo trực tiếp trực tiếp này, các luật sư
cần lưu ý là, khi đưa ra các đề nghị này, phải bảo đảm rằng:
a) Không sử dụng các phương tiện hay công cụ có tính chất đe dọa, cưỡng
bức;
b) Không được lợi dụng tình huống mà luật sư biết được rằng một số hạn
chế về tình trạng thể chất hoặc tinh thần của khách hàng không cho phép
khách hàng có được các nhận định hợp lý về dịch vụ pháp lý, trừ trường
hợp cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí.

2.3. Các quy định đối với việc quảng cáo trong ngành luật và các hành vi
quảng cáo bị cấm:
Quy tắc 27: Quảng cáo
Luật sư, tổ chức hành nghề luật sư quảng cáo theo quy định của pháp luật và
phải chịu trách nhiệm về các cam kết trong quảng cáo về chất lượng dịch vụ đối với
xã hội.
Từ quy tắc trên, có thể nhận thấy một cách cơ bản, là Luật sư phải quảng cáo
theo quy định của pháp luật. Vậy pháp luật quy định về vấn đề này như thế nào?

Trang 12 / 26



Theo căn cứ tại Điều 8, luật quảng cáo 2012 có quy định các trường hợp
cấm trong quảng cáo như sau:
“1. Quảng cáo những sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ quy định tại Điều 7 của
Luật này.
2. Quảng cáo làm tiết lộ bí mật nhà nước, phương hại đến độc lập, chủ
quyền quốc gia, an ninh, quốc phòng.
3. Quảng cáo thiếu thẩm mỹ, trái với truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức,
thuần phong mỹ tục Việt Nam.
4. Quảng cáo làm ảnh hưởng đến mỹ quan đô thị, trật tự an toàn giao thông,
an toàn xã hội.
5. Quảng cáo gây ảnh hưởng xấu đến sự tôn nghiêm đối với Quốc kỳ, Quốc
huy, Quốc ca, Đảng kỳ, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, lãnh tụ, lãnh
đạo Đảng, Nhà nước.
6. Quảng cáo có tính chất kỳ thị dân tộc, phân biệt chủng tộc, xâm phạm tự
do tín ngưỡng, tôn giáo, định kiến về giới, về người khuyết tật.
7. Quảng cáo xúc phạm uy tín, danh dự, nhân phẩm của tổ chức, cá nhân.
8. Quảng cáo có sử dụng hình ảnh, lời nói, chữ viết của cá nhân khi chưa
được cá nhân đó đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép.
9. Quảng cáo không đúng hoặc gây nhầm lẫn về khả năng kinh doanh, khả
năng cung cấp sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân kinh
doanh sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ; về số lượng, chất lượng, giá, công
dụng, kiểu dáng, bao bì, nhãn hiệu, xuất xứ, chủng loại, phương thức phục
vụ, thời hạn bảo hành của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ đã đăng ký hoặc đã
được công bố.
10. Quảng cáo bằng việc sử dụng phương pháp so sánh trực tiếp về giá cả,
chất lượng, hiệu quả sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của mình với giá
cả, chất lượng, hiệu quả sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cùng loại của
tổ chức, cá nhân khác.

11. Quảng cáo có sử dụng các từ ngữ “nhất”, “duy nhất”, “tốt nhất”, “số
một” hoặc từ ngữ có ý nghĩa tương tự mà không có tài liệu hợp pháp chứng
minh theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Trang 13 / 26


12. Quảng cáo có nội dung cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của
pháp luật về cạnh tranh.
13. Quảng cáo vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ.
14. Quảng cáo tạo cho trẻ em có suy nghĩ, lời nói, hành động trái với đạo
đức, thuần phong mỹ tục; gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, an toàn hoặc sự
phát triển bình thường của trẻ em.
15. Ép buộc cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện quảng cáo hoặc tiếp nhận
quảng cáo trái ý muốn.
16. Treo, đặt, dán, vẽ các sản phẩm quảng cáo trên cột điện, trụ điện, cột tín
hiệu giao thông và cây xanh nơi công cộng”.
Một trong những điều cấm quan trọng nhất và thường xảy ra trên thực tế hiện
nay nhất đó chính là quảng cáo gian dối và quảng cáo so sánh:
2.3.1. Cấm quảng cáo gian dối

Được quy định rõ ràng ở Điểm 9 và điểm 11 Điều 8 Luật quảng cáo 2012
“ 9. Quảng cáo không đúng hoặc gây nhầm lẫn về khả năng kinh doanh, khả
năng cung cấp sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân kinh
doanh sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ; về số lượng, chất lượng, giá, công
dụng, kiểu dáng, bao bì, nhãn hiệu, xuất xứ, chủng loại, phương thức phục
vụ, thời hạn bảo hành của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ đã đăng ký hoặc đã
được công bố.
11. Quảng cáo có sử dụng các từ ngữ “nhất”, “duy nhất”, “tốt nhất”,
“số một” hoặc từ ngữ có ý nghĩa tương tự mà không có tài liệu hợp pháp
chứng minh theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch”.

Ngoài ra, theo Khoản 3, điều 45 Luật Cạnh tranh 2010 có quy định tương tự
như sau:
3. Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về một trong
các nội dung sau đây:
a) Giá, số lượng, chất lượng, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, ngày
sản xuất, thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng hoá, người sản xuất, nơi sản xuất,
người gia công, nơi gia công;
Trang 14 / 26


b) Cách thức sử dụng, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành;
c) Các thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn khác.
Đặc điểm:
+ Những quảng cáo vi phạm các nguyên tắc trên đều mang nội dung không
đúng sự thật, dễ gây nhầm lẫn cho khách hàng.
Ví dụ như Đối với chất lượng sản phẩm dịch vụ khách hàng mà bản thân
hoặc công ty mình cung cấp chỉ đạt ở mức “ bình thường” thì sử dụng các từ như “
rất tốt”, “cực kỳ tốt” trong quảng cáo. Hay đối với việc quảng cáo về chi phí thì sử
dụng từ “rẻ” để quảng cáo về chi phí như một ưu thế so với các công ty khác,
nhưng trên thực tế, chi phí dịch vụ của mình là rất “đắt”
+ Việc quảng cáo đó sẽ vi phạm các nguyên tắc về cạnh tranh như sử dụng
các từ “nhất”, “duy nhất”, tốt nhất” “số một” để quảng cáo khi mà không có tài liệu
hợp pháp nào để chứng minh.
Ví dụ như Khi quảng cáo về công ty luật X đã quảng cáo như sau:
“Trong lĩnh vực về sở hữu trí tuệ, không ai là không biết đến chúng tôi, xét
về chất lượng dịch vụ, chúng tôi tốt nhất, xét về chi phí dịch vụ, chúng tôi là rẻ
nhất”
Đối với quảng cáo này, công ty X đã vi phạm cả 2 nguyên tắc là vi phạm về
cạnh tranh cũng như là vi phạm về quảng cáo gian dối.
Không chỉ được quy định rõ nét trong Luật quảng cáo và Luật cạnh tranh,

việc cấm quảng cáo gian dối, cấm gây nhầm lẫn cũng được quy định rõ trong Văn
bản hướng dẫn thi hành Bộ nguyên tắc ứng xử đạo đức như sau:
“3. Quảng cáo dịch vụ pháp lý phải trung thực, chính xác; không được gây nhầm
lẫn hoặc lừa dối hoặc có thể gây nhầm lẫn, lừa dối; phải đáp ứng lợi ích chung của
xã hội và phù hợp với tiêu chuẩn nghề nghiệp cao nhất.
6. Luật sư, tổ chức hành nghề luật sư có thể quảng cáo về bản thân hoặc tổ chức
hành nghề là chuyên gia trong một hoặc một số lĩnh vực tư vấn pháp lý, tuy nhiên
các thông tin quảng cáo này không được gây nhầm lẫn.”
2.3.2. Cấm quảng cáo so sánh

