Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Bàn về vấn đề nhà nước trong tác phẩm của c mác – ph.ăngghen

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.48 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhà nước của Chủ nghĩa Mác-Lênin hay còn gọi là Lý luận về Nhà nước và
Pháp luật của Chủ nghĩa Mác- Lênin là hệ thống những kiến thức của chủ nghĩa
Mác-Lênin về những quy luật phát sinh, phát triển đặc thù, những đặc tính chung
nhất và biểu hiện quan trọng nhất của nhà nước nói chung và nhà nước Xã hội chủ
nghĩa nói riêng. Tập trung vào phân tích nguồn gốc và bản chất của nhà nước, Lý
luận của những người Mác-xít đi sâu nghiên cứu về nhà nước một cách tổng thể
những vấn đề chung nhát về bản chất, chức năng, vai trò của nhà nước, hình thức
nhà nước, bộ máy nhà nước và làm sáng tỏ mối quan hệ giữa các bộ phận trong
thượng tầng kiến trúc chính trị - pháp lý với các tổ chức xã hội, giữa nhà nước với
cá nhân. Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin thì nhà nước thực chất là một
tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng
chế và thực hiện chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện
mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp.
Những nội dung cơ bản ban đầu về nhà nước được phản ánh thông qua tác
phẩm:“Nguồn gốc của gia đình, chế độ sở hữu và của nhà nước” của Ph.Ăngghen.
Qua tác phẩm này, Ăngghen đã phân tích các vấn đề về gia đình, nguồn gốc của
giai cấp và của nhà nước và những quy luật tiếp tục phát triển và biến đổi sau này
của chúng. Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng nhà nước chỉ ra đời ở một giai đoạn lịch sử
nhất định của xã hội trên cơ sở xuất hiện chế độ tư hữu và gắn liền với nó là sự
phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng, ông cũng luận chứng về tính chất
giai cấp và tính lịch sử của nhà nước, làm sáng tỏ chức năng gia cấp cơ bản của
nhà nước. Sau đó lý luận này được những người Mác-xít tiếp tục phát triển và hoàn
thiện trong điều kiện mới. Lý luận về nhà nước và pháp luật là một môn học bắt
buộc trong chương trình học Đại học đối với các ngành khoa học xã hội như: Luật
1


học, chính trị học, hành chính học, khoa học xã hội và nhân văn ở tất cả các
Trường Đại học tại nước ta.Với tầm quan trọng như vậy em chọn “Bàn về vấn đề


nhà nước trong tác phẩm của C.Mác – Ph.Ăngghen” là tiểu luận cho môn học.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu tư tưởng của C.Mác – Ph.Ăngghen về vấn đề nhà nước trong tác
phẩm từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận đối với việc học tập môn Giới thiệu
một số tác phẩm C.Mác – Ph.Ăngghen – V.I.Lênin về chính trị.
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về nhà nước và quá trình phát triển của nó.
3. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp phân tích và tổng hợp,phương
pháp logic – lịch sử, phương pháp thống kê, phương pháp xã hội học.
4. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo tiểu bao gồm có 2
chương.
Chương I: Tư tưởng chính trị về nhà nước trong tác phẩm của C.Mác –
Ph.Ăngghen
Chương II: Đặc trưng cơ bản của nhà nước trong tác phẩm “Nguồn gốc
của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” (Ph.Ăngghen)

2


CHƯƠNG I
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ VỀ NHÀ NƯỚC TRONG TÁC PHẨM CỦA
C.MÁC – PH.ĂNGGHEN
1. Nguồn gốc và ra đời của nhà nước
Lịch sử cho thấy không phải khi nào xã hội cũng có nhà nước. Trong xã hội
nguyên thuỷ, do kinh tế còn thấp kém, chưa có sự phân hóa giai cấp, cho nên chưa
có nhà nước. Đứng đầu các thị tộc và bộ lạc là các tộc trưởng (hay tộc chủ) do
những người dân ở đó bầu ra, quyền lực của những người đứng đầu thuộc về uy tín
và đạo đức, việc điều chỉnh các quan hệ xã hội được thực hiện bằng những quy tắc

chung, những tập quán trong cộng đồng. Trong tay họ không có và không cần một
công cụ cưỡng bức đặc biệt nào.Sự ra đời Ph.Ăng-ghen đã mô tả sự ra đời của nhà
nước trên cơ sở sự tan rã của chế độ thị tộc. Theo đó xã hội loài người qua quá
trình phát triển đã dẫn đến sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Vào
thời cổ đại đã diễn ra ba lần phân công lao động xã hội. Chăn nuôi tách khỏi trồng
trọt là đòn bẩy cho kinh tế và hình thành mầm mống tư hữu.
Lần phân công thứ nhất, chăn nuôi đã trở thành một ngành kinh tế độc lập và
tách ra khỏi trồng trọt, từ đây mầm mống của chế độ tư hữu phát triển và “Gia đình
cá thể đã trở thành một lực lượng đang đe dọa thị tộc”.
Lần phân công thứ hai, thủ công nghiệp tách ra khỏi nông nghiệp, lần phân
công này dẫn đến hình thành bước đầu chế độ nô lệ với số lượng nô lệ ngày càng
tăng và họ bị đẩy đi làm việc ở ngoài đồng ruộng và trong xưởng thợ, thành từng
đoàn mười người, người hai người một điều đó cho thấy sự phân hóa xã hội, phân
tầng xã hội sâu sắc.
Lần phân công thứ ba, sản xuất tách bạch với trao đổi dẫn đến sự xuất hiện
của tầng lớp thương nhân, lần đầu tiên xuất hiện một giai cấp tuy không tham gia
sản xuất một tý nào nhưng lại chiếm toàn bộ quyền lãnh đạo sản xuất và bắt những

3


người sản xuất phụ thuộc vào mình về mặt kinh tế… và bóc lột cả hai, một giai cấp
mà lịch sử loài người trước đó chưa hề biết đến.
Qua ba lần phân công lao động này cho thấy lực lượng sản xuất phát triển
dẫn đến năng suất lao động tăng, của cải làm ra ngày càng nhiều, và dẫn đến có
của cải dư thừa kèm theo đó là sự tích trữ, đồng thời xuất hiện một bộ phận chiến
đoạt của cải dư thừa đó (do nắm quyền quản lý, cai quản) hoặc giàu lên nhờ tích
trữ, đầu cơ từ đây đã có sự phân hóa giàu nghèo, giữa người có của và người
không có của, sự phân hóa giàu nghèo này dẫn đến hiện tượng phân tầng xã hội,
phân chia thành các tầng lớp khác nhau từ đó dẫn đến phân chia giai cấp đồng thời

và kéo theo xuất hiện mâu thuẫn giai cấp và điều không tránh khỏi là đấu tranh giai
cấp, lúc này nhà nước đã có tiền đề rõ ràng cho sự ra đời của mình. “Cái tập quán
giao cho những chức vụ của thị tộc cho một số gia đình nhất định đã biến thành
một cái quyền không thể chối cãi của những gia đình đó được đảm nhiệm chức vụ
ấy, bằng những gia đình ấy còn mạnh vị giàu có nữa, họ bắt đầu tập hợp nhau lại
bên ngoài thị tộc của họ thành một giai cấp riêng biệt, có đặc quyền, rằng nhà nước
vừa mới ra đời đã thừa nhận những tham vọng ấy của họ”.
Ph.Ăngghen cho rằng, lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự ra đời chế
độ tư hữu và từ đó xã hội phân chia thành các giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh
giai cấp không thể điều hoà được xuất hiện. Điều đó dẫn đến nguy cơ các giai cấp
chẳng những tiêu diệt lẫn nhau mà còn tiêu diệt luôn cả xã hội, tạo ra một tình
trạng loạn lạc hỗn độn. Xã hội lúc này đòi hỏi phải có một tổ chức mới đủ sức dập
tắt cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp ấy, hoặc cùng lắm là để làm cho cuộc
đấu tranh giai cấp diễn ra trong lĩnh vực kinh tế, dưới một hình thức gọi là hợp
pháp và để thảm hoạ đó không diễn ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời và
đó chính là nhà nước. Từ nhu cầu phải kiềm chế sự đối lập của các giai cấp, làm
cho cuộc đấu tranh của những giai cấp có quyền lợi về kinh tế mẫu thuẫn nhau đó
không đi đến chỗ tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội… và giữa cho sự
4


xung đột đó năm trong vòng trật tự. Như vậy, Nhà nước đã xuất hiện một cách
khách quan, nó là sản phẩm của một xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất
định, nó không phải là một quyền lực từ bên ngoài áp đặt và xã hội mà là một lực
lượng nảy sinh từ xã hội, một lực lượng tựa hồ như đứng trên xã hội, có nhiệm vụ
làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng trật tự[8]. Nhà
nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước Chiếm hữu nô lệ, xuất hiện trong cuộc đấu
tranh không điều hoà giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Tiếp đó là Nhà nước
Phong kiến, Nhà nước Tư sản và sau cùng là Nhà nước Xã hội chủ nghĩa.
2. Nguyên nhân trực tiếp sự ra đời của nhà nước

Nguyên nhân trực tiếp của sự xuất hiện nhà nước là mâu thuẫn giai cấp
không thể điều hoà được. V.I.Lênin nhận định: Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện
của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào
và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều
hoà được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ
rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hoà được[9]. Nhà nước chỉ ra đời,
tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển xã hội và sẽ mất đi khi
những cơ sở tồn tại của nó không còn nữa. “Chỉ khi nào xã hội không còn giai cấp
đối kháng và giai cấp nói chng thì lúc đó nhà nước mới biến mất. Sự tiêu vong của
nhà nước là quá trình lâu dài, chỉ có thế hệ những người lớn lên trong điều kiện
lịch sử mới, tức là bước quá độ từ chủ nghĩa xã hội lên chủ nghĩa cộng sản mới
hình dung được sự tiêu vong của nhà nước… khi nhà nước tỏ ra thật sự là đại biểu
của toàn xã hội, nhân danh xã hội năm quyền sở hữu về các tư liệu sản xuất, việc
quản lý người được thay bằng quản lý các quá trình sản xuất, lúc đó mới có thể đưa
bộ máy nhà nước xếp vào viện bảo tàng đồ cổ, bên cạnh cái xa kéo sợi và cái rìu
đồng”. Ph.Ăngghen cho rằng, sự xuất hiện nhà nước ở các vùng và của các dân tộc
khác nhau cũng có những đặc điểm khác nhau về kinh tế, xã hội và ngoại cảnh.
5


Theo Ph.Ăngghen có ba hình thức xuất hiện nhà nước điển hình: Thành bang Aten
Cổ đại Nhà nước Nhã Điển, đây là hình thức thuần túy và cổ điển nhất và Nhà
nước này nảy sinh chủ yếu và trực tiếp từ sự đối lập giai cấp và phát triển ngay
trong nội bộ xã hội thị tộc; Nhà nước La Mã là kết quả của cuộc cách mạng với
thắng lợi của giới bình dân chống lại quý tộc Lã Mã nhưng sau một thời gian giới
bình dân và quý tộc hoàn toàn bị hòa tan vào nhau; Nhà nước của người Nhật Nhĩ
Man, nảy sinh trực tiếp từ việc chinh phục đất đai rộng lớn của người khác, nhưng
người Nhật Nhĩ Man chiến thắng đế chế La Mã nhưng do nhiều lý do và hoàn cảnh
kinh tế như cơ sở kinh tế, trình độ phát triển kinh tế của người chinh phục và kẻ bị
chinh phục, mức độ của cuộc chiến đấu… nên việc tổ chức xây dựng nhà nước của

người Nhật Nhĩ Man có một số đặc điểm riêng. Sau này Mác và Ăngghen có đề
cập thêm về những hình thức nhà nước cổ đại ở Phương Đông, nơi mà tồn tại một
hình thức mà C.Mác gọi là "Phương thức sản xuất Châu Á" ông đi sâu phân tích về
bộ máy nhà nước ở Ấn Độ cổ đại và khẳng định là nhà nước chuyên chính Phương
Đông kết hợp với mô hình công xã nông thôn. Nhà nước phương Đông ra đời một
phần cũng do nhu cầu trị thủy và yêu cầu chống xâm lấn.
Như vậy, theo Ph.Ăngghen nhà nước ra đời nhằm điều hòa cuộc xung đột
giai cấp nằm trong vòng trật tự. Nhà nước ra đời từ sự phát triển của lực lượng sản
xuất.Sự xuất hiện của nhà nước là tất yếu khách quan, nó phản ánh mâu thuẫn của
xã hội đã lúc chin muồi. Sự xuất hiện của nhà nước là cho xã hội loài người có một
sự phát triển mạnh mẽ chưa từng có và lịch sử xã hội là sự thay thế các kiểu nhà
nhà nước.
3. Bản chất nhà nước
Ph.Ăng ghen cho rằng, nhà nước là bộ máy trấn áp của giai cấp này đối với
giai cấp khác. Đối với tất cả người dân sinh sống trên lãnh thổ rộng lớn, thì nhà
nước đóng vai trò là mối liên hệ để gắn kết họ lại với nhau và đồng thời nhà nước
trở thành kẻ áp bức, bóc lột họ. Nhà nước ra đời nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp
6


thống thị, mà trước tiên, cơ bản là lợi kinh tế, trấn áp sự phản kháng của các giai
cấp khác.
Bởi vậy, nhà nước luôn là nhà nước của giai cấp thống trị. Nhà nước là công
cụ chuyên chính của giai cấp. Bản chất của nhà nước bị quy định của các yếu tố
kinh tế. Nhà nước bảo vệ lợi ích kinh tế cho giai cấp thống trị. Ph.Ăngghen cho
rằng, nhà nước là nhà nước của giai cấp có thế lực nhất, của giai cấp thống trị về
mặt kinh tế và nhờ nhà nước mà cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị
và do đó có thêm những phương tiện mới để đàn áp và bóc lột giai cấp bị áp
bức.Do đó không thể có nhà nước cho mọi giai cấp. Tất cả mọi luận điệu điều cho
rằng nhà nước là của chung tất cả các giai cấp trừ nhà nước xã hội chử nghĩa đều là

lừa dối. Từ bản chất giai cấp này sẽ quyết định tới chức năng và hình thức của nhà
nước.
CHƯƠNG II: ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA NHÀ NƯỚC
1. Nhà nước phân chia thần dân của nó theo địa vực
Đây là nét khác biệt cơ bản so với tổ chức thị tộc, bộ lạc trước kia. Sở dĩ nhà
nước phân chia và quản lý cư dân của nó theo địa vực cư trú là vì địa vị thì ổn
định, cho nên nhà nước phải lấy sự phân chia địa vực cư trú là nơi cho dân chúng
thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình với nhà nước, bất kể thuộc thị tộc hay bộ lạc
nào. Các thị tộc, bộ lạc hình thành trên cơ sở huyết thống, còn nhà nước hình thành
trên cơ sở phân chia dân cư theo lãnh thổ cư trú và quyền lực nhà nước được áp đặt
lên mọi dân cư trên lãnh thổ đó. Các công dân phải thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ
của mình đối với nhà nước “Người ta lấy sự phân chia địa vực làm điểm xuất phát
và người ta để cho những công dân thực hiện những quyền lợi và những nghĩa vụ
xã hội của họ tại nơi họ cư trú, không kể họ thuộc thị tộc hay bộ lạc nào”. Và
Ăngghen cho rằng “Cách tổ chức các công dân của nhà nước theo địa vực cu trú
như thế, là một đặc chung của tất cả các nhà nước”.
2. Nhà nước là sự thiết một quyề lực công cộng
7


Quyền lực này mang tính chất chuyên nghiệp và cưỡng chế đối với mọi
thành viên trong xã hội. Đặc trưng này khác hẳn với các thị tộc, bộ lạc quản lý xã
hội bởi uy tín cá nhân của những người đứng đầu và mọi người tự giác thực hiện
với sức bởi dư luận xã hội. Ngược lại, nhà nước thiết lập một quyền lực công cộng,
không còn trực tiếp là đân cư tự tổ chức thành lực lượng vũ trang nữa. Quyền lực
công cộng đó tách rời khỏi xã hội thuộc về giai cấp thống trị và không chỉ gồm
những người vũ trang mà còn bao gồm những công cụ vật chất phụ thêm, như nhà
tù và đủ các cơ quan cưỡng bức mà tổ chức xã hội thị không hề biết đến. Theo Ph.
Ăngghen quyền lực công cộng này được giai caapps thống trị sử dụng trong quá
trình thống trị của nình. Khi những mâu thuẫn trong nước ngày càng gay gắt, khi

những nước giáp ranh giới ngày cang mở rộng lớn và đông đúc hơn, thì quyền lực
đó ngày càng được tăng cường. Để duy trì sự quản lý xã hội, giai cấp thống trị xây
dựng hệ thống pháp luật của mình. Pháp là những quy tắc,ứng xử xã hội chung do
giai cấp thống trị thiết lập nên và được bảo đảm thực hiện bằng bộ máy cưỡng chế
như quân đội, cảnh sát, nhà tù… Quyền lực công cộng này được sử dụng trấn áp
giai cấp bị bóc lột.
3. Để duy trì sự tồn tại của nhà nước.
Để duy trì quyền lực công cộng và nuôi dưỡng bộ máy hành chính cùng các
lực lượng, công cụ cưỡng chế thì nhà nước phải có sự đóng góp của dân cư đó là
thuế má. Thuế mang tính chất bắt buộc đối với các thành viên trong xã hội. Việc
thu thuế dựa trên cơ sở quyền lực nhà nước với sự tham gia của các cơ quan và
phương tiện cưỡng chế. Như vậy, đây là những đặc trưng cơ bản của nhà nước mà
Ph.Ăngghen đã chỉ ra.
4. Bản chất giai cấp
Nhà nước ra đời tựa hồ đứng ngoài xã hội, làm cho xã hội tồn tại trong vòng
trật tự nhất định nhưng trên thực tế, chỉ giai cấp có thế lực nhất - giai cấp thống trị
về kinh tế mới có đủ điều kiện lập ra và sử dụng bộ máy nhà nước. Nhờ có nhà
8


nước, giai cấp này cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị, và do đó có
thêm những phương tiện mới để đàn áp và bóc lột giai cấp khác. “Nhà nước chẵng
qua chỉ là một bộ máy trấn áp của một giai cấp này đối với giai cấp khác, điều đó
trong chế độ cộng hòa dân chủ cũng hoàn toàn giống như trong chế độ quân chủ
vậy” Ph.Ăngghen cho rằng, đàn áp là một trong những biểu hiện quan trọng của
bản chất giai cấp của nhà nước. Vì thế, về bản chất Nhà nước chẳng qua chỉ là một
bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác là bộ máy dùng để
duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác, là cơ quan quyền lực của
một giai cấp đối với toàn xã hội, là công cụ chuyên chính của một giai cấp. Theo
chủ nghĩa Mác thì không có và không thể có nhà nước đứng trên các giai cấp hoặc

nhà nước chung cho mọi giai cấp. Nhà nước chính là một bộ máy do giai cấp thống
trị về kinh tế thiết lập ra nhằm hợp pháp hóa và củng cố sự áp bức của chúng đối
với quần chúng lao động. Giai cấp thống trị sử dụng bộ máy nhà nước để đàn áp,
cưỡng bức các giai cấp khác trong khuôn khổ lợi ích của giai cấp thống trị. Đó là
bản chất của nhà nước theo nguyên nghĩa là nhà nước của giai cấp bóc lột. Theo
bản chất đó, nhà nước không thể là lực lượng điều hòa sự xung đột giai cấp, mà
trái lại nó càng làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt. Cũng theo bản chất
đó, nhà nước là bộ máy quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng trong xã hội có
giai cấp. Cũng theo những người Mác-xít, tất cả những hoạt động chính trị, văn
hóa, xã hội do nhà nước tiến hành, xét cho cùng, đều xuất phát từ lợi ích của giai
cấp thống trị. Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, cho dù được che giấu dưới hình
thức tinh vi như thế nào, cho dù có bị khúc xạ qua những lăng kính phức tạp ra sao,
nhà nước trong mọi xã hội có giai cấp đối kháng cũng chỉ là công cụ bảo vệ lợi ích
của giai cấp thống trị. “Nhà nước nói chung chỉ là sự phản ánh dưới hình thức tập
trung những nhu cầu kinh tế của giai cấp thống trị trong sản xuất”. Ph.Ăngghen
nói: “Nhà nước là một bộ máy dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với
giai cấp khác, và theo đúng nghĩa của nó, là một bộ máy trấn áp đặc biệt của giai
9


cấp này đối với một giai cấp khác” và V.I.Lênin cũng cho rằng, Nhà tù là công cụ
trấn áp của nhà nước.
Tuy nhiên, cũng có trường hợp, nhà nước giữ được một mức độ độc lập nào
đó đối với cả hai giai cấp đối địch, khi cuộc đấu tranh giữa chúng đạt tới thế cân
bằng nhất định hoặc nhà nước cũng có thể thực hiện sự thỏa hiệp về quyền lợi tạm
thời giữa những giai cấp để chống lại một giai cấp khác (theo kiểu khế ước xã hội).
Những trường hợp trên là có tính chất ngoại lệ và tạm thời. Sự phát triển của nền
kinh tế - xã hội nói chung và của cuộc đấu tranh giai cấp nói riêng sẽ phá vỡ thế
cân bằng giữa các giai cấp thù địch với nhau, sẽ phá vỡ sự thoả hiệp tạm thời giữa
các giai cấp với nhau và tất yếu sẽ tập trung quyền lực vào tay một giai cấp nhất

