Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

chính sách đối ngoại đổi mới và quan hệ quốc tế của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.03 KB, 17 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Những năm cuối thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng
hoảng toàn diện và nghiêm trọng dẫn đến sự sụp đổ của bộ phận lớn làm thay đổi
cơ bản cục diện chính trị của thế giới. Bên cạnh đó, chủ nghĩa tư bản tận dụng
được những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại nên đã
thích nghi và vẫn tiếp tục phát triển.
Trật tự thế giới hai cực tan dã, quan hệ quốc tế chuyển dần từ đối đầu sang
đối thoại, từ đó làm nảy sinh xu hướng đa dạng hoá, đa phương hoá trong tiến trình
hội nhập toàn cầu. Hoà bình, ổn định hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi
hỏi bức xúc của các quốc gia. Toàn cầu hoá về kinh tế chiếm vị trí quan trọng
trong quan hệ giữa các quốc gia,kinh tê được ưu tiên phát triển và trở thành chủ đề
chính trong quan hệ quốc tế hiện nay.
Trước bối cảnh quốc tế và xu thế chung của thế giới đang diễn ra như vậy,
các quốc gia đều phải điều chỉnh lại chính sách đối ngoại của mình để thích ứng
với tình hình mới. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó.
Chính sách đối ngoại là một bộ phận hợp thành đường lối đổi mới của
Việt Nam trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Được khởi xướng từ năm 1986 và sau hơn 10 năm thực hiện, chính sách đối
ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đã góp phần không nhỏ đến sự phát
triển của đất nước, tạo điều kiện khai thác có hiệu quả các nhân tố quốc tế, kết
hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đưa Việt Nam thoát khỏi
khủng hoảng và đi lên.
Chính sách đối ngoại đổi mới là một trong những mốc đánh dấu thành tựu
to lớn của Việt Nam trong thế kỷ XX, tạo tiền đề cho Việt Nam vững bước đi vào
thế kỷ XXI. Với lý do đó cùng với ham muốn được tìm hiểu chính sách đối ngoại
đổi mới và quan hệ quốc tế của Việt Nam giai đoạn này.

1


NỘI DUNG



Chương I. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA
VIỆT NAM
1.1. TÌNH HÌNH CHUNG VỀ THẾ GIỚI NHỮNG NĂM 80 VÀ ĐẦU THẬP
KỶ 90
Sau những năm 80, quan hệ giữa Liên Xô- Mỹ đã có dấu hiểu khởi sắc
chuyển từ đối đầu sang đối thoại.Hai nước đã tiến hành cuộc họp thượng đinh
giữa Ri-Gin va Goco-Ba-Chốp, cuộc họp thượng đỉnh này đã giúp hai nước kí kết
thành công trên các lĩnh vực kinh tế thương mại ,văn hóa, khoa học- kĩ thuật, quan
trọng hơn là hai nước ký kết hiệp ước thủ tiêu tên lửa tầm trung ở châu âu . Cũng
từ năm 1987, hai nước Mỹ và Liên Xô đã thoả thuận giảm một bước quan trọng
cuộc chạy đua vũ trang, từng bước chấm dứt cuộc diện “Chiến tranh lạnh”, cùng
hợp tác với nhau giải quyết các cụ tranh chấp và xung đột quốc tế.
Cuối năm 1989, tại cuộc gặp không chính thức giữa Busơ và Gooc-BaChốp tại đảo Manta, hai nước Xô - Mỹ đã chính thức tuyên bố chấm dứt cuộc
“chiến tranh lanh” kéo dài trên 40 năm giữa hai nước này.
Còn ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương kinh tế phát triển rất năng động,
đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều nhân tố có thể gây mất ổn định như xung đột ở Triều
Tiên, tranh chấp quần đảo Cu-Rin giữa Nhật Bản và Liên Xô, tranh chấp chủ
quyền lãnh thổ, lãnh hải ở biển Đông và căng thẳng ở eo biển Đài Loan...
Trong khu vực Đông Nam Á cũng chứa đựng nhiều nguy cơ xung đột bất
ổn, trong đó vấn đề Campuchia. Những phản ứng từ của các ASEAN, Trung Quốc
và các nước phương Tây khác cho rằng Việt Nam xâm lược Campuchia, họ tiến
hành các hoạt động làm cho tình hình khu vực thêm căng thẳng. Trung Quốc cắt
đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam và đưa quân vào Việt Nam gây nên cuộc
chiến tranh ở biên giới phía Bắc nước ta. Một số nước ASEAN cô lập nước ta ở
các diễn đàn, tổ chức quốc tế... Về phía Việt Nam, chúng ta trước sau vẫn khẳng