Cấm quảng cáo so sánh được quy định rõ tại Điểm 10, Điều 8, Luật quàng cáo
2012

Trang 15 / 26


“..10. Quảng cáo bằng việc sử dụng phương pháp so sánh trực tiếp về giá
cả, chất lượng, hiệu quả sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của mình với
giá cả, chất lượng, hiệu quả sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cùng loại
của tổ chức, cá nhân khác.”
Lưu ý là, chỉ cấm Quảng cáo chứa đựng việc so sánh trực tiếp về giá cả,
chất lượng, hiệu quả sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của mình với giá cả, chất
lượng, hiệu quả sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cùng loại của tổ chức, cá
nhân khác.
Ví dụ: Công ty Luật A đưa ra một quảng cáo như sau: “Với cùng một số tiền
bỏ ra là 200.000 nghìn đồng cho 1 giờ tư vấn tại chỗ, quý khách sẽ nhận được chất
lượng tốt gấp 10 lần so với việc tư vấn tại Công ty B với cùng mức chi phí”
Tuy nhiên, chúng ta được phép để làm các quảng cáo, trong đó có sử dụng so
sánh gián tiếp. Ví dụ như chúng ta có thể sửa lại quảng cáo ở trên thành: “Cùng 1 số
tiền là 200.000 đồng cho 1 giờ tư vấn tại chỗ, quý khách đã có thể có được cung

cấp một dịch vụ pháp lý hết sức chất lượng, đảm bảo cho quý khách các rủi ro pháp
lý đáng giá hàng trăm triệu đồng mà không cần phải quan tâm cân nhắc đến các
dịch vụ tại chỗ ở các nơi khác”.
Ngoài ra, theo Điều 45 Luật Cạnh tranh có quy định như sau:
Điều 45. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
“Cấm doanh nghiệp thực hiện các hoạt động quảng cáo sau đây:
1. So sánh trực tiếp hàng hoá, dịch vụ của mình với hàng hoá, dịch vụ cùng
loại của doanh nghiệp khác;
Nhóm thuyết trình cho rằng, việc sử dụng so sánh trong việc quảng cáo là
việc không thể tránh khỏi. Vì tâm lý khách hàng chính là cần có một sư so sánh về
nhiều phương diện khách nhau như chất lượng, giá cả,… để có thể cân nhắc lựa
chọn nơi sẽ cung cấp dịch vụ pháp lý cho mình. Tuy nhiên, nếu áp dụng việc so
sánh gián tiếp sẽ tạo cảm giác nhẹ nhàng, chuyên nghiệp hơn, vừa đáp ứng nhu cầu
so sánh của khách hàng, vừa giúp công ty tránh được những rủi ro pháp lý đằng sau
việc quảng cáo.
2.3.3. Không được quảng cáo về tỷ lệ thành công

Ví dụ như một quảng cáo đưa ra nội dung như sau:“ Đến với công ty B của
chúng tôi, chúng tôi cam kết tỷ lệ thắng các vụ kiện về hình sự, lao động là 90%”
Trang 16 / 26


Khách hàng là đối tượng được hưởng quyền tự do lựa chọn người sẽ cung
cấp dịch vụ pháp lý của mình, việc quảng cáo về tỷ lệ thành công vô hình chung đã
tạo nên sự nhầm lẫn của khách hàng về chất lượng dịch vụ, gây bất lợi cho các hãng
luật khác, phá bỏ môi trường cạnh tranh công bằng và lành mạnh.
Ngoài ra, văn bản hướng dẫn quy tắc còn đưa ra thêm một vấn đề nữa, đó
chính là:
“6. Luật sư, tổ chức hành nghề luật sư có thể sử dụng các danh hiệu, giải
thưởng trong quảng cáo dịch vụ pháp lý, tuy nhiên cần nêu rõ tên tổ chức cấp giải

thưởng hoặc các danh hiệu đó.
7. Cần nêu rõ tên của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư trong quảng cáo dịch vụ
pháp lý của luật sư hoặc tổ chức hành nghề đó”.
Đây là một quy định khá tiến bộ, mà hiện nay chưa thấy Luật quảng cáo
2012 đề cập đến. Trong quá trình hành nghề luật và cung cấp dịch vụ pháp lý, danh
tiếng, uy tín của một người luật sư là vô cùng quan trọng. Vậy nên, khi thực hiện
các quảng cáo, việc nêu rõ tên luật sư, tổ chức hành nghề luật sư ngoài việc giúp ích
rất lớn cho khách hàng trong việc đưa ra quyết định lựa chọn luật sư, tổ chức hành
nghề luật sư phục vụ cho mình mà còn giúp ích cho việc giữ vững được danh tiếng
của Luật sư, khẳng định tên tuổi của các luật sư trong giới Luật.
Luật Quảng cáo mặc dù có quy định về việc cấm vi phạm pháp luật về sở
hữu trí tuệ, tức có thể đã bao gồm các nhãn hiệu, thương hiệu,…Tuy nhiên, trên
thực tế, hiếm có cá nhân nào thực hiện việc đăng ký quyền sở hữu đối với tên của
mình. Việc nhiều sản phẩm, chương trình sử dụng tên người nổi tiếng để quảng cáo
không phải là một việc hiếm gặp, tuy nhiên, nếu vẫn tiếp tục không có quy định cụ
thể về vấn đề sử dụng tên gọi trong quảng cáo như hiện nay, lợi ích của nhiều nhóm
người sẽ trực tiếp bị phương hại, đặc biệt là danh tiếng của người có tên bị sử dụng,
hoặc lợi ích của khách hàng sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp.

2.4. Xử lý kỷ luật:
Từ những phân tích đã nêu trên, có thể thấy vấn đề quảng cáo trong ngành
Luật đặt ra rất nhiều các nghĩa vụ pháp lý gắn liền với trách nhiệm về đạo đức, là
một phần không thể thiếu của các quy tắc ứng xửa nghề luật. Khi các luật sư vi
phạm nguyên tắc trên sẽ phải chịu các trách nhiệm do pháp luật quy định. Cụ thể,
Trang 17 / 26


Luật sư sẽ phải chịu 2 loại trách nhiệm: trách nhiệm kỷ luật và trách nhiệm pháp lý.
Với cùng một hành vi được xác định là đã vi phạm nguyên trong vấn đề quảng cáo,
luật sư có thể sẽ phải chịu một trong hai loại trách nhiệm, hoặc có thể cùng lúc chịu

cả hai loại trách nhiệm nêu trên.
2.4.1. Trách nhiệm kỷ luật:

Luật sư sẽ phải chịu trách nhiệm kỷ luật đối với tổ chứ xã hội – nghề nghiệp
của Luật sư là Đoàn Luật sư và Liên đoàn Luật sư Việt Nam xét trên khía cạnh vi
phạm về quy tắc “giữ bí mật thông tin” nói riêng và quy tắc ứng xử nghề Luật nói
chung.
Năm 2012, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã cho ban hành Quy định về xử lý
kỉ luật Luật sư (ban hành kèm theo Quyết định số 68/QĐ – BTVLĐLSVN) đã đưa
ra những quy định cụ thể về các hình thức xử lý kỷ luật đối với Luật sư. Cụ thể tại
Điều 11 của Quy định có đề cập về hinh thức xử lý kỷ luật như sau:
“Điều 11: Hình thức kỷ luật:
1. Luật sư có hành vi vi phạm thì bị xử lý kỷ luật bằng một trong các hình thức
sau đây:
a) Khiển trách;
b) Cảnh cáo;
c) Tạm đình chỉ tư cách thành viên Đoàn luật sư từ sáu tháng đến hai
d)

mươi bốn tháng;
Xoá tên khỏi danh sách luật sư của Đoàn luật sư.

2.

