Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển việt nam chi nhánh bắc hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (524.76 KB, 104 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong hoạt động của ngân hàng thì hoạt động tín dụng là một trong những
hoạt động tạo ra giá trị lớn cho ngân hàng. Hoạt động tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu
của hệ thống Ngân hàng thương mại (NHTM) ở nước ta hiện nay, chiếm tỷ trọng
lớn nhất (trên 60%) trong danh mục tài sản nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất.
Do đó, song song với việc tăng trưởng tín dụng, nhiệm vụ đặt ra đối với hệ thống
ngân hàng Việt Nam là phải chú trọng hơn nữa đến việc áp dụng và hoàn thiện các
quy định của pháp luật nhằm kiểm soát rủi ro hạn chế các tiêu cực mà các rủi ro
này gây ra.
Rủi ro tín dụng luôn tiềm ẩn và song hành cùng hoạt động tín dụng như một
hiện thực khách quan, không thể loại bỏ hoàn toàn rủi ro tín dụng mà chỉ có thể áp
dụng các biện pháp để phát hiện, phòng ngừa, hạn chế hoặc giảm thiểu tổn thất do
rủi ro tín dụng gây ra. Đứng trên quan điểm quản lý, các chủ ngân hàng luôn thừa
nhận sự tồn tại khách quan của rủi ro tín dụng và một tỉ lệ tổn thất dự kiến do rủi ro
tín dụng mang lại luôn được xác định trước trong chiến lược kinh doanh của ngân
hàng. Khi tổn thất thực tế xảy ra dưới mức dự kiến, ngân hàng có thể coi đó là thành
công trong quản lý. Chính vì vậy, quản lý và hạn chế rủi ro tín dụng luôn là công
tác được các NHTM quan tâm.
Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội (BIDV Bắc Hà Nội)
là chi nhánh có dư nợ lớn của hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
(BIDV), vấn đề tăng trưởng và bền vững luôn được chi nhánh đặc biệt quan tâm.
Hoạt động tín dụng chiếm trên một nửa thu nhập của Chi nhánh và có tác động lớn
tới nguồn thu của các hoạt động khác như: hoạt động thanh toán, tài trợ thương
mại... Với tầm quan trọng như vậy, việc nghiên cứu, đo lường và đưa ra các giải
pháp hạn chế rủi ro tín dụng là rất cần thiết. Xuất phát từ tình hình thực tế tại Chi
nhánh, em đã chọn đề tài: “ Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội” cho luận văn tốt nghiệp của mình.



2

2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu giải quyết 3 vấn đề cơ bản như sau:
• Làm rõ một số vấn đề cơ bản về quản lý rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng
thương mại.
• Đánh giá thực trạng công tác quản lý rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân
hàng ĐT&PT Bắc Hà Nội.
• Trên cơ sở lý luận và phân tích thực trạng của công tác quản lý rủi ro tín
dụng, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại Chi
nhánh.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng
ĐT&PT Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu: hoạt động quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng
ĐT&PT Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội giai đoạn 2008 – 2010.

4. Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng các phương pháp: thống kê, tổng hợp, so sánh, tư duy logic…đi từ
cơ sở lý thuyết đến thực tiễn nhằm giải quyết và làm sáng tỏ mục đích đặt ra trong
luận văn.

5. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được chia làm 3 chương, cụ
thể:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
thương mại.
Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng ĐT&PT Việt

Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
ĐT&PT Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội.


3

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ RỦI
RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về rủi ro và rủi ro tín dụng
Rủi ro là một sự không chắc chắn hay một tình trạng bất ổn. Tuy nhiên, chỉ
có tình trạng không chắc chắn nào có thể đoán được xác suất xảy ra mới được xem
là rủi ro. Những tình trạng không chắc chắn nào chưa từng xảy ra và không ước
đoán được xác suất xảy ra được xem là bất trắc.
Rủi ro trong hoạt động ngân hàng là những biến cố không mong đợi xảy ra
gây mất mát, thiệt hại tài sản, giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến.
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, tín dụng là hoạt động kinh doanh
đem lại lợi nhuận chủ yếu của ngân hàng nhưng cũng là nghiệp vụ tiềm ẩn rủi ro rất
lớn. Mặc dù hiện nay đã có sự chuyển dịch trong cơ cấu lợi nhuận của ngân hàng,
theo đó thu nhập từ hoạt động tín dụng có xu hướng giảm xuống và thu dịch vụ có
xu hướng tăng lên nhưng thu nhập từ tín dụng vẫn chiếm ½ đến 2/3 thu nhập ngân
hàng (Peter Rose, Quản trị ngân hàng thương mại). Kinh doanh ngân hàng là kinh
doanh rủi ro, theo đuổi lợi nhuận với rủi ro chấp nhận được là bản chất ngân hàng.
P.Volker, cựu chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ cho rằng: “Nếu ngân hàng không
có những khoản vay tồi thì đó không phải là hoạt động kinh doanh”. Rủi ro trong
hoạt động của ngân hàng thương mại rất đa dạng, trong đó rủi ro tín dụng là một
trong những nguyên nhân chủ yếu gây tổn thất và ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất
lượng kinh doanh ngân hàng.
Rủi ro tín dụng: là rủi ro về sự tổn thất tài chính, phát sinh từ việc khách

hàng đi vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ trả nợ đúng
hạn theo đúng cam kết hoặc khách hàng mất khả năng thanh toán, có nghĩa là các
khoản thanh toán bao gồm cả phần gốc và lãi vay có thể bị trì hoãn, thậm chí là
không được hoàn trả. Điều này gây ra sự cố đối với dòng chu chuyển tiền tệ và ảnh
hưởng đến khả năng thanh khoản của ngân hàng. Rủi ro tín dụng phát sinh khi ngân


4

hàng cấp tín dụng cho khách hàng bao gồm các hình thức cấp tín dụng: cho vay,
bảo lãnh, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán. Rủi ro tín dụng nếu xảy ra
có thể dẫn tới thiệt hại lớn cho ngân hàng, ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập của
ngân hàng và có thể dẫn tới các rủi ro khác vì vậy việc hiểu và nhận biết tốt về rủi
ro tín dụng là cơ sở để quản lý rủi ro tín dụng.
Có thể rút ra các nội dung cơ bản của rủi ro tín dụng như sau:
- Rủi ro tín dụng khi người vay sai hẹn trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo
hợp đồng, bao gồm gốc và/hoặc lãi. Sự sai hẹn có thể là trễ hạn hoặc không thanh toán.
- Rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến tổn thất tài chính, tức là giảm thu nhập ròng.
Trong trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến thua lỗ, hoặc ở mức độ cao hơn có
thể dẫn đến phá sản.
- Khi nói đến rủi ro cần lưu ý mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận (lợi nhuận
kỳ vọng càng cao thì rủi ro tiềm ẩn càng lớn).
- Rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan. Rủi ro tín dụng là
bạn đường trong kinh doanh, có thể đề phòng, hạn chế chứ không thể loại trừ. Do
vậy, rủi ro dự kiến luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung của
ngân hàng.
Tuy nhiên, chúng ta cần hiểu rủi ro tín dụng theo nghĩa xác suất là khả năng,
do đó có thể xảy ra hoặc không xảy ra tổn thất. Điều này có nghĩa một khoản vay dù
chưa quá hạn vẫn luôn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra tổn thất, một ngân hàng có tỷ lệ nợ
quá hạn thấp nhưng nguy cơ rủi ro tín dụng sẽ rất cao nếu danh mục đầu tư tín dụng

tập trung vào một nhóm khách hàng, ngành hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro.

1.1.2. Các loại rủi ro tín dụng
Rủi ro giao dịch: là rủi ro liên quan đến từng khoản vay hoặc từng khách
hàng vay cụ thể. Đây là loại rủi ro có thể phát sinh liên quan đến quá trình thẩm
định xét duyệt cho vay, kiểm soát sau khi cho vay hoặc do sơ hở trong việc thực
hiện bảo đảm tiền vay và những cam kết ràng buộc trong hợp đồng tín dụng.


5

Rủi ro danh mục là rủi ro phát sinh liên quan đến sự kết hợp nhiều khoản tín
dụng trong danh mục tín dụng của ngân hàng do sản phẩm không phù hợp hoặc quá
tập trung cho vay vào một ngành, lĩnh vực.
Rủi ro tín dụng bao gồm 2 loại chính:
Rủi ro
tín dụng

Rủi ro
giao dịch

Rủi ro
xét duyệt

Rủi ro
kiểm soát

Rủi ro
danh mục


Rủi ro
bảo đảm

Rủi ro
cá biệt

Rủi ro
tập trung

Sơ đồ 1.1: Phân loại rủi ro tín dụng

1.1.3. Đặc điểm của rủi ro tín dụng
Để chủ động phòng ngừa rủi ro tín dụng có hiệu quả, nhận biết các đặc điểm
của rủi ro tín dụng rất cần thiết và hữu ích. Rủi ro tín dụng có những đặc điểm cơ
bản sau:
- Rủi ro tín dụng mang tính gián tiếp: Trong quan hệ tín dụng, ngân hàng
chuyển giao quyền sử dụng vốn cho khách hàng. Rủi ro tín dụng xảy ra khi khách
hàng gặp những tổn thất và thất bại trong quá trình sử dụng vốn; hay nói cách khác
những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của khách hàng là nguyên nhân chủ yếu
gây nên rủi ro tín dụng của ngân hàng.
- Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng và phức tạp: biểu hiện ở sự đa dạng và
phức tạp của các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng cũng như các hậu quả do rủi
ro tín dụng gây ra. Nhận thức và vận dụng đặc điểm này, khi thực hiện phòng ngừa,
hạn chế và xử lý rủi ro tín dụng phải chú ý đến mọi dấu hiệu rủi ro, xuất phát từ
nguyên nhân bản chất và hậu quả của rủi ro để đưa ra biện pháp phù hợp.


6

- Rủi ro có tính tất yếu tức luôn tồn tại và gắn liền với hoạt động tín dụng của

ngân hàng thương mại: Khi thực hiện một hoạt động tài trợ cụ thể, ngân hàng cố
gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn là cao nhất. Và nhìn
chung ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy rằng rủi ro tín dụng sẽ không xảy
ra. Tuy nhiên, không một nhà kinh doanh ngân hàng tài ba nào có thể dự đoán chính
xác các vấn đề xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị thay đổi
do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, đặc biệt tình trạng thông tin bất cân
xứng đã làm cho ngân hàng không thể nắm bắt được các dấu hiệu rủi ro một cách
toàn diện và đầy đủ, nên bất cứ khoản cho vay nào cũng tiềm ẩn nguy cơ rủi ro đối
với hoạt động tín dụng của các NHTM. Vì vậy trong quá trình cấp tín dụng cho
khách hàng, các NHTM cần chủ động có các biện pháp thích hợp để xác định rủi ro,
định lượng rủi ro, quản lý rủi ro và kiểm soát rủi ro. Kinh doanh ngân hàng thực
chất là kinh doanh rủi ro ở mức phù hợp và đạt được lợi nhuận tương ứng.

1.1.4. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng. Quản lý rủi ro tín dụng cần
xác định những nguyên nhân cụ thể, cách thức gây rủi ro tín dụng để có biện pháp
hạn chế.

1.1.4.1 Những nguyên nhân bất khả kháng
Những nguyên nhân bất khả kháng tác động tới người vay, làm họ mất khả
năng thanh toán cho ngân hàng là các nguyên nhân khách quan liên quan đến môi
trường bên ngoài. Ví dụ: do thiên tai, dịch bệnh, hoả hoạn,..;do khủng hoảng hoặc
suy thoái kinh tế, lạm phát, mất thăng bằng cán cân thanh toán quốc tế, tỷ giá hối
đoái biến động thất thường,..; hoặc những thay đổi tầm vĩ mô (thay đổi chính phủ,
chính sách kinh tế,…) vượt quá tầm kiểm soát của người vay lẫn người cho vay.

1.1.4.2. Nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay
- Nguyên nhân từ tư cách, đạo đức của khách hàng vay vốn: đây là một trong
những nguyên nhân quan trọng dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. Rất nhiều người vay
vốn sẵn sàng mạo hiểm trong kinh doanh để thu được lợi nhuận cao. Để đạt được

mục đích của mình, họ không ngần ngại sử dụng các thủ đoạn lừa đảo để vay và


7

chiếm đoạt vốn của ngân hàng như: lập hồ sơ vay vốn giả mạo, cung cấp thông tin
sai sự thực, mua chuộc cán bộ ngân hàng… Nhiều khách hàng khác mặc dù có khả
năng trả nợ nhưng cố tình chây ỳ với hy vọng có thể quỵt nợ hoặc kéo dài thời gian
chiếm dụng vốn. Các trường hợp này tuy không phải lỗi xuất phát từ phía ngân
hàng nhưng vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín, trách nhiệm
của các cán bộ nói riêng và toàn bộ ngân hàng nói chung.
- Nguyên nhân từ năng lực sử dụng vốn vay của khách hàng vay: khách hàng
vay vốn trung thực trong việc cung cấp thông tin cho ngân hàng và sử dụng vốn vay
đúng mục đích; tuy nhiên, trong quá trình hoạt động kinh doanh, khách hàng có
những yếu kém trong quản lý hoặc gặp phải các rủi ro không lường hết được trước
đó nên sản xuất kinh doanh không có hiệu quả, năng lực tài chính giảm sút và yếu
kém, không có hoặc không đủ nguồn thu để trả nợ ngân hàng. Những nguyên nhân
cụ thể đối với khách hàng là doanh nghiệp, hộ kinh doanh có thể kể đến như: trình
độ điều hành, quản lý yếu kém của chủ doanh nghiệp, thị trường đầu vào - đầu ra có
những biến động bất lợi gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh, năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp hạn chế, sản phẩm lỗi thời, lạc hậu, không có khả năng tiêu
thụ do sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ… Đối với khách hàng cá nhân,
những rủi ro như: mất việc làm, mất khả năng lao động, kinh tế gia đình gặp phải
những biến cố không mong đợi… là những nguyên nhân cụ thể dẫn đến khách hàng
không trả được nợ.

1.1.4.3. Nguyên nhân thuộc về ngân hàng
* Xuất phát từ chính sách, quy trình tín dụng và sự vận dụng chính sách, quy
trình tín dụng chưa nghiêm túc:
Các chính sách tín dụng không hợp lý, quá nhấn mạnh vào mục tiêu lợi

nhuận dẫn đến cho vay đầu tư quá liều lĩnh, tập trung nguồn vốn cho vay quá nhiều
vào một doanh nghiệp hoặc một ngành kinh tế nào đó.
Quy trình tín dụng thông thường được xác lập trên những quy định chung
của pháp luật về ngân hàng và những đặc thù trong hoạt động của riêng mỗi ngân
hàng. Thông thường, quy trình tín dụng được thống nhất qua các bước tuần tự như


8

sau: thiết lập hồ sơ khách hàng vay, thẩm định hồ sơ khách hàng vay, ra quyết định
và ký hợp đồng, giải ngân và thu nợ, thanh lý hợp đồng và xử lý tranh chấp. Quy
trình tín dụng nếu không phát huy được tác dụng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng quản
lý rủi ro tín dụng. Trên thực tế, không phải quy trình tín dụng của các NHTM luôn
đảm bảo tính hợp lý và chặt chẽ, biểu hiện như:
- Việc phân định rõ giữa khâu thẩm định và cho vay ở nhiều NHTM vẫn
chưa thật sự tách biệt. Chỉ một vài ngân hàng đang tiến hành triển khai, áp dụng quy
trình tín dụng mới với việc phân chia độc lập giữa ba chức năng: quan hệ khách
hàng, quản lý rủi ro và quản lý nợ. Tuy vậy, giữa mô hình phân chia cũ và mới, bên
cạnh những ưu điểm vẫn tồn tại những hạn chế chưa thể khắc phục ảnh hưởng đến
công tác quản lý rủi ro tín dụng.
- Do sức ép cạnh tranh trong việc mở rộng thị phần tín dụng, trong quá trình
vận dụng không ít các NHTM đã bỏ qua các bước của quy trình, hạ thấp tiêu chuẩn
đánh giá khách hàng, không chú ý đúng mức đến tình hình tài chính, năng lực sản
xuất kinh doanh, khả năng trả nợ, nguồn trả nợ của khách hàng vay nên nảy sinh
nhiều vi phạm: về điều kiện vay vốn, hồ sơ vay vốn, về kiểm tra quản lý nợ vay, về
cơ cấu thời hạn trả nợ.
* Xuất phát từ công tác thẩm định
Đánh giá uy tín của khách hàng là vấn đề thật sự khó khăn đối với các cán bộ
thực hiện công tác thẩm định trong việc tiếp cận thông tin đầy đủ về khách hàng.
Hiện nay, công tác đánh giá uy tín của khách hàng chủ yếu dựa vào cảm tính và chủ

quan của cán bộ nghiệp vụ như dựa vào các quan hệ trong quá khứ hoặc một số
thông tin thu thập được.
Về việc đánh giá năng lực tài chính của khách hàng cũng gặp nhiều hạn chế,
công việc đánh giá được thực hiện chủ yếu dựa vào việc phân tích số liệu trên các
báo cáo tài chính do khách hàng cung cấp. Hiện nay do Việt Nam chưa có quy định
minh bạch thông tin nên có thể nói độ tin cậy của các báo cáo tài chính chưa thật sự
cao, nhất là đối với các doanh nghiệp tư nhân. Từ những số liệu chưa thực sự tin


9

cậy nên việc phân tích báo cáo tài chính sẽ không phản ánh đúng thực chất năng lực
tài chính của khách hàng.
* Xuất phát từ tài sản bảo đảm
Quản trị danh mục tài sản bảo đảm là yêu cầu cần thiết trong công tác quản
lý rủi ro tín dụng và là mắt xích quan trọng trong quy trình cho vay thu hồi nợ, xử lý
các khoản nợ có vấn đề.
Theo quy định của pháp luật, việc xác định giá trị tài sản bảo đảm (TSBĐ)
tiền vay do các bên thoả thuận, hoặc thuê tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn xác
định trên cơ sở giá thị trường tại thời điểm xác định, có tham khảo đến các loại giá
như giá quy định của Nhà nước, giá mua, giá trị còn lại trên sổ sách kế toán và các
yếu tố khác về giá. Tuy nhiên, trên thực tế, trừ những động sản có giá trị lớn hàng tỷ
đồng, các NHTM mới thuê tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn định giá còn lại đa
số việc định giá đều do các bên thoả thuận và như vậy cho thấy giá trị TSBĐ được
định giá còn mang tính chủ quan và thiếu tính khoa học.
Ngoài ra, về phương pháp định giá đối với từng loại tài sản chưa được các
NHTM sử dụng một cách thích hợp, dẫn đến việc nếu định giá thấp, khách hàng
không hài lòng nhưng nếu định giá cao, NHTM sẽ khó đảm bảo khả năng thu hồi
nợ vay và lãi vay trong trường hợp khách hàng mất khả năng thanh toán, khi đó
buộc NHTM phải xử lý tài sản cầm cố, thế chấp.

Đối với vấn đề bảo hiểm tài sản, cán bộ tín dụng thường không chú ý đôn
đốc, kiểm tra việc khách hàng có mua bảo hiểm đúng định kỳ để đến khi phương
tiện bị tai nạn, xảy ra hoả hoạn,…gây khó khăn lâu dài về khả năng thanh toán
khoản nợ vay.
Thông tin bất cân xứng về giá trị thực của TSBĐ giữa khách hàng và ngân
hàng cũng là vấn đề cần được quan tâm. Khi thế chấp, cầm cố chỉ có khách hàng
biết rõ về hiện trạng tài sản như sự hỏng hóc trong các dây chuyền sản xuất, máy
móc, thiết bị, hoặc ngôi nhà rất khó bán do một số đặc điểm đặc biệt. Trong khi đó
trình độ của cán bộ thường không đáp ứng đầy đủ chuyên môn trong tất cả các lĩnh
vực nên không thể đánh giá được chính xác hiện trạng của máy móc thiết bị cũng


10

như nắm được những thông tin tốt về đất đai, nhà ở, điều này ảnh hưởng rất lớn đến
giá trị mua bán của tài sản. Vì vậy khi xảy ra rủi ro, việc phát mại tài sản để thu hồi
nợ gặp không ít khó khăn.
Thêm vào đó, cơ chế pháp lý về bảo đảm tiền vay chưa rõ ràng, chịu sự điều
chỉnh, chi phối của nhiều văn bản luật, dưới luật chồng chéo, đặc biệt đối với TSBĐ
là bất động sản.
* Xuất phát từ hoạt động kiểm soát nội bộ
Hiện nay, các NHTM đều có bộ phận kiểm soát nội bộ, tuy nhiên, ở một số
ngân hàng bộ phận này chưa thật sự hoạt động có hiệu quả, nhất là tình trạng thiếu
nhân sự cũng như trình độ của cán bộ chưa đáp ứng cả về nghiệp vụ lẫn kinh
nghiệm nên không thể phát hiện các sai phạm để có những khuyến cáo kịp thời
nhằm chấn chỉnh và tư vấn cho Ban lãnh đạo về những rủi ro tín dụng có thể xảy ra.
* Xuất phát từ cán bộ quản lý, cán bộ tín dụng
Đạo đức của cán bộ tín dụng là một trong những yếu tố quan trọng để giải
quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ hạn chế về năng lực có thể được
bồi dưỡng thêm để nâng cao trình độ, nhưng một cán bộ tha hoá về đạo đức mà lại

giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật sự nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng.
Điều này có thể nhận thấy qua các vụ án kinh tế lớn trong thời gian vừa qua có liên
quan đến hoạt động ngân hàng đều có sự tiếp tay của những cán bộ tín dụng cùng
với khách hàng hoặc bản thân cán bộ tín dụng cố ý như thực hiện trái với quy trình
tín dụng, trực tiếp thu nợ nhưng không nộp mà dùng cho mục đích cá nhân, lập hồ
sơ giả để vay tiền; tẩy xoá, sửa chữa chứng từ có giá để thế chấp vay tiền; định giá
tài sản không đúng giá trị thực;…
Bên cạnh vấn đề đạo đức, năng lực, trình độ, kinh nghiệm của một bộ phận
cán bộ tín dụng hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu công việc. Nhân viên ngân
hàng phải tiếp cận với nhiều ngành nghề, nhiều vùng, thậm chí nhiều quốc gia. Để
cho vay tốt, họ phải am hiểu khách hàng, lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, môi
trường mà khách hàng sống. Họ phải có khả năng dự báo các vấn đề liên quan đến
người vay. Khi nhân viên tín dụng cho vay đối với khách hàng mà họ chưa đủ trình
độ để hiểu kỹ lưỡng, rủi ro tín dụng luôn rình rập họ.


11

Như vậy chất lượng nhân viên ngân hàng bao gồm trình độ và đạo đức nghề
nghiệp không đảm bảo là nguyên nhân của rủi ro tín dụng.
Tóm lại, các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng rất đa dạng, có những
nguyên nhân khách quan và những nguyên nhân do chủ thể tham gia quan hệ tín
dụng. Các biện pháp phòng chống rủi ro có thể nằm trong tầm tay của các NHTM
nhưng cũng có những biện pháp vượt ngoài khả năng của riêng từng ngân hàng.
Các nguyên nhân chủ quan có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng và ngân
hàng có thể kiểm soát được nếu có những biện pháp thích hợp.

1.2. Quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.1. Sự cần thiết của công tác quản lý rủi ro tín dụng
Quản lý rủi ro tín dụng là quá trình ngân hàng tác động đến hoạt động tín

dụng thông qua bộ máy và công cụ quản lý để phòng ngừa, cảnh báo, đưa ra các
biện pháp hạn chế đến mức tối đa việc không thu được đầy đủ cả gốc và lãi của
khoản vay hoặc thu gốc và lãi không đúng hạn.
Quản lý rủi ro tín dụng hiệu quả liên quan đến việc quản lý chặt chẽ mối
quan hệ giữa rủi ro/lợi nhuận và kiểm soát, giảm thiểu rủi ro tín dụng trong nhiều
khía cạnh khác nhau, chẳng hạn như chất lượng tín dụng, mức độ tập trung, thời
gian đáo hạn, hình thức bảo đảm tiền vay.
Kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng là loại kinh doanh đặc biệt, tiềm ẩn
nhiều rủi ro trong đó có rủi ro tín dụng. Hoạt động kinh doanh của các NHTM là
dùng uy tín của chính ngân hàng để có thể thu hút nguồn vốn huy động và dùng
năng lực quản trị rủi ro đặc biệt là quản trị rủi ro tín dụng để sử dụng nguồn vốn
huy động được và phát triển các dịch vụ khác với tư cách là người “đứng giữa” các
lực lượng cung và các lực lượng cầu về các dịch vụ ngân hàng.
Hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM phụ thuộc vào mức độ rủi ro,
đặc biệt là rủi ro tín dụng. Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng có nhiều yếu tố
khách quan và chủ quan dẫn đến rủi ro, nhiều yếu tố bất khả kháng nên ngân hàng
không thể tránh khỏi rủi ro. Chính vì vậy, hàng năm các NHTM được phép và cần
phải trích lập quỹ bù đắp rủi ro hạch toán vào chi phí. Quy mô quỹ bù đắp rủi ro căn
cứ vào mức độ và khả năng rủi ro. Nếu rủi ro thấp thì hiệu quả kinh tế sẽ tăng và


12

ngược lại. Như vậy, hiệu quả kinh doanh của các NHTM tỷ lệ nghịch với mức độ
rủi ro. Khi rủi ro quá lớn đến mức các NHTM mất khả năng thanh toán khi đó sẽ
dẫn đến tình trạng phá sản.
Quản lý rủi ro tín dụng tốt là điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng tín
dụng của các NHTM. Vì vậy, những nhà quản trị NHTM cần được trang bị các kiến
thức về quản trị rủi ro, cung cấp những thông tin kinh tế cập nhật, có đội ngũ tham
mưu chuyên nghiệp và bộ máy kiểm tra, kiểm soát nội bộ hiệu quả là điều kiện cần

thiết để phòng ngừa, hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh doanh.

1.2.2. Khung quản lý rủi ro trong hoạt động tín dụng
Khung quản lý rủi ro trong hoạt động tín dụng bao gồm những công tác chủ
yếu mà NHTM phải tiến hành nhằm đảm bảo chất lượng của quá trình quản lý rủi
ro trong hoạt động tín dụng được tốt nhất.
Khung quản lý rủi ro được thiết lập dựa trên các nguyên tắc quản lý rủi ro tín
dụng của Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng. Các thành phần của khung luôn
tương tác hỗ trợ lẫn nhau.

Hệ thống
tính
điểm tín
dụng

Hoạch
định
chiến
lược

Xác định
rủi ro hiện
có và rủi
ro tiềm
tàng

Rủi ro
tín dụng

Trách nhiệm

cá nhân đối
với chất
lượng tín
dụng

Cơ cấu
tổ chức

Xây dựng
chính sách
và quy trình
tín dụng

Giám sát và
kiểm tra tín
dụng

Hình 1.2: Khung quản lý rủi ro trong hoạt động tín dụng


13

* Hoạch định chiến lược hoạt động tín dụng
Hoạch định chiến lược hoạt động tín dụng là bản tuyên ngôn của Ban lãnh
đạo về các mục tiêu trong hoạt động tín dụng nhằm xác định thái độ của ngân hàng
đối với rủi ro và thái độ sẵn sàng chấp nhận các rủi ro.
Chiến lược hoạt động tín dụng cần được hoạch định định kỳ, phù hợp với
mức độ rủi ro từng thời kỳ và phải được phổ biến đến từng nhân viên ngân hàng.
* Xác định rủi ro hiện có và rủi ro tiềm tàng
Xác định rủi ro được hiểu bao gồm: nhận biết rủi ro và đo lường rủi ro

Xác định rủi ro được thực hiện theo từng khoản vay, từng khách hàng, nhóm
khách hàng, theo mặt hàng và lĩnh vực đầu tư, theo khu vực địa lý, theo dạng
TSBĐ, theo trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng,…
Đo lường rủi ro không phải là một biện pháp tuyệt đối mà chỉ là một biện
pháp đo xác suất các kết quả.
* Xây dựng các chính sách và quy trình tín dụng
Xây dựng các chính sách và quy trình tín dụng phải đảm bảo phù hợp với các
quy định của pháp luật, đảm bảo phù hợp với chiến lược tín dụng của ngân hàng
nhằm để duy trì các chuẩn mực tín dụng an toàn và kịp thời phát hiện cũng như
quản lý chặt chẽ các khoản tín dụng có vấn đề.
* Giám sát và kiểm tra tín dụng
Giám sát và kiểm tra từng khoản vay (kiểm tra trong và sau khi cho vay,
kiểm tra và đánh giá lại tài sản thế chấp,...)
Giám sát và kiểm tra tổng thể danh mục tín dụng
* Cơ cấu tổ chức
Về cơ cấu tổ chức, cần bảo đảm tạo môi trường hoạt động tín dụng có kiểm
soát. Các bộ phận chủ chốt có trách nhiệm liên quan đến quá trình quản trị rủi ro tín
dụng bao gồm: Hội đồng quản trị, Ban điều hành, Uỷ ban quản lý rủi ro tín dụng,
Ban giám đốc Chi nhánh, các trưởng phó phòng tín dụng.


14

* Trách nhiệm cá nhân đối với chất lượng cho vay
Con người là nhân tố quyết định chất lượng quản lý rủi ro tín dụng. Do đó
cần có cơ chế thù lao phù hợp, đảm bảo lựa chọn nhân viên đủ năng lực đảm đương
công việc. Ngoài ra cũng cần có cơ chế bổ nhiệm, thưởng phạt có hiệu quả, cơ chế
đào tạo và đào tạo lại nhằm khuyến khích nâng cao trách nhiệm cá nhân đối với
chất lượng tín dụng.
* Hệ thống tính điểm tín dụng

Hệ thống tính điểm tín dụng cần được tiến hành thực hiện trên cơ sở các
thông tin định lượng và thông tin định tính nhằm thống nhất đánh giá rủi ro tín dụng
đối với khách hàng theo một thàng điểm chuẩn. Hệ thống tính điểm tín dụng là cơ
sở quan trọng để phân loại và xếp loại khách hàng cũng như khoản vay.

1.2.3. Các nguyên tắc quản lý rủi ro tín dụng
Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking
supervision – BCBS) được thành lập vào năm 1975 bởi một nhóm các Ngân hàng
Trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước phát triển (G10) tại thành phố Basel,
Thuỵ Sỹ nhằm tìm cách ngăn chặn sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng vào thập
kỷ 80.
Quan điểm của Uỷ ban Basel: sự yếu kém trong hệ thống ngân hàng của một
quốc gia, dù quốc gia phát triển hay đang phát triển, sẽ đe doạ đến sự ổn định về tài
chính trong cả nội bộ quốc gia đó. Vì vậy, nâng cao sức mạnh của hệ thống tài
chính là điều mà Uỷ ban Basel quan tâm.
Uỷ ban Basel có đưa ra các nguyên tắc về quản lý rủi ro tín dụng, đảm bảo
tính hiệu quả và an toàn trong hoạt động cấp tín dụng. Các nguyên tắc này tập trung
vào các nội dung cơ bản sau đây:

1.2.3.2. Thực hiện theo một quy trình cấp tín dụng hợp lý
Nguyên tắc 1: Hội đồng quản trị (HĐQT) có trách nhiệm phê duyệt và rà
soát định kỳ (ít nhất là hàng năm) chiến lược và chính sách về rủi ro tín dụng của
ngân hàng. Chiến lược này phản ánh sức chịu đựng của ngân hàng đối với rủi ro và


15

mức độ sinh lời mà ngân hàng dự kiến đạt được khi phải gánh chịu các loại rủi ro
tín dụng.
Nguyên tắc 2: Ban điều hành phải có trách nhiệm triển khai thực hiện chiến

lược rủi ro tín dụng do HĐQT phê duyệt và xây dựng chính sách, quy trình để nhận
dạng, đo lường, kiểm soát và hạn chế rủi ro tín dụng. Những chính sách và quy trình
này cần chỉ rõ rủi ro tín dụng trong toàn bộ hoạt động của ngân hàng ở từng khoản
tín dụng cũng như ở cấp độ quản lý danh mục.
Nguyên tắc 3: Ngân hàng cần phải xác định và quản lý rủi ro tín dụng phát
sinh trong tất các sản phẩm và các hoạt động. Ngân hàng phải đảm bảo rằng rủi ro
của các sản phẩm và hoạt động mới phải được kiểm soát và thực hiện theo quy trình
quản lý rủi ro thích hợp trước khi sản phẩm và hoạt động đó được ban hành hoặc
triển khai và phải được phê duyệt trước bởi hội đồng quản trị hoặc một uỷ ban thích hợp.
Các nguyên tắc này quy định ngân hàng cần phải thiết lập một môi trường
rủi ro tín dụng phù hợp hay nói cách khác là phải xác định được mức độ chấp nhận
rủi ro hay khẩu vị rủi ro của ngân hàng.

1.2.3.2. Thực hiện theo một quy trình cấp tín dụng hợp lý
Nguyên tắc 4: Ngân hàng phải hoạt động trong phạm vi các tiêu chí cấo tín
dụng được xác định rõ ràng và hiệu quả. Những tiêu chí này cần bao gồm những chỉ
số rõ ràng về thị trường mục tiêu của ngân hàng và sự hiểu biết thấu đáo của người
vay vốn hay đối tác, nguồn trả nợ của khách hàng cũng như mục đích và cơ cấu tín
dụng.
Nguyên tắc 5: Ngân hàng phải xây dựng các hạn mức tín dụng tổng thể cho
mỗi khách hàng hoặc đối tác vay vốn, hoặc nhóm khách hàng có liên được tổng hợp
lại theo các loại rủi ro khách nhau theo các phương pháp có nghĩa và có thể so sánh
được cả trong sổ ngân hàng và sổ kinh doanh cả trong và ngoài bảng tổng kết tài sản.
Nguyên tắc 6: Ngân hàng cần phải có quy trình rõ ràng cho việc phê duyệt
mới, sửa đổi, cấp lại hoặc tái tài trợ các khoản tín dụng hiện tại.
Nguyên tắc 7: Việc cấp tín dụng phải được thực hiện trên nguyên tắc thận
trọng và khách quan. Cụ thể là các khoản tín dụng cho các công ty và cá nhân có


16


liên quan phải được giám sát và quan tâm đặc biệt, cần có những biện pháp thích
hợp để kiểm soát và giảm thiểu rủi ro trong việc cho vay.

1.2.3.3. Duy trì một quy trình đo lường, kiểm soát và quản trị tín dụng phù hợp
Nguyên tắc 8: Ngân hàng cần phải có một hệ thống để thực hiện quản trị và
giám sát thường xuyên, liên tục danh mục các khoản cho vay có rủi ro.
Nguyên tắc 9: Ngân hàng cần phải có hệ thống giám sát điều kiện của từng
khoản tín dụng bao gồm cả việc xác định đủ mức dự phòng rủi ro tín dụng.
Nguyên tắc 10: Ngân hàng cần có hệ thống đánh giá rủi ro tín dụng nội bộ để
quản lý rủi ro tín dụng. Hệ thống định hạng cần phải nhất quán với bản chất, quy
mô và mức độ phức tạp trong hoạt động của ngân hàng.
Nguyên tắc 11: Ngân hàng phải có hệ thống thông tin và các kỹ thuật phân
tích để trợ giúp cán bộ quản lý có thể đo lường rủi ro tín dụng phát sinh trong các
hoạt động trong và ngoài Bảng cân đối kế toán. Hệ thống thông tin quản lý cần cung
cấp đủ thông tin về cơ cấu của danh mục tín dụng để có thể nhận dạng các rủi ro tín
dụng do tập trung vào một ngành, lĩnh vực.
Nguyên tắc 12: Ngân hàng phải có hệ thống giám sát cấu trúc tổng thể và
chất lượng danh mục tín dụng.
Nguyên tắc 13: Ngân hàng cần phải đánh giá đầy đủ những biến động và
điều kiện kinh tế có thể xảy ra trong tương lại khi xem xét từng khoản tín dụng cũng
như danh mục cho vay của mình và cần đánh giá mức độ rủi ro tín dụng trong điều
kiện xấu nhất.

1.2.3.4. Đảm bảo kiểm soát đầy đủ rủi ro tín dụng
Nguyên tắc 14: Ngân hàng phải xây dựng hệ thống rà soát, đánh giá độc lập
và liên tục quy trình quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng, kết quả rà soát phải
được báo cáo trực tiếp Hội đồng quản trị và Ban điều hành.
Nguyên tắc 15: Ngân hàng phải được đảm bảo rằng chức năng cấp tín dụng
được quản lý đúng mức và rủi ro tín dụng được kiểm soát theo các giới hạn và

chuẩn mực nội bộ. Ngân hàng cần thiết lập và thực thi hệ thống kiểm tra nội bộ và


17

các thông lệ khác để đảm bảo rằng các trường hợp ngoại lệ so với chính sách, quy
trình và hạn mức được báo cáo một cách kịp thời tới cấp quản lý thích hợp để xử lý.
Nguyên tắc 16: Ngân hàng phải có hệ thống cảnh báo sớm đối với các khoản
tín dụng có nguy cơ giảm sút, quản lý các khoản cho vay có vấn đề và các trường
hợp nợ xấu tương tự.

1.2.4. Nội dung của quản lý rủi ro tín dụng
1.2.4.1. Nhận biết rủi ro tín dụng
* Nhóm dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng
Trong quá trình cho vay, ngân hàng thường xuyên tiếp xúc với khách hàng
thông qua việc ngân hàng theo dõi các tài khoản tiền vay, tiền gửi của khách hàng,
theo dõi nhu cầu vay vốn và sử dụng vốn vay của khách hàng, theo dõi những thay
đổi biến động về pháp lý, kinh doanh hay nhân sự của khách hàng. Vì vậy, các dấu
hiệu rủi ro tín dụng biểu hiện và có thể nhận biết như sau:
- Về tài khoản của khách hàng: có sự giảm sút mạnh số dư cũng như số
lượng giao dịch của tài khoản tiền gửi thanh toán, không có hoặc có rất ít các Hợp
đồng gửi tiền có kỳ hạn so với thời gian trước, số dư bình quân của tài khoản tiền
vay gia tăng. Những biểu hiện này cho thấy doanh số bán hàng/các nguồn thu của
khách hàng bị giảm sút hoặc khách hàng có dấu hiệu chuyển doanh thu sang các
TCTD khác mà không chuyển về để trả nợ ngân hàng.
- Thường xuyên cần nguồn hỗ trợ/vay vốn lưu động (VLĐ) từ nhiều nguồn
khác nhau, số lần đề nghị vay gia tăng bất thường. Hoặc đề nghị các khoản vay với
các ngân hàng vượt nhu cầu dự kiến của phương án kinh doanh.
- Không thanh toán được các khoản nợ đến hạn gốc và lãi, thường xuyên đề
nghị ngân hàng cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Có dấu hiệu “săn đón” cán bộ ngân

hàng, chấp nhận chịu lãi suất vay cao và mọi điều kiện tín dụng miễn là ngân hàng
cho vay vốn; có biểu hiện bất hợp tác, trì hoãn, cản trở ngân hàng thực hiện kiểm tra
vốn vay tại đơn vị.


18

* Nhóm dấu hiệu liên quan đến hoạt động kinh doanh, điều hành của khách hàng
- Về hoạt động kinh doanh: khách hàng thường xuyên không đạt kế hoạch
tháng/quý/năm về sản xuất và bán hàng; các sản phẩm của khách hàng tiêu thụ chậm
(hàng tồn kho nhiều, lâu ngày), có sự lạc hậu, kém chất lượng so với sản phẩm cùng
loại trên thị trường; ký kết các hợp đồng lớn nhằm đánh bóng tên tuổi mà không quan
tâm đến lợi nhuận hay khả năng thực hiện hợp đồng; cắt giảm các chi phí khấu hao,
sửa chữa tài sản, chi phí nghiên cứu sản phẩm; chịu tác động mạnh từ các yếu tố thuộc
môi trường kinh doanh như: tỷ giá, lãi suất thay đổi theo chiều hướng bất lợi, thay đổi
trong chính sách của Nhà nước theo hướng tiêu cực cho khách hàng, xuất hiện các
đối thủ cạnh tranh mới, xuất hiện các sản phẩm thay thế, thay đổi trong thị hiếu
người tiêu dùng…
- Về hoạt động điều hành, môi trường nhân sự của khách hàng: có sự thay
đổi đột xuất nhiều lần về nhân sự cấp cao (hội đồng quản trị, ban điều hành, các
chức vụ chủ chốt); phương thức quản trị/cách thức điều hành không thống nhất,
thường có sự bất đồng, tranh chấp trong quá trình quản lý; đề bạt những vị trí điều
hành là những người ít có kinh nghiệm, quản lý có tính gia đình trị; thuyên chuyển
nhân viên diễn ra thường xuyên, không xác định được sự phù hợp của nhân viên với
từng vị trí công tác; thiếu quan tâm đến lợi ích của cổ đông, chủ nợ…
* Nhóm dấu hiệu liên quan đến báo cáo tài chính của khách hàng
Báo cáo tài chính của doanh nghiệp là bức tranh toàn diện phản ánh tình
trạng “sức khỏe” của doanh nghiệp. Do vậy, đối với ngân hàng, báo cáo tài chính
của doanh nghiệp là công cụ quan trọng để thẩm định, xét duyệt cho vay, kiểm soát
và đánh giá việc sử dụng vốn vay, đồng thời nhận diện các dấu hiệu tiềm ẩn rủi ro

tín dụng của khách hàng.
Những dấu hiệu tiềm ẩn rủi ro tín dụng thông qua báo cáo tài chính gồm:
không cung cấp đầy đủ số liệu tài chính hoặc chậm trễ/trì hoãn trong việc nộp báo
cáo tài chính, không thực hiện kiểm toán độc lập trong một thời gian dài. Phân tích
báo cáo tài chính nhận thấy một số chỉ tiêu hoạt động của khách hàng có dấu hiệu đi
xuống như: sự gia tăng không cân đối về tỷ lệ nợ thường xuyên, tiền mặt giảm


19

mạnh, tăng doanh số bán nhưng lãi ít hoặc gần như không có, tài khoản hạch toán
vốn điều lệ không khớp, thay đổi về tỷ lệ lãi gộp và lãi ròng trên doanh số bán, phải
thu khách hàng tăng nhanh và thời gian thanh toán của các khoản nợ bị kéo dài, sử
dụng nguồn vốn ngắn hạn để đầu tư trung dài hạn quá lớn…
Căn cứ những dấu hiệu tiềm ẩn rủi ro tín dụng mà ngân hàng nhận diện được
trong quá trình vay vốn của khách hàng, phân tích cụ thể từng dấu hiệu sẽ giúp ngân
hàng có những biện pháp thích hợp để xử lý nhằm hạn chế rủi ro tín dụng xảy ra.

1.2.4.2. Đo lường và xác định rủi ro tín dụng
* Xác định rủi ro tín dụng theo mô hình các chỉ tiêu rủi ro chính
- Tốc độ tăng trưởng tín dụng: nếu tăng trưởng tín dụng quá mức có thể là
nguyên nhân tiềm ẩn của rủi ro trong hoạt động tín dụng. Do đó, cần phải kiểm soát
tăng trưởng tín dụng ở mức phù hợp với tăng trưởng kinh tế, đảm bảo chất lượng tín
dụng.
- Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đến hạn thoả
thuận ghi trên hợp đồng tín dụng; hoặc ngân hàng phát hiện khách hàng sử dụng sai
mục đích,…Nợ quá hạn là điều không mong muốn của ngân hàng.
Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ = tổng dư nợ quá hạn/tổng dư nợ x 100%.
Các ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ nợ ≥7% được xem là ngân hàng

có chất lượng tín dụng yếu kém.
- Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ:
Nợ xấu là các khoản nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5, tiềm ẩn nhiều rủi ro mất vốn
cho ngân hàng. Chính vì vậy, tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng càng thấp cho thấy ngân
hàng có chất lượng tín dụng càng tốt.
Tỷ lệ nợ xấu = tổng dư nợ xấu/tổng dư nợ x 100%
- Nợ không có tài sản bảo đảm và tỷ lệ nợ không được bảo đảm bằng tài sản.
Nợ không có tài sản bảo đảm là khoản nợ mà khách hàng không có tài sản để
thế chấp, cầm cố để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng. Ngân hàng cho vay
dựa trên uy tín của khách hàng (tín chấp).


20

Tỷ lệ nợ không có TSBĐ = Dư nợ không có TSBĐ/Tổng dư nợ x 100%
Do TSBĐ được coi là phương án thu hồi nợ dự phòng của ngân hàng khi
nguồn trả nợ thứ nhất từ phương án kinh doanh của khách hàng không đạt được như
dự kiến hoặc khách hàng không trả nợ ngân hàng theo hợp đồng đã ký. Do đó, dư
nợ không được bảo đảm bằng tài sản cũng phản ánh mức độ rủi ro trong cho vay
của ngân hàng.
- Tỷ lệ bù đắp rủi ro (quỹ dự phòng rủi ro/nợ xấu): tỷ lệ này cho biết quỹ dự
phòng rủi ro tín dụng đảm bảo có bù đắp được tổn thất nợ xấu, trên cơ sở đó phản
ánh được chất lượng tín dụng.
- Cơ cấu danh mục cho vay: tỷ trọng dư nợ cho vay theo ngành nghề. Quản
trị danh mục cho vay cần chỉ ra được tỷ trọng đầu tư tối ưu vào mỗi ngành, vùng,
quy mô…để rủi ro thấp nhất là bao nhiêu.
* Đo lường rủi ro tín dụng
Trong hoạt động của ngân hàng, tín dụng là hoạt động chủ yếu. Nếu quản lý
tốt, tín dụng sẽ góp phần đáng kể trong việc tạo ra lợi nhuận và làm tăng giá trị
ngân hàng. Ngược lại, nếu quản lý kém, tín dụng có thể gây ra tổn thất lớn và làm

giảm giá trị ngân hàng. Tuy vậy, một trong những tính chất cơ bản của tài chính
hiện đại là tính rủi ro. Vì thế, mục tiêu quan trọng của quản lý tín dụng là làm giảm
tối đa rủi ro tín dụng. Muốn vậy, ngân hàng phải lượng hoá và đánh giá được rủi ro
tín dụng để từ đó có các biện pháp quản lý hiệu quả. Có thể sử dụng nhiều mô hình
khác nhau để đánh giá rủi ro tín dụng, bao gồm mô hình định lượng và định tính.

 Mô hình định tính về rủi ro tín dụng - Mô hình 6C
Đối với mỗi khoản vay, câu hỏi đầu tiên của ngân hàng là liệu khách hàng có
thiện chí và khả năng thanh toán khi khoản vay đến hạn hay không? Điều này liên
quan đến việc nghiên cứu chi tiết “6 khía cạnh – 6C” của khách hàng bao gồm:
- Tư cách người vay (Character): Cán bộ tín dụng phải làm rõ mục đích xin
vay của khách hàng, mục đích vay của khách hàng có phù hợp với chính sách tín
dụng hiện hành của ngân hàng hay không, đồng thời xem xét về lịch sử đi vay và trả


21

nợ đối với khách hàng cũ; còn khách hàng mới thì cần thu thập thông tin từ nhiều
nguồn khác,…
- Năng lực của người vay (Capacity): Ngân hàng phải chắc chắn rằng người
xin vay phải có đủ năng lực hành vi và năng lực pháp lý để ký kết hợp đồng tín dụng.
Khía cạnh pháp lý của người vay phải được xem xét một cách cẩn trọng và không
được phép sai sót, bởi lẽ điều này có thể dẫn đến một hợp đồng tín dụng vô hiệu và
khi đó ngân hàng sẽ gặp rủi ro. Do đó, ngân hàng phải chắc chắn rằng doanh nghiệp
xin vay không phải là một doanh nghiệp “ma”, thời hạn hoạt động của doanh nghiệp
phải đủ dài hơn thời hạn cho vay, người đại diện theo pháp luật có đủ năng lực hành
vi và được quyền thay mặt doanh nghiệp ký kết hợp đồng tín dụng (tức là người được
uỷ quyền hợp pháp của công ty), nếu không thì ngân hàng sẽ không thể thu hồi được
nợ và tiềm ẩn nhiều rủi ro.
- Thu nhập của người vay (Cashflow): xác định nguồn trả nợ của khách hàng

vay như luồng tiền từ doanh thu bán hàng hay từ thu nhập, tiền từ bán thanh lý tài
sản,…
- Bảo đảm tiền vay (Collateral): Đây là điều kiện để ngân hàng cấp tín dụng
và là nguồn thu thứ hai có thể dùng để trả nợ vay cho ngân hàng trong trường hợp
nếu khách hàng vay không có khả năng hoàn trả nợ vay. Trong khi đánh giá tài sản
đảm bảo ngân hàng cần chú ý tới các yếu tố như tuổi thọ, mức độ chuyên dụng của
tài sản, công nghệ. Mặt khác cần chắc chắn về giá trị có thể thu hồi được từ tài sản
đảm bảo đó
- Các điều kiện (Conditions): ngân hàng quy định các điều kiện tuỳ theo
chính sách tín dụng từng thời kỳ.
- Kiểm soát (Control): đánh giá những ảnh hưởng do sự thay đổi của luật
pháp, quy chế có ảnh hưởng đến người vay và khả năng khách hàng có đáp ứng các
tiêu chuẩn của ngân hàng hay không từ đó đưa ra các biện pháp hợp lý để hạn chế rủi
ro tín dụng.


22

Việc sử dụng mô hình này tương đối đơn giản, song hạn chế của mô hình
này là nó phụ thuộc vào mức độ chính xác của nguồn thông tin thu thập, khả năng
dự báo cũng như trình độ phân tích, đánh giá của cán bộ tín dụng.

 Các mô hình lượng hoá rủi ro tín dụng
Mô hình định tính được xem là mô hình cổ điển để đánh giá rủi ro tín dụng.
Sau đây là một số mô hình lượng hóa rủi ro tín dụng thường được sử dụng nhiều nhất:
Mô hình điểm số Z (Z – credit scoring model):
Đây là mô hình do E.I.Altman xây dựng dùng để cho điểm tín dụng đối với
các doanh nghiệp vay vốn. Mô hình này phụ thuộc vào: Chỉ số các yếu tố tài chính
của người vay – X; Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất
vỡ nợ của người vay trong quá khứ, mô hình được mô tả như sau (Nguyễn Văn

Tiến, Quản trị trong kinh doanh ngân hàng, trang 334, năm 2005):
Z = 1,2X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0,6X4 + 1,0X5
Trong đó:
X1: tỷ số vốn lưu động ròng/tổng tài sản
X2: tỷ số lợi nhuận tích luỹ/tổng tài sản
X3: tỷ số lợi nhuận trước thuế và lãi/tổng tài sản
X4: tỷ số thị giá cổ phiếu/giá trị ghi sổ của nợ dài hạn
X5: tỷ số doanh thu/tổng tài sản
Trị số Z càng cao thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Như vậy, khi trị
số Z thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ để xếp khách hàng vào nhóm có nguy cơ
vỡ nợ cao.
Z < 1,8: khách hàng có khả năng rủi ro cao
1,8 < Z < 3: không xác định được
Z > 3: khách hàng không có khả năng vỡ nợ
Bất kỳ công ty nào có điểm số Z < 1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ
rủi ro tín dụng cao.
Ưu điểm: kỹ thuật đo lường rủi ro tín dụng tương đối đơn giản


23

Nhược điểm:
Mô hình này chỉ cho phép phân loại nhóm khách hàng vay có rủi ro và
không có rủi ro. Tuy nhiên trong thực tế mức độ rủi ro tín dụng tiềm năng của mỗi
khách hàng khác nhau từ mức thấp như chậm trả lãi, gốc đến mức mất hoàn toàn
khả năng trả nợ gốc và lãi của khoản vay.
Mô hình không tính đến một số nhân tố khó định lượng nhưng có thể đóng
một vai trò quan trọng ảnh hưởng đến mức độ của khoản vay (danh tiếng của khách
hàng, các yếu tố vĩ mô như sự biến động của chu kỳ kinh tế).
Mô hình xếp hạng của Moody’s và Standard & Poor