2



định việc đưa quân vào Campuchia là giúp đỡ nhân dân Campuchia đánh đuổi bọn
diệt chủng Pol Pot
Tóm lại, hoà bình ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi
hỏi búc xúc của các dân tốc và quốc gia trên thế giới. Các nước giành ưu tiên cho
phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng
cường sức mạnh tổng hợp mỗi nước.
Tình hình đó tác động mạnh mẽ đối với việc hoạch định chính sách đối
ngoại của các nước cũnh như ở Việt Nam. Kiến định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện lịch sử mới, Đảng và Nhà nước ta khởi xưởng
công cuộc đổi mới toàn diện, trong đó đổi mới chính sách đối ngoại trở thành một
nội dung quan trọng đối với sự ngiệp phát triển của Việt Nam.
1.2. SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM SAU 1975 ĐẾN
1986.
Chiến thắng của Việt Nam sau 30/4/1975 là niềm vui thống nhất cả giang
sơn về một mối. Nhưng hậu quả của cuộc chiến tranh kéo dài để lại những khó
khăn không nhỏ cho nhân dân
`Việt Nam: 1,1 triệu liệt sĩ, 60 vạn thương binh, 30 vạn người mất tích, gần
2 triệu người dân bị thiệt mạng, hơn 2 triệu người dân bị tàn tật và nhiễm chất độc
hoá học...
Hai cuộc chiến tranh biến giới phía Bắc (1979) và biên giới phía Tây Nam
(1978) lấy đi thêm nhiều tài lực, vật lực của đất nước khiến cho nền kinh tế của
Việt Nam đã khó khăn lại càng thêm khó khăn. Mà hậu quả của nó là nền kinh tế
lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn diện, lạm phát tăng phi mã (774,7%) năm
1986, nền công nghiệp lạc hậu, nông nghiệp đình đốn.
Thực tiễn tình hình trong nước và quốc tế đặt ra một yêu cầu khách quan,
bức xúc có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp các mạng nước ta, là để làm xoay
chuyển được tình thế, tạo ra một sự chuyển biến có ý nghĩa quyết định trên bước
đường đi lên. Đảng phải đổi mới sự lãnh đạo và chỉ đạo một cách mạnh mẽ. Đại
hội VI của Đảng (tháng 12 - 1986) được chuẩn bị và đáp ứng những yêu cầu đó.


3


Tư tưởng cốt lõi của Đại hội VI là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện
có, khai thác mọi tiềm năng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc
tế để phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa.1
Với ý nghĩa đó, chính sách đối ngoại đổi mới phải phá thế bao vây cấm vận,
cô lập của các thế lực thù địch từ đó lấy lại vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo
điều kiện thuận lợi cho đất nước phát triển, góp sức mình vào sự nghiệp chung của
đất nước
Chương II. QUAN HỆ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY
2.1. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI ĐỔI
MỚI.
Mốc quan trọng nhất quyết định cho chính sách đối ngoại đổi mới là “Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng” họp tại Hà Nội.
Với quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật. Đại hội VI đã
thẳng thắn và khách quan chỉ ra những sai lầm thiếu sót trong chính sách kinh tế,
sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang hoạt động trong thời
kỳ quá độ. Sau khi nghiêm khắc kiểm điểm Đại hội cho rằng để khắc phục những
sai lầm, khuyết điểm và những bất cập dẫn đến khủng hoảng Kinh tế - Xã hội đòi
hỏi phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế. Trong những năm tới nhiệm
vụ của Đảng và Nhà nước ta trên lĩnh vực đối ngoại là: “Ra sức kết hợp sức mạnh
của dân tộc với sức mạnh của thời đại, phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông
Dương, góp phần tích cực giữ vững hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới, tăng
cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng
đồng xã hội chủ nghĩa”.
Hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta phải phục vụ cho cuộc đấu
tranh bảo vệ tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, làm thất bại cuộc chiến tranh phá
hoại nhiều mặt của địch, tiếp tục làm tròn nghĩa vụ quốc tế với Campuchia và Lào.

Chúng ta cần tranh thủ những điều kiện thuận lợi mới về hợp tác kinh tế và khoa
14: TrÝch lÞch sö §¶ng CSVN - NXB Gi¸o dôc - 1997 trang 167

4


học kỹ thuật, tham gia ngày càng rộng rãi việc phân công và hợp tác trong Hội
đồng tương trợ kinh tế, đồng thời tranh thủ mở rộng quan hệ với các nước khác.
Tăng cường hợp tác toàn diện với Liên Xô luôn luôn là hòn đá tảng trong
chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời tăng sự phối hợp với
Liên Xô và các xã hội chủ nghĩa khác trong cuộc đấu tranh hoà bình và các mạng
trên thế giới, trước hết là ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng: “Phát triển và củng cố mối quan hệ đặc biệt
giữa ba nước Đông Dương, đoàn kết và tôn trọng độc lập chủ quyền của mỗi nước,
hợp tác toàn diện, giúp đỡ lẫn nhau xây dựng và bảo vệ tổ quốc là quy luật sống
còn và phát triển của ba dân tộc anh em”.
Chúng ta tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước thành
viên Hội đồng tương trợ kinh tế. Chúng ta cũng mở rộng quan hệ với các nước xã
hội chủ nghĩa anh em khác như Anbani, Triều Tiên...
Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình và hữu
nghị. Chúng ta chủ trương và ủng hộ chính sách cùng tồn tại hoà bình giữ các
nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau, loại trừ chiến tranh xâm lược và mọi
hình thức của chủ nghĩa khủng bố.
Với Trung Quốc, Việt Nam sẵn sàng đàm phán với Trung quốc bất kỳ lúc
nào, bất cứ cấp nào và bất cứ ở đâu nhằm bình thường hoá quan hệ giữa hai nước,
vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.
Nhà nước ta chủ trương tăng cường và mở rộng quan hệ hữu nghị với Thuỵ
Điển, Phần Lan, Pháp, Oxtraylia, Nhật Bản và với các nước phương Tây khác trên
cơ sở bình đẳng cùng có lợi. Chính phủ ta tiếp tục bàn bạc với Mỹ giải quyết các
vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại và sẵn sàng cải thiện quan hệ với Mỹ vì lợi

ích của hoà bình ổn định ở Đông Nam Á .
Đường lối đối ngoại đổi mới tiếp tục được khẳng định ở Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII.
Nhiệm vụ đối ngoại bao trùm trong thời gian tới là giữ vững hoà bình, mở
rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc

5


xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ tổ quốc.Cần nhạy bén nhận thức và dự báo
được những diễn biến phức tạp và thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế, sự phát
triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và xu hướng quốc tế hoá của nền kinh tế thế
giới để có những chủ trương đối ngoại phù hợp. Trong điều kiện mới phải coi vận
dụng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong
nước với sức mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước,
không phân biệt chế độ chính trị xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng
tồn tại hoàn bình. Trước sau như một tăng cường đoàn kết và hợp tác với Liên Xô,
đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hợp tác Việt - Xô nhằm đáp ứng lợi ích
của mỗi nước.
Thúc đẩy quá trình bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, từng bước
mở rộng sự hợp tác Việt - Trung, giải quyết những vấn đề tồn tại giữa hai nước
thông qua thương lượng.
Củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị, đoàn kết, hợp tác với Cu - Ba và
các nước xã hội chủ nghĩa khác.
Đảng cộng sản Việt Nam chủ trưng tăng cường quan hệ với các Đảng
cộng sản và công nhân, góp phần tích cực vào sự đoàn kết và hợp tác giữa các
Đảng anh em trên cơ sở chủ nghĩa Mac - Lênin, đấu tranh vì những mục tiêu
cao cả của thời đại.

Đoàn kết với lực lượng đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội, sẵn sàng thiết lập và mở rộng quan hệ với các đảng xã hội - dân
chủ, các phong trào dân chủ và tiến bộ trên thế giới.

