Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Tiểu luận môn nghiệp vụ ngân hàng thương mại phát triển và rủi ro thẻ trong hoạt động kinh doanh thẻ tại các ngân hàng thương mại tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.31 KB, 45 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
BỘ MÔN NGHIỆP VỤ
NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI


ĐỀ TÀI SỐ 13:
PHÁT TRIỂN VÀ RỦI RO THẺ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ
TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM.
GVHD: PGS.TS. TRẦM THỊ XUÂN HƯƠNG
NHÓM 13 – GIẢNG ĐƯỜNG A314 – CHỦ NHẬT

TP. HỒ CHÍ MINH


DANH SÁCH PHÂN CÔNG THÀNH VIÊN NHÓM

STT

HỌ VÀ TÊN

Nguyễn Công Nghĩa
1 Email:
ĐT: 0904.745.475

2 Nguyễn Lê Thúy Di

3 Nguyễn Thị Anh Gái

NHIỆM VỤ CHÍNH



Tổng hợp và chỉnh sửa
powerpoint.

Tổng hợp và chỉnh sửa word

Làm mục 1

Làm mục 2

Nghiên cứu 1 paper
“Testing The Factors Affecting The
Development Of Credit Cards In The
Vietnam Banking Industry”.

Làm mục 3


MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................1
1. TỔNG QUAN VỀ THẺ THANH TOÁN.......................................................2
1.1 LỊCH SỬ RA ĐỜI.........................................................................................2
1.2 KHÁI NIỆM..................................................................................................4
1.3 CẤU TẠO THẺ.............................................................................................4
1.4 ĐẶC ĐIỂM CỦA THẺ THANH TOÁN......................................................5
1.5 PHÂN LOẠI..................................................................................................6
1.5.1 Phân loại theo công nghệ sản xuất.........................................................6
1.5.2 Theo chủ thể phát hành..........................................................................6

1.5.3 Theo tính chất thanh toán của thẻ..........................................................7
1.5.4 Theo phạm vi lãnh thổ..........................................................................9
1.5.5 Theo mục đích và đối tượng sử dụng....................................................9
1.5.6. Theo hạn mức của thẻ.........................................................................10
1.6 VAI TRÒ CỦA THẺ THANH TOÁN........................................................10
1.6.1 Đối với người sử dụng thẻ...................................................................10
1.6.2 Đối với cơ sở chấp nhận thẻ:(CSCNT)...............................................12
1.6.3 Đối với ngân hàng................................................................................14
1.6.4 Đối với nền kinh tế - xã hội...............................................................16
2. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THẺ THANH TOÁN TẠI VIỆT NAM..............18
2.1 NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN.....................................................................18
2.2 TRIỂN KHAI THẺ TẠI CÁC NGÂN HÀNG VIỆT NAM......................18
2.3 TỔNG QUAN VÀ THỨC TRẠNG THẺ TẠI VIỆT NAM......................22
3. RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ CỦA NGÂN
HÀNG................................................................................................................27
3.1 KHÁI NIỆM................................................................................................
3.2 CÁC LOẠI RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ...........................................................................27
3.2.1 Xét trên góc độ vĩ mô..........................................................................27
3.2.2Đứng trên góc độ của Ngân hàng thương mại.....................................28
3.3 RỦI RO TRONG THANH TOÁN THẺ TẠI VIỆT NAM........................23
3.4 MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM HẠN CHẾ TRONG RỦI RO KINH
DOANH THẺ TẠI VIỆT NAM............................................................................26
3.4.1 Hoàn thiện tổ chức hoạt động quản lý rủi ro trong hệ thống thanh toán
thẻ...........................................................................................................................26
3.4.2. Hạn chế tình trạng giả mạo trong hoạt động thanh toán và phát hành
thẻ...........................................................................................................................26
3.4.3 Tại ĐVCNT..........................................................................................29
3.4.4 Chủ thẻ................................................................................................29
KẾT LUẬN........................................................................................................40

TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................41


LỜI MỞ ĐẦU.
Ngân hàng thương mại đã và đang không ngừng nâng cao năng lực quản lý điều
hành, chủ động mở rộng quy mô hoạt động, đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ, nhằm nâng
cao hiệu quả kinh doanh. Một trong những lĩnh vực kinh doanh vừa đem lại nguồn thu
nhập đáng kể cho ngân hàng vừa mang lại hiệu quả chung cho toàn xã hội, đó chính là
dịch vụ phát hành và thanh toán thẻ. Xét về phương diện tổng thể, hoạt động thanh toán
thẻ có vai trò vô cùng to lớn đối với việc giúp cho người dân tiếp cận các phương tiện
thanh toán văn minh hiện đại của thế giới, góp phần nâng cao đời sống cộng đồng dân cư,
nâng cao đời sống xã hội. Xét về phương diện cụ thể, hoạt động thanh toán thẻ không chỉ
góp phần quan trọng trong việc tạo nên hiệu quả hoạt động kinh doanh tại mỗi ngân hàng
thương mại mà còn là một mắc xích quan trọng thúc đẩy các hoạt động kinh doanh khác
của ngân hàng phát triển. Thẻ là một phương tiện thanh toán văn minh hiện đại, gắn liền
với công nghệ. Nó ra đời trên cơ sở ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ. Hiện nay,
chúng ta đang sống trong một thế kỷ của công nghệ hiện đại, khi nền công nghệ hiện đại
càng phát triển thì rủi ro do sử dụng, lợi dụng công nghệ để đánh cắp tiền từ thẻ đang là
một thách thức lớn cho cả đơn vị phát hành thẻ và chủ thẻ. Các rủi ro trong hoạt động
kinh doanh dịch vụ thẻ ngày càng đa dạng và phức tạp. Nó làm suy giảm hiệu quả kinh
doanh, ảnh hưởng uy tín và thương hiệu của đơn vị phát hành thẻ. Xuất phát từ thực tiễn
phát hành và rủi ro khi sử dụng thẻ, nhóm chọn đề tài “Phát triển và rủi ro thẻ trong hoạt
động kinh doanh thẻ tại các ngân hàng thương mại Việt Nam ”

1. TỔNG QUAN VỀ THẺ THANH TOÁN
1.1 LỊCH SỬ RA ĐỜI
Về mặt lịch sử, thẻ ngân hàng xuất hiện đầu tiên ở Mỹ vào đầu thế kỷ 20. Nó ra đời
năm 1914, khi đó Tổng công ty xăng dầu Califonia cấp thẻ cho nhân viên và một số
khách hàng của mình với mục đích chủ yếu là khuyến khích bán sản phẩm của công ty.
Loại hình đầu tiên của thẻ thanh toán ra đời vào năm 1945. Đó là Charge- It của ngân

hàng John Biggins (Mỹ), cho phép khách hàng dùng thẻ mua hàng tại những nơi bán lẻ.
Còn các nhà kinh doanh phải ký quỹ tại ngân hàng Biggins và ngân hàng sẽ thu tiền
thanh toán từ phía khách hàng để hoàn trả cho nhà kinh doanh. Loại hình này cũng chính
là tiền đề cho việc phát hành thẻ tín dụng đầu tiên của ngân hàng Franklin National vào
năm 1951. Đến năm 1955, hàng loạt thẻ mới xuất hiện ở Mỹ như: Trip Charge, Golden
Key, Gourmet Club, Esquire Club. Năm 1958, thẻ Card Balanche, American Express ra
đời và thống lĩnh thị trường. Năm 1960, ngân hàng lớn của Mỹ là Bank of America đã