Rủi ro tín dụng trong cho vay và đầu tư thường được thể hiện bằng việc xếp
hạng trái phiếu và khoản cho vay, trong đó Moody và Standard & Poor là những
công ty cung cấp dịch vụ này tốt nhất. Moody và Standard & Poor xếp hạng trái
phiếu và khoản cho vay theo 9 hạng với cấp độ chất lượng giảm dần, trong đó 4
hạng đầu ngân hàng nên cho vay, còn các hạng sau thì không nên đầu tư, cho vay.
Bảng 1.1: Mô hình xếp hạng theo Moody’s và Standard & Poor

Xếp hạng
Aaa
Aa
A
Baa
Ba
B
Caa
Ca
C

Moody’s
Tình trạng
Chất lượng cao nhất
Chất lượng cao
Chất lượng vừa cao hơn
Chất lượng vừa
Nhiều yếu tố đầu cơ
Đầu cơ
Chất lượng kém
Đầu cơ có rủi ro cao
Chất lượng kém nhất


Standard & poor’s
Xếp hạng
Tình trạng
AAA
Chất lượng cao nhất
AA
Chất lượng cao
A
Chất lượng vừa cao hơn
BBB
Chất lượng vừa
BB
Nhiều yếu tố đầu cơ
B
Đầu cơ
CCC-CC Đầu cơ có rủi ro cao
C
Trái phiếu có lợi nhuận
DDD-D

Không hoàn được vốn

Việc xếp hạng giảm dần từ Aa (Moody’s) và AA (Standard & Poor’s) sau đó
thấp dần để phản ánh rủi ro không được hoàn vốn cao. Trong đó, với khách hàng
thuộc một trong 4 loại đầu được xem như có khả năng trả nợ, có thể thực hiện cho
vay, còn các doanh nghiệp có mức xếp hạng thuộc 5 loại sau được xếp loại có độ
rủi ro cao, khả năng hoàn vốn thấp dần. Nhưng do có mối quan hệ giữa rủi ro và lợi
nhuận nên tuy việc xếp hạng thấp nhưng có lợi nhuận cao nên đôi lúc khách hàng



24

chấp nhận đầu tư vào các loại chứng khoán này. Để đạt được lợi nhuận kỳ vọng,
nhà dầu tư thường đa dạng hóa danh mục đầu tư để tối đa hóa lợi nhuận trong khi
vẫn đạt tỷ lệ an toàn có thể chấp nhận được.

1.3. Các nhân tố tăng cường quản lý rủi ro tín dụng
1.3.1. Các nhân tố chủ quan (các nhân tố bên trong ngân hàng)
- Cơ cấu tổ chức của hoạt động tín dụng, hoạt động quản lý rủi ro tín dụng:
Cơ cấu tổ chức hoạt động tín dụng và hoạt động quản lý rủi ro tín dụng là
công cụ quan trọng trong việc quản lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng. Theo chuẩn
mực quốc tế, để tránh những vấn đề rủi ro phát sinh, hoạt động tín dụng nhất thiết
phải phân tách giữa các chức năng: đề xuất tín dụng, phê duyệt cho vay và quản trị
giải ngân. Trên cơ sở sự phân tách đó, bộ phận quan hệ khách hàng sẽ chịu trách
nhiệm tiếp xúc, tiếp nhận các yêu cầu của khách hàng, khởi tạo tín dụng, cung cấp
thông tin cho bộ phận quản lý rủi ro tín dụng đồng thời kiểm tra giám sát quá trình
thực hiện các cam kết của khách hàng (sử dụng vốn vay, tài sản bảo đảm…). Bộ
phận Quản lý rủi ro thực hiện thẩm định tín dụng độc lập và đưa ra các ý kiến về
cấp tín dụng cũng như giám sát quá trình thực hiện các quyết định tín dụng của bộ
phận quan hệ khách hàng. Bộ phận quản lý nợ thực hiện lưu trữ hồ sơ, nhập hệ
thống máy tính và quản lý khoản vay…Sự tách biệt giữa 3 chức năng nhằm mục
tiêu hàng đầu là giảm thiểu rủi ro ở mức thấp nhất đồng thời phát huy được tối đa
kỹ năng chuyên môn của từng vị trí cán bộ làm công tác tín dụng. Vì vậy, việc xây
dựng một cơ cấu tổ chức hướng theo chuẩn mực quốc tế tốt nhất sẽ là giải pháp hữu
hiệu để quản lý rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại.
- Xác định mục tiêu, xây dựng chiến lược chính sách, quy trình quản lý rủi
ro tín dụng:
Chiến lược quản lý rủi ro tín dụng phải bao gồm mô tả về thị trường mục
tiêu, các sản phẩm, ngành và khách hàng mục tiêu và các biện pháp quản lý rủi ro
tín dụng đối với các thị trường này.

Chính sách tín dụng là đường lối, chủ trương đảm bảo cho hoạt động tín
dụng đi đúng quỹ đạo liên quan đến việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng, định hướng
tín dụng theo ngành nghề…Nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của một ngân


25

hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo
khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng. Bất cứ ngân hàng nào muốn có chất lượng
tín dụng cao đều phải có chính sách tín dụng phù hợp với điều kiện của ngân hàng, của
thị trường. Chính sách tín dụng gồm các nội dung: tiêu chuẩn cấp tín dụng, thẩm quyền
phê duyệt các cấp, hạn mức tín dụng đối với một khách hàng và nhóm khách hàng liên
quan, với ngành hoặc lĩnh vực kinh tế, kiểm tra tín dụng, hướng dẫn và xử lý các khoản
cho vay có vấn đề,…
Quy trình quản lý rủi ro tín dụng là quy trình thủ tục cần phải thực hiện trong
khi đánh giá, phê duyệt xử lý, ghi chép và quản lý các giao dịch tín dụng, quản lý
danh mục tín dụng. Quy trình quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng phải cung cấp
cho ngân hàng những công cụ, trình tự và dữ liệu thích hợp để đánh giá rủi ro tín
dụng. Quy trình được xây dựng để đảm bảo việc ra quyết định tín dụng, xử lý hồ sơ
và ghi chép các hồ sơ đã được phê duyệt được thực hiện một cách có tổ chức, hiệu
quả và chuyên nghiệp nhất.
- Tuân thủ chính sách, quy trình tín dụng một cách thận trọng: Các ngân
hàng phải quan tâm và thực hiện triệt để các nguyên tắc tín dụng, đặc biệt là các
thông tin về khách hàng. Cụ thể khi khách hàng đến vay vốn, các bộ phận liên quan
trong ngân hàng phải giải đáp các vấn đề như: tư cách của người vay, hiệu quả hoạt
động kinh doanh của khách hàng, mục đích khoản vay, nguồn trả nợ, khả năng kiểm
soát khoản vay của ngân hàng, năng lực quản trị điều hành của khách hàng, thực
trạng tài chính khách hàng trước khi quyết định cho vay.
- Quản lý tài sản bảo đảm: các ngân hàng phải xây dựng quy trình quản lý tài
sản bảo đảm bao gồm việc theo dõi, quản lý và thanh lý tài sản bảo đảm. Ngoài ra,

ngân hàng phải có quy định, hướng dẫn cụ thể danh sách các loại tài sản mà ngân
hàng chấp nhận, tần suất đánh giá tài sản bảo đảm theo nguyên tắc tài sản bảo đảm
mà có sự biến động giá nhiều hơn sẽ phải đánh giá thường xuyên hơn.
- Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ:
Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ (XHTDNB) là tổ hợp các quy trình phân
loại khách hàng theo ngành nghề, quy mô, tính chất sở hữu, bộ chỉ tiêu tài chính và


×