định. “Nếu nhà nước và pháp quyền nhà nước của nó là do những quan hệ kinh tế
quyết định, thì dĩ nhiên pháp quyền công dân cũng thế, vai trò của pháp quyền này
về thực chất chỉ là để xác nhận những quan hệ kinh tế bình thường tồn tại giữa
những cá nhân riêng biệt trong những hoàn cảnh nhất định”. Ph.Ăngghen cho rằng
đặc trưng của các nhà nước được tổ chức một cách khác nhau. Song, theo Chủ
nghĩa Mác-Lênin thì bất kỳ nhà nước nào cũng có ba đặc trưng cơ bản sau:
- Quản lý dân cư theo lãnh thổ khác với tổ chức thị tộc, bộ lạc thời nguyên
thủy được hình thành trên cơ sở những quan hệ huyết thống, Nhà nước được hình
thành trên cơ sở phân chia dân cư theo lãnh thổ mà họ cư trú.
- Quyền lực nhà nước có hiệu lực với mọi thành viên trong lãnh thổ không
phân biệt huyết thống. Đặc trưng này làm xuất hiện mối quan hệ giữa từng người
trong cộng đồng với nhà nước. Mỗi nhà nước được xác định bằng một biên giới
quốc gia nhất định.
- Nhà nước xuất hiện đã lấy sự phân chia lãnh thổ làm điểm xuất phát và để
cho công dân thực hiện những quyền và nghĩa vụ xã hội của họ theo nơi cư trú,
không kể họ thuộc thị tộc và bộ lạc nào thiết lập quyền lực công cộng Nhà nước
lúc này đã tách phần nào khỏi xã hội và không còn hòa nhập với dân cư nữa, quyền
10


lực trong xã hội không thuộc về xã hội và thuộc về giai cấp thống trị. Và để thực
hiện quyền lực công cộng cần có một lớp người đặc biệt chuyên làm nhiệm vụ
quản lý và cưỡng chế. “Không những dưới chế độ quân chủ mà cả dưới chế độ
cộng hòa dân chủ, nhà nước vẫn là nhà nước, nghĩa là vẫn giữ nguyên đặc thù tính
chất chủ yếu của nó là: biến những viên chức, công bộc của xã hội, những cơ quan
của mình thành những ông chủ đứng trên đầu xã hội”, Ph.Ăngghen Điều này dẫn
đến Nhà nước tổ chức một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế
đối với mọi thành viên trong xã hội, khác với các cơ quan điều hành công việc
chung trong thị tộc, bộ lạc, nhà nước của giai cấp thống trị nào cũng có một bộ
máy quyền lực chuyên nghiệp. Bộ máy quyền lực đó bao gồm các đội vũ trang đặc

biệt (quân đội, cảnh sát, nhà tù…) và bộ máy quản lý hành chính mà xã hội (cán
bộ, công chức, viên chức, lãnh đạo, quan lại nha sai....) mà xã hội thị tộc, bộ lạc
không hề biết đến trước đó. Nhà nước thực hiện quyền lực của mình trên cơ sở sức
mạnh cưỡng bức của pháp luật và dùng các thiết chế (tổ chức) bạo lực để pháp luật
của mình được thực thi trong thực tế quản lý.
Thuế khóa Thuế khóa - nguồn thu chính của nhà nước - họa phẩm tranh sơn
dầ về cảnh thu thuế Nhà nước hình thành hệ thống thuế khóa để duy trì và tăng
cường bộ máy cai trị. Nhà nước không thể tồn tại nếu không dựa vào thuế khóa,
quốc trái và các hình thức bóc lột khác. Đó là những chế độ đóng góp có tính chất
cưỡng bức mà được luật lệ định ra để nuôi sống bộ máy cai trị, chi cho các hoạt
động thường xuyên hay đột xuất của nhà nước. Hệ thống thuế khóa, cống nạp như
vậy hoàn toàn không có trong hình thức tổ chức xã hội thị tộc, bộ lạc. Nó chỉ tồn
tại gắn liền với hình thái tổ chức nhà nước. Bằng các hình thức khác nhau như vậy,
nhà nước của giai cấp bóc lột không những là công cụ trấn áp giai cấp mà còn là
công cụ thực hiện sự bóc lột các giai cấp bị áp bức. Sỡ dĩ nhà nước phải đặt ra các
loại thuế vì bộ máy của nhà nước bao gồm những người đặc biệt, tách khỏi lao
động sản xuất để thực hiện chức năng quản lý, bộ máy đó phải được nuôi dưỡng từ
11


nguồn tài chính lấy từ khu vực sản xuất trực tiếp (vì Nhà nước và nhân viên của nó
đã tách hẵn khỏi sản xuất nên không thể có thu nhập). Nếu thiếu thuế thì bộ máy
nhà nước không thể tồn tại được và mặt khác chỉ có nhà nước mới có quyền đặt ra
thuế và thu thuế vì nhà nước là tổ chức duy nhất có tư cách đại diện chính thức của
toàn xã hội.
5. Chức năng
Bản chất giai cấp của nhà nước được thể hiện ở các chức năng của nó. Tùy
theo góc độ khác nhau, chức năng của nhà nước được phân chia khác nhau. Dưới
góc độ tính chất của quyền lực chính trị, nhà nước có hai chức năng: chức năng
thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội của nhà nước. Dưới góc độ

phạm vi tác động của quyền lực nhà nước có chức năng đối nội và chức năng đối
ngoại. Trong các yếu tố của kiến trúc tượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc biệt
quan trọng, có tác dụng quyết định năng lực hiện thực hóa của một nền kinh tế vì
nó là lực lượng vật chất có sức mạnh kinh tế. “Bạo lực quyền lực nhà nước cũng là
một lực lượng kinh tế” thống trị xã hội. Bên cạnh việc nhấn mạnh bản chất giai cấp
của nhà nước, Ph.Ăng-ghen còn đánh giá đúng tầm quan trọng về bản chất xã hội
của nhà nước. Chức năng thống trị chính trị của giai cấp (hay chức năng giai cấp)
là chức năng nhà nước làm công cụ chuyên chính của một giai cấp nhằm bảo vệ sự
thống trị giai cấp đó đối với toàn thể xã hội. Chức năng giai cấp của nhà nước bắt
nguồn từ lý do ra đời của nhà nước và tạo thành bản chất chủ yếu của nó. Chức
năng xã hội của nhà nước là chức năng nhà nước thực hiện sự quản lý những hoạt
động chung vì sự tồn tại của xã hội, thỏa mãn một số nhu cầu chung của cộng đồng
dân cư nằm dưới sự quản lý của nhà nước.
Trong hai chức năng đó thì chức năng thống trị chính trị là cơ bản nhất có
vai trò chi phối chức năng xã hội phải phụ thuộc và phục vụ cho chức năng thống
trị chính trị. Giai cấp thống trị bao giờ cũng biết giới hạn kiện toàn cách thực hiện
chức năng xã hội trong khuôn khổ lợi ích của mình. Song, chức năng xã hội lại là
12


cơ sở cho việc thực hiện chức năng giai cấp, bởi vì chức năng giai cấp chỉ có thể
được thực hiện thông qua chức năng xã hội và cũng chỉ thực hiện tốt chức năng xã
hội thì vai trò, tư cách đại biểu, đại diện cho xã hội, toàn thể cộng đồng mới có
hiệu lực nhất. Ph. Ăngghen viết: “Ở khắp nơi, chức năng xã hội là cơ sở của sự
thống trị chính trị và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn thực
hiện chức năng xã hội đó của nó”.
- Đối nội và đối ngoại: Sự thống trị chính trị và sự thực hiện chức năng xã
hội của nhà nước thể hiện trong lĩnh vực đối nội cũng như trong đối ngoại. Chức
năng đối nội của nhà nước nhằm duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị và những
trật tự khác hiện có trong xã hội. Thông thường điều đó phải được pháp luật hóa và

được thực hiện nhờ sự cưỡng bức của bộ máy nhà nước. Ngoài ra, nhà nước còn sử
dụng nhiều phương tiện khác (bộ máy thông tin, tuyên truyền, các cơ quan văn
hóa, giáo dục...) để xác lập, củng cố tư tưởng, ý chí của giai cấp thống trị, làm cho
chúng trở thành chính thống trong xã hội.
Chức năng đối ngoại của nhà nước: Nhằm bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia
và thực hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với các nhà nước khác vì lợi
ích của giai cấp thống trị cũng như lợi ích quốc gia, khi lợi ích quốc gia không mâu
thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị. Chức năng đối ngoại là sự liên tục của chức
năng đối nội. Ngày nay, trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế (toàn cầu hóa,
thế giới phẳng) thì việc mở rộng chức năng đối ngoại của nhà nước có tầm quan
trọng đặc biệt. Nhưng cho dù như thế nào đi chăng nữa, theo quan điểm Mác-xít
thì cả hai chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước đều xuất phát từ lợi ích của
giai cấp thống trị. Chúng là hai mặt của một thể thống nhất. Tính chất của chức
năng đối nội quyết định tính chất chức năng đối ngoại của nhà nước ngược lại tính
chất và những nhu cầu của chức năng đối ngoại có tác động mạnh mẽ trở lại chức
năng đối nội.

13


KẾT LUẬN
Tác phẩm cung cấp cho chúng ta một bức ttranh toàn cảnh về lịch sử nhân
loại, phê phán các quan điểm sai trái. Ph.Ăngghen đã cung cấp cho chúng ta một
cách nhìn khái quát, đầy đủ về sử phát triển của xã hội loài người bắt đầu từ thời
đại còn mông muộ, dã mãn của xã hội chiếm hữu nô lệ và sau đó là xã hội phong
kiến, tư bản chủ nghĩa…
Ông đã chỉ ra cho chúng ta thấy động lực xuyên suốt trong các chế độ xã hội
là sự phát triển của công cụ lao động dẫn đến sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Từ sự phát triển của lực lượng sản xuất kéo theo sự phát triển của quan hệ sản xuất,
cơ sở hạ tầng và toàn bộ kết cấu của một xã hội. Xã hội mới ra đời lại tiếp tục được

các quy luật kinh tế chi phối, tác động và nó lại tiếp tục vân động phát triển… sự
chuyển đổi từ xã hội này sang xã hội khác được thực hiện bằng các cuộc cách
mạng xã hội.
Trong tác phẩm, Ph.Ăngghen trình bày một cách đầy đủ, chi tiết về vấn đề
nhà nước như: Nguồn gốc, bản chất,hình thức… Đồng thời, ông nêu lên luận điểm
về nhà nước kiểu mới – nhà nước chuyên chính vô sản. Nhà nước này hoàn toàn
khác về chất so với các nhà nước trước đó.
Trên cơ sở đó, Ph.Ăngghen cho sản cuối cùng là nhà nước vô sản cũng mất
đi hoàn toàn không giống các nhà nước trước kia là bằng bạo lực cách mạng. Đây
là sự mất đi bằng con đường tự tiêu vong, từ yếu tố chính trong lòng nó. Một khái
quát khoa học vô cùng có giá trị của Ph.Ăngghen là sự xuất hiện và mất đi của nhà
nước là tất yếu như nhau.
Đi cùng vấn đề nhà nước, Ph.Ăngghen đã phân tích sự ra đời và phát triển
của chế độ tư hữu, giai cấp. Từ khi xuất hiện tư hữu và giai cấp, xã hội vận động
theo một quy luật mới là quy luật đấu tranh giai cấp. Các cuộc đấu tranh giai cấp
cuối cùng là sự thay thế chế độ tư hữu này bằng chế độ tư hữu khác.

14


Chính những luận điểm khoa học trong tác phẩm đã đânhs một đòn quan
trọng vào những luận điệu xuyên tạc của chủ nghĩa tư bản khi họ cho rằng: chế độ
tư hữu cùng với giai cấp tư sản tồn tại viễn vĩnh với xã họi loại người.Tác phẩm
còn tấm công vào luận điệu sai lầm của giai cấp tư sản khi cho rằng nhà nước là cơ
quan điều hòa quyền lợi, nhà nước tư sản là nhà nước chế độ dân chủ ttoots nhất
cần được bảo vệ.
Tác phẩm góp phần thêm chủ nghĩa Mác – Lênin, động viên cho phong trào
cách mạng vô sản, bằng các nguyên lý,luận điểm được đưa ra trong tác phẩm làm
phong thêm chủ nghĩa Mác – Lênin về nhiều vấn đề: cuộc cách mạng vô sản tất
yếu xảy ra trên cơ sở sản xuất mạnh mẽ trong lòng chế độ tư bản chủ nghĩa đẫ phát

triển cao. Cuộc cách mạng vô sản sẽ xóa bỏ quan hệ sản xuất và chế độ tư bản chủ
nghĩa đang là vật cản cho sự phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xóa bỏ chế độ
tư hữu và phân chia giai cấp trong xã hội, mở dduongf cho sự giải phóng con
người, xây dựng xã hội mới bình đẳng, bác ái.

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHỎA
1. Giới thiệu một số tác phẩm của C.Mác – Ăngghen và Lênin về chính trị
2. C. Mác - Ăngghen toàn tập
3. Lênin toàn tập
4. Một số tạp chí khoa học, tạp chí cộng sản

16



×