phát hành thẻ Bank Americard. Sau đó, ngân hàng này đã bắt đầu cấp giấy phép cho các
định chế tài chính trong khu vực để phát hành thẻ mang thương hiệu Bank Americard và
xây dựng một số quy định và tiêu chuẩn riêng đối với các định chế tài chính khi phát
hành thẻ. Năm 1966, để cạnh tranh với sự thành công của ngân hàng Bank of America,
mười bốn ngân hàng lớn của Mỹ thành lập Hiệp hội thẻ liên ngân hàng quốc tế
(Interbank Card Association- ICA) và cho ra đời thẻ Master Charge. Năm 1977, Bank
America đổi tên Visa USA và sau đó trở thành tổ chức thẻ quốc tế Visa. Ngày nay, thẻ
Visa đã trở thành thẻ có quy mô lớn và được nhiều người sử dụng nhất trên thế giới.
Năm 1979, Master Charge đổi tên thành MasterCard và trở thành tổ chức thẻ quốc tế lớn
thứ 2 trên thế giới, là đối thủ cạnh tranh chủ yếu của thẻ Visa ngày nay, góp phần đưa thị
trường thẻ thanh toán ngày càng phát triển trên toàn cầu. Trên thế giới hiện nay có 4 tổ
chức thẻ quốc tế lớn nhất là Visa, MasterCard, AMEX, JCB cùng với nhiều công ty và
ngân hàng liên kết nhau cung ứng nhiều sảnphẩm thẻ đa dạng, phong phú trên thị trường.
Thẻ Diners Club, thẻ du lịch và giải trí T&E (Travel & Entertainment) đầu tiên do tổ
chức thẻ tự phát hành vào năm 1949 ở Mỹ, xuất hiện đầu tiên ở Nhật Bản vào năm 1960,
chi nhánh được quản lý bởi Citi Cop, người đứng đầu trong số ngân hàng phát hành thẻ.
Năm 1990 có 6,9 triệu người sử dụng thẻ Diners Club trên toàn thế giới với doanh số
khoảng 16 tỷ dollars. Hiện nay số người sử dụng thẻ Diners Club đang giảm dần đến năm
1993 tổng doanh số chỉ còn khoảng 7,9 tỷ với khoảng 1,5 triệu thẻ lưu hành.
Thẻ American Express (Amex) ra đời vào năm 1958, tổ chức American Express phát
hành thẻ Green Amex, không có hạn mức tín dụng, chủ thẻ được chi dùng và có trách

nhiệm thanh toán một lần vào cuối tháng. Năm 1987, Amex cho ra đời thêm ba loại
thẻ: Amex Gold, Amex Platium, và Optima có hạn mức tín dụng tuần hoàn để cạnh
tranh với thẻ VISA và MasterCard. American Express hiện là tổ chức thẻ du lịch và
giải trí lớn nhất thế giới, trực tiếp phát hành và quản lý chủ thẻ, không cấp giấy phép
thành viên cho các công ty tài chính- ngân hàng. Tổng số thẻ phát hành có gấp 5 lần
Diners Club và gấp 2 lần JCB. Năm 1990 tổng doanh thu chỉ khoảng 111,5 triệu
dollars với khoảng 36,5 triệu thẻ lưu hành. Nhưng đến năm 1993 thì tổng doanh thu
lên khoảng 124 tỷ dollars với 35,4 triệu thẻ lưu hành và 3,6 triệu cơ sở chấp nhận
thanhtoán.
Thẻ JCB (the Japan-based) là thẻ phát hành tại Nhật Bản năm 1961 bởi ngân hàng
Sanwa và bắt đầu phát triển thành một tổ chức thẻ quốc tế vào năm 1981. Thẻ JCB đã
phát triển rất nhanh và là đối thủ cạnh tranh của American Express trong thị trường giải
trí và du lịch. Năm 1990 JCB đã phát hành được 17 triệu thẻ với doanh số thanh toán
khoảng 16,5 tỷ USD. Năm 1992, JCB có 27,5 triệu thẻ, khoảng 2,9 triệu cơ sở chấp
nhận thanh toán và 160000 máy rút tiền tự động ATM. Cũng giống như Amex, JCB phát
hành loại thẻ độc quyền của riêng mình và quản lý trực tiếp đến khách hàng (chