Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Tiểu luận cao học, Chính sách đối ngoại việt nam – trung quốc trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.04 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU

1.

Tính cấp thiết của đề tài
Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc luôn là chủ đề nóng bỏng trong suốt
4000 năm lịch sử của Việt Nam. Việt Nam – Trung Quốc là hai nước láng
giềng chung nhau về biên giới (trên đường bộ và đường biển), lại có quá trình
gắn bó tương tác về văn hóa, lịch sử cũng như các cuộc chiến tranh qua lại
giữa hai nước. Tất cả những điều trên đã khiến cho mối quan hệ Việt Nam Trung Quốc trở lên vô cùng phức tạp và nhạy cảm.
Quan hệ Việt – Trung trải qua 2200 năm với những thăng trầm trong
lịch sử, những biến động của tình hình thế giới và những khó khăn, thuận lợi
của mỗi nước. Quan hệ Việt – Trung trong những năm đầu của thế kỷ 21 đã
trở lên thân thiết, mối quan hệ hữu nghị, láng giềng giữa hai nước ngày càng
được phát triển sâu rộng trên mọi lĩnh vực (văn hóa, kinh tế, chính trị…).
Truyền thống hữu nghị Việt - Trung là tài sản chung vô cùng quý giá của hai
dân tộc do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông, cùng các nhà
cách mạng và nhiều thế hệ nhân dân Việt Nam - Trung Quốc dày công vun
đắp để lại cho các thế hệ hôm nay. Truyền thống hữu nghị giữa hai nước được
thể hiện sinh động bằng quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung
Quốc với phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu
dài, hướng tới tương lai”. Quan hệ giữa hai nước từ phương châm 16 chữ
vàng đã được bổ sung thêm tinh thần “4 tốt” là “láng giềng tốt, bạn bè tốt,
đồng chí tốt, đối tác tốt” và phát triển ngày càng hoàn chỉnh khi hai nước
tuyên bố thực hiện “quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện”.
Vừa qua, Việt Nam – Trung Quốc vừa kỷ niệm 62 năm thiết lập mối
quan hệ ngoại giao Việt – Trung (18/1/1950 – 18/1/2012). Đây cũng là dịp để
1


hai nước tăng cường sự tin cậy lẫn nhau, đưa hợp tác đi vào chiều sâu, thúc


đẩu cùng phát triển.
Tiểu luận “Quan hệ đối ngoại Việt Nam – Trung Quốc trong giai đoạn
hiện nay” sẽ đưa ra những thành tựu đã đạt được trong quan hệ đối ngoại Việt
Nam – Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay và đưa ra những định hướng mới
trong quan hệ đối ngoại giữa hai nước.
2.

Tình hình nghiêm cứu đề tài
Mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc luôn là một đề tài được quan
tâm, đặc biệt là trong thời gian gần đây, việc tranh chấp tại khu vực biển
Đông đã khiến mối quan hệ giữa hai nước càng trở lên nóng bỏng.

3.
3.1.

Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mục đích
Đưa ra cái nhìn tổng quát nhất về mối quan hệ đối ngoại Việt Nam –
Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay, dự đoán triển vọng phát triền mối quan
hệ này trong tương lai.

3.2.
-

3.3.

Nhiệm vụ
Nói qua về mối quan hệ Việt – Trung trong lịch sử.
Tổng kết những thành tựu đã đạt được trong mối quan hệ đối ngoại giữa hai
nước.

Dự đoán triển vọng phát triển mối quan hệ Việt – Trung trong tương lai.
Đối tượng
Quan hệ đối ngoại Việt Nam – Trung Quốc
Phạm vi nghiên cứu

3.4.

Mối quan hệ đối ngoại Việt Nam – Trung Quốc trong gian đoạn hiện nay
và đưa ra những triển vọng phát triển phù hợp giữa hai nước trong tương lai.
4.
4.1.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
2


-

Hệ thống, phương pháp lý luận của chủ nghĩa Mac – Lenin, chủ nghĩa duy vật

-

biện chứng.
Dựa trên những công trình nghiên cứu về mối quan hệ Việt – Trung của một

-

số tài liệu của những nhà xuất bản nổi tiếng.
Phương pháp nghiên cứu

Thống kê, đi sâu vào mối quan hệ đối ngoại Việt – Trung trên các lĩnh vực:

5.
-

chính trị, kinh tế thương mại, văn hóa, biên giới lãnh thổ.
Tham khảo một số tài liệu, tạp chí, đề tài nghiên cứu có liên quan.
Ý nghĩa thực tiễn.
Tiểu luận có giá trị thực tiễn như một bản tổng hợp về mối quan hệ Việt –

4.2.

Trung trong qua khứ, hiện tại và tương lai. Giúp chúng ta có cái nhìn tổng thể
6.

nhất về mối quan hệ này.
Phục vụ cho quá trình học tập, dùng làm tài liệu tham khảo.
Kết cấu đề tài
Chương I: Những nhân tố tác động đến mối quan hệ Việt Nam – Trung
Quốc

1.
1.1.
1.2.
2.
2.1.
2.2.

Khái quát chung
Khái quát chung về Trung Quốc

Khái quát chung về Việt Nam
Những nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại Việt Nam – Trung Quốc
Nhân tố thế giới và khu vực
Nhân tố Trung Quốc
Chương II. Tổng quan vê quan hệ đối ngoại Việt Nam – Trung Quốc
trong giai đoạn hiện nay

1.
2.
2.1.
2.2.
3.
4.
5.
6.

Về quan hệ chính trị
Về quan hệ kinh tế thương mại
Về thương mại
Về hợp tác đầu tư
Về quan hệ văn hóa
Về quan hệ ngoại giao
Về biên giới, lãnh thổ
Về an ninh quốc phòng
Chương III: Triển vọng mối quan hệ Việt – Trung trong tương lai

3


1.

1.1.
1.2.
2.

Thuận lợi và khó khăn
Thuận lợi
Khó khăn
Triển vọng phát triển quan hệ đối ngoại Việt – Trung trong tương lai

4


CHƯƠNG I: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN MỐI QUAN HỆ
VIỆT NAM – TRUNG QUỐC

1.
1.1.

Khái quát chung.
Khái quát chung về Trung Quốc
Vị trí địa lý: Trung Quốc nằm ở phần nửa phía Bắc của đông bán cầu,
phía đông- nam của đại lục Á-Âu, phía đông và giữa Châu Á, phía Tây của
Thái Bình Dương; có biên giới chung với Nga, Mông Cổ (phía Bắc), với
Kazakstan, Kirghitan, Taghikistan (phía Tây), với Afghanistan, Pakistan, Ấn
Độ, Nê Pan, Bu Tan (phía Tây Nam), với Myanma, Lào, Việt Nam (phía
Nam), với Triều Tiên (phía Đông).
Thủ đô: Bắc Kinh
Diện tích: 9,6 triệu km2
Dân số: khoảng 1,3 tỷ người (tính đến tháng 12/2002)
Ngày quốc khánh: 1/10/1949.

Khí hậu: Trung Quốc thuộc khu vực gió mùa, khí hậu đa dạng từ ấm
đến khô. Nhiệt độ trung bình toàn quốc tháng 1 là -4,7 oC, tháng 2 là 26oC. Ba
khu vực được coi là nóng nhất là Nam Kinh, Vũ Hán và Trùng Khánh.
Dân tộc: Trung Quốc là một quốc gia có nhiều dân tộc. Dân tộc Hán là
chủ yếu, ngoài ra còn có 55 dân tộc ít người (chiếm 6% dân số cả nước và
phân bố trên 50-60% diện tích toàn quốc).
Hành chính: 31 tỉnh, thành phố gồm 22 tỉnh, 5 khu tự trị và 4 thành
phố trực thuộc Trung ương, 4 cấp hành chính gồm: tỉnh, địa khu, huyện, xã.
Tôn giáo: Có 4 tôn giáo chính là Phật giáo, Đạo giáo, Đạo Hồi và
Thiên Chúa Giáo.

5


Ngôn ngữ: Tiếng Hán là tiếng phổ thông, lấy âm Bắc Kinh làm chuẩn.
1.2.

Khái quát chung về Việt Nam
Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nằm ở phía đông bán đảo
Đông Dương, khu vực Đông Nam Á. Việt Nam có chung đường biên giới với
ba quốc gia, phía bắc Việt Nam giáp với Trung Quốc, phía tây giáp Lào và
Campuchia, phía đông là biển Đông, phía Nam giáp vịnh Thái Lan.
Thủ đô: Hà Nội
Diện tích: 331.690 km2
Dân số: 86,93 triệu người (2011)
Ngày quốc khánh: 2/9/2945
Khí hậu: Việt Nam nằm hoàn toàn trong vòng đai nhiệt đới của nửa
cầu bắc, thiên về chí tuyến hơn là phía xích đạo. Vị trí đó đã tạo cho Việt Nam
có một nền nhiệt độ cao. Nhiệt độ trung bình năm từ 22ºC đến 27ºC. Hàng
năm, có khoảng 100 ngày mưa với lượng mưa trung bình từ 1.500 đến

2.000mm. Độ ẩm không khí trên dưới 80%. Số giờ nắng khoảng 1.500 - 2.000
giờ, nhiệt bức xạ trung bình năm 100kcal/cm². Việt Nam có khí hậu nhiệt đới
gió mùa, nhiệt độ thay đổi theo bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Dân tộc: Việt Nam có 54 dân tộc anh em, có nền văn hóa đa dạng. Chủ
yếu là người Kinh sống ở đồng bằng.
Ngôn ngữ: Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam. Đây là
tiếng mẹ đẻ của khoảng 85% dân chư Việt Nam cùng hơn 4 triệu người Việt
hải ngoại. Tiếng Việt còn là ngôn ngữ thứ 2 của các dân tộc thiểu số tại Việt
Nam.
Tôn giáo: Việt Nam đa dạng về tôn giáo. Một số tôn giáo chính như:
Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo, Kito giáo…
6


2.

2.1.

Những nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại Việt Nam – Trung
Quốc.
Nhân tố thế giới và khu vực
Trong vài thập niên gần đây, hòa bình, hợp tác, cùng phát triển là xu
thế lớn của thế giới nhưng nó có những diễn biến phức tạp, chứa nhiều tiềm
ẩn bất trắc khó lường. Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân
chủ hóa trong quan hệ quốc tế ngày càng phát triển, nhưng các nước lớn vẫn
chi phối quan hệ quốc tế.
Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á vẫn là
khu vực phát triển năng động nhưng vẫn còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn
định, tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt. ASEAN tuy còn nhiều
khó khăn, thách thức nhưng tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong khu vực.

Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang diễn biến phức tạp, có khả
năng sẽ làm thay đổi cục diện thế giới. Điều này có tác động mạnh đến việc
điều chỉnh quan hệ (kinh tế) giữa các nước trên thế giới và khu vực. Và tất
nhiên nó cũng ảnh hưởng đến mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc sau này.
Cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính vừa qua có ảnh hưởng lâu dài đến
tình hình thế giới. Trước hết, nó sẽ làm thay đổi cán cân so sánh lực lượng
giữa các nước lớn và các tập đoàn quốc gia. Sự thay đổi đó nhìn chung là có
lợi cho Trung Quốc. Qua cuộc khủng hoảng, vai trò của các nước lớn có nền
kinh tế mới trỗi dậy (nhất là nhóm BRIC – Braxin, Nga, Ấn Đội, Trung Quốc)
được nâng cao, G20 đã tham gia vào việc định đoạt đời sống kinh tế thế giới
mà trước đây chỉ có mình G7 thao túng. Kinh tế Mỹ, nơi phát sinh khủng
hoảng đã bị hậu quả nặng nề và đang tiến hành khôi phục lại một cách khó
khăn và chậm chạp. EU sau khủng hoảng tài chính lại rơi vào khủng hoảng nợ
công trầm trọng. Kinh tế Nhật Bản vốn suy thoái từ nhiều năm nay, đang hồi

7


phục chậm chạp, lại bị tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, hậu
quả rất nặng nề. Hiện nay, kinh tế Mỹ, EU không những đang khôi phục chậm
chạp mà còn ẩn chứa nguy cơ tái khủng hoảng nếu không có biện pháp ngăn
chặn.
Tình hình an ninh thế giới cũng có nhiều diễn biến phức tạp. Cuộc
chiến chống khủng bố quốc tế của chính quyeefb G.Bush đã dẫn đến hậu quả
nước Mỹ bị sa lầy trên chiến trường Iraq và Afganistan, khiến vị thế ảnh
hưởng của Mỹ bị sa sút tại khu vực khác, nhất là Châu Á. Chính quyền
Obama lên cầm quyền ở Mỹ từ năm 2009 đang tìm cách cứu vãn tình thế.
Nước Mỹ đang “trở lại Châu Á”, “trở lại Đông Nam Á” với chính sách “ngoại
giao thông minh”. Ở Đông Bắc Á, Mỹ đang tìm cách củng cố liên minh Mỹ Nhật – Hàn. Ở Đông Nam Á, Mỹ đang cải thiện quan hệ với các đồng minh
và các nước khác.

Trong khi Mỹ “trở lại Châu Á”, “trở lại Đông Nam Á”, thì Trung Quốc
cho là đã đến lúc cần phải và ra tay ngăn chặn ảnh hưởng của Mỹ đối với khu
vực này. Đó là lý do chủ tịch Hồ Cẩm Đào và các nhà lãnh đạo Trung Quốc
đã lên tiếng đòi mỹ phải tôn trọng “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc, bao gồm
cả yêu sách của Trung Quốc đối với các vùng biển Hoàng Hải, Đông Hải,
Nam Hải (Biển Đông).
Trong vài ba thập kỷ tới, Mỹ vẫn giữ được vị trí siêu cường duy nhất,
có sức mạnh áp đảo về kinh tế, quân sự, khoa học công nghệ và ảnh hưởng
trong quan hệ quốc tế. Trong khi đó Trung Quốc sẽ lớn mạnh về kinh tế, quân
sự và cạnh tranh quyết liệt về địa – chiến lược để giữ vị thế chi phối Đông Á,
nhất là vùng biển phụ cận. Tuy nhiên tình hình Đông Á trong thập kỷ tới
không chỉ phụ thuộc vào Mỹ và Trung Quốc, mà còn tùy thuộc vào các quốc
gia khác trong khu vực.
2.2.

Nhân tố Trung Quốc
8


Trong thời gian tới, Trung Quốc vẫn ở trong thời kì phát triển nhanh
bắt đầu từ 30 năm trước, khi quốc gia này bắt đầu chuyển sang cải cách, mở
cửa, hiện đại hóa.
Về kinh tế, từ 1978 – 2007 tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hằng
năm của Trung Quốc là 9,8%. Hai năm 2008 và 2009 trong bối cảnh khủng
hoảng tài chính và kinh tế toàn cầu, kinh tế Trung Quốc vẫn tăng 9% và 9,1%.
Những năm của thập kỷ tới, tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc sẽ chậm
lại nhưng vẫn đạt khoảng 7 – 8%. Cũng theo dự báo của IFM, Trung Quốc có
khả năng đuổi kịp Mỹ về GDP vào năm 2020. Tuy nhiên, chất lượng của nền
kinh tế Trung Quốc vẫn kém xa Mỹ, Nhật và các nước phát triển khác. Khó
khăn lớn của nền kinh tế Trung Quôc trong thập niên tới là nguồn cung cấp

nguyên liệu, năng lượng và thị trường xuất khẩu hàng hóa.
Về quân sự: Lực lượng vũ trang của Trung Quốc thời gian qua đã phát
triển nhanh chóng và hiện nay đã đạt quy mô và trình độ một cường quốc
quân sự thế giới. Trong thập niên tới, Trung Quốc sẽ tập trung vào việc phát
triển Hải quân (đặc biệt là tàu ngầm và tàu sân bay), lực lượng Không quân và
tên lửa, đặc biệt là phát triển công nghệ vũ trụ phục vụ mục đích quân sự (hệ
thống dẫn qua vệ tinh Bắc Đẩu). Tuy vậy, theo đánh giá của các chuyên gia,
trình độ khoa học công nghệ quân sự của Trung Quốc vẫn lạc hậu so với Mỹ
khoảng 15 năm. Tuy nhiên, trong phạm vi lãnh thổ Trung Quốc và vùng phụ
cận, Trung Quốc đã đủ sức để đối chọi với Mỹ (sự kiện Mỹ phải nhượng bộ
chuyển tàu sân bay US.Washington từ vùng biển Hoàng Hải tới vùng biển
Nhật Bản để tham gia tập trận sau vụ tàu Cheonan Hàn Quốc).
Tại Đông Nam Á, Trung Quốc đang tăng cường quan hệ kinh tế thương mại với các quốc gia thành viên ASEAN. Trước mắt là thực hiện cam
kết ACFTA (khu tự do thương mại Trung Quốc – ASEAN) bắt đầu từ 2010
với ASEAN 6 và năm 2015 với ASEAN 4. Về lâu dài,Trung quốc đang thúc
9


đẩy hợp tác theo ý tưởng “một trục hai cánh”, trọng tâm là “Hợp tác kinh tế
Vịnh Bắc Bộ mở rộng”.
Là nước láng giềng liền kề với Trung Quốc, Việt Nam có vị thế địa
kinh tế, địa chiến lược quan trọng: cầu nối Đông Bắc Á với Đông Nam Á,
nằm ở vị trí tiền tiêu của Biển Đông mà các nước lớn đều muốn chiếm lĩnh,
khống chế hoặc giành giật ảnh hưởng tối đa vì lợi ích của họ. Trung Quốc
luôn muốn Việt Nam phát triển thuận chiều với chiến lược mở rộng ảnh
hưởng xuống phía Nam của họ, mong muốn Việt Nam ủng hộ chiến lược
“một trục hai cánh”, ủng hộ chiến lược Vịnh Bắc Bộ mở rộng, xây dựng vành
đai kinh tế Đại Trung Hoa. Mặc dù Trung Quốc nói mong muốn các nước
láng giềng giàu lên để cùng hợp tác, phát triển, song thực sự họ luôn cảnh
giác với một Việt Nam mạnh và thân phương Tây, nên tìm cách “kiềm chế”

Việt Nam.
Trong mười năm qua Trung Quốc đã cùng Việt Nam xây dựng quan hệ
hợp tác hữu nghị toàn diện với “phương châm 16 chữ” và “tinh thần 4 tốt”, đã
cùng xác định xong biên giới trên bộ và trong Vịnh Bắc Bộ để ổn định hợp
tác phát triển kinh tế. Song trong thời gian tới, do sự trỗi dậy mạnh mẽ của
Trung Quốc như đã phân tích ở trên, quan hệ Trung Quốc với Việt Nam sẽ có
nhiều biến động theo chiều hướng gia tăng sức ép đối với Việt Nam trên một
số mặt, đặc biệt là về mặt kinh tế và mặt biển đảo.

10


CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM –
TRUNG QUỐC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1. Về quan hệ chính trị

Trong thời gian gần đây, hai nước tiếp tục đẩy mạnh mối quan hệ về
ngoại giao chính trị. Việt Nam luôn cam kết tuân theo “16 chữ vàng”, mãi mãi
là láng giềng tốt của Trung Quốc. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng,
trong buổi họp báo ngày 10/4/2007 tại Bắc Kinh, Trung Quốc đã tuyên bố:
“Quan hệ Trung – Việt chưa lúc nào tốt đẹp như lúc này”.
Việt Nam – Trung Quốc đã tổ chức nhiều cuộc tham hỏi giữa lãnh đạo
cấp cao và đạt được nhiều kết quả tốt đẹp. Hai nước đã thảo thuận xây dựng
mối quan hệ Việt – Trung theo khuôn khổ láng giềng hữu nghị, hợp tác lâu
dài. Trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu tháng
2/1999, hai nước đã xác định phương châm thúc đẩy quan hệ hai nước là 16
chữ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương
lai” và với tinh thần 4 tốt “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.
Trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tháng

5/2008, hai bên nhất trí phát triển “quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn
diện” theo phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt, đồng thời nhất trí thiết lập
đường dây nóng giữa lãnh đạo cấp cao hai nước tạo cở sở cho hai nước phát
triển ổn định, lâu dài trong thời gian tới.
Lãnh đạo cấp cao hai nước duy trì đều đặn các chuyến thăm và gặp gỡ
bên lề hội nghị quốc tế. Trong các chuyến thăm, lãnh đạo cấp cao hai nước
nhấn mạnh tình hữu nghị Việt – Trung là tài sản quý báu của hai nước và nhân
dân hai nước, cần được hết sức giữ gìn và không ngừng vun đắp; khẳng định
sẽ làm hết sức mình để đưa quan hệ đó ngày càng sâu sắc hơn, tin cậy hơn,
cùng ủng hộ lẫn nhau trong sự nghiệp đổi mới, cải cách mở cửa và xây dựng
11


chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu
vực và trên thế giới.
Hai bên thành lập Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam Trung Quốc (11/2006) và đã tiến hành 2 phiên họp (phiên thứ 2 họp tại Bắc
Kinh tháng 1/2008).
Hợp tác giữa hai Đảng được đẩy mạnh. Hai bên duy trì trao đổi đoàn và
thiết lập cơ chế hợp tác, giao lưu giữa các Ban Đảng. Từ cuối năm 2007,
Trung Quốc tiếp tục thực hiện các chương trình bồi dưỡng, đào tạo cán bộ cho
ta. Trong chuyến thăm Việt Nam của Trưởng ban liên lạc đối ngoại Trung
Quốc Vương Gia Thụy, hai bên trao đổi ý kiến về các biện pháp tăng cường
giao lưu giữa các cơ quan hai Đảng trên các lĩnh vực đào tạo cán bộ, công tác
xây dựng Đảng… Ngoài ra, hai Đảng đã tổ chức 4 cuộc hội thảo về lý luận,
kinh nghiệm xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, về đổi mới, cải cách mở cửa,
hội nhập quốc tế (tháng 10/2008, tổ chức Hội thảo lý luận và thực tiễn về
nông nghiệp, nông thôn, nông dân - Kinh nghiệm Việt Nam, kinh nghiệm
Trung Quốc tại Nha Trang). Giao lưu giữa thế hệ trẻ 2 nước tiếp tục được duy
trì (tháng 10/2008, đã diễn ra cuộc “Gặp gỡ hữu nghị thanh niên Việt Nam Trung Quốc” lần thứ 8 với chủ đề Giao lưu hữu nghị Việt - Trung).
Quan hệ giữa các ngành quan trọng như ngoại giao, an ninh, quốc

phòng tiếp tục được tăng cường với việc ký các thỏa thuận hợp tác giữa hai
Bộ Ngoại giao (12/2002), hai Bộ Công an (9/2003), hai Bộ Quốc phòng
(10/2003); hai ngành An ninh (3/2005), Thoả thuận hợp tác biên phòng
(8/2007) và Thỏa thuận về hợp tác giữa hai Tổng Cục chính trị Bộ Quốc
phòng hai nước (12/2007). Năm 2008, hai bên trao đổi các đoàn quan trọng:
Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Dương Khiết Trì thăm ta (4/2008);…

12


Trong khuôn khổ hợp tác “hai hành lang một vành đai kinh tế”, hai bên
tổ chức hội nghị lần thứ 4 về hợp tác kinh tế giữa Hà Nội, Hải Phòng, Quảng
Ninh, Lào Cai với Vân Nam (Trung Quốc).
Hiện nay, ta có các tổng lãnh sự quán tại Quảng Châu, Nam Ninh, Côn
Minh, Hồng Công. Tháng 11/2007, Đại sứ quán ta tại Trung Quốc mở văn
phòng Lãnh sự tại Thượng Hải.
Hai bên tích cực trao đổi, phối hợp lập trường trên nhiều vấn đề quốc tế
và khu vực, đặc biệt là phối hợp trong Hội Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc kể
từ khi Việt Nam là Ủy viên không thường trực Hội Đồng Bảo An Liên Hợp
Quốc.
2. Về quan hệ kinh tế, thương mại.
2.1.

Về thương mại
Trong giai đoạn 2001 – 2010, quan hệ kinh tế Việt Nam – Trung Quốc
đã có những bước phát triển lớn cả về chiều rộng và chiều sâu. Năm 2000,
kim ngạch mậu dịch song phương đạt trên 2,5 tỉ USD, lần đầu tiên vượt mục
tiêu 2 tỉ USD.
Từ năm 2001- 2010, Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn
nhất của Việt Nam. Mức tăng trưởng kim ngạch mậu dịch hai nước từ năm

2001-2008 bình quân trên 25%. Một số mốc quan trọng là: Năm 2004 kim
ngạch mậu dịch hai nước đạt xấp xỉ 7,2 tỉ USD, vượt mục tiêu Chính phủ hai
nước đề ra là 5 tỉ USD vào năm 2005. Năm 2005 đạt 9,12 tỉ USD, tăng 26,6%
so năm 2004, năm 2006 đạt 10,63 tỉ USD, tăng 16,5% so năm 2005, năm
2007 đạt 16,35 tỉ USD, tăng 53,8% so năm 2006, năm 2008, đạt 20,82 tỉ USD
tăng gấp 2,28 lần so với năm 2005 và hoàn thành trước hai năm mục tiêu đề
ra là 20 tỉ USD vào năm 2010. Năm 2009 tuy bị tác động tiêu cực của suy
thoái kinh tế toàn cầu nhưng quan hệ thương mại giữa hai nước vẫn tiếp tục

13


tăng trưởng. Tổng mức buôn bán hai chiều đạt 21,35 tỉ USD tăng 2,6% so
năm 2008. Ước tính năm 2010 là trên 22 tỉ USD.
Sang năm 2012, quí I/2012, kim ngạch thương mại hai chiều giữa hai
nước đạt 8,4 tỷ USD, tăng 16,1% so với cùng kỳ năm 2011, trong đó xuất
khẩu sang Trung Quốc 2,7 tỷ USD, tăng 27,61% so với cùng kỳ năm 2011,
tính riêng tháng 3/2012, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này đạt 1,1 tỷ
USD, tăng 7,87% so với tháng liền kề trước đó. Các mặt hàng xuất khẩu
chính sang Trung Quốc trong thời gian này là máy vi tính, sản phẩm điện tử
và linh kiện, sắn và các sản phẩm từ sắn, cao su, dầu thô, than đá, xăng dầu ,
gỗ và sản phẩm… trong đó mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh
kiện đạt kim ngạch cao, đạt 205,7 triệu USD trong tháng 3, tăng 52,27% so
với tháng 2/2012, nâng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này sang Trung Quốc
quí I/2012 lên 403,1 triệu USD, tăng 246,11% so với cùng kỳ năm 2011.
Đứng thứ hai về kim ngạch là mặt hàng sắn và sản phẩm, với 153,6 triệu
USD, tăng 150,49% so với tháng 2/2012, nâng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng
sắn và sản phẩm 3 tháng đầu năm 2012 lên 319,4 triệu USD, nhưng giảm
11,15% so với 3 tháng năm 2011. Đáng chú ý, mặt hàng chất dẻo nguyên liệu
tuy kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc trong quí I/2012 chỉ đạt

34,2 nghìn USD, nhưng lại có sự tăng trưởng vượt bậc so với các mặt hàng,
tăng 364,33% so với quí I/2011.
Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu mới đạt 1,5 tỉ USD, thì năm 2005 đã
đạt 3,22 tỉ USD, năm 2006 đạt 3,65 tỉ USD, năm 2007 đạt 4,65 tỉ USD, năm
2008 đạt 4,85 tỉ USD, năm 2009 đạt 4,91tỉ USD và ước tính năm 2010 đạt 5,2
tỉ USD. Như vậy, kim ngạch xuất khẩu năm 2000-2009 tăng gấp 3,19 lần,
bình quân mỗi năm tăng 13,75%, và nếu so với năm 2005, con số tương ứng
là 52% và 11% . Đó là những tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cao và

14


liên tục với xu hướng khá bền vững năm sau cao hơn năm trước, rất đáng ghi
nhận.
Không chỉ tăng trưởng cao, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu cũng rất đa
dạng, khai thác tốt các thế mạnh hàng hoá sản xuất của Việt Nam. Hàng Việt
Nam xuất khẩu sang Trung Quốc chủ yếu là dầu thô, than đá, và các loại nông
sản nhiệt đới bao gồm: cao su, rau hoa quả, hạt điều, hạt tiêu, sắn lát, đồ gỗ
cao cấp, thực phẩm chế biến, thuỷ hải sản tươi sống… Hàng hoá nông sản,
thuỷ sản Việt Nam đã tìm được thị trường lớn và khá ổn định lại không đòi
hỏi chất lượng quá cao nên vấn đề đầu ra cho nông sản hàng hoá được giải
quyết, có tác dụng kích thích sản xuất nông nghiệp phát triển, góp phần tạo
việc làm mới ở nông thôn, nhất là các tỉnh biên giới, tăng thu nhập cải thiện
đời sống nông dân.
Đi đôi với việc duy trì đà tăng trưởng kim ngạch song phương, hai bên
cũng tích cực tìm biện pháp cải thiện cán cân thương mại. Để thúc đẩy hơn
nữa xuất khẩu hàng nông sản và thực phẩm, trong chuyến thăm Trung Quốc
của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh vào ngày 30/5 đến 2/6/2008, hai bên đã ký
kết Hiệp định kiểm dịch động vật và thực vật.
Để triển khai thực hiện Hiệp định về phát triển sâu rộng quan hệ kinh

tế thương mại, hiện nay hai bên đang tích cực hoàn tất để sớm ký kết “Quy
hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế thương mại Việt – Trung” giai đoạn
2009 - 2013, xác định các lĩnh vực và dự án hợp tác trọng điểm, nâng cao hơn
nữa quy mô và mức độ hợp tác kinh tế thương mại, đồng thời đưa ra một số
giải pháp cụ thể, trong đó có các biện pháp hướng tới giải quyết vấn đề nhập
siêu.

2.2.

Về hợp tác đầu tư
15


Quan hệ hợp tác đầu tư có bước phát triển mới, nhiều tập đoàn lớn của
Trung Quốc bày tỏ mong muốn đầu tư vào Việt Nam. Tính đến hết tháng
12/2008, Trung Quốc đã đầu tư vào Việt Nam 628 dự án còn hiệu lực với tổng
vốn đăng ký khoảng 2,197 tỷ USD, đứng thứ 16/84 quốc gia và vùng lãnh thổ
đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
Cơ cấu đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam khá hợp lý, bao gồm các
ngành và lĩnh vực Việt Nam đang cần và Trung Quốc có thế mạnh như: chế
biến thức ăn gia súc, chế biến lương thực, thực phẩm, sản xuất linh kiện, lắp
ráp ô tô, xe gắn máy, khai khác mỏ, xây dựng các nhà máy nhiệt điện, xây
dựng, nâng cấp các công trình giao thông; xây dựng kết cấu hạ tầng, dịch vụ
khách sạn, nhà hàng, du lịch nghỉ dưỡng, ngân hàng…
Trong những năm qua, Trung Quốc không ngừng tăng qui mô tín dụng
ưu đãi dành cho Việt Nam. Hiện hai bên đang triển khai một số dự án hợp tác
kinh tế lớn như Dự án xây dựng nhà máy khai thác và luyện đồng tại Sin
Quyền; cải tạo nâng tạo nâng cấp nhà máy gang thép Thái Nguyên; phân đạm
Hà Bắc; Nhà máy nhiệt điện Quảng Ninh Bình I, II; Nhà máy nhiệt điện Hải
Phòng I, II;…

Hai bên cũng nhất trí tăng cường thúc đẩy các doanh nghiệp của hai
nước hợp tác trong các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, công nghiệp chế tạo, phát triển
nguồn nhân lực, năng lượng, chế biến khoáng sản và các lĩnh vực quan trọng
khác, tăng cường hợp tác các dự án trong khuôn khổ “Hai hành lang, một
vành đai kinh tế” và các dự án lớn khác.
Trung Quốc còn hỗ trợ Việt Nam nhiều khoản viện trợ không hoàn lại
dùng vào việc tổ chức các đoàn tham quan, khảo sát kinh nghiệm phát triển
kinh tế xã hội ở Trung Quốc, trao đổi thanh thiếu niên, đầu tư trang thiết bị
cho một số bệnh viện tại Việt Nam, xây dựng khu nhà ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và Cung hữu nghị Việt – Trung.
16


Ngoài ra, Trung Quốc còn là thị trường có nguồn du lịch lớn nhất của
Việt Nam. Năm 2008 có hơn 650 ngàn lượt khách Trung Quốc đi du lịch Việt
Nam.
3. Về văn hóa

Trung Quốc có ảnh hưởng lớn về văn hóa tới Việt Nam kể từ sau khi
bình thường hóa quan hệ đối ngoại 1990. Các loại hình văn hóa của Trung
Quốc ảnh hưởng tới Việt Nam một cách rộng rãi.
Hàng năm, Trung Quốc tiếp nhận một số lượng đáng kể các học sinh,
thực tập sinh và các đoàn thể thao của ta sang nghiên cứu, học tập và tập huấn
tại Trung Quốc, đồng thời cử nhiều cán bộ, huấn luyện viên sang giúp ta trong
công tác huấn luyện các môn thể thao.
Hai bên cũng trao đổi các đoàn biểu diễn nghệ thuật, tổ chức nhiều
cuộc giao lưu văn hóa, thể thao, góp phần tăng cường tình đoàn kết, hữu nghị
giữa hai nước.
4. Về quan hệ ngoại giao

Trung Quốc và Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày 18

tháng 1 năm 1950. Trung Quốc Việt Nam có tình hữu nghị truyền thống lâu
đời. Trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, chính phủ và nhân dân Trung
Quốc đã dốc sức ủng hộ cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của Việt
Nam, dành sự viện trợ to lớn về quân sự và kinh tế cho Việt Nam. Việt Nam
coi Trung Quốc là hậu phương vững mạnh, hai nước hợp tác rộng rãi về các
lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế…
Tháng 11 năm 1991, nhận lời mời của chủ tịch nước Trung Quốc
Giang Trạch Dân và thủ tướng Lý Bằng, tổng Bí thư ban chấp hành Trung
Ương Đảng cộng sản Việt Nam Đỗ Mười, chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ
Văn Kiệt dẫn đoàn đại biểu sang thăm Trung Quốc, hai bên tuyên bố chấm

17


dứt cạnh tranh trong quá khứ, mở ra tương lai tốt đẹp, thực hiện bình thường
hóa quan hệ hai Đảng và hai nước.
Sau đó, quan hệ Đảng và nhà nước Việt Nam – Trung Quốc đã được
khôi phục toàn diện và phát triển vào chiều sâu. Lãnh đạo hai nước duy trì các
cuộc đi thăm và tiếp xúc, giao lưu hữu nghị và hợp tác cùng có lợi trong các
lĩnh vực giữa hai bên không ngừng được tăng cường. Đầu năm 1999, Tổng Bí
thư của hai Đảng đã xác định khuôn khổ phát triển quan hệ hai nước hướng
tới trong thời gian tới là “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu
dài, hướng tới tương lai”. Năm 2000, hai nước đã ra “Tuyên bố chung” về
hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới, đưa ra quy định cụ thể cho việc phát triển
quan hệ hợp tác hữu nghị song phương giữa hai nước.
Việt Nam – Trung Quốc đi sâu trao đổi ý kiến và đạt được nhận thức
chung quan trọng về tăng cường quan hệ Đảng và nhà nước trong thế kỷ mới,
đó là: duy trì các cuộc đi thăm cấp cao, mở rộng và tăng cường sự hợp tác
kinh tế và thương mại giữa hai nước, giáo dục nhân dân hai nước bằng tinh
thần Trung Việt hữu nghị mãi mãi, tăng cường giao lưu kinh nghiệm giữa hai

bên về quản lý Đảng , quản lý Nhà nước cũng như lý luận xây dựng chủ nghĩa
xã hội, mở rộng và tăng cường sự giao lưu giữa các bộ ngành ngoại giao,
quốc phòng an ninh cũng như sự giao lưu trong thanh thiếu niên. Hai bên đã
ký “Hiệp định hợp tác kinh tế kỹ thuật giữa chính phủ hai nước Trung Việt”
và “Hiệp nghị khung giữa chính phủ hai nước về TQ dành vốn vay ưu đãi cho
VN”.
Trong bối cảnh Việt Nam – Trung Quốc đang rơi vào tình thế nóng
bỏng như hiện nay vì vấn đề Biển Đông, quan hệ đối ngoại Việt – Trung càng
trở lên cần thiết.
5. Về biên giới, lãnh thổ

18


Sau khi bình thường hóa quan hệ, năm 1993 hai bên ký thỏa thuận về
các nguyên tắc cơ bản giải quyết các vấn đề về biên giới lãnh thổ. Hai bên
tiến hành đàm phán về ba vấn đề: biên giới trên đất liền, phân định vịnh Bắc
bộ và vấn đề trên biển (Biển Đông). Đến nay hai bên đã ký Hiệp ước biên giới
trên đất liền; Hiệp định phân định Vịnh Bắc bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá
Vịnh Bắc Bộ (2000).
Về biên giới trên đất liền: Đến cuối năm 2008, hai bên hoàn thành công
tác phân giới cắm mốc đúng thời hạn Lãnh đạo cấp cao hai nước đã thoả
thuận; tổ chức Lễ mừng công tại khu vực cửa khẩu Hữu nghị - Hữu nghị quan
vào ngày 23/2/2009.
Về Vịnh Bắc Bộ: hai Hiệp định về Vịnh Bắc Bộ (Hiệp định phân định
Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ) được triển khai
tương đối thuận lợi, công tác quản lý đánh bắt và bảo vệ nguồn lợi dần đi vào
nề nếp.
Về biển Đông: vấn đề Biển Đông không phải là toàn cục trong quan hệ
Việt - Trung, nhưng là vấn đề hết sức nhạy cảm và phức tạp đối với cả hai

Đảng, hai nước, vì nó liên quan đến chủ quyền quốc gia dân tộc. Hai nước đã
nhất trí giải quyết vấn đề biển Đông bằng thái độ bình tĩnh giải quyết trên tinh
thần nhìn từ tầm cao chiến lược, vì lợi ích của nhân dân hai nước, phù hợp với
luật pháp quốc tế và quan hệ láng giềng, hữu nghị truyền thống Việt Nam Trung Quốc và không để các vấn đề đó ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định
của quan hệ hai nước. Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực
nghiên cứu khoa học, môi trường biển, tìm kiếm cứu nạn, khí tượng thủy
văn... Về hợp tác nghiên cứu khoa học giữa Philipin – Trung Quốc - Việt Nam
ở biển Đông (JOMSRE), qua ba cuộc họp cấp chuyên viên tháng 1, tháng 3 và
tháng 5/2008, các bên đạt được một số nhận thức chung về nguyên tắc, nội
dung khảo sát và một số vấn đề về kỹ thuật liên quan.
19


6. Về vấn đề an ninh quốc phòng

Trong đà phát triển chung của quan hệ hai nước, hợp tác quốc phòng
Việt - Trung cũng có những bước tiến mạnh mẽ. Hai bên thường xuyên trao
đổi đoàn các cấp nhằm tạo sự tin cậy, hiểu biết nhau, xây dựng quan hệ gắn
bó giữa quân đội hai nước. Quan hệ giao lưu, hợp tác, phối hợp giữa Hải
quân, Biên phòng và quân khu giáp biên hai nước được đẩy mạnh. Các cuộc
tuần tra liên hợp trên biển và trên bộ đạt được kết quả tốt. Việc trao đổi học
viên quân sự tăng cả số lượng và chuyên ngành… Trên nền tảng tốt đẹp đó, tại
Đối thoại chiến lược quốc phòng-an ninh Việt - Trung, hai bên thống nhất tiếp
tục đẩy mạnh hợp tác trong nhiều lĩnh vực như tăng cường trao đổi đoàn, sớm
hoàn thành đường dây nóng giữa hai Bộ Quốc phòng, mở rộng trao đổi đào
tạo học viên quân sự dài hạn và ngắn hạn. Hai nước cũng thống nhất tiếp tục
đẩy mạnh giao lưu, tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực nghiên cứu khoa học
quan sự, đào tạo, hợp tác hải quân, biên phòng, thiết lập đường dây nóng giữa
hai Bộ Quốc phòng, góp phần cụ thể hóa các thỏa thuận mà lãnh đạo Đảng,
Nhà nước và quân đội hai nước đã xác định. Trung Quốc nhất trí chia sẻ kinh

nghiệm với Việt Nam trong việc tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên
hợp quốc... Hai bên cũng cho rằng cần đẩy mạnh thông tin tuyên truyền để
chiến sĩ và nhân dân Việt - Trung hiểu rõ mối quan hệ hữu nghị truyền thống,
hợp tác thiết thực và cùng có lợi giữa quân đội và nhân dân hai nước.
CHƯƠNG III: TRIỂN VỌNG MỐI QUAN HỆ VIỆT – TRUNG TRONG
TƯƠNG LAI

1. Thuận lợi và khó khăn
1.1.

Thuận lợi
Trung Quốc và Việt Nam là hai nước láng giềng anh em, có mối quan
hệ hơn 2000 năm và cùng trải qua nhiều thăng trầm trong lịch sử. Việt Nam
20


và Trung quốc cũng có mối quan hệ hợp tác lâu đời trên tất cả các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa…
Trung Quốc và Việt Nam đều chọn con đường phát triển là chủ nghĩa
xã hội, tư tưởng chính trị không có mâu thuẫn với nhau. Từ đó mỗi nước đều
xây dựng nhà nước và phương hướng phát triển dưới sự lãnh đạo của một
Đảng nhất định nên hai nước có mối quan hệ đồng cảm với nhau trong mối
quan hệ trên mọi lĩnh vực.
Trung Quốc và Việt Nam đều chủ chương hội nhập quốc tế, mở rộng
thị trường, tích cực tham gia vào các tổ chức quốc tế tạo sự nhất quán cao hơn
trong chính sách đối ngoại của cả hai nước.
Sắp tới, Việt Nam và Trung Quốc sẽ ký kết hiệp định Thương mại Việt
Nam – Hoa Kỳ trong đó Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc của Mỹ.
Việc Trung Quốc gia nhập WTO cũng là một trong những cột mốc đặc biệ
đưa quan hệ thương mại Việt Nam – Trung Quốc lên một tầng cao mới.

Khó khăn

1.2.

Việt Nam và Trung Quốc có cùng tư tưởng chính trị, nhưng không
thống nhất với nhau về quan điểm chính trị. Do vậy dẫn đến mục đích phát
triển của mỗi nước không giống nhau. Ðây là mâu thuẫn lớn nhất và quan
trọng nhất, dẫn đến sự khác biệt trong việc đề ra chính sách đối ngoại của mỗi
nước.
Quan hệ đối ngoại Việt Nam – Trung Quốc hiện nay đang nóng lên bởi
vấn đề biển Đông. Việc phân chia quyền lợi và hành động thế nào cho hợp lý
và đúng với quy tắc ứng xử đã được ký kết là một trong những khó khăn
trong vấn đề biển Đông giữa hai nước. Đây cũng là một vấn đề ảnh hưởng
trực tiếp đến quan hệ đối ngoại hai nước trong giai đoạn hiện nay.
2. Triển vọng phát triển quan hệ đối ngoại Việt – Trung trong tương lai.

21


Quan hệ Trung Quốc – Việt Nam trong thời gian tới là một vấn đề rất
quan trọng đối với Việt Nam, Trung Quốc, đối với hòa bình, ổn định và hợp
tác phát triển trong khu vực. Trên phạm vi quốc tế, quan hệ giữa hai nước xã
hội chủ nghĩa – Việt Nam và Trung Quốc sẽ có tác động cực kỳ quan trọng tới
sự ổn định, xu thế phát triển của một số quốc gia xã hội chủ nghĩa còn lại trên
thế giới.
Trung Quốc và Việt nam cùng chung ý thức hệ và chế độ chính trị xã
hội chủ nghĩa, về phương diện này không có mâu thuẫn đối kháng, mà ngược
lại, cần thắt chặt quan hệ đoàn kết hợp tác. Về kinh tế thương mại, quan hệ
Trung – Việt vừa có mặt hợp tác, vừa có mặt cạnh tranh. Quan hệ trung – Việt
trong thời gian tới chủ yếu phụ thuộc vào vấn đề tranh chấp Biển Đông. Quan

hệ tốt hay xấu, hòa bình hữu nghị hay xung đột chiến tranh giữa Trung Quốc
và Việt Nam thời gian tới chủ yếu phụ thuộc vào vấn đề Biển Đông. Mọi khả
năng đều có thể xảy ra, tùy theo diễn biến của tình hình, và chủ động là ở phía
Trung Quốc. Về đại thể, Trung Quốc có thể xử lý quan hệ với Việt Nam theo
ba kịch bản: một là, xung đột đối địch; hai là ,hòa bình hữu nghị; ba là, hòa
bình và xung đột, hữu nghị và đối địch đan xen tương tự như hiện nay.
Trong ba xu thế nêu trên, khả năng thứ nhất (hoàn toàn đối địch), khả
năng thứ 2 (hoàn toàn hữu nghị) là khó có thể xảy ra, khả năng thứ 3 (vừa hợp
tác, vừa kiềm chế) cơ bản như tình hình hiện nay có thể là xu hướng cơ bản
phát triển trong quan hệ đối ngoại Việt Nam – Trung Quốc trong giai đoạn tới.
Trong thời gian tới, Trung Quốc sẽ nỗ lực cạnh tranh địa - chiến lược,
dựa vào sức mạnh quân sự và kinh tế, đẩy lùi ảnh hưởng và vị thế của Mỹ Nhật -Ấn Độ tại các khu vực biển Hoàng Hải, Đông Hải, Nam Hải (Biển
Đông). Tại khu vực Đông Nam Á, Trung Quốc sẽ thi hành chính sách hai mặt:
một mặt, tăng cường hợp tác kinh tế thương mại với các nước ASEAN, ‘nhất
thể hóa” kinh tế Trung Quốc – ASEAN thông qua Hiệp định tự do thương mại
22


Trung Quốc – ASEAN (CAFTA). Mặt khác, thi hành chính sách phân hóa các
nước ASEAN, khai thác bất đồng quan điểm giữa các nước có tranh chấp với
các nước không có tranh chấp, giữa các nước có tranh chấp Biển Đông với
nhau. Đồng thời Trung Quốc sẽ thi hành chính sách “cương nhu kết hợp”, vừa
kiên quyết chống lại, vừa sẵn sang thỏa hiệp để hạn chế tối đa sự can thiệp
của Mỹ vào vấn đề Biển Đông và tình hình Đông Nam Á nói chung.
Trong bối cảnh chung đó, Trung Quốc sẽ tiếp tục chính sách hai mặt
đối với Việt Nam. Một mặt vẫn duy trì quan hệ với Việt Nam vốn đã được
định vị là “quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện” với phương châm
“16 chữ” và tinh thần “4 tốt”. Mặt khác tìm cách kiềm chế sự phát triển của
Việt Nam, kiềm chế quan hệ giữa Việt Nam với cộng đồng quốc tế, nhất là
với Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và các nước ASEAN, đặc biệt với Lào, Campuchia.

Do những trở ngại về chính trị và quân sự, Trung Quốc sẽ không sử
dụng vũ lực để đánh chiếm toàn bộ các đảo Việt Nam đang đóng giữ ở quần
đảo Trường Sa. Nhưng trong mười năm này, Trung Quốc sẽ không “án binh
bất động” như hiện nay, khả năng lớn nhất là Trung Quốc sẽ xây dựng một tập
đoàn căn cứ quân sự mạnh trên các đảo và bãi đá ngầm ở Trường Sa mà
Trung Quốc hiện đang chiếm đóng. Không loại trừ khả năng Trung Quốc sẽ
lấn chiếm một vài đảo hoặc bãi đá ngầm Việt Nam đang đóng giữ để phục vụ
cho việc xây dựng tập đoàn căn cứ quân sự đó.
Quan hệ đối ngoại Việt Nam – Trung Quốc đoàn kết cùng hợp tác phát
triển không chỉ mang lại sự ổn định, lợi ích về mọi lĩnh vực cho hai quốc gia
nói riêng mà còn góp phần mang lại sự ổn định, hòa bình, thịnh vượng trong
khu vực và quốc tế.

23


24


KẾT LUẬN

Mối quan hệ đối ngoại Trung Quốc – Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay nhìn chung là đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, tạo lên nhiều bước
ngoặt trong mối quan hệ giữa hai nước.
Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam – Trung Quốc vẫn duy trì quan hệ
đối ngoại hòa bình, phát triển mạnh mẽ đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả,
phù hợp với lợi ích chung của nhân dân hai nước, có lợi cho việc ổn định hòa
bình, hợp tác, phát triển của khu vực cũng như thế giới.
Trong thời gian tới, Việt Nam – Trung Quốc cần tiếp tục duy trì các
chuyến thăm và tiếp xúc giữa lãnh đạo cấp cao hai nước, tiếp tục tăng cường

sự tin cậy về chính trị, tiếp tục phát huy tốt hợp tác song phương, thúc đẩy
giao lưu, hợp tác phát triển giữa hai nước trong tất cả các lĩnh vực, các cấp,
các ngành, các địa phương. Hai nước cũng cần phát triển quan hệ hợp tác tích
cực, hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực, xử lý tốt các vấn đề còn tồn tại, góp
phần đưa quan hệ Việt Nam – Trung Quốc ngày càng phát triển lành mạnh, ổn
định, đi vào chiều sâu phù hợp với phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt mà
Đảng và Nhà nước đã đề ra.

25


×