Với chính sách đối ngoại rộng mở, chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam muốn
là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập,
phát triển.

6


Trước những thành tựu của đường lối đối ngoại đổi mới Đại hội VI và VII,
Đại hội VIII tiếp tục đường lối đối ngoại đổi mới chỉ ra đường lối chính sách đối
ngoại tới mọi chủ thể trên thế giới.
Đại hội VIII chỉ rõ: “ Nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới là củng cố môi
trường hoà bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển
kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, phục vụ sự nghiệp xây
dựng và bảo vệc tổ quốc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân
dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương
hoá, đa dạng hoá với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong
cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.
Mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương
với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập,
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau, bình đẳng cùng có lợi, thông qua thương lượng để tìm những giải pháp phù
hợp giải quyết những vấn đề tồn tại và các tranh chấp, đảm bảo hoà bình, ổn định,
an ninh, hợp tác và phát triển.
Tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức
ASEAN, không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, coi

trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm kinh tế - chính trị trên thế
giới. Đồng thời luôn nêu cao tinh thần đoàn kết anh em với các nước đang phát
triển ở Châu á, Châu Phi, Mỹ Latinh và phong trào không liên kết.
Tăng cường quan hệ với các tổ chức của Liên Hợp Quốc và các tổ chức
quốc tế khác. Tích cực hoạt động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia giải quyết các
vấn đề toàn cầu. Ủng hộ cuộc đấu tranh loại trừ vũ khí hạt nhân và các phương tiện
giết người hàng loạt khác.
2.2. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI ĐỔI MỚI.
Chính sách đối ngoại đổi mới mà đại hội VI đề ra là kiên trì thực hiện
nhiệm vụ chiến lược giữ vững hoà bình, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi, tập

7


trung cao nhất, nhằm từng bước ổn định và tạo cơ sở cho phát triển kinh tế trong
vòng 25 năm đến 30 năm (tức đến năm 2020), xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ
độc lập của tổ quốc góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung cho hoà bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Đây là mục tiêu chiến lược và ích lợi cao
nhất của toàn Đảng và toàn dân ta. Chính sách đối ngoại đổi mới phải góp sức
mình vào sự nghiệp chung đó.
Ngay sau khi đưa chính sách đối ngoại vào thực hiện, Đảng và nhà nước đã
“đưa vấn đề Campuchia ra để giải quyết bằng con đường hoà bình”. Việt Nam và
ASEAN cùng tìm ra một giải pháp đồng bộ cho vấn đề này, từ đây 2 nhóm nước
hiểu nhau hơn, tin tưởng nhau hơn. Đây chính là thành công đầu tiên của chính
sách đối ngoại đổi mới. Bắt đầu từ thành công này tình hình ở Đông Nam Á được
cải thiện từ đối đầu sang đối thoại, tạo xu thế hoà bình, hữu nghị, hợp tác.
Tháng giêng năm 1989, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố “Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẵn sàng quan hệ hữu nghị với các nước
ASEAN và các nước khác trong khu vực. Ngày 22 tháng 7 năm 1992, Việt
Nam tham ký hiệp ước thân thiện Bali và trở thành quan sát viên của ASEAN.

Có thể nói đây là một tiền đề quan trọng cho sự hội nhập của Việt Nam sau
này. Ngày 28/7/1995 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của
ASEAN, đây là một thành công to lớn của ngoại giao Việt Nam, có ý nghiã
quyết định cho tiến trình hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam.Sau khi
hội nhập ASEAN, Việt Nam đã trở thành nhân tố rất năng động của tổ chức
này, sau sự tổ chức thành công của hội nghị cấp cao ASEAN tháng 12/1998 ở
Hà Nội, Việt Nam đã thể hiện được vai trò của nước minh.
Năm 1994 thương mại 2 chiều đạt 2,4 tỷ USD, chiếm 28% tổng kim ngạch
ngoại thương của Việt Nam. Đến năm 1996 tăng lên 6 tỷ USD chiếm 33% kim
ngạch xuất khẩu và 27% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Cho đến năm 1998
khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đang ở đỉnh cao thì các nước ASEAN vẫn
chiếm 25% kim ngạch xuất khẩu và 18% đầu tư nước ngoài vào Việt Nam 2.

27: §HKTQD kinh tÕ quèc tÕ - NXB Thèng kª - Hµ Néi, 1998 trang 139

8


Tóm lại, việc gia nhập ASEAN của Việt Nam là hướng đúng. Về kinh tế, ta
có thể tranh thủ được vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ các nước ASEAN
tiên tiến. Tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, mở rộng thị trường
trong khu vực.
*Đối với Trung Quốc
Việt Nam - Trung Quốc là hai nước láng giềng gần, có quan hệ hữu nghị
văn hoá và lịch sử lâu dài. Chúng ta luôn quý trọng tình hữu nghị với nhân dân
Trung Quốc, với mong muốn khôi phục lại mối quan hệ hữu nghị giữa hai dân tộc.
Trong yêu cầu để hai bên Việt - Trung có thể đi đến bình thường hoá quan hệ đó là
thế giới đang tích cực chuyển từ đối đầu sang đối thoại, mọi vấn đề tranh chấp
quốc tế, các quốc gia trên thế giới ngày càng đi theo xu thế giải quyết bằng thương
lượng hoà bình và chỉ có hòa bình thì mới có thể “dồn sức cho phát triển kinh tế và

mối quan hệ giữa hai nuocs mói phát triển bền vũng.
Cùng với việc nối lại mối quan hệ ngoại giao hai nước còn tìm thấy ở nhau
những tiềm năng có thể hợp tác được trong vấn đề kinh tế, như nhu cầu thị trường
của hai bên đều lớn do hai nước cùng thi hành chính sách phát triển kinh tế dựa
vào xuất khẩu là chính. Việt Nam mong muốn được Trung Quốc giúp đỡ như
trước kia,và giúp đỡ Việt Nam sửa chữa một số nhà máy xí nghiệp ,Phía Trung
Quốc thì họ có nhu cầu về nhiên liệu về mặt này thì là thế mạnh của nước ta nên
có thể đáp ứng được cho họ như than đá...,

Tuy nhiên các vấn đề cần giải

quyết giữa hai nước là: vấn đề biên giới trên bộ, tranh chấp ở biển Đông, phân
định vịnh Bắc Bộ. Đến ngày 30-12-1999, hai nước đã hoàn thành phân định 164
điểm còn tranh chấp biên giới trên bộ và ký kết Hiệp định biên giới trên bộ. Còn
những vấn đề còn lại như: phân định vịch Bắc Bộ và những vấn đề khác do lịch sử
để lại.Trong chuyến thăm hữu nghị Trung Quốc của Tổng bí thư Đảng cộng sản Lê
Khả Phiêu đầu năm 1999, hai bên đã thảo luận thống nhất về nguyên tắc quan hệ
Việt - Trung từ nay sẽ phát triển theo tinh thần 16 chữ:
“Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện
Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”

9


* Đối với Mỹ.
Một thành công của công tác đối ngoại trong giai đoạn đổi mới là việc Việt
Nam bình thường hoá quan hệ với Mỹ vào ngày 11-7-1995, khép lại một quá khứ
đau thương và mở ra tương lai trong quan hệ hai nước.
Trước sự thay đổi của thế giới, trước chính sách đối ngoại đổi mới rộng mở
cùng tồn tại hoà bình của Việt Nam (1986) và những thiện chí của Việt Nam trong

vấn đề POW và MIA (người Mỹ mất tích trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam),
chính quyền Mỹ đã phải thay đổi chính sách của mình, đã tuyên bố xoá bỏ cấm
vận đối với Việt Nam (3-2-1994). Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam cũng ra tuyên bố hoan nghênh tuyên bố của Chính phủ Mỹ và bày
tỏ sẵn sàng “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”.
Ngày 11-7-1995, Tổng thống Mỹ Clinton tuyên bố về việc bình thường hoá
quan hệ với Việt Nam “Hôm nay tôi loan báo việc bình thường hoá các quan hệ
ngoại giao với Việt Nam ”3
Đầu tháng 8/1995, Hoa Kỳ và Việt Nam đã chính thức lập quan hệ ngoại
giao và mở đại sứ quán ở thủ đô hai nước.
Có thể thấy rằng chiến lược của Mỹ đối với Việt Nam hiện nay là một bộ
phận nằm trong chiếm lược toàn cầu của Mỹ. Mỹ rất chú trọng đến vị trí chiến
lược của Việt Nam ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương trong đó bao gồm cả
Đông Nam Á.
Nội dung chiến lược của Mỹ đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay bao
gồm những trọng điểm sau:
- Bình thường hoá quan hệ với Việt Nam giúp cho Mỹ có cơ hội xoá bỏ
được những mâu thuẫn trong nội bộ nước Mỹ. Giải quyết hết những di sản của
chiến tranh trước đây, đồng thời mở đường cho các nhà kinh doanh Mỹ thâm nhập
thị trường Việt Nam buôn bán và đầu tư, đem lại thêm lợi nhuận, việc làm và lợi
thế mới cho Mỹ trong cuộc cạnh tranh kinh tế và thương mại toàn cầu hiện nay.

310: TrÝch Lu V¨n Lîi: 50 n¨m NGVN TËp II - NXB C«ng an nh©n d©n trang 280

10


Chỉ sau ba năm bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, Mỹ đã trở thành
một trong những nước đầu tư lớn vào Việt Nam (trên 1 tỷ USD - đứng hàng thứ 8),
kim ngạch buôn bán giữa hai nước tăng lên nhanh chóng hàng năm. Tương lai Mỹ

có thể là nước dẫn trong việc đầu tư và buôn bán với Việt Nam. Tất cả các công ty
lớn của Mỹ đã mở văn phòng ở Việt Nam.
- Bên cạnh đó Mỹ theo chiến lược lâu dài, thực hiện “diễn biến hoà bình”
để chuyển hoá Việt Nam đi vào quỹ đạo của Mỹ, triệt tiêu mục tiêu và bản chất xã
hội chủ nghĩa của Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản của Việt Nam, toàn quân, toàn dân ta
đoàn kết với tinh thần “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng
thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.
Trong quan hệ với Mỹ, Chính phủ Việt Nam luôn luôn xuất phát từ lập
trường nguyên tắc là đảm bảo “ cho quan hệ giữa hai nước trên cơ sở bình đẳng,
tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, cùng
có lợi và phù hợp với các nguyên tắc phổ biến của luật pháp quốc tế.
Tóm lại, bình thường hoá quan hệ với Mỹ là một thành công quan
trọng của ngoại giao Việt Nam. Việt Nam đã đánh bại âm mưu cô lập, cấm vận về
kinh tế của các thế lực thù địch đối với Việt Nam và các nước, các tổ chức quốc tế
khác. Bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ mở ra cho Việt Nam những cơ hội mới,
đồng thời cũng tạo ra những thách thức mới. Việt Nam cần khai thác những mặt
thuận lợi để thúc đẩy phát triển kinh tế đồng thời luôn phải cảnh giác với âm mưu
“Diễn biến hoà bình” của Mỹ.
* Đối với EU.
Trong chính sách đối ngoại đổi mới của Việt Nam, việc tăng cường hợp tác
và mở rộng quan hệ với các nước EU là rất quan trọng. Bởi đây là một trong ba
trung tâm kinh tế chính trị của thế giới có thế mạnh đặc biệt về vốn và công
Ngay từ 22 - 10 -1990 nước ta và EU ký hiệp định về lập quan hệ ngoại
giao và trao đổi Đại sứ. Đây là bước phát triển quan trọng thể hiện thiện chí quan
hệ hợp tác giữa hai bên. Từ đó quan hệ hợp tác ta và EU không ngừng được tăng
cường và mở rộng. Ta chủ trương thúc đẩy quan hệ hợp tác với các nước EU và cả

11



cộng đồng Châu Âu dưới cả hai hình thức: song phương và đa phương. Do vậy
“Pháp đã vận động các nước EC và EU cho Việt Nam vay 1 tỷ 800 triệu USD năm
1994 và 2 tỷ USD năm 1995” và từ khi Mỹ bỏ cấm vận, các tổ chức IMF, WB đã
cho Việt Nam vay 1 tỷ 500 triệu USD”. Hiệp định này quy định những điều khoản
về đầu tư, thương mại, buôn bán trao đỏi, cho vay... giữa EU và Việt Nam, tạo
dựng một môi trường thuận lợi để mở rộng quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực
giữa hai bên. Tóm lại, việc mở rộng quan hệ, thúc đẩy hợp tác giữa Việt Nam và
Eu là chủ trương đúng đắn phù hợp với quan điểm đa dạng hoá, đa phương hoá mà
Đảng ta đã đề ra cho công tác đối ngoại trong thời kỳ đổi mới.Vì vậy, việc thúc
đẩy, mở rộng quan hệ dựa trên cơ sở thận trọng, cân nhắc kỹ lưỡng, nắm vững
nguyên tắc độc lập tự chủ vừa hợp tác vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hoà bình.
* Đối với Liên bang Nga.
Từ 1994 đến nay, quan hệ Việt - Nga đã có những chuyển biển tích
cực, trước hết do sự điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của Liên Bang Ngan và
các cuộc viếng thăm của lãnh đạo hai nước.
Với việc phát triển quan hệ với Liên Bang Nga, một bạn hàng truyền thống,
Việt Nam có thể đi trước các nước trong khu vực trong việc tranh thủ thị trường
gần 170 triệu dân, có thể tranh thủ các nước SNG khác. Ngược lại Nga cũng muốn
thông qua bạn hàng truyền thống là Việt Nam để vũ khí Nga thâm nhập và thị
trường ASEAN.
Hiện nay lĩnh vực hợp tác mà hai nước Việt Nam và Liên Bang Nga quan
tâm nhất là dầu khí, tiêu biểu là VietSopetro, nhà máy lọc dầu Dung Quất...
Nói chung, trong xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá nền kinh tế thế giới hiện
nay, việc thúc đẩy quan hệ hợp tác với các nước lớn như Liên Bang Nga sẽ rất có
lợi cho việc phát triển kinh tế của các nước đang phát triển như Việt Nam. Mặc dù
quan hệ hợp tá giữa hai nước hiện nay chưa tương xứng với tiềm năng của hai
nước. Song với những ưu thế của mình, Liên Bang Nga - Việt Nam sẽ trở thành
đối tác quan trọng của nhau vì lợi ích của nhân dân hai nước.
3.1. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN.

* Thuận lợi.

12


Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng ta, với bản lính chính trị
vững vàng, sau 15 năm đổi mới Đảng dẫn dắt dân tộc ta thoát khỏi khủng hoảng
trầm trọng và giành được những thành tựu to lớn và quan trọng, làm cho thế và lực
của nước ta lớn mạnh lên nhiều. Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế được tăng
cường. Đất nước còn nhiều tiềm năng lớn về tài nguyên lao động. Nhân dân ta có
nhiều phẩm chất cao quy. Tình hình chính trị - xã hội ổn địng. Môi trường hoà
bình, sự hợp tác, liên kết, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng phát triển
tạo điều kiện để chúng ta tiếp tục phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ
ngoại lực, nguồn vốn, công nhệ mới, kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đó là cơ hội lớn để chúng ta tạo
ra bước phát triển mới.
Đầu thập kỷ 90, Việt Nam bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, ký kết
hiệp định Paris về Campuchia, cải thiện quan hệ với các nước phương Tây,
ASEAN và các tổ chức tiền tệ quốc tế.
Hiện nay quan hệ đối ngoại của Việt Nam đã được rộng mở. Việt Nam bình
thường quan hệ với các nước lớn, với hầu hết các chủ thể trong quan hệ quốc tế.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có quan hệ bình thường với tất cả các
nước lớn, các tổ chức quốc tế chủ chốt. Vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng
cao trên trường quốc tế, đây là nền tảng, thuận lợi cho việc đặt nền móng cho
đường lôứi đối ngoại của Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI.
* Khó khăn.
Bên cạnh những thuận lợi, cơ hội lớn chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều
khó khăn thách thức.
Thách thức lớn nhất là tình trạng thấp kém vủa nền kinh tế, khoảng cách về
trình độ phát triển giữa nước ta với nhiều nước trên thế giới còn rất lớn, trong khi

đó đất nước đi lên trong điều kiện cuộc cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt,
trong bộ máy của Đảng và Nhà nước tệ quan liên, tham nhũng và sự thoái hoá về
phẩm chất, đạo đức của một bộ phận cán bộ đảng viên chưa được đẩy lùi.Bên cạnh
đó về công tác đối ngoại của Việt Nam cũng còn nhiều tồn tại đáng lưu ý:

13


Sự tham gia của Việt Nam vào các tổ chức đa phương ở khu vực trên thế
giới còn nhiều hạn chế. Một phần do trình độ tổ chức, quản lý và do thực lực kinh
tế có hạn.Bên cạnh đó việc nghiên cứu dự báo chiến lược của chúng ta còn chưa
được đầu tư thích đáng. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á vừa qua đã và
đang nhắc nhở chúng ta về tinh thần độc lập tự chủ giảm bớt phụ thuộc vào bên
ngoài, Mặt khác phải dự báo được nhu cầu, sở thích của thị trường thế giới để có
chủ trương đầu tư sản xuất trong nước thích hợp mới tăng được khả năng cạnh
tranh. Chúng ta phải năng động, nhạy bén hơn trong việc tìm kiếm thị trường và
nắm bắt thông tin kinh tế đối ngoại tạo điều kiện định hướng cho các doanh nghiệp
trong nước

14


KẾT LUẬN
Quán triệt tư tưởng chỉ đạo trong các thời kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc
Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI, VII, VIII ngoại giao Việt Nam đã phát huy
vai trò to lớn của mình đối với sự nghiệp đổi mới đất nước.
Với sự đổi mới trong tư duy đối ngoại cùng với bễn hữu quan chúng ta giải
quyết dứt điểm vấn đề Campuchia, bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc từng
bước bình thường hoá quan hệ với Mỹ. Với chiến lược và chính sách đúng đắn
Việt Nam đã phá được thế bao vây cô lập về chính trị, cấm vận về kinh tế. Thực

hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ đa dạng hoá đa phương hoá các quan hệ
quốc tế.
Từ chỗ bao vây cấm vận Việt Nam trở thành đối tác của tất cả các nước lớn
và các trung tâm kinh tế chính trị hàng đầu của thế giới... Những thành tựu này là
nhân tố quan trọng góp phần giữ vững hoà bình ổn định khu vực và thế giới nâng
cao vị thế Việt Nam trong quan hệ quốc tế tạo môi trường thuận lợi cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc thời kỳ mới.
Có thể nói ra đời do yêu cầu bức thiết của công cuộc đổi mới của xu thế
QHQT thời đại mới, chính sách đối ngoại đa phương hoá, đa dạng hoá là đúng đắn
kịp thời đáp ứng yêu cầu của Việt Nam, phù hợp với xu thế thế giới. Chính sách
đối ngoại đổi mới đã đem lại những thành tựu mới đưa đất nước vững bước trên
con đường phát triển. những thành tựu đạt được từ chính sách đối ngoại đổi mới đã
khẳng định rõ vị trí vai trò lãnh đạo của Đangr là nhạy bén sâu sắc, kinh nghiệm và
bản lĩnh lãnh đạo của Đảng rất vững vàng. Với những kinh nghiệm thực hiện chính
sách đối ngoại đổi mới những năm qua, chúng ta có thể hoàn toàn tin tưởng rằng
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, chính sách đối ngoại của Đảng và
Nhà nước chắc chắn có những đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
của Việt Nam, vào sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất nước nhằm xây
dựng một đất nước Việt Nam dân giầu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ và
văn minh, đưa đất nước vững bước vào thế kỷ XXI.

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII - NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 1996

2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI - NXB Sự thật - Hà Nội,
1987


3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII - NXB Sự thật - Hà Nội,
1997

4. Lịch sử Đảng - NXB Giáo dục, 1997
5. Chính sách đối ngoại của 1 số nước lớn sau chiến tranh lạnh - NXB Công
an nhân dân - Hà Nội, 1998

6. 50 năm NGVN (Lưu Văn Lợi) 1945 - 1995
7. Thống kê của Bộ lao động, thương binh và xã hội - Tháng 10 năm 1993. Tư
liệu tham khảo - Viện thông tin khoa học Học viện Chính trị quốc gia - Hồ Chí
Minh.

8. Kinh tế học quốc tế - NXB Thống kê - Hà Nội, 1998
9. Bộ ngoại giao: Hoà nhập quốc tế và giữ vững bản sắc - NXB Chính trị quốc
gia - Hà Nội,1995

16


MỤC LỤC

17



×