Luật sư có hành vi vi phạm nhưng tính chất, mức độ vi phạm không

đáng kể thì Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư có thể áp dụng biện pháp nhắc nhở
bằng văn bản hoặc bằng những biện pháp phù hợp khác mà không nhất thiết
phải xem xét xử lý kỷ luật.”
Quy định này hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 85, Luật Luật sư năm

2006 với quy định tương tự.
2.4.2. Trách nhiệm Pháp lý:

Theo căn cứ tại Điều 89, Luật Luật sư 2006 thì:” Luật sư vi phạm quy định
của Luật này, ngoài việc bị xử lý kỷ luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm còn
bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải
bồi thường theo quy định của pháp luật”. Như vậy, khi vi phạm việc bảo mật thông
tin khách hàng, không chỉ phải chịu trách nhiệm kỷ luật đối với Đoàn Luật sư và
Trang 18 / 26


Liên Đoàn luật sư Việt Nam, các luật sư phải đối mặt với nguy cơ chịu các trách
nhiệm khác như trách nhiệm về hành chính, dân sự hoặc hình sự theo quy định của
Pháp luật Việt Nam, vì nghĩa vụ bảo mật thông tin khách hàng không chỉ dừng lại ở
vai trò là một quy chuẩn về đạo đức, một quy tắc ứng xử mà còn là một trách nhiệm
pháp lý mà người luật sư phải thực hiện nhằm bảo vệ lợi ích tốt nhất cho khách
hàng. Khách hàng có thể chịu đồng thời 2 loại trách nhiệm pháp lý một lúc là trách
nhiệm dân sự và trách nhiệm hành chính, hoặc trách nhiệm hình sự và trách nhiệm
dân sự. Thêm vào đó, một khi hành vi vi phạm của luật sư được xác định là một
hành vi vi phạm pháp luật thì chắc chắn luật sư sẽ phải chịu trách nhiệm kỷ luật
trước Liên Đoàn luật sư về hành vi của mình.
2.4.2.1. Trách nhiệm hành chính:
Theo căn cứ tại các khoảng 2, khoản 4 và khoảng 5 Điều 51, Nghị định
158/2013/NĐ – CP về quy đĩnh xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa,
thể thao, du lịch và quảng cáo có quy định về việc xử lý vi phạm trong lĩnh vực
quảng cáo như sau:
Điều 51. Vi phạm quy định về hành vi cấm trong hoạt động quảng cáo
2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các
hành vi sau đây:
a) Quảng cáo có sử dụng các từ ngữ “nhất”, “duy nhất”, “tốt nhất”, “số

một” hoặc từ ngữ có ý nghĩa tương tự mà không có tài liệu hợp pháp chứng
minh theo quy định;
4. Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với một trong các
hành vi sau đây:
b) Quảng cáo có nội dung so sánh trực tiếp về giá cả, chất lượng, hiệu quả
sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của mình với giá cả, chất lượng, hiệu
quả sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cùng loại của tổ chức, cá nhân
khác;
5. Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối với một trong các
hành vi sau đây:
Trang 19 / 26


a) Quảng cáo sai sự thật, không đúng quy cách, chất lượng, công dụng,
nhãn hiệu, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, xuất xứ, chỉ dẫn địa lý, phương
thức phục vụ, thời hạn sử dụng, thời hạn bảo quản, bảo hành của hàng hóa,
dịch vụ, trừ trường hợp quy định tại Điểm d Khoản 3 Điều 68, Điểm c
Khoản 3 Điều 69, Điểm a Khoản 2 Điều 72, Điểm b Khoản 1 Điều 75 và
Khoản 1 Điều 78 Nghị định này;
b) Quảng cáo lừa dối, gây nhầm lẫn cho công chúng, người tiêu dùng, khách
hàng về tổ chức, cá nhân, sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ được quảng cáo với
tổ chức, cá nhân, sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ khác hoặc lừa dối, gây nhầm
lẫn về tính năng, tác dụng của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ được quảng cáo,
trừ trường hợp quy định tại Khoản 4 Điều 68, Điểm a Khoản 3 Điều 69 và
Khoản 4 Điều 70 Nghị định này;
2.4.2.2. Trách nhiệm dân sự:
Trên thực tế, trách nhiệm Dân sự thường phát sinh từ các trường hợp việc
quảng cáo làm phương hại đến lợi ích thương mại của các tổ chức, cá nhân khác.
Luật sư sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường cho khách hàng khi vi phạm
trong trường hợp vì vi phạm các quy định cấm của Luật quảng cáo khiến cho lợi ích

của các cá nhân, tổ chức bị tổn hại nghiêm trọng.
2.4.2.3. Trách nhiệm hình sự:
Điều 168, Luật Hình sự năm 1999 quy định về tội quảng cáo gian dối, nội
dung:
“1. Người nào quảng cáo gian dối về hàng hoá, dịch vụ gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết
án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ
mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba
năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi
triệu đồng, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến
năm năm.”

Trang 20 / 26


Phần 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP
3.1. Các quy tắc quan hệ luật sư với cơ quan đại chúng
C.Mác đã khẳng định: sản phẩm của thông tin đại chúng chính là dư luận xã
hội. Với khả năng cung cấp, điều khiển quá trình thông tin, TTĐC có vai trò, sức
mạnh đặc biệt trong việc phản ánh, khơi nguồn, điều hoà tâm trạng và chỉ đạo dư
luận xã hội; qua đó tác động mạnh đến việc hình thành chủ trương, chính sách,
những đối sách của các thế lực cầm quyền. “TTĐC có khả năng tác động thường
xuyên có hệ thống và tính đến những thay đổi trong cuộc sống…Chính báo chí có
khả năng bắt kịp được tình hình thay đổi trong từng ngày và chính vì vậy, trong
trường hợp cần thiết có khả năng thay đổi định hướng công chúng”
Vấn đề liên quan đến hoạt động của luật sư cần trao đổi, đặc biệt là các luật
sư mới hoạt động tham gia tố tụng ,chưa tiếp xúc nhiều với các cơ quan thông tin
đại chúng ,rất cần các luật sư lâu niên của Nghề Luật sư chia sẽ kinh nghiệm để học
tập, tránh rủi ro trong hoạt động nghề nghiệp,không để “hoạ từ miệng vào”.

Quy tắc 26 đề cập cơ quan thông tin đại chúng. Tuy nhiên, cần có hướng dẫn
thống nhất để làm rõ định nghĩa hay khái niệm “cơ quan thông tin đại chúng” có
bao gồm việc điều chỉnh các hình thức thông tin khác mà luật sư có thể sử dụng hay
không, ví dụ các trang blog cá nhân của luật sư hay facebook có thể đăng tải các bài
viết, quan điểm phát ngôn của luật sư về vụ việc hoặc bình luận pháp luật, hoặc
bình luận về luật sư khác v.v. Nếu không có hướng dẫn về vấn đề này, có thể sẽ xảy
ra các tranh cãi về trách nhiệm đạo đức của luật sư khi sử dụng các phương tiện
truyền thông (mà không phải cơ quan thông tin đại chúng) để tuyên truyền, phổ
biến quan điểm của luật sư và các tác động xã hội liên quan.
Khi tiếp xúc nhà báo,luật sư phải ứng xử một cách khéo léo, biết cách chọn
lọc thông tin cần nói để đảm bảo vai trò xã hội của mình mà không vi phạm những
hành vi bị cấm theo quy định pháp luật và Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề luật sư.
Sự thiếu vắng một hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động truyền thông đại
chúng đang là một vấn đề nổi trội gây nhiều khó khăn và hạn chế sự năng động
cũng như khả năng sáng tạo của đội ngũ những người làm TTĐC. Vấn đề xây dựng
Trang 21 / 26


và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, một nội dung quan trọng hàng đầu
trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền đang trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết
trong đời sống chính trị của nước ta hiện nay.

3.2. Các quy tắc quảng cáo trong nghề luật sư
Cần nâng cao tinh thần trách nhiệm, giữ gìn phẩm chất cao quý của luật sư, tuân
thủ nghĩa vụ và quy tắc “quảng cáo trong nghề luật”, phát triển mở rộng các môn
đào tạo kỹ năng nghề luật, đạo đức nghề luật để vừa có thể rèn đức, luyện tài. Để
đội ngũ luật sư thật sự là những con người có tài, có tâm trong xã hội.Pháp luật về
quảng cáo, cụ thể là sự ra đời của Luật Quảng cáo 2012 và hàng loạt các Thông tư,
Nghị định hướng dẫn như Nghị định 181/2013/NĐ-CP, Quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật quảng cáo,… sau nhiều năm áp dụng đã bộc lộ một số hạn chế

cụ thể khi áp dụng trong thực tiễn.
Thứ nhất, là về vấn đề quảng cáo so sánh, Luật Quảng cáo 2012 có quy định rõ
về việc cấm“Quảng cáo bằng việc sử dụng phương pháp so sánh trực tiếp về giá
cả, chất lượng, hiệu quả sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của mình với giá cả,
chất lượng, hiệu quả sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cùng loại của tổ chức,
cá nhân khác.”. Tuy nhiên, không có bất kỳ văn bản nào có quy định cụ thể, thế
nào là so sánh trực tiếp, từ đó dẫn đến vô số sự bất cập trong hoạt động thực tiễn
của việc xử lý quảng cáo vi phạm quy định về quảng cáo so sánh. Cụ thể đó là
trường hợp vụ việc Acecook kiện Masan lên Cục Quản lý cạnh tranh vì cho rằng
quảng cáo mì “Tiến Vua bò cải chua” vi phạm khoản 1 Điều 45 Luật Cạnh tranh
cấm “so sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại
của DN khác” và Khoản 3 Điều 45 thì cấm “đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm
lẫn cho khách hàng” khi Masan cho phát sóng một đoạn quảng cáo với hình ảnh so
sánh một vắt mì màu vàng nhạt (vắt mì Tiến Vua bò cà chua - sản phẩm của Masan)
và một vắt mì màu vàng sậm (của một DN khác) cùng với thông điệp rằng nếu cho
nước vào vắt mì mà “nước chuyển sang vàng đục chứng tỏ sợi mì có nhuộm màu”.
Bên cạnh đó, quảng cáo có sử dụng cụm từ "phẩm màu độc hại " gây tâm lý hoang
mang cho người tiêu dùng và phản ứng tiêu cực với mì màu vàng sậm. Như vậy,
Acecook có lập luận rằng, Masan đã "so sánh trực tiếp" với sản phẩm của Acecook
và đưa thông tin gian dối – tất cả vắt mì khiến nước chuyển sang vàng đục đều có
Trang 22 / 26


nhuộm màu và gây nhầm lẫn – tất cả các vắt mì màu vàng sậm đều có chứa phẩm
màu độc hại.
Tuy nhiên, để giải thích cho khoản 1 Điều 45 Luật Cạnh tranh cấm “so sánh trực
tiếp hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của DN khác”,
thực tế không có văn bản luật nào giải thích khái niệm "so sánh trực tiếp". Theo
cách giải thích của Cục Quản lý cạnh tranh, "so sánh trực tiếp" là phải "trực tiếp"
mới vi phạm quy định theo khoản 1 Điều 45. Quảng cáo này không hề nhắc tới

Acecook nên không được coi là "so sánh trực tiếp". Song trên thực tế, rất hiếm khi
DN vi phạm việc trực tiếp đề cập tới tên sản phẩm hoặc tên một DN khác. Vì vậy,
việc hiểu luật theo cách này khiến khoản 1 Điều 45 rất khó áp dụng vào xử lý vi
phạm trong thực tế.
Để giải thích cho Khoản 3, Điều 45, Cục Quản lý cạnh tranh giải thích thuật ngữ :
“Gian dối hoặc gây nhầm lẫn” chỉ áp dụng cho trường hợp doanh nghiệp gian dối
hoặc gây nhầm lẫn cho sản phẩm/ dịch vụ của DN mình (không áp dụng cho sản
phẩm của DN khác) và bác bỏ đơn kiện của Acecook. Mặc dù, cách giải thích của
Cục Quản lý cạnh tranh là hoàn toàn hợp lý trong trường hợp này. Tuy nhiên, trong
thực tế, việc đưa những thông tin sai bất kể đối với đối tượng nào hoàn toàn có thể
ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh lành mạnh của DN, và nằm trong sự điều
chỉnh, mục tiêu quản lý của Luật Cạnh tranh. Chính vì vậy, cần có những văn bản
giải thích rõ hơn và phù hợp với thực tế để có thể xây dựng môi trường cạnh tranh
lành mạnh trong môi trường cạnh tranh khốc liệt của các DN hiện nay.
Như vậy, các quy định về quảng cáo cần có quy định cụ thể, chi tiết và rõ ràng về
các khái niệm được sử dụng để xác định các trường hợp vi phạm trong lĩnh vực
quảng cáo.
Thứ hai, vấn đề về việc xử lý vi phạm khi vi phạm quy định về Luật quảng cáo. Có
thể nói, hình phạt mang tính chất răn đe và có tác dụng cao và phổ biến nhất thường
là hình phạt đánh mạnh vào tài chính, tức là hình thứ phạt tiền. Tuy nhiên, như đề
cập ở phần trên, các quy định về xử phạt hành chính đối với các hành vi vi phạm
quy định về quảng cáo chỉ dao động ở mức từ 10.000.000 – 70.000.000, đây là một
con số thoáng qua tưởng chừng rất lớn. Nhưng thực chất, khi so sánh mức tiền phạt
này với giá trị thực tế về doanh thu một sản phẩm có thể đem về cho nhà sản xuất là
Trang 23 / 26


rất thấp. Do đó, việc các nhà sản xuất bất chấp các quy định về Pháp luật Quảng
cáo là điều rất dễ hiểu. Theo số liệu báo cáo của cơ quan quản lý ở các tỉnh, thành
phố, chỉ tính riêng giai đoạn 2008 - 2005, thanh tra ngành văn hóa đã xử lý 9.947

trường hợp vi phạm, phạt tiền hơn 11 tỷ đồng, buộc tháo dỡ hàng nghìn sản phẩm
quảng cáo trên bảng hiệu và các phương tiện quảng cáo khác. Riêng Tp.HCM đã xử
lý hơn 6.000 trường hợp vi phạm, phạt hơn 7,5 tỷ đồng. Do đó, việc Pháp luật nên
mạnh tay, tăng cao hơn mức hình phạt nhằm xử lý thích đáng đối với các cá nhân,
tổ chức vi phạm cũng như răn đe đối với các đối tượng khác là một việc làm cực kì
cần thiết.

Trang 24 / 26


KẾT LUẬN
Nghề luật sư là một nghề cao quý và luật sư là những người được xã hội tôn
vinh, tin cậy. Sự tôn vinh, tin cậy của xã hội đối với luật sư không chỉ xuất phát từ
chức năng xã hội của luật sư là “góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh tế và xây
dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, không chỉ xuất phát từ trình độ chuyên
môn, sự chuyên nghiệp của luật sư mà còn xuất phát từ những phẩm chất đạo đức
cao quý và ứng xử nghề nghiệp chuẩn mực của luật sư, trong đó có “các quy tắc
quan hệ luật sư với cơ quan thông tin đại chúng và quy tắc quảng cáo trong nghề
luật sư”.
Trong bối cảnh thông tin phát triển mạnh mẽ và đa chiều như hiện nay,
không thể phủ nhận vai trò to lớn của các phương tiện thông tin đại chúng trong
việc tác động hay đưa ra các định hướng xã hội cũng như vai trò cần thiết và hỗ trợ
nhau của luật sư và các cơ quan thông tin đại chúng trong việc góp phần bảo vệ
công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Bên cạnh đó,
quảng cáo cũng chính là chiếc chìa khóa, mở ra cánh cửa nối liền giữa người cung
cấp dịch vụ pháp lý – tức các luật sư và công ty, văn phòng luật, và khách hàng. Do
đó, việc đảm bảo lợi ích các bên, đặc biệt là phía người tiếp nhận thông tin quảng
cáo là rất quan trọng.

Chính vì vậy, nghề luật sư cũng cần có những quy tắc đạo đức và ứng xử
nghề nghiệp để làm cơ sở cho thái độ, xử sự, hành vi của luật sư trong quá trình
hành nghề, trong các mối quan hệ nghề nghiệp. Thế nên, luật sư cần nâng cao tinh
thần trách nhiệm, giữ gìn phẩm chất cao quý của luật sư.

Trang 25 / 26


×