Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Khảo sát sự biến động của lãi suất trong quá trình tự do hóa tài chính ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.08 KB, 31 trang )

Khảo sát sự biến động của lãi suất
trong quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam

GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ LÃI SUẤT VÀ TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH
1.1 Kiềm chế tài chính
Kiềm chế tài chính là khái niệm để chỉ luật và chính sách của chính phủ hoặc những
biện pháp phi thị trường nhằm ngăn chặn các tổ chức trung gian tài chính của một kinh nền
kinh tế vận hành tối đa năng lực. Các chính sách dùng trong việc kiềm chế tài chính bao
gồm trần lãi suất, yêu cầu về tỷ lệ thanh khoản, nhu cầu dự trữ cao của các ngân hàng, kiểm
soát vốn, ngăn chặn giới hạn việc gia nhập khu vực tài chính , trần tín dụng hoặc những biện
pháp hạn chế phân phối tín dụng, quyền sở hữu hoặc chi phối nhà nước đối với các ngân
hàng. Các nhà kinh tế học thường tranh luận rằng kiềm chế tài chính sẽ ngăn cản việc phân
phối hiệu quả nguồn vốn và từ đó làm suy yếu sự phát triển kinh tế.
Ronald McKinnon và Edward Shaw là những người đầu tiên phát triển khái niệm
kiềm chế tài chính. Lý thuyết cho rằng nền kinh tế với hệ thống tài chính hiệu quả sẽ phát
triển và gặt hái nhiều thành công nhờ vào phân phối nguồn vốn hiệu quả. Tuy nhiên,
McKinnon và Shaw đã phản bác lại điều này vì theo họ trong lịch sử từ trước đến nay, những
quốc gia phát triển và đặc biệt những quốc gia đang phát triển đã ngăn chặn sự cạnh tranh
trong các lĩnh vực tài chính với sự can thiệp và chính sách của chính phủ. Theo lí giải của
các nhà khoa học này, một lĩnh vực tài chính bị kiềm chế sẽ gây cản trở với cả việc tiết kiệm
và đầu tư vì tỷ lệ lãi suất sẽ thấp hơn với những gì có thể đạt được trong một thị trường cạnh
tranh. Với hệ thống như thế, những hình thức trung gian tài chính không thể hiện được hết
chức năng của mình và sẽ thất bại trong việc chuyển hướng từ tiết kiệm vào đầu tư. Từ đó
dẫn đến việc cản trở sự phát triển của toàn bộ hệ thống kinh tế.
1.2 Tự do hóa tài chính:
Tự do hóa tài chính là quá trình giảm thiểu và cuối cùng là hủy bỏ sự kiểm soát của
Nhà nước đối với hoạt động của hệ thống tài chính quốc gia, làm cho hệ thống này hoạt động
tự do hơn và hiệu quả hơn theo quy luật thị trường. Nội dung cơ bản của tự do hóa tài chính
bao gồm: tự do hóa lãi suất, tự do hóa hoạt động cho vay của các NHTM, tự do hóa hoạt


động ngoại hối, tự do hóa hoạt động của các tổ chức tài chính trên thị trường tài chính.
Trong một quốc gia, hệ thống tài chính có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế
xã hội. Quốc gia có hệ thống tài chính mạnh có thể làm cho quá trình lưu thông tiền tệ được
diễn ra suôn sẻ hơn, kích thích mọi thành phần kinh tế phát triển. Có nhiều ý kiến khác nhau
về quan điểm tự do hóa tài chính trong nền kinh tế. Thực ra, tự do hóa tài chính là việc nới
lỏng những ràng buộc hay việc kiểm soát khu vực tài chính của Nhà nước dưới nhiều hình
thức khác nhau.
1.2.1 Các thành phần tự do hóa tài chính
Tự do hóa tài chính bao gồm tự do hóa tài chính trong nước và tự do hóa tài chính với
nước ngoài. Tự do hóa tài chính trong nước là cho phép các tổ chức tài chính trong nước tự
do thực hiện các dịch vụ tài chính theo nguyên tắc thị trường, các thị trường tài chính trong
nước được khuyến khích phát triển, các công cụ chính sách tiền tệ được điều hành theo tín
hiệu thị trường. Tự do hóa tài chính với nước ngoài bao gồm tự do hóa giao dịch vãng lai và
tự do hóa giao dịch vốn.

Nhóm 9 – Đêm 5 – Cao Học K22

Page 1


Khảo sát sự biến động của lãi suất
trong quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam

GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng

Bản chất của tự do hóa tài chính là hoạt động tài chính theo cơ chế nội tại vốn có của
thị trường và chuyển vai trò điều tiết tài chính từ chính phủ sang thị trường, mục tiêu là tìm
ra sự phối hợp có hiệu quả giữa Nhà nước và thị trường trong việc thực hiện các mục tiêu,
nhiệm vụ kinh tế-xã hội. Do đó, kết quả của tự do hóa tài chính thường được thể hiện bằng tỷ
số giữa tiền mở rộng (tiền mặt và tiền gửi trong hệ thống NHTM) trên thu nhập quốc dân.

Ngoài ra, tự do hóa tài chính là sự xóa bỏ các hạn chế, định hướng hay ràng buộc về số lượng
trong quá trình cấp và phân phối tín dụng. Sự điều tiết về số lượng này được thay thế bởi một
cơ chế giá: tự do hóa mang lại cho các định chế tài chính quyền tự do xác định các mức lãi
suất tiền gởi, cho vay và tự do sử dụng công cụ lãi suất. Trên lý thuyết, tự do hóa dẫn đến
chấm dứt các mức trần lãi suất cũng như những ràng buộc trong việc sử dụng các nguồn vốn
huy động được. Tự do hóa cũng chấm dứt những kênh cấp vốn ưu đãi. Việc mở rộng cạnh
tranh trong các hoạt động trung gian tài chính, chấm dứt sự phân biệt đối xử về pháp lý giữa
các thành phần kinh tế cũng được xem là một khía cạnh của tự do hóa tài chính. Tuy nhiên,
tự do hóa không có nghĩa là chấm dứt mọi qui định hay giám sát các hoạt động tài chính.
Ngược lại, tự do hóa đòi hỏi phải tăng cường cơ sở hạ tầng qui chế và các cơ quan giám sát.
Việc đặt ra các qui định là cần thiết để đảm bảo cho sự vận hành hiệu quả của các thị
trường tài chính và ngân hàng.
1.2.2 Nội dung tự do hóa tài chính
Tùy theo tình hình thực tế của từng quốc gia, tự do hóa tài chính bao gồm nhiều yếu
tố khác nhau. Nhìn chung có 5 yếu tố quan trọng nhất gồm: (1) Tự do hóa lãi suất và giá cả;
(2) Tự do hóa hoạt động tín dụng và giảm thiểu thủ tục hành chính của các tổ chức tín
dụng nhà nước; (3) Tự do hoạt động ngoại hối; (4) Tự do hóa hoạt động của các tổ chức tài
chính trên thị trường tài chính; (5) Cắt giảm thuế và lạm phát trên thị trường tài chính quốc
gia. Trong phạm vi nghiên cứu, bài viết chỉ đề cập đến tự do hóa lãi suất.
1.2.3 Lý thuyết về lãi suất và tự do hóa lãi suất
1.2.3.1 Khái niệm về lãi suất
Lãi suất là một phạm trù kinh tế tổng hợp, có liên quan chặt chẽ đến một số phạm trù
kinh tế khác và đóng vai trò như là một đòn bẩy kinh tế cực kỳ nhạy bén có ảnh hưởng trực
tiếp đến các hoạt động của doanh nghiệp và dân cư. Quan trọng hơn, nó được Nhà nước sử
dụng như một công cụ quản lý vĩ mô trong nền kinh tế thị trường. Có nhiều khái niệm định
nghĩa khác nhau về lãi suất:
-

-


Theo Karl-Marx: Lãi suất là giá cả của tư bản cho vay (Giá cả của tín dụng)
Theo Samuelson: Lãi suất là giá mà người đi vay phải trả cho người cho vay để sử
dụng một khoản tiền trong một khoản thời gian nhất định. Nó chính là giá của việc
mua bán quyền sử dụng tiền tệ trong một thời gian xác định.
Theo Marshall: Lãi suất chỉ là giá phải trả cho việc sự dụng vốn trên một thị trường
bất kỳ

Như vậy, lãi suất là giá cả của quyền được sử dụng vốn vay trong thời gian nhất định
mà người sử dụng trả cho người sở hữu nó.
Nhóm 9 – Đêm 5 – Cao Học K22

Page 2


Khảo sát sự biến động của lãi suất
trong quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam

GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng

1.2.3.2 Phân loại lãi suất:
Hiện nay trong hoạt động kinh tế có rất nhiều loại lãi suất khác nhau có những đặc điểm,
chức năng và vai trò nhất định. Trong phạm vi nghiên cứu chỉ đề cập đến khái niệm một số
lãi suất liên quan đến đề tài.
Lãi suất tiền gửi (LSTG): Là lãi suất mà các ngân hàng, các TCTD trả cho các khoản tiền gửi
vào ngân hàng, TCTD
Lãi suất cho vay: Là lãi suất mà người đi vay phải trả cho ngân hàng do việc sử dụng vốn
vay của ngân hàng
Lãi suất chiết khấu: Áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình thức chiết khấu
thương phiếu hoặc giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán của khách hàng
Lãi suất tái chiết khấu: Áp dụng khi NHTW cho các ngân hàng trung gian vay dưới hình

thức chiết khấu lại thương phiếu hoặc giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán của
các ngân hàng này.
Lãi suất tái cấp vốn: Là lãi suất cho vay của NHNN với các NHTM dưới hình thức tái cấp
vốn.
Lãi suất liên ngân hàng: Là mức lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, nơi các ngân
hàng thực hiện việc vay và cho vay lẫn nhau, nó chỉ dẫn chính xác hơn về chi phí vốn vay
của các ngân hàng và cung-cầu vốn trên thị trường. Lãi suất này chịu tác động mạnh mẽ bởi
lãi suất tái cấp vốn của NHNN.
Lãi suất cơ bản (LSCB) là lãi suất được các Ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ấn định mức lãi
suất kinh doanh của mình. LSCB được hình thành khác nhau tùy từng nước. Ở nước ta,
LSCB do NHNN công bố, làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh.
Lãi suất danh nghĩa: Là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ hay nói cách khác là
loại lãi suất chưa loại trừ tỷ lệ lạm phát.
Lãi suất thực: là lãi suất điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi của lạm phát, hay nói
cách khác được đo lường bằng chênh lệch giữa lãi suất danh nghĩa với tỷ lệ lạm phát dự kiến
hay tỷ lệ lạm phát kỳ vọng.
1.2.3.3 Các yếu tố tác động hình thành lãi suất:
Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất có vai trò rất quan trọng, tác động đến hầu hết các lĩnh
vực của nền kinh tế xét ở phạm vi vĩ mô và vi mô.
Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm
Thu nhập của cá nhân bao giờ cũng được chia làm hai phần là tiêu dùng và tiết kiệm.
Hành vi tiết kiệm với kỳ vọng phòng ngừa rủi ro, mở rộng sản xuất, tích luỹ và tiêu dùng
trong tương lai chính là nguồn cung về vốn vay trong nền kinh tế. Tiêu dùng là một hàm phụ
thuộc vào thu nhập khả dụng. Ở mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh, sự thắt chặt hay nới
lỏng của chính sách thuế mà ngân sách dành cho chi tiêu bị tác động. Tiết kiệm bị ảnh hưởng
bởi nhiều nhân tố như thu nhập, tập quán tiết kiệm và lãi suất. Khi lãi suất tăng làm tăng ý
muốn tiết kiệm và sự sẵn sàng chi tiêu giảm xuống.
Lãi suất và đầu tư
Lượng cầu về đầu tư phụ thuộc vào lãi suất, để một dự án đầu tư có lãi, lợi nhuận thu
được phải cao hơn chi phí. Vì lãi suất phản ánh chi phí vốn để tài trợ cho đầu tư, việc tăng lãi

Nhóm 9 – Đêm 5 – Cao Học K22

Page 3


Khảo sát sự biến động của lãi suất
trong quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam

GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng

suất làm giảm số lượng dự án đầu tư có lãi, bởi vậy nhu cầu về đầu tư giảm do đó đầu tư tỷ lệ
nghịch với lãi suất.
Lãi suất và lạm phát
Lạm phát là sự tăng lên liên tục của mức giá, là hiện tượng mất giá của đồng tiền. Lý
luận và thực tiễn đã thừa nhận mối quan hệ chặt chẽ giữ lãi suất và lạm phát. Fisher chỉ ra
rằng lãi suất tăng cao trong thời kỳ lạm phát cao. Có nhiều nguyên nhân gây nên lạm phát và
cũng có nhiều biện pháp để kiểm soát lạm phát, trong đó công cụ lãi suất là một giải pháp
công hiệu khá nhanh. NHTW có thể sử dụng công cụ lãi suất để thu tiền từ lưu thông về hệ
thống ngân hàng, làm giảm lượng tiền lưu thông để kiềm chế lạm phát.
Lãi suất và tỷ giá
Lãi suất và tỷ giá có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đây là hai công cụ song hành
quan trọng của chính sách tiền tệ, việc cải cách chính sách điều hành ngân hàng hai yếu tố
này đòi hỏi phải được tiến hành đồng thời. Trong điều kiện một nền kinh tế mở, với nguồn
vốn được tự do vận động, nếu lãi suất trong nước tăng lên nguồn vốn nước ngoài sẽ đổ vào
đẩy cầu nội tệ lên cao, với mức cung tiền nhất định tỷ giá sẽ bị nâng lên ảnh hưởng đến hoạt
động ngoại thương của quốc gia. Ngược lại, khi lãi suất giảm xuống, vốn trong nước giảm
làm cho cầu ngoại tệ cao tỷ giá tụt xuống.
Lãi suất với cung - cầu vốn
Khi thu nhập tăng, theo lý thuyết lượng cầu tài sản, nhu cầu nắm giữ tiền của dân
chúng tăng lên. Người ta cần nhiều tiền hơn cho chi tiêu. Lãi suất như đã đề cập từ đầu là chi

phí cơ hội cho việc giữ tiền. Vì vậy khi lãi suất tăng người ta ít có ý muốn nắm giữ tiền hơn
mà chuyển sang mua các loại chứng khoán hoặc gửi tiết kiệm để thu lợi. Do vậy, việc sử
dụng một mức lãi suất hợp lý sẽ thu hút được tiền tiết kiệm từ thị trường để đầu tư. Lãi suất ở
mức hiệu quả sẽ tạo ra động cơ di chuyển vốn từ khu vực có năng suất thấp hơn sang khu
vực có năng suất cao và sẽ tạo ra hiệu quả kinh tế cao hơn. Không chỉ điều tiết, phân bổ
nguồn vốn trong nội địa, lãi suất là công cụ ảnh hưởng tới luồng vốn vào và ra của quốc gia.
Với việc thay đổi lãi suất sẽ làm thay đổi lượng vốn vào và ra ảnh hưởng đến tỷ giá, cán cân
thương mại.
1.2.3.4 Đặc điểm của lãi suất Việt Nam:
-

Áp dụng LSCB để làm cơ sở để ấn định mức lãi suất kinh doanh cho các ngân hàng
thương mại, các tổ chức tín dụng.

-

Mặt bằng lãi suất không đồng đều do mỗi ngân hàng công bố một mức lãi suất khác
nhau.

-

Có sự tồn tại của chính sách hỗ trợ lãi suất cho một số các chủ thể kinh tế đặc biệt làm
ảnh hưởng đến sự đồng bộ của mặt bằng lãi suất.

-

Lãi suất có mối tương quan chặt chẽ với các biến số kinh tế khác nên đã trở thành
công cụ đắc lực được lựa chọn để kiểm soát lạm phát mục tiêu và kiểm soát các kỳ
vọng lạm phát hữu hiệu.


1.2.3.5 Tự do hoá lãi suất
Nhóm 9 – Đêm 5 – Cao Học K22

Page 4


Khảo sát sự biến động của lãi suất
trong quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam

GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng

Khái niệm
Tự do hoá lãi suất là cơ chế lãi suất trong đó không có hoặc chỉ có sự can thiệp rất
hạn chế của Chính phủ vào việc hình thành lãi suất. Khi cởi bỏ kiềm chế, lãi suất được hình
thành trên cơ sở thị trường, vận động theo quy luật cung cầu. Tự do hóa lãi suất được hiểu là
lãi suất hoàn toàn được điều chỉnh theo yêu cầu của thị trường. Sự can thiệp của Nhà nước
đối với thị trường tiền tệ tín dụng chỉ được điều hành thông qua các công cụ gián tiếp như lãi
suất tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc, để tác động lên cung-cầu vốn
trên thị trường tiền tệ nhằm đảm bảo sự an toàn phù hợp với mục tiêu chính sách kinh tế vĩ
mô từng thời kì.
Như vậy tự do hoá lãi suất có thể được hiểu là việc tháo bỏ hoàn toàn các ràng buộc
về lãi suất trong nền kinh tế, cho phép lãi suất trong nền kinh tế đạt tới điểm cân bằng của
nó. Thực chất của tự do hoá lãi suất là một quá trình loại bỏ các quy phạm, giới hạn bất hợp
lý, loại bỏ tối đa các kiểm soát về lãi suất trong kinh doanh tiền tệ của khu vực trung gian tài
chính và thay thế bằng các biện pháp điều tiết lãi suất gián tiếp của NHTW thông qua các
công cụ của chính sách tiền tệ.
Biểu hiện của tự do hoá lãi suất:
Trong điều hành chính sách lãi suất, NHTW chỉ công bố các mức lãi suất áp dụng đối
với các khoản cho vay tái chiết khấu hoặc tái cấp vốn của mình đối với các tổ chức tín dụng.
Các mức LSTG cho vay cụ thể theo từng kỳ hạn, từng đối tượng của các tổ chức tín dụng đối

với nền kinh tế sẽ do tổ chức tín dụng tự ấn định, dựa trên cung-cầu vốn và sự cạnh tranh
trên thị trường, từ đó hình thành nên mức lãi suất phản ánh đúng nhu cầu của thị trường.
Khi muốn điều chỉnh lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế,
phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ từng giai đoạn, NHTW sẽ thực hiện thông qua
việc điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu của mình đối với các tổ chức tín dụng, từ đó tác động
đến lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, và cuối cùng sẽ tác động đến lãi suất kinh
doanh của các tổ chức tín dụng.
CHƯƠNG II TÌNH HÌNH BIẾN ĐỘNG CỦA LÃI SUẤT TRONG QUÁ TRÌNH
TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM
2.1 Khu vực tài chính và chính sách lãi suất trước năm 2000:
Giai đoạn trước năm 2000 đánh dấu những khởi đầu trong việc chuyển từ nền kinh tế bao
cấp sang kinh tế thị trường, bước đầu mở cửa hội nhập với kinh tế thế giới. Tháng 07/1995,
Việt Nam là thành viên ASEAN và tiếp đó tham gia Hiệp định Mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA), Việt Nam - EU ký thỏa thuận về khung khổ hợp tác, Việt Nam - Hoa Kỳ thiết lập
quan hệ ngoại giao.
Năm 1988 đánh dấu đợt cải cách mạnh mẽ đầu tiên trong hệ thống tài chính – ngân
hàng của Việt Nam. Nghị định 53/HĐBT ngày 26/03/1988 do Hội Đồng Bộ Trưởng ban hành
mở đầu cho công cuộc cải tổ hệ thống ngân hàng ở Việt Nam, với ba nội dung cải tổ quan
trọng: (1) Tách bộ phận quản lý quỹ ngân sách ra khỏi NHNN để hình thành nên hệ thống
Nhóm 9 – Đêm 5 – Cao Học K22

Page 5


Khảo sát sự biến động của lãi suất
trong quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam

GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng

Kho bạc Nhà nước.(2) Tách chức năng kinh doanh ra khỏi hệ thống NHNN giao cho các

ngân hàng chuyên doanh.(3) Thành lập hai ngân hàng chuyên doanh mới đó là Ngân hàng
Công Thương Việt Nam và Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam cùng với hai ngân
hàng trước đó là Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam đảm nhận chức năng kinh doanh thay thế cho NHNN. Cả bốn ngân hàng hoạt
động dưới hình thức chuyên doanh cho đến năm 1990, khi giới hạn này được xóa bỏ và hệ
thống ngân hàng thương mại ra đời theo tinh thần của Pháp lệnh NHNN và Pháp lệnh các
TCTD năm 1990.
LSTG và cho vay của NHTMQD đều do NHNN quy định. Các NHTM duy trì các
mức lãi suất cho vay khác nhau đối với cho vay nông nghiệp, công nghiệp và thương mại.
Năm 1988 cũng đánh dấu nỗ lực tự do hóa tài chính đầu tiên ở Việt Nam bằng quyết định của
Hội đồng Bộ trưởng 9/3/1988 cho phép các tổ chức kinh tế bao gồm các đơn vị kinh tế ngoài
quốc doanh được vay tiền và huy động vốn. Có ba đặc điểm chung đáng chú ý ở đây: (1)
Thứ nhất, giai đoạn 1986-1988 là là thời gian mất ổn định kinh tế vĩ mô nhất mà nến kinh tế
Việt Nam từng trải qua. Với việc chính phủ sử dụng in tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách,
lạm phát ở mức phi mã ba chữ số. (2) Thứ hai, nỗ lực tự do hoá tài chính này được tiến hành
trong khi hầu như chưa có cải cách trong khu vực công nghiệp, DNNN và hoạt động ngoại
thương. Thực tế là mới chỉ có khu vực nông nghiệp được tự do hóa, và rất nhiều loại giá vẫn
bị biến dạng nghiệm trọng.(3) Thứ ba, tự do hóa đã đi quá xa đến nỗi cho phép tất cả tổ
chức kinh tế đều có thể kinh doanh tiền tệ, trong khi hệ thống điều tiết tài chính thì hoàn
toàn không tồn tại. Các tổ chức huy động vốn từ công chúng dưới dạng tiền gửi tiết kiệm để
cho vay không phải tuân thủ các quy định truyền thống của ngân hàng, như dự trữ bắt buộc
và tỷ lệ vốn/dự nợ vay.
Trong thời gian này, các quỹ và hợp tác xã tín dụng mọc lên rất nhiều. Đến cuối thập
niên 80, tổng số quỹ và hợp tác xã tín dụng lên tới 7.180, trong khi vào năm 1983 hợp tác xã
tín dụng đầu tiên mới được thành lập ở miền Nam. Hàng loạt các quỹ tín dụng ở thành thị
đua nhau tăng lãi suất để huy động vốn. Cả hệ thống rơi vào vòng xoáy của vấn đề lựa chọn
bất lợi và tâm lý ỷ lại. Ban đầu, có lẽ chỉ có một số quỹ tín dụng đưa ra lãi suất tiết kiệm cao
và thu hút người gửi tiền. Nhưng các tổ chức còn lại ngày càng phải chịu áp lực cạnh tranh
khi thấy khách hàng gửi tiền của minh chuyển tiết kiệm sang các quỹ trả lãi cao hơn. Các tổ
chức này cũng bị buộc phải tăng LSTG lên mức hấp dẫn đối với người tiết kiệm.

Giai đoạn trước 1992, Nhà nước quản lý kinh tế theo phương thức kế hoạch hóa tập
trung dẫn đến việc áp dụng chính sách lãi suất bao cấp, lãi suất đựơc xây dựng thoát ly lãi
suất của nền kinh tế thế giới, dẫn đến lãi suất thực thi trong thời kỳ này với tình trạng “lãi giả
và lỗ thật” làm cho ngân hàng không thể bảo toàn vốn của mình do lạm phát tăng cao và lãi
suất thực là số âm, vì tỷ lệ lạm phát đã lớn hơn lãi suất danh nghĩa. Lạm phát cũng liên tục
cao. Tuy nhiên, quan trọng hơn là chủ trương của Chính phủ là tất cả cho sản xuất, khu vực
ngân hàng là khu vực dịch vụ, do đó lãi suất ngân hàng thấp hơn lạm phát đáng kể. Khi đó
nếu ngân hàng càng cho vay thì ngân hàng càng mất vốn. Đối với người gửi tiền, nếu càng
gửi nhiều tiền và càng gửi lâu thì họ lại càng mất tiền nếu xét trên cơ sở so với thay đổi mặt
bằng giá. Có vẻ như ngân hàng và người gửi tiền đều không có lợi. Tuy nhiên, trên góc độ
đầu tư, chính sách lãi suất thực âm đã góp phần tài trợ vốn lớn với lãi suất thấp cho các DN,
góp phần giảm được chi từ ngân sách nhà nước, tập trung được nguồn vốn lớn cho khu vực
Nhóm 9 – Đêm 5 – Cao Học K22

Page 6


Khảo sát sự biến động của lãi suất
trong quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam

GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng

sản xuất. Ngoài ra, chính sách lãi suất thực âm đó có thể không khuyến khích dân chúng gửi
tiền vào ngân hàng mà phần nào có ý nghĩa khuyến khích dân chúng tập trung tiền vốn vào
sản xuất kinh doanh và đầu tư sản xuất. Như vậy, những lợi ích của lãi suất thực âm là rõ
ràng và có vai trò lịch sử nhất định.
Giai đoạn từ 1992-1995, đặc trưng của giai đoạn này là NHNN điều hành cơ chế lãi
suất theo khung lãi suất, quy định rõ sàn LSTG và trần lãi suất cho vay đối với nền kinh tế.
Các NHTM, TCTD căn cứ khung lãi suất của NHNN để đưa ra các lãi suất thích hợp cho
mình, thực chất là bước chuyển đổi căn bản từ cơ chế lãi suất âm sang cơ chế lãi suất dương,

đảm bảo cho các NHTM kinh doanh có hiệu quả. Đây là cơ chế lãi suất khởi đầu cho quá
trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam. Lãi suất liền gửi tiết kiệm VNĐ trong giai đoạn 19921995 là rất cao: năm 1992 là 34,1%/năm, năm 1993 là 20,4%/năm, năm 1994 là 16,8%/năm
và năm 1995 là 16,8%/năm trong khi tỷ lệ lạm phát trong những năm này đã giảm đáng kể
nên lãi suất thực dương năm 1992 là 16,6%, năm 1993: 15,2%, năm 1994: 2,4%, năm 1995:
4,1%.
Bảng 1: Lãi suất – Lạm phát giai đoạn từ năm 1992 đến năm 1995
Năm
Lãi suất
Lạm phát
Lái suất thực

1992
34.1%
18%
16.6%

1993
20.4%
5%
15.2%

1994
16.8%
14%
2.4%

1995
16.8%
13%
4.1%


Nguồn: NHNH Việt Nam
Qua thực tế điều hành cho thấy áp dụng lãi suất thực dương là một chính sách đúng
đắn để chống lạm phát. Nhưng nếu duy trì lãi suất thực dương quá cao sẽ đẩy đến đầu tư có
thể bị sút giảm trong đỉnh điểm của lãi suất dương và hiệu quả kinh tế có thể giảm sút. Quốc
hội khoá IX, kì họp thứ 8 tháng 10/1995 đã thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu hoạt
động tín dụng ngân hàng, đồng thời khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất
huy động 0.35%/tháng. Đây là duyên cớ để ra đời lãi suất trần hoàn toàn và bãi bỏ lãi suất
cho vay thỏa thuận từ 01/01/1996. Như vậy thực chất các ngân hàng vẫn phải chịu khống
chế cả LSTG và cho vay, cho dù mức chênh lệch lãi suất thực tế có khác nhau giữa các ngân
hàng tuỳ thuộc cơ cấu chi phí cụ thể. Chính sách này có lợi cho các NHTM là duy trì được
mức lợi nhuận mong muốn.
Trường hợp ngân hàng không huy động đủ vốn để cho vay theo lãi suất quy định phải
phát hành kì phiếu với lãi suất cao hơn thì được áp dụng lãi suất thỏa thuận. Trên thực tế
khoảng 30-60% tổng dư nợ lúc bấy giờ là từ các khoản cho vay bằng lãi suất thỏa thuận mà
các DN ngoài quốc doanh và các hộ nông dân với lãi suất 2,3-3,5%/tháng. Với cơ chế lãi suất
thỏa thuận thì chúng ta có thể nhận thấy lãi suất đang dần được tự do hóa.
Từ năm 1996, NHNN tiếp tục ấn định lãi suất tái cấp vốn và có những biến đổi căn
bản về điều hành lãi suất. Thay vì quy định khung lãi suất tối thiểu về tiền gửi và lãi suất tối
đa về tiền vay, NHNN chỉ quy định mức lãi suất trần theo thời hạn cho vay và khống chế
chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động bình quân là 0,35%/tháng (4,2%/năm)
để khắc phục tình trạng hầu hết các NHTM đều có mức lợi nhuận cao trong khi các doanh
Nhóm 9 – Đêm 5 – Cao Học K22

Page 7


Khảo sát sự biến động của lãi suất
trong quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam


GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng

nghiệp lại gặp khó khăn về tài chính (khi thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận ở giai đoạn
trước). Trong biên độ dao động này giờ đây các ngân hàng có thể định mức lãi suất huy
động tùy theo khách hàng và lượng tiền gửi cũng như kỳ hạn gửi chứ không còn bó buộc
trong một mức chung như trước đây. Như vậy, cạnh tranh trong hệ thống các tổ chức tín
dụng sẽ gia tăng lên. Đây là tín hiệu của sự tự do hóa lãi suất huy động nói riêng và tiến đến
tự do hóa lãi suất nói chung.
Nền kinh tế Việt Nam bắt đầu chịu tác động mạnh từ cuộc khủng hoảng từ giữa năm
1997, các DN vay nợ gặp khó khăn do tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và đầu tư trực tiếp
nước ngoài suy giảm, đặc biệt là các DN nhập khẩu mở một khối lượng thư tín dụng lớn từ
1995-1996 và đáo hạn cuối năm 1997-1998, nhiều doanh nghiệp trong số này không còn khả
năng thanh toán cùng với việc phá giá đồng nội tệ 10% vào tháng 8 năm 1998 dẫn đến các
ngân hàng trong nước phải chịu một gánh nặng nợ nước ngoài. Một số ngân hàng đứng trước
tình trạng phá sản. Đứng trước tình trạng này NHNN đã liên tục chủ động điều chỉnh trần lãi
suất cho vay theo hướng giảm cơ cấu trần và mức khống chế, đặc biệt là trong năm 19981999, điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn giảm xuống nhằm mục đích kích cầu đầu tư-tiêu dùng.
Tuy nhiên ảnh hưởng của lãi suất đối với tổng cầu của nền kinh tế Việt Nam rất hạn chế. Đó
là do việc giảm phát trong thời gian từ 1996 xuất phát từ suy giảm các yếu tố sản xuất liên
quan đến tổng cung nhiều hơn tổng cầu, vì thế các chính sách vĩ mô tác động vào tổng cầu
sẽ chỉ đem lại hiệu quả hạn chế. Ngoài ra, do sự điều chỉnh lãi suất thường chậm so với thị
trường nên mất đi lợi thế bất ngờ của sự thay đổi lãi suất. Hơn nữa việc điều hành trần lãi
suất vẫn là một biện pháp can thiệp hành chính của Nhà nước do vậy đã hạn chế tính chủ
động, linh hoạt trong kinh doanh của các TCTD, hạn chế việc hình thành và phát triển của
các công cụ tài chính. Việc điều chỉnh chính sách lãi suất trong giai đoạn 1996-2000 nhằm
duy trì một trần lãi suất cho vay, tạo điều kiện để áp dụng mức LSCB trong giai đoạn kế tiếp
và từng bước tự do hoá lãi suất.
2.2 Biến động lãi suất giai đoạn 2000-2002 – Việt Nam:
Giai đoạn này đánh dấu sự kiện Việt Nam bắt đầu hội nhập với thế giới, thực hiện Hiệp định
Thương mại song phương Việt Nam và Hoa Kỳ với những nội dung cam kết sát với chuẩn
mực WTO

Cơ chế điều hành LSCB kèm biên độ (Từ tháng 8/2000-5/2002):
Bối cảnh chung kinh tế thế giới: Năm 2000, nền kinh tế thế giới đang ở bối cảnh
thuận lợi nhất trong vòng 16 năm qua, khi tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới đạt 4.9%, trong
đó, GDP của Mỹ lần đầu tiên vượt mốc tăng 5%. Các nước Châu Á sau 2 năm vật lộn với
cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực đã có dấu hiệu vượt qua khủng hoảng bước vào
thời kì phục hồi và phát triển. Nhiều cường quốc đạt tốc độ tăng trưởng cao nhưng cũng bộc
lộ nhiều tiềm ẩn khó đoán. Hoạt động thương mại toàn cầu khởi sắc trong đó công nghệ
thông tin là động lực tăng trưởng, xu hướng đòi bình đẳng trong quan hệ buôn bán quốc tế
nổi lên, đa dạng hóa thương mại tránh lệ thuộc quá mức…
Bối cảnh chung nền kinh tế Việt Nam: Cuộc khủng hoảng Đông Á tuy không trực tiếp
ảnh hưởng nhưng cũng gián tiếp làm suy giảm tăng trưởng GDP và đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam. Năm 1999, Việt Nam đã thực hiện chính sách mở rộng tín dụng nhằm kích thích
Nhóm 9 – Đêm 5 – Cao Học K22

Page 8


Khảo sát sự biến động của lãi suất
trong quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam

GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng

tăng trưởng kinh tế. Năm 2000 đánh dấu nhiều cải cách trong hệ thống ngân hàng như:
NHQD được kiểm toán độc lập, áp dụng hệ thống phân loại nợ vay và dự phòng rủi ro gần
với tiêu chuẩn quốc tế hơn và được tái cấp vốn theo lịch trình 3 năm dựa trên kết quả hoạt
động và hiệu quả kinh doanh; còn các NHTM trải qua thời kì sàng lọc, một số đặt trong tình
trạng giám sát đặc biệt, một số được sáp nhập.
Về cơ chế điều hành lãi suất của NHNN: đây là giai đoạn có nhiều sự thay đổi lớn,
cơ chế lãi suất trần được thay thế bằng cơ chế điều hành LSCB kèm biên độ. Ngày
02.08.2000, Thống đốc NHNN Việt Nam Lê Đức Thúy đã ban hành các quyết định về việc

thay đổi cơ chế điều hành lãi suất, hiệu lực từ ngày 05/08/2000, gồm:
Bảng 2: Các quyết định thay đổi cơ chế điều hành lãi suất
Quyết định
Quyết định số 241/2000/QĐ-NHNN
Quyết định số 242/2000/QĐ-NHNN
Quyết định số 243/2000/QĐ-NHNN
Quyết định số 243/2000/QĐ-NHNN

Nội dung
Thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay của
TCTD đối với khách hàng
Công bố LSCB làm cơ sở cho TCTD ấn định lãi
suất cho vay bằng VND đối với khách hàng
Công bố biên độ lãi suất USD làm cơ sở cho các
TCTD ấn định lãi suất cho vay bằng USD
Cung cấp thông tin tham khảo về lãi suất của các
NHTM cho NHNN
Nguồn: Tự tổng hợp

Mặc dù, LSCB đã xuất hiện lần đầu tiên ở Việt Nam trong Luật NHNN (1997). Tuy
nhiên, mãi đến năm 2000, NHNN mới có quy định cụ thể về việc áp dụng LSCB trên cơ sở
tham khảo mức lãi suất cho vay thương mại đối với khách hàng tốt nhất của nhóm các TCTD
được lựa chọn theo quyết định của Thống đốc NHNN trong từng thời kỳ. Nội dung cơ bản
của các Quyết định này là: LSCB được hình thành trên cơ sở thị trường nhưng với bước đi
thận trọng, phù hợp với tình hình thực tế Việt Nam, từng bước tiến tới tự do hóa lãi suất,
đồng thời với các biện pháp phát triển thị trường tiền tệ, nâng cao năng lực điều hành của
các TCTD.
Đối với lãi suất cho vay bằng VND: NHNN chuyển từ việc áp dụng trần lãi suất cho
vay sang cho vay theo LSCB cộng biên độ dựa trên việc tham khảo lãi suất cho vay ngắn hạn
thông thường mà các NHTM áp dụng với khách hàng vay có uy tín, rủi ro thấp. Lãi suất cho

vay cao nhất của các TCTD bằng LSCB cộng biên độ cho phép: cho vay ngắn hạn là
0,3%/tháng, cho vay trung dài hạn là 0,5%/tháng. Lãi suất cho vay và huy động của TCTD
gắn với LSCB. LSCB và biên độ được công bố định kỳ hàng tháng. Khi cần thiết, NHNN sẽ
công bố điều chỉnh kịp thời.
Bảng 3: Lãi suất cơ bản từ tháng 8/2000 – 12/2002 (Đơn vị tính: %/tháng)
Thời
điểm
Lãi suất

8/2000-2/2001
7,5%

3/2001
7,25%

4-5/2001
7,0%

6-9/2001
7,0%

10/20017/2002
6,0%

8-12/2002
6,2%

Nguồn: NHNN Việt Nam
Nhóm 9 – Đêm 5 – Cao Học K22


Page 9


Khảo sát sự biến động của lãi suất
trong quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam

GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng

Mặc dù, cơ chế giới hạn biên độ lãi suất so với LSCB về thực chất không khác gì so
với cơ chế trần lãi suất trước đây, nhưng thực tế mức lãi suất trần mới cao hơn nhiều so với
lãi suất trần theo cơ chế cũ, và lãi suất cho vay thực tế của các ngân hàng luôn thấp hơn trần
lãi suất mới này. Như vậy, có thể nói từ khi có cơ chế LSCB mới này, các ngân hàng đã bắt
đầu ấn định lãi suất trên cơ sở thỏa thuận với khách hàng.
Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ:
Cho vay bằng USD: Bỏ việc quy định trần lãi suất cho vay, chuyển sang cơ chế lãi
suất linh hoạt phù hợp với thị trường quốc tế nhưng vẫn đảm bảo có sự kiểm soát của Nhà
nước. Cụ thể: lãi suất cho vay ngắn hạn không vượt quá SIBOR kì hạn 3 tháng cộng
1%/năm, lãi suất cho vay dài hạn không vượt quá SIBOR kì hạn 6 tháng cộng 2.5%/năm.
Cho vay bằng ngoại tệ khác: thực ra do chiếm tỉ trọng nhỏ trong hoạt động huy động
và cho vay nên NHNN cho phép các NHTM tự xem xét quyết định lãi suất tiền gởi, cho vay
của các loại ngoại tệ này trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn trong nước
của từng loại ngoại tệ. Tháng 11/2001, trần lãi suất cho vay ngoại tệ được xóa bỏ, từ đó cho
phép người vay ngoại tệ trong nước có thể thương lượng lãi suất với các ngân hàng nội địa
và ngân hàng nước ngoài.
Chênh lệch lãi suất giữa cho vay và huy động: có xu hướng giảm đi rõ rệt là do lãi
suất thực cho vay của các NHTM luôn thay đổi theo LSCB nhưng vẫn đảm bảo cao hơn
LSCB; và khi LSCB giảm trong những năm 2000 và 2001 thì lãi suất cho vay cũng giảm
nhưng lãi suất huy động trong thời gian này lại tăng lên do cạnh tranh gia tăng giữa các ngân
hàng.
Nhìn chung, với cơ chế lãi suất này NHNN Việt Nam đã thể hiện được quyết tâm đổi

mới chính sách lãi suất theo hướng tự do hóa và từng bước gắn lãi suất trong nước vào thị
trường khu vực và thế giới. Việc chuyển hướng này về cơ bản là do trần lãi suất trong giai
đoạn trước 08/2000 đã trở thành công cụ chỉ còn mang tính hình thức, mất tác dụng đối với
nền kinh tế. Trong khi đó, nền tảng kinh tế vĩ mô chưa cho phép thực hiện tự do hóa lãi suất
ngay, do vậy việc thực hiện chính sách lãi suất theo LSCB này là bước chuyển giao từ việc
điều hành hành chính sang việc để thị trường xác định và Nhà nước chỉ tác động qua các
công cụ kinh tế. Tuy nhiên với cơ chế lãi suất này có những mặt tích cực và hạn chế như sau:
Mặt tích cực của cơ chế lãi suất giai đoạn từ tháng 8/2000 đến tháng 05/2002:
Cơ chế lãi suất này đã kết hợp hài hòa hơn giữa việc quản lí , giám sát, điều tiết thị
trường tiền tệ của NHNN với hoạt động kinh doanh của các NHTM, phù hợp hơn với điều
kiện thực tế thị trường tiền tệ, tín dụng trong nước thời kỳ 2000-2001 so với cơ chế cũ. Lãi
suất cho vay thực tế của các ngân hàng mặc dù vẫn nằm trong biên độ cho phép nhưng có xu
hướng gắn chặt và vận động theo LSCB do NHNN công bố. Đây là tín hiệu có thể tiến tới tự
do hóa hoàn toàn lãi suất. NHNN có sự chủ động trong việc điều chỉnh tăng/giảm LSCB theo
tình hình thay đổi lãi suất trên thị trường.
Lãi suất ngoại tệ có sự liên hệ giữa lãi suất thị trường quốc tế với thị trường trong
nước, khuyến khích phát triển hoạt động tín dụng ngoại tệ, đặc biệt là cho vay trung, dài hạn,
là tín hiệu tốt thúc đẩy các ngành hoạt động xuất – nhập khẩu, kết quả là dư nợ cho vay ngoại
Nhóm 9 – Đêm 5 – Cao Học K22

Page 10


Khảo sát sự biến động của lãi suất
trong quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam

GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng

tệ đến cuối năm 2001 tăng 6,5% so với cùng kỳ năm 2000, trong đó dư nợ cho trung và dài
hạn tăng 5,5% so với cùng kỳ.

Các ngân hàng có thể tự định mức lãi suất cho vay trên cơ sở LSCB và phạm vi biên
độ cho phép tùy theo mức độ rủi ro khác nhau, chứ không còn áp dụng chung một mức cho
tất cả các khách hàng khác nhau, góp phần khuyến khích huy động vốn, mở rộng tín dụng,
giải toả vốn ứ đọng, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế. Do vậy đến cuối năm 2001, số dư
tiền gửi bằng đồng Việt Nam tăng 18%, dư nợ cho vay tăng 25% so với cùng kỳ năm 2000.
Biên độ lãi suất cho vay được quy định đủ rộng đối với cho vay bằng VND, không phân biệt
biên độ giữa các khu vực và các loại hình TCTD (trừ quỹ tín dụng nhân dân cơ sở) mà chỉ có
sự phân biệt biên độ giữa lãi suất cho vay ngắn hạn và trung, dài hạn. Biên độ trên bao gồm
cả các khoản phí liên quan đến khoản vay, tránh việc các TCTD lợi dụng thu phí vượt biên
độ cho phép, không còn tình trạng vi phạm về lãi suất cho vay như quy định trần lãi suất
trước đây. Điều này góp phần gia tăng sự cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng và cải thiện
hiệu quả phân bổ vốn.
Mặt hạn chế của cơ chế lãi suất giai đoạn từ tháng 08/2000 đến tháng 05/2002:
Vần đề xác định và công bố LSCB để làm căn cứ điều tiết, định hướng thị trường là
rất quan trọng. Tuy nhiên, mặc dù đã có nhiều mặt tích cực, song LSCB công bố của NHNN
vẫn chủ yếu mang tính chủ quan, hành chính, chưa thực sự phản ánh đúng, hiệu qủa cung cầu
tiền tệ trên thị trường. Việc khống chế biên độ lãi suất làm cho các TCTD không thể phản
ánh kịp thời để phòng tránh rủi ro về lãi suất và thanh khoản khi lãi suất thị trường tiền tệ
trong và ngoài nước có biến động.
Cơ chế LSCB kèm biên độ phần nào vẫn còn mang đặc điểm của cơ chế trần lãi suất
trước đây, tuy không nặng nề lắm. Do vậy, chính sách này lại có tác động loại bỏ nhưng chủ
thể vay vốn nhỏ ra khỏi thị trường tài chính chính thức , do chi phí cho vay cho các đối
tượng này lớn vượt khuôn khổ lãi suất cho phép. Trong khi đó các doanh nghiệp nhà nước lại
chẩm đổi mới, cải tiến nên việc chính sách này cho phép các ngân hàng tự do định đoạt lãi
suất (nhưng trong biên độ quy định) đã làm trầm trọng thêm quan hệ tài chính vốn không
lành mạnh, minh bạch giữa các chủ thể này. Bằng chứng là
Với một vài hạn chế nêu trên, cơ chế điều hành LSCB cộng biên độ sau một thời gian
thực hiện cần thiết phải tiếp tục đổi mới để phù hợp hơn với thực tế điều kiện thị trường tiền
tệ trong thời gian tới. Tháng 06/2002, lãi suất được tự do hóa hoàn toàn với việc các ngân
hàng được phép xác định lãi suất cho vay trên cơ sở tự thẩm định và thương lượng với khách

hàng.
2.3 Biến động lãi suất giai đoạn 2002-2007
Trong giai đoạn này, nền kinh tế Việt Nam có những chuyển biến mạnh mẽ, tích cực về kinh
tế, đánh dấu sự kiện trọng đại khi Việt Nam giai nhập tổ chức thương mại thế giới WTO vào
tháng 01/2007.
Giai đoạn 2001 – 2005, thế giới trải qua một thời kì phát triển đầy biến động và mất cân
bằng do những thay đổi lớn như giá dầu tăng nhanh đến mức kỷ lục, kinh tế Mỹ thâm hụt
kép, đồng USD mất giá gây ra những xáo trộn lớn trên thị trường ngoại hối toàn cầu,…Tuy
Nhóm 9 – Đêm 5 – Cao Học K22

Page 11


Khảo sát sự biến động của lãi suất
trong quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam

GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng

vậy, kinh tế thế giới giai đoạn này cũng đã được phục hồi, đạt tốc độ tăng trưởng đồng đều,
đặc biệt những năm 2004 – 2005 là đỉnh cao của chu kỳ tăng trưởng.
Kinh tế thế giới bắt đầu có những dấu hiệu về tăng trưởng chậm lại trên toàn cầu từ
cuối năm 2000, mà chủ yếu là do kinh tế Mỹ tăng chậm, và khả năng suy giảm tăng trưởng ở
một số nền kinh tế mới nổi. Trước bối cảnh đó, Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng nhẹ, tập trung
vào lĩnh vực xuất khẩu và du lịch. Đóng góp vào việc phục hồi kinh tế và kích thích khu vực
tư nhân đầu tư phát triển. NHNN đã liên tục cắt giảm lãi suất trong năm 2001 để kích thích
tăng trưởng tín dụng. Tính trong cả năm 2001, LSCB đã thay đổi bốn lần từ 9%/năm cuối
năm 2000, xuống còn 7,2%/năm vào tháng 11/2001.
Bảng 4: Những dấu mốc thay đổi LSCB năm 2001
Lãi suất
9%/năm

8,7%/năm
8,4%/năm
7,8%/năm
7,2%/năm

Ngày thực hiện
02/08/2000
01/03/2001
01/04/2001
01/06/2001
01/11/2001
Nguồn: Thống kê NHNN

Thị trường trong nước tăng trưởng mạnh hơn và bắt đầu có những dấu hiệu lạm phát
tăng lên. Lãi suất trên thị trường năm 2002 cũng tương đối ổn định. Chênh lệch giữa lãi suất
USD và lãi suất VND khá rộng (khoảng 5%), hạn chế được sự dịch chuyển từ VND sang
USD. Từ tháng 6, trong điều kiện lãi suất quốc tế xuống thấp, NHNN đã áp dụng cơ chế lãi
suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng bằng VND giữa TCTD với khách hàng. Trên cơ sở
đó các NHTM xác định lãi suất cho vay dựa vào cung cầu vốn trên thị trường và độ tín
nhiệm của khách hàng, LSCB do NHNN công bố chỉ có tính chất tham chiếu cho các
NHTM. Điều này giúp cho các thành phần khác nhau của nền kinh tế tuỳ thuộc vào chi phí
cho vay và rủi ro sẽ được tiếp xúc với các nguồn tín dụng với các giá khác nhau phù hợp.
Hình 1: Diễn biến lãi suất giai đoạn 2000 – 2004
Nguồn: Báo cáo thường niên của NHNN Việt Nam
Thông qua hoạt động thị trường mở, trong năm 2002 NHNN đã mua 7,2 nghìn tỷ
VND từ các NHTM và bán 1,7 nghìn tỷ VND cho các ngân hàng, cả hoạt động mua vào và
bán ra đều đạt tăng trưởng trên 100%. Trong khi đó, tỷ lệ DTBB bằng ngoại tệ đã được điều
chỉnh giảm 2 lần xuống 8% vào tháng 4/2002 và xuống 5% vào tháng 12/2002. Trong năm
2002, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu của NHNN, cũng như tỷ lệ DTBB bằng VND
được giữ nguyên ở mức thấp, phù hợp với diễn biến thị trường và mục tiêu điều hành chính

sách tiền tệ. Nhìn chung, nhờ việc sử dụng và phối hợp khá hiệu quả các biện pháp của chính
sách tiền tệ trong năm 2002 nên đã góp phần đưa mức tăng trưởng cả năm đạt được 7,08%,
và lạm phát được duy trì dưới 5% theo mục tiêu. Từ tháng 8/2003 lãi suất nội tệ bắt đầu
giảm, và cho đến cuối tháng 9 và 10/2003 thì giảm đáng kể, bình quân giảm từ 0,03% 0,08%/tháng.
Nhóm 9 – Đêm 5 – Cao Học K22

Page 12


Khảo sát sự biến động của lãi suất
trong quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam

GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng

Bước sang hai năm 2004 – 2005 là những năm cuối cùng của giai đoạn kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm của Việt Nam. Việt Nam bắt đầu đối mặt với lạm phát tăng
lên trong năm 2004 sau thời kì dài khắc phục khủng hoảng. Chỉ mới 2 tháng đầu năm lạm
phát đã bất ngờ tăng vọt lên 4,2% sau hơn 10 tháng yên ắng. Thêm vào đó, năm 2004 tình
hình thiên tai, dịch bệnh lan tràn càng đẩy chỉ số CPI gia tăng mạnh, kéo theo lạm phát trong
nước tăng cao. Chính phủ thực hiện kiểm soát lạm phát bằng cách tăng DTBB từ 2% lên 5%
với tiền gửi nội tệ và từ 4% lên 8% đối với tiền gửi ngoại tệ cho các khoản tiền gửi ngắn hạn.
Bên cạnh đó, các ngân hàng bắt đầu thực hiện siết chặt tín dụng và duy trì mức tăng tín dụng
năm 2004 là 25%.
LSCB trong năm này vẫn được giữ tương đối ổn định, NHNN quyết định không tăng
lãi suất vì nếu thực hiện sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng, lại không có lợi cho tâm lý nhân dân,
doanh nghiệp trong giai đoạn này. Các chính sách thực thi trong năm 2004 đã mang lại hiệu
quả đáng khích lệ, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 7,7% so với mức tăng năm 2003 là 7,34%,
tuy nhiên tỷ lệ lạm phát chỉ kiềm chế được ở mức 9,5% - cao hơn so với tăng trưởng GDP
trong năm. Trước sức ép của chỉ số giá tiêu dùng có xu hướng liên tục tăng ở mức khá cao
trong năm 2005 và mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao, NHNN luôn xem xét đưa ra các biện

pháp can thiệp phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô và diễn biến thực thế của thị trường.
NHNN đã điều chỉnh tăng lãi suất nhằm kiềm chế lạm phát đang gia tăng trong năm.
Lãi suất huy động kỳ hạn 3 tháng và 12 tháng phổ biến ở mức 7,56% - 8,4%/năm, tăng
khoảng 0,84 – 1,2%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 9,6 – 12,39%/năm, tăng
khoảng 0,96 – 1,2%/năm. Lãi suất cho vay trung và dài hạn phổ biến ở mức 10,8 –
16,2%/năm, tăng khoảng 1,2 – 3%/năm.
Bảng 5 : Những dấu mốc thay đổi lãi suất năm 2005
Ngày thực hiện
Năm 2004
Tháng 1/2005
Tháng 3/2005
Tháng 12/2005

LSCB
7,5%
7,8%
7,8%
8,25%

Lãi suất tái cấp vốn
5,0%
5,5%
6,0%
6,5%

Lãi suất tái chiết khấu
3,0%
3,5%
4,0%
4,5%

Nguồn: Thống kê từ NHNN

Việc điều chỉnh các mức lãi suất như trên là tương đối hợp lý, phù hợp với điều kiện
của thị trường, đồng thời khuyến khích các NHTM tăng cường công tác huy động vốn từ dân
cư, giảm việc cung ứng tiền ra lưu thông. Trong năm 2005, tốc độ tăng trưởng tín dụng đã
giảm từ 41,56% của năm 2004 xuống còn 31,04% trong năm 2005. Nguồn huy động tiền gửi
tiết kiệm của dân tăng mạnh so với năm 2004.
Trong năm 2006, do tình hình chính trị thế giới diễn biến khá phức tạp và điều kiện
bất lợi về thời tiết đã kéo theo thị trường hàng hoá trên thế giới tăng giá mạnh trở lại. Theo
đó, Việt Nam vẫn đối phó với lạm phát ngày càng tăng cao trong năm 2006, tiếp tục duy trì
và thực hiện linh hoạt chính sách tiền tệ thắt chặt từ cuối 2005 nhằm kiềm chế lạm phát, góp
phần ổn định môi trường kinh tế vĩ mô. NHNN vẫn giữ ổn định các mức lãi suất chính thức
nhằm tránh phát tín hiệu làm tăng lãi suất thị trường, đồng thời tạo điều kiện cho các TCTD
mở rộng huy động và cho vay đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, lãi suất USD tăng khoảng 0,2 –
Nhóm 9 – Đêm 5 – Cao Học K22

Page 13


Khảo sát sự biến động của lãi suất
trong quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam

GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng

0,6%/năm do tác động của lãi suất trên thị trường quốc tế. NHNN cũng giữ nguyên tỷ lệ dự
trữ bắt buộc để giảm áp lực tăng lãi suất huy động trên thị trường. Tổng phương tiện thanh
toán năm 2006 đã được giữ ở mức tăng 33,59% so với năm 2005, nhưng vẫn cao hơn so với
mức tăng 29,65% của năm 2005. Trong đó, tiền gửi vẫn chiếm tỷ trọng lớn - 82,79% trong
tổng phương tiện thanh toán.
Bước sang năm 2007, tình hình kinh tế thế giới lại trải qua những xáo trộn mạnh, đặc

biệt trên thị trường tài chính do xuất phát từ cuộc khủng hoảng trên thị trường cho vay cầm
cố dưới chuẩn ở Mỹ và giá dầu tăng lên mức kỷ lục. Tuy nền kinh tế thế giới vẫn đạt mức
tăng trưởng 4,9% cả năm nhưng thấp hơn mức 5,0% của năm 2006 và dấu hiệu suy thoái
kinh tế ở một số nước ngày càng mạnh mẽ hơn. Lãi suất SIBOR và LIBOR ổn định trong 6
tháng đầu năm, nhưng đến tháng 7/2007 lãi suất bắt đầu giảm khoảng 0,77% so với đầu năm.
Hầu hết các nước đều tiến hành điều chỉnh lãi suất định hướng cho phù hợp với tình hình
hiện tại của nước mình.
Bảng 6: Lãi suất định hướng của một số NHTW các nước năm 2007

Nguồn: Reuters
Với kinh tế Việt Nam khi bước vào năm 2007, chỉ số giá tiêu dùng một số mặt hàng
thiết yếu tăng cao gây nên tình trạng lạm phát ngày càng gia tăng. Trước tình hình này,
NHNN đã thực hiện điều tiết cung tiền thông qua một số công cụ của chính sách tiền tệ
nhằm kiềm chế lạm phát và ổn định nền kinh tế vĩ mô (ví dụ nghiệp vụ thị trường mở đã có
những đổi mới đáng kể, phát huy hiệu quả cao). Trong năm 2007, để tránh tác động không
thuận lợi đối với tăng trưởng kinh tế, NHNN giữ nguyên các mức lãi suất do NHNN công bố
như LSCB là 8,25%/năm, lãi suất tái cấp vốn là 6,5%/năm, lãi suất chiết khấu là 4,5%/năm
nhằm ổn định thị trường. NHNN cũng đã bỏ quy định trần LSTG bằng USD đối với pháp
nhân kể từ ngày 1/1/2007, theo đó, các TCTD được phép ấn định LSTG bằng USD của pháp
nhân theo cơ chế thoả thuận. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng cũng biến động trên dưới
15%/năm và lãi suất huy động của các NHTM biến động ở khoảng dưới 10%/năm trong năm
2007.
NHNN đã thực hiện kiểm soát tín dụng rất chặt chẽ, thực hiện đồng bộ các giải pháp
như ban hành cơ chế sửa đổi quy định trích lập dự phòng rủi ro phù hợp với chuẩn mực quốc
tế, ban hành Chỉ thị 03/2007/CT – NHNN yêu cầu các TCTD thực hiện kiểm soát tín dụng,
khống chế dư nợ cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán ở mức dưới 3% tổng dư nợ tín
Nhóm 9 – Đêm 5 – Cao Học K22

Page 14



Khảo sát sự biến động của lãi suất
trong quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam

GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng

dụng, tăng cường thanh tra giám sát hoạt động cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán nhằm
đảm bảo an toàn, hiệu quả hoạt động của hệ thống TCTD. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng
năm 2007 vẫn đạt rất cao. Dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng tăng 53,89% so với năm
2006, cao hơn nhiều so với mức tăng 25,44% của năm 2006. Điều này trái lại, lại góp phần
tích cực đáp ứng có hiệu quả nhu cầu vốn của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế, tuy sẽ mâu thuẫn với mục tiêu kiềm chế lạm phát trong năm. Lạm phát đang ở mức cao,
lãi suất vay qua đêm bị đẩy vọt lên và NHNN phải bơm hơn 11 ngàn tỷ đồng vào thị trường
để giúp làm giảm áp lực thanh toán của các NH. Như vậy, cuộc đua tăng lãi suất là không thể
tránh khỏi. Tăng lãi suất có thể giúp các NH có thể giải quyết được vấn đề thanh khoản. Tuy
nhiên, khi tăng lãi suất huy động thì lãi suất cho vay cũng tăng dẫn đến cuộc đua lãi suất giữa
các ngân hàng.
Trong giai đoạn này, lãi suất được điều hành theo cơ chế lãi suất thoa thuận. Cơ chế
lãi suất này được NHNN chuyển đổi từng bước bắt đầu từ tháng 5.2001 áp dụng cho hình
thức vay bằng ngoại tệ, tiếp theo 5.2002 là áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt
động tín dụng trong nước. Nhìn một cách tổng quát thì quá trình thực thi cơ chế tự do hóa
lãi suất ở Việt Nam bước đầu đã có kết quả nhất định. Tuy nhiên, chúng ta thấy rằng các loại
lãi suất mà NHNN áp dụng vẫn chưa giúp điều chỉnh thị trường. Một chính sách lãi suất
chậm chạp và đặc biệt là LSCB không phản ánh thị trường cũng như là thước đo cho các
NHTM khác sử dụng.
2.4 Diễn biến lãi suất tại Việt Nam giai đoạn 2008-2012:
Ảnh hưởng từ việc hội nhập, nền kinh tế Việt Nam đứng trước song to, gió lớn, chịu
ảnh hưởng từ hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và sau đó là hàng loạt các cuộc
khủng hoảng trầm trọng khác như khủng hoảng từ nợ dưới chuẩn tại Mỹ, khủng hoảng nợ
công tại Châu Âu.

Bắt nguồn từ hàng loạt tín hiệu xấu từ những tháng cuối năm 2007, Giai đoạn từ năm
2008 đến năm 2012 là giai đoạn có nhiều biến động về kinh tế trên thế giới. Khủng hoảng
kinh tế do cho vay dưới chuẩn, khủng hoảng nợ công tại Châu Âu là một trong những
nguyên nhân gây xáo trộn nền kinh tế thế giới và tạo tác động không nhỏ đến kinh tế Việt
Nam, đặc biệt là biến động lãi suất và chính sách điều hành lãi suất của Việt Nam.
2.5 Giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2010
Năm 2008, kinh tế Việt Nam chịu nhiều biến động do khủng hoảng tài chính thế giới.
Lãi suất Việt Nam có sự thay đổi trái chiều nhau với biên độ lớn chỉ trong vòng 12 tháng.
Khủng hoảng kinh tế thế giới đã có những ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế Việt Nam
theo hướng tiêu cực. Để đảm bảo sự ổn định kinh tế, NHNN đã có những chính sách quan
trọng trong điều hành lãi suất như điều chỉnh LSCB và các mức lãi suất khác. Biến động lãi
suất trong năm 2008 được chia làm hai giai đoạn chính: 06 tháng đầu năm với cuộc đua tăng
lãi suất và 06 tháng cuối năm với diễn biến ngược lại.
Nguồn: Số liệu từ NHNN

Nhóm 9 – Đêm 5 – Cao Học K22

Page 15


Khảo sát sự biến động của lãi suất
trong quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam

GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng

06 tháng đầu năm 2008 gắn liền với việc NHNN điều chỉnh tăng LSCB, cơ chế áp
dụng chính sách trần lãi suất trong hoạt động cho vay được NHNN tiến hành nghiêm túc
(không quá 150% LSCB). Thị trường chứng kiến một cuộc đua tăng lãi suất mạnh mẽ.
LSCB có sự biến động mạnh. Từ ngày 1/2/2008 đến ngày 11/6/2008, LSCB tăng từ 8,75%
lên 14%/năm. LSCB được NHNN điều chỉnh linh hoạt theo các biến động của thị trường. Cơ

chế cho vay/huy động dựa trên trần lãi suất của NHNN và lãi suất thỏa thuận đều bị hủy bỏ.
Thay vào đó, lãi suất cho vay được áp theo quy định của Bộ luật dân sự là không vượt quá
150% LSCB.

Nguồn:
Cuộc chạy đua lãi suất huy động và cho vay của các NHTM:
Lãi suất huy động và cho vay của các NHTM đua nhau tăng cao. Lãi suất huy động
đạt đỉnh tại mức 18,5%/năm kéo theo lãi suất cho vay điều chỉnh ở mức rất cao, có lúc đạt
đỉnh tại mức 43%/năm. Nguyên nhân của việc chạy đua lãi suất là do áp lực thanh khoản
đang đè nặng lên các NHTM. Để kìm chế lạm phát, NHNN áp dụng chính sách thắt chặt tiền
tệ, rút lượng tiền ra khỏi lưu thông bằng cách tăng tỷ lệ DTBB từ 10% lên 11%/năm, nâng
LSCB từ 8,25% lên 8,75%/năm kể từ 01/02/2008, phát hành 20,300 tỷ đồng tín phiếu bắt
buộc, đồng thời buộc Kho bạc rút 50.000 tỷ đồng từ các NHTM. Chính những động thái này
đã gây ra tình trạng thiếu vốn tại các NHTM, tạo áp lực thanh khoản tại các NHTM. Việc
huy động vốn của các Ngân hàng cũng gặp nhiều khó khăn, nguồn vốn huy động chủ yếu là
các kỳ hạn ngắn nhưng đầu ra cho vay chủ yếu là tài trợ cho các dự án trung dài hạn. Bởi
vậy, áp lực trong cân đối nguồn vốn các kỳ hạn của các ngân hàng là không hề nhỏ. Để thu
hút nguồn vốn các ngân hàng đã tăng lãi suất để thu hút vốn. Như vậy, tình hình bất ổn của
kinh tế thế giới và những diễn biến phức tạp của thị trường tiền tệ trong nước đã tác động
gây nên cuộc đua lãi suất trong 06 tháng đầu năm 2008.
Trong 06 tháng cuối năm 2008: áp lực thanh khoản đã giảm bớt, các NHTM đang đứng
trước bẫy thừa vốn do ảnh hưởng từ cuộc chạy đua lãi suất 06 tháng đầu năm. Sau khi đã
huy động được vốn để tránh rủi ro thanh khoản. Bài toán giải phóng nguồn vốn đang được
Nhóm 9 – Đêm 5 – Cao Học K22

Page 16


Khảo sát sự biến động của lãi suất
trong quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam


GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng

đặt ra cho các NHTM. Lãi suất cho vay quá cao khiến các doanh nghiệp không thể tiếp cận
vốn. Vì vậy, để khai thông dòng vốn, các NHTM đã thực hiện hạ lãi suất, tuy nhiên mức độ
giảm chậm, biên độ giảm hẹp để không ảnh hưởng đến lợi nhuận của NHTM do dòng vốn
huy động 06 tháng đầu năm 2008 có chi phí rất cao. Ngoài ra, tín hiệu tích cực từ lạm phát
và chuyển biến kinh tế vĩ mô cũng là cơ sở để có được sự điều chỉnh giảm lãi suất. Các NH
đã liên tục hạ LSTG VND từ 16,5%-17,5%/năm giảm về còn khoảng 10,5%-14,5%/năm.
Đến năm 2009, lãi suất ổn định nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ biến động cao
Năm 2008, nhà nước Việt Nam đã thực hiện thành công việc kiềm chế lạm phát,
nhưng kéo theo đó là nguy cơ suy giảm kinh tế. Mục tiêu đặt ra là phải kích cầu đầu tư và
tiêu dùng, chống lại nguy cơ suy giảm kinh tế thông qua việc giúp doanh nghiệp tiếp cận
nguồn vốn vay với chi phí thấp. Ngoài ra, những vấn đề về tỷ giá hối đoái, thâm hụt ngân
sách, áp lực dự trữ ngoại hối đặt trong lộ trình tự do hóa tài chính, kinh tế thị trường cũng là
những thách thức lớn đối với nền kinh tế. Trước tình hình đó, Chính Phủ và NHNN đã có
những chính sách linh hoạt, phản ứng kịp thời trước những diễn biến phức tạp, khó lường
của kinh tế trong nước và thế giới.
LSCB giai đoạn 10 tháng đầu năm 2009 giữ nguyên mức là 7%/năm sau đó được điều
chỉnh tăng lên 8%/năm. Trong các thời điểm khác nhau, NHNN đã linh hoạt điều chỉnh giảm
và tăng các mức lãi suất chủ đạo, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu tạo điều kiện
cho các TCTD giảm và tăng lãi suất huy động và cho vay phù hợp mục tiêu điều tiết lượng
vốn huy động, cho vay tín dụng theo hướng nới lỏng một cách thận trọng.
NHNN đã ban hành quyết định số 2024/QĐ-NHNN về việc quy định giữ mức LSCB ở
mức 7%/năm năm và được giữ nguyên trong một thời gian dài.
Nguồn: Số liệu từ NHNN
Lãi suất cho vay tại các NHTM chỉ dao động từ 8%/năm đến 10,5%/năm. Lãi suất huy động
tăng nhẹ tại tất cả các kỳ hạn.
Gói hỗ trợ lãi suất của Chính Phủ:
Trong năm 2009, Chính phủ đã thực hiện gói kích thích kinh tế gần 8 tỉ USD để hỗ

trợ nền kinh tế và khu vực DN chống chọi lại cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu.
Gói kích thích kinh tế bao gồm các chính sách như bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp
vừa và nhỏ (SME), giãn và miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp và VAT, hỗ trợ 4% lãi suất
cho vay ngắn hạn và trung hạn và nhiều chính sách khác. Từ 01-04/2009,Thủ tướng Chính
phủ ra Quyết định 131/QĐ/TTg, Quyết định 443/QĐ/TTg quy định việc thực hiện gói hỗ trợ
lãi suất cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn. Lãi suất VND sau khi được giảm trừ 4% và lãi
suất cho vay ngoại tệ tương đương nhau. Điều này dẫn đến nhu cầu vay VND tăng, làm mất
cân đối cung cầu trên thị trường tiền tệ, gây sức ép tăng lãi suất VND và tăng tổng phương
tiện thanh toán, gây mất cân đối trên thị trường ngoại hối, tạo sức ép tăng tỷ giá, ảnh hưởng
đến cán cân thanh toán. NHNN đã phải can thiệp thị trường nhằm ổn định tỷ giá làm dự trữ
ngoại tệ giảm.
Nhóm 9 – Đêm 5 – Cao Học K22

Page 17


Khảo sát sự biến động của lãi suất
trong quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam

GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng

Từ tháng 5/2009, các NHTM đua nhau tăng lãi suất ở tất cả các kỳ hạn. Cuộc đua lãi
suất huy động này không chỉ diễn ra ở các NHTM mà các NHTM Nhà nước cũng đua nhau
tăng lãi suất cho thấy nhu cầu vốn của nền kinh tế tăng mạnh. Ở khối NHTM Nhà nước, lãi
suất huy động VND không kỳ hạn phổ biến là 2,4-3%/năm, kỳ hạn 36 tháng có lãi suất huy
động khoảng 8%/năm. Tại khối NHTM cổ phần, mức 3%/năm dành cho không kỳ hạn, kỳ
hạn 36 tháng có lãi suất huy động cao nhất là 9,3%/năm tại NH MaritimeBank. LSCB theo
quy định giai đoạn này là 7%/năm. Như vậy, Lãi suất huy động VND đang tiến sát về mức
trần cho vay. Chênh lệch lãi suất giữa Lãi suất cho vay và huy động giữ ở mức 3%/năm.
Bảng 7: Lãi suất huy động các kỳ hạn tại một số ngân hàng vào tháng 04/2009

Ngân hàng/Kỳ hạn Không Kỳ Hạn

1

2

3

6,5

6,7

7

BIDV

3 6,85

7,3

Vietcombank

3 6,96

VietinBank

2,4

9


12

18

24

36

7,9

8,1

8,3

7,8

8,6

7,4

7,56 7,68

8

8

8

7,2


7,4

7,68

TechcomBank

2,4

7,3

7,6

7,8

MaritimeBank

3

7,8

7,9

8

6

7,6

7,8 8,04 8,04 8,16


8,1

7,6

8,1

8,1

8,2 8,35

8,6 8,75
9

9,3

Nguồn: Tự tổng hợp
Từ đầu tháng 12/2009 trước những biến chuyển mới của thị trường trong nước và thế
giới, NHNN đã chủ động và linh hoạt điều chỉnh LSCB lên mức 8%/năm sau 10 tháng liên
tiếp giữ ở mức 7%/năm. Như vậy, trần lãi suất kinh doanh tại các NHTM tối đa là 12%/năm.
Một loạt các lãi suất khác cũng được NHNN điều chỉnh tăng như: lãi suất tái chiết khấu của
NHNH đối với tổ chức tín dụng tăng từ 5%/năm lên mức 6%/năm. Với động thái này, NHNN
hướng đến mục đích kiểm soát chặt chẽ quy mô và chất lượng tín dụng, tạo điều kiện cho các
NHTM huy động các nguồn vốn từ nền kinh tế.
Như vậy, trong năm 2009, lãi suất tại các NHTM có khuynh hướng tăng nhưng biên
độ tăng không mạnh mẽ và đột ngột như trong năm 2008. Chênh lệch giữa lãi suất huy động
và lãi suất cho vay giảm, Lãi suất huy động tiệm cận sát lãi suất cho vay. Điều này cho thấy
áp lực về nguồn vốn của các NHTM, đặc biệt là vào những tháng cuối năm. Trong những
tháng cuối năm, nhu cầu vốn tăng rõ rệt không những tại các NHTM mà còn tại các Ngân
hàng vốn nhà nước dẫn đến việc tăng lãi suất giữa các ngân hàng. Điều này là do nhu cầu
vốn để thực hiện chính sách hỗ trọ lãi suất, nhu cầu vốn đối với những hợp đồng tín dụng sắp

đáo hạn.
Như vậy, trong giai đoạn từ năm 2008 – 2009, NHNN đã ban hành LSCB và đưa ra
quy định về trần lãi suất cho vay không vượt quá 150% LSCB. Lãi suất dường như không
còn điều chỉnh theo cơ chế thị trường mà đặt dưới sự kiểm soát của NHNN, điều hành lãi
suất quay trở về giống giai đoạn điều hành lãi suất trước năm 2000. Tuy nhiên việc điều
hành lãi suất dưới sự kiểm soát của chính phủ nhằm mục đích ổn định kinh tế, đạt được mục
tiêu tăng trưởng không phải là một bước lùi của quá trình tự do hóa tài chính – tự do hóa lãi
suất mà đây là những bước tiến thận trọng, chặt chẽ, có lộ trình trong quá trình tự do hóa tài
chính tại Việt Nam. Do trong năm 2008-2009, tình hình kinh tế bất ổn, lạm phát tăng cao
Nhóm 9 – Đêm 5 – Cao Học K22

Page 18


Khảo sát sự biến động của lãi suất
trong quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam

GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng

trong những tháng đầu năm 2008. Để ổn định kinh tế, kiềm chế lạm phát, chính phủ đã sử
dụng LSCB như một công cụ chủ lực để điều chỉnh biến động của các loại lãi suất khác như
lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay, lãi suất huy động,…Và chính sách
của Chính Phủ - NHNN đã tỏ ra khá hiệu quả giúp nền kinh tế Việt Nam tiến bước trong quá
trình tự do hóa lãi suất có kiểm soát và tiến đến tự do hóa tài chính thận trọng. Như vậy, giai
đoạn từ năm 2008-2009 có thể được xem như nút thắt của quá trình tự do hóa tài chính/tự do
hóa lãi suất, là sự gián đoạn của quá trình này. Đây là một sự gián đoạn cần thiết, là nhịp
nghỉ để tiến đến bước tiếp theo.
Năm 2010 – kịch bản lặp lại: Lãi suất điều hành ổn định trong một thời gian dài và sau đó
tăng lên vào cuối năm nhằm kiếm chế lạm phát; lãi suất thị trường có xu hướng giảm vào
giữa năm và tăng cao trở lại những tháng cuối năm.

NHNN duy trì ổn định LSCB ở mức 8% trong suốt 10 tháng đầu năm. Trong năm có
những đợt biến động nhỏ nhưng đều được NHNN có những chính sách điều chỉnh kịp thời
để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô. Lãi suất được điều chỉnh lên mức 9% trong hai tháng cuối
năm trước sức ép của lạm phát. Lãi suất huy động tại các NHTM tăng từ 12%/năm-17%,
18%/năm. NHNN yêu cầu các NHTM giảm mặt bằng lãi suất huy động không vượt quá
14%/năm.
Trong năm 2010, NHNN đã ban hành liên tục rất nhiều Thông tư quy định về vấn đề
lãi suất như: Thông tư số 03/2010/TT-NHNN; Thông tư 07/2010/TT-NHNN; Thông tư
12/2010/TT-NHNN nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường tiền tệ hoạt động
linh hoạt, hiệu qủa, tuân theo quy luật thị trường và có sự quản lý của nhà nước bằng việc
cho phép TCTD được thực hiện cho vay bằng VND theo cơ chế lãi suất thỏa thuận.
Bảng 8: Diễn biến lãi suất điều hành năm 2010 của NHNN
Thời gian
LSCB (%)
1/1 – 4/11/2010
8
5/11 – 12/2010
9

Lãi suất tái cấp vốn (%)
8
9

Lãi suất tái chiết khấu (%)
6
7
Nguồn: NHNN Việt Nam

Đối với lãi suất huy động:
Trong 06 tháng đầu năm 2010, lãi suất huy động tăng nhẹ với biên độ hẹp và tương

đối ổn định. Lãi suất các kỳ hạn không có chênh lệch lớn. Đến khoảng tháng 10/2010, các
NHTM có đợt điều chỉnh giảm lãi suất sau đó trong 2 tháng cuối năm, thị trường lại chứng
kiến cuộc chạy đua lãi suất huy động dưới áp lực lạm phát.
Bảng 9: Lãi suất huy động các kỳ hạn tại Techcombank trong năm 2010
Ngân hàng/Kỳ
hạn
TechcomBank

Không Kỳ
Hạn

1

2

3

6

9

12

18

24

36

03/2010


2,4 10,49 10,49 10,49 10,29 10,49 10,49 10,44 10,49 10,49

05/2010

2.4 11.1 11.2 11.4 11.35 11.4 11.4 11.4 11.2 11.2

Nhóm 9 – Đêm 5 – Cao Học K22

Page 19


Khảo sát sự biến động của lãi suất
trong quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam

GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng

10.8
10.9 10.9 10.9 10.9 10.9
10.9
10.96
5
5
5
6
6
4

07/2010


2.4 10.8

11/2010

2.4 11.95 11.95 11.95 11.95 11.95 11.95 11.95 11.95 11.95

12/2010

2.4

13.4 13.4 13.4 12.4 12.4 12.4 12.4 12.4
12.45
5
5
5
5
5
5
5
5
Nguồn: Tự tổng hợp

Như vậy, trong 6 tháng đầu năm lãi suất đã tăng bình quân 0,03 – 0,07% cho tất cả
các kỳ hạn (chưa kể đến các hình thức khuyến mại), sau đó lãi suất bắt đầu giảm vào tháng
07/2010 ở tất cả các kỳ hạn. Tuy nhiên trong 2 tháng cuối năm, lãi suất huy động đã bất ngờ
tăng trở lại. Vào ngày 8/12/2010, Sự kiện 3 ngày vàng của Techcombank diễn ra với mức lãi
suất được nâng lên mức 17%/năm, cùng chính sách tặng ngay 500.000 đồng khi giới thiệu
khách hàng gửi tiết kiệm mới từ 1 tỷ trở lên đã gây chấn động thị trường.
Những biến động nửa đầu năm đẩy lãi suất huy động VND lên quanh 11%/năm. Việc
lãi suất huy động cao đã tác động đẩy mặt bằng lãi suất cho vay tăng cao trong điều kiện áp

dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận. Điều này sẽ dẫn đến việc tiếp cận vốn của các doanh nghiệp
gặp khó khăn, tăng trưởng tín dụng tại các NHTM có xu hướng chững lại. Trước tình hình lãi
suất có biến động tăng, Chính phủ đã ban hành Nghị Quyết 23 ngày 7/5/2010 chỉ đạo NHNN
có biện pháp phù hợp để khẩn trương hạ lãi suất huy động xuống khoảng 10%, lãi suất cho
vay khoảng 12% và điều hành tỷ giá ở mức hợp lý, tăng tính thanh khoản cho nền kinh tế
thông qua việc tăng tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng. Do đó, NHNN đã
yêu cầu các NHTM đồng thuận giảm lãi suất huy động vốn bằng VND để góp phần thực hiện
hạ mặt bằng lãi suất của thị trường theo Nghị quyết 23/NQ – CP ngày 7/5/2010 của Chính
phủ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất trong nền kinh tế tiếp cận được với vốn.
Do đó, thị trường đón nhận đợt điều chỉnh giảm lãi suất đầu tiên vào khoản tháng 07/2010,
được điều chỉnh ở mức 11%/năm, sau đó là giao động tại mức 10,8%/năm. Khéo theo đó, lãi
suất cho vay có xu hướng giảm dần, chủ yếu là đối với các khoản vay phục vụ các ngành
nghề ưu tiên như nông-lâm-ngư nghiệp, xuất khẩu,...
Hai tháng cuối năm 2010, thị trường chứng kiến sự gia tăng của lãi suất, các NHTM
liên tục điều chỉnh tăng lãi suất. Tính đến cuối tháng 12/2010, lãi suất huy động tăng 1,96 –
3,39% cho các kỳ hạn so với cuối năm 2009, tăng cao đặc biệt ở các kỳ hạn ngắn từ 1 tháng
đến 3 tháng. Mặt bằng lãi suất huy động mới được thiết lập ở mức 12%/năm, và tiếp tục có
xu hướng gia tăng mạnh, có thời điểm giao động xoay quay mức 17 – 18%/năm. Điều này
khiến cho mặt bằng lãi suất cho vay có xu hướng tăng cao. Nguyên nhân của việc chạy đua
lãi suất này là do Nhu cầu vốn cho đầu tư, sản xuất kinh doanh và tiêu dùng tiếp tục tăng
cao trong bối cảnh phục hồi kinh tế; Chịu sức ép từ chỉ số lạm phát do tác động trễ của các
chính sách năm 2009 (trong năm 2010, chỉ số giá tiêu dùng chỉ giữ được ổn định từ tháng 3
đến tháng 8; Sự cạnh tranh thiếu lành mạnh của một vài các TCTD thông qua việc phá rào
lãi suất, hàng loạt chính sách khuyến mãi kèm theo và tâm lý, kỳ vọng của người dân. NHNN
đã phải sử dụng các biện pháp hành chính, yêu cầu các ngân hàng giảm mặt bằng lãi suất huy
động, bao gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức, sẽ không vượt quá 14%/năm.
Nhóm 9 – Đêm 5 – Cao Học K22

Page 20



Khảo sát sự biến động của lãi suất
trong quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam

GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng

Tóm lại, diễn biến của mặt bằng lãi suất huy động trong năm nổi lên một số điểm đáng
chú ý như sau:
Trong năm 2010, NHNN từng bước bỏ các quy định rằng buộc về các loại lãi suất của
các TCTD. Cụ thể là trong năm, NHNN đã ban hành Thông tư số 03/2010/TT-NHNN; Thông
tư 07/2010/TT-NHNN; Thông tư 12/2010/TT-NHNN cho phép TCTD được thực hiện cho
vay bằng VND theo cơ chế lãi suất thỏa thuận. Tuy nhiên trong năm vừa qua, chính sách điều
hành cũng như chính sách lãi suất vẫn bị chi phối bởi chính sách kinh tế đa mục tiêu, chịu áp
lực lớn từ biện pháp kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Vì vậy, đã tạo ra những khó khăn nhất
định trong công tác điều hành ổn định mặt bằng lãi suất của NHNN, nổi bật là một số vấn đề
sau: (1)Lãi suất điều hành ổn định trong một thời gian dài và sau đó tăng lên vào cuối năm
nhằm kiếm chế lạm phát. (2)Lãi suất thị trường chịu áp lực tăng cao qua các tháng, đặc biệt
các tháng cuối năm. (3)Không còn sự khác biệt về mức lãi suất huy động giữa các kỳ hạn,
thậm chí những tháng cuối năm nghiêng hẳn về các kỳ hạn ngắn. (4)TCTD tiếp tục thực hiện
nhiều biện pháp nhằm hợp lý hóa các chi phí phụ cho hoạt động huy động vốn và hoạt động
tín dụng thông qua các chương trình khuyến mại, các loại phí...
Như vậy trong giai đoạn từ năm 2008 đến trước tháng 04/2010, trần lãi suất cho vay
đã được gỡ bỏ sau hai năm áp dụng thể hiện rất nhiều bất cập. Giai đoạn từ năm 2008 đến
06 tháng đầu năm 2010, NHNN đã thực hiện cơ chế trần lãi suất huy động theo LSCB.
NHNN đã sử dụng trần lãi suất như một công cụ điều hành chính sách tiền tệ. Ở một khía
cạnh nào đó nó cũng đã có tác dụng nhất định trong việc bình ổn thị trường, kiềm chế lạm
phát trong những thời kỳ đầy biến động như năm 2008, năm 2011. Tuy nhiên, việc quy định
trần lãi suất huy động nhưng bỏ ngõ trần lãi suất cho vay khiến chênh lệch giữa lãi suất huy
động và cho vay quá lớn dẫn đến việc khó tiếp cận vốn đối với các doanh nghiệp.
Việc quy định trần lãi suất cũng không được thực hiện nghiêm túc dẫn đến cuộc đua

lãi suất giữa các Ngân hàng, cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng xuất hiện.
Lãi suất thị trường bị bóp méo, không theo đúng bản chất cung-cầu vốn của thị trường. Áp
lực thanh khoản đè nặng lên các NHTM nhỏ khi quy định trần lãi suất huy động dẫn đến
việc nguồn vốn chạy “lòng vòng” trong ngân hàng chứ không đến tay người cần vốn
2.6 Năm 2011 – lãi suất gắn chặt với lạm phát
Bối cảnh kinh tế thế giới: Năm 2011, tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động phức
tạp. Khủng hoảng nợ công tại Châu Âu và khủng hoảng tài chính Mỹ ngày càng trở nên trầm
trọng. Nhiều quốc gia đã vực dậy nền kinh tế bằng cách dốc ngân sách để hỗ trợ cho các
doanh nghiệp; tuy nhiên, việc nhận những gói hỗ trợ dễ dãi nhưng lại không có chính sách
kích thích đúng đắn đã dẫn đến việc các nước không còn khả năng trả nợ khi đến hạn. Sức đề
kháng của khu vực Châu Âu đang ngày càng cạn kiệt khi thất nghiệp và thâm hụt ngân sách
đang ở mức quá cao. Ngoài ra, nền kinh tế Nhật Bản phải đối phó với những đợt sóng thần
gây thiệt hại nặng nề, tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc có dấu hiệu chậm lại.
Tình hình kinh tế Việt Nam: Biến động thị trường trong những tháng cuối năm 2010 cho
thấy nguy cơ lạm phát sắp tái diễn. Lạm phát và lãi suất cao đã ảnh hưởng toàn diện lên nền
kinh tế và đời sống người dân. Thị trường bất động sản, chứng khoán lao dốc; giá vàng nổi
sóng; sức ép tái cấu trúc nền kinh tế ngày càng lớn. Vì vậy, trong năm 2011, chính sách kinh
Nhóm 9 – Đêm 5 – Cao Học K22

Page 21


Khảo sát sự biến động của lãi suất
trong quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam

GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng

tế nói chung và chính sách tiền tệ nói riêng của Chính Phủ đặt mục tiêu kiềm chế lạm phát
lên hàng đầu.
Chính sách lãi suất trong năm 2011: có thể được chia thành 3 giai đoạn chính:

Từ tháng 01 đến tháng 02/2011: Chính sách lãi suất không có nhiều biến động, các mức lãi
suất được huy động ở mức khá thấp sau gói hỗ trợ lãi suất của NHNN.
Từ tháng 03 đến tháng 08/2011:
Bảng 10: Lãi suất huy động các kỳ hạn tại NHTM và NHTMNN trong năm 2010
Lãi suất
huy động
Nhóm
NHTMNN
Nhóm
NHTM
Lãi suất
cho vay

Loại tiền
VND
USD (TCKT)
USD (cá nhân)
VND
USD (TCKT)
USD (cá nhân)
Loại tiền

Không kỳ
hạn
2,4–3,0
0,2-0,3
0,2-1
2,4-4,2
0,2-0,5
0,24-1,0


1 tháng

3 tháng

6 tháng

13-14
0,5
2,0
13-14
0,5
2,0

13,5-14
0,5
2,0
13,5-14
0,5
2,0

13,5-14
0,5
2,0
13,5-14
0,5
2,0

Ngắn hạn


- SXKD (VND)
- Nông nghiệp, xuất
Nhóm
NHTMNN khẩu
USD
- SXKD (VND)
- Nông nghiệp, xuất
Nhóm
khẩu
NHTM
USD

17-17,5
16,5-17

12
tháng
13,5-14
0,5
2,0
13,5-14
0,5
2,0

Trung, dài hạn
18-19
17-18

6,0-6,5
18-19

18-19

6,5-7,0

6,0-7,5

7,5-8,5

19-20
19-20

(Nguồn: Số liệu theo Thông báo của NHNN)
Tình hình lạm phát có nguy cơ tăng cao do sự gia tăng mạnh của giá cả nhiên liệu,
năng lượng và các hàng hóa khác (06 tháng đầu năm 2011, lạm phát đạt 13,9%). Ngày
24/02/2011, Chính phủ đã đưa ra Nghị Quyết số 11/NQ-CP với mục tiêu chủ yếu là kiềm chế
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội. NHNN chủ trương thực thi chính
sách tiền tệ thắt chặt, điều này đã tác động làm tăng LSTG và cho vay của các NHTM. Để
ngăn chặn tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng, ngày 3/3/2011 NHNN
đã ban hành Thông tư 02 & 03/2011/TT-NHNN quy định về mức lãi suất trần huy động tiền
gửi VND của các NHTM là 14%. Tuy nhiên, một vài ngân hàng do lo ngại vấn đề thanh
khoản nên vẫn chưa thực hiện nghiêm túc quy định trần lãi suất này (như: thực hiện thỏa
thuận ngầm lãi suất với khách hàng, hoặc biến tướng thông qua các hình thức khuyến mãi,
quà tặng,…), dẫn đến cuộc chạy đua lãi suất giữa các ngân hàng. Lãi suất huy động tăng cao
lên đến mức 18,5% (tháng 06/2011) và 18,73% (tháng 08/2011); dẫn đến lãi suất cho vay
cũng tăng đột biến, có khi đạt 24-25%/năm. Nguồn vốn huy động không tăng mà chủ yếu là
chạy lòng vòng giữa các ngân hàng. Có thể nói mặc dù quy định trần lãi suất huy động được
đặt ra nhưng việc tuân thủ vẫn còn bỏ ngõ và chưa phát huy tác dụng.
Nhóm 9 – Đêm 5 – Cao Học K22

Page 22



Khảo sát sự biến động của lãi suất
trong quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam

GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng

Từ tháng 09 đến tháng 12/2011: NHNN đã có những biện pháp quyết liệt hơn để
thực thi nghiêm túc quy định trần LS huy động 14%/năm. Ngày 7/9/2011, NHNN ban hành
Chỉ thị số 02/CT-NHNN khẳng định việc giữ vững trần LS huy động 14%/năm và chấn
chỉnh việc huy động vốn. Đồng thời, NHNN cũng tuyên bố sẽ có biện pháp xử phạt đối với
những ngân hàng vi phạm, như: “sa thải” lãnh đạo ngân hàng nếu phát hiện những thủ thuật
hay gian lận, cấm không cho mở thêm chi nhánh trong vòng 1 năm….Mục đích của những
chính sách mang tính hành chính này là kéo LS cho vay xuống, giảm chi phí vay vốn cho khu
vực doanh nghiệp. Tiếp tục, ngày 28/9/2011, NHNN ban hành Thông tư số 30/2011/TTNHNN quy định: LS tối đa đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng là
6%/năm, LS tối đa đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng trở lên là 14%/năm. Đồng thời, lập
nhóm nhóm G12+1 (gồm 12 NHTM lớn chiếm 85% thị phần: Agribank, Vietcombank,
BIDV, Vietinbank, ACB, Eximbank, Techcombank, MB, Sacombank, VIB, VPbank, MSB)
cùng với NHNN xây dựng các chính sách quản lý tiền tệ hiệu quả hơn.
Như vậy Chính sách trần LS tỏ ra không có hiệu lực và khó kiểm soát trong 10 tháng
đầu năm do không được các Ngân hàng tuân thủ, nhưng thị trường đã có những chuyển biến
tích cực trong các tháng cuối năm. LS huy động giữ ổn định và từng bước hạ dần, kéo LS
cho vay xuống khoảng 17-18%/năm.
2.7 Những tháng đầu năm 2012 - quyết tâm của Chính phủ trong việc hạ lãi suất
Mặc dù lạm phát năm 2011 lên tới mức 18.56% nhưng trần lãi suất huy động vẫn
được giữ ở mức 14%/năm và thực tế các NHTM đều giữ mức lãi suất huy động kịch trần.
Năm 2012, NHNN chủ trương áp dụng trần lãi suất huy động linh hoạt trong xu thế điều
chỉnh giảm dần, phù hợp với các diễn biến kinh tế vĩ mô –giảm 1%/quý và sẽ đưa trần lãi
suất này xuống 10% vào cuối 2012 để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát trong năm nay ở
mức 9%.

Ngày 12/03/2012, NHNN ban hành Thông tư số 05/2012/TT-NHNN điều chỉnh
giảm Lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn 1 tháng trở lên từ 14%/năm xuống
13%/năm, riêng quỹ tín dụng nhân dân cơ sở ấn định mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi kỳ
hạn 1 tháng trở lên giảm từ 14,5%/năm xuống 13,5%/năm; giảm lãi suất tối đa áp dụng đối
với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng giảm từ 6%/năm xuống 5%/năm.
Ngày 08/06/2012, NHNN ban hành Thông tư số 19/2012/TT-NHNN quy định lãi suất
tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng: 2%/năm, tiền gửi kỳ
hạn từ 1 đến dưới 12 tháng: 9%/năm (riêng Qũy tín dụng nhân dân cơ sở: 9.5%); đồng thời
xóa bỏ trần lãi suất huy động kỳ hạn trên 12 tháng. Thông tư số 20 /2012/ TT- NHNN quy
định trần lãi suất cho vay ngắn hạn VND: 13%/năm.
Việc quy định trần lãi suất huy động giảm xuống mức 9%/năm càng làm tăng khó
khăn cho một số ngân hàng nhỏ, yếu thanh khoản, nhiều nơi phải sử dụng các chương trình
khuyến mại đặc biệt để thu hút tiền gửi. Những tháng cuối năm 2012, các ngân hàng lần lượt
đẩy lãi suất huy động VND lên mức cao (ACB, Eximbank từ 12,8-13%/năm, Sacombank lên
tới 13%/năm), nhằm đảm bảo thanh khoản cho ngân hàng trong những tháng cuối năm khi
mà nhu cầu vốn trong dân cư tăng cao và để phòng ngừa những biến động về giá vàng, tỷ
giá; ngoài ra, do trước đây nhiều NHTM đã vay tái cấp vốn từ NHNN, nay đã đến kỳ hạn trả
nợ; thêm vào là do tăng trưởng tín dụng thấp hoặc bị âm nên không giải phóng hết nguồn
Nhóm 9 – Đêm 5 – Cao Học K22

Page 23


Khảo sát sự biến động của lãi suất
trong quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam

GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng

vốn mà chủ yếu tập trung vào các ngân hàng với nhau hoặc mua trái phiếu chính phủ, đầu tư
vào doanh nghiệp khác... dẫn đến khó khăn về thanh khoản có thể xảy ra trong những ngày

cuối năm 2012.
Từ việc quy định LSCB trong năm 2008 đến năm 2012, quy định trần lãi suất huy
động, trần lãi suất cho vay thì đến 11/06/2012, NHNN đã ban hành trần lãi suất cho vay ngắn
hạn và xóa bỏ trần lãi suất huy động kỳ hạn trên 12 tháng. Như vậy, sau một khoảng thời
gian dài NHNN kiểm soát lãi suất thông qua các quy định của mình thì đây là lần đầu tiên
NHNN đã cho xóa bỏ trần lãi suất huy động kỳ hạn dài, hướng đến việc xóa bỏ cả trần lãi
suất hai đầu huy động và cho vay để tiến tới tự do hóa lãi suất, một bước trong quá trình tự
do hóa tài chính tại Việt Nam. Trong một thời gian dài kiểm soát lãi suất, sử dụng LSCB để
đưa ra mức trần lãi suất huy động, thì trong 06 tháng năm 2012, NHNN bắt đầu tháo dỡ cơ
chế quy định mức trần lãi suất và từng bước tự do hóa lãi suất theo biến động thị trường.

Diễn biến lãi suất tại Việt Nam được thể hiện thông qua các giai đoạn sau:

Nhóm 9 – Đêm 5 – Cao Học K22

Page 24


Khảo sát sự biến động của lãi suất
trong quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam

GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng

Cơ chế thức thi chính sách lãi suất cố định (1989-5.1992)
Cơ chế điều hành khung lãi suất (6.1992-1995)
Cơ chế điều hành lãi suất trần

19891995
19967.2000


Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ

8.20005.2002

Cơ chế lãi suất thỏa thuận

6.2002 –
2006

Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản + trần lãi suất huy động/cho vay từ
năm 2008-4/2010.
Từ 4/2010-3/2011: trần lãi suất cho vay/huy động được dỡ bỏ, thay
vào đó là cơ chế lãi suất thỏa thuận.
Cơ chế điều hành lãi suất trần lại được áp dụng từ năm 2011-6/2012.
6/2012, NHNN từng bước bỏ trần huy động kỳ hạn trên 12 tháng

20072012

Có thể nói quá trình đổi mới cơ chế điều hành lãi suất ngân hàng ở Việt Nam từ khi có
mô hình ngân hàng hai cấp (1988) đến nay đã trải qua năm bước chuyển đổi căn bản, đó là
những bước đi khá thận trọng và khẳng định xu hướng tất yếu của quá trình tự do hóa lãi suất
ở Việt Nam. Chính sách lãi suất qua các lần biến đổi đã tiến dần đến tự do hóa lãi suất, chuẩn
bị cho sự hội nhập về lãi suất với nền kinh tế thế giới. Quyết định 546/2002 QĐ-NHNN về
việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng, đây là một bước ngoặt lớn
đánh dấu sự mở đầu trong việc thực hiện cơ chế tự do hóa lãi suất trong nền kinh tế đối với
hoạt động tín dụng và LSCB công bố của NHNN dần dần sẽ mang tính chất tham khảo đối
với các tổ chức tín dụng trong việc xác định lãi suất từng thời kỳ. Như vậy quá trình đổi mới
cơ chế lãi suất từ kiểm soát trực tiếp, cố định lãi suất sang cơ chế lãi suất thỏa thuận thực
chất là dần dần đã tự do hóa lãi suất, đây là những bước đi thận trọng, đã có những thành
công cơ bản của quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam. Việt Nam đả từng bước chuyển từ

kiểm soát lãi suất (trước năm 1995) sang tự do hóa lãi suất một phần (giai đoạn 2000-2002)
và tiến đến giai đoạn tự do hóa lãi suất (lãi suất thỏa thuận từ năm 2002-2007). Tuy nhiên, từ
năm 2008 đến năm 2012, cơ chế lãi suất Việt Nam có nhiều chuyển biến phức tạp: áp trần lãi
suất huy động/cho vay, sau đó xóa bỏ,rồi ại tiếp tục áp trần lãi suất nghiêm ngặt và hiện tại
Nhóm 9 – Đêm 5 – Cao Học K22

Page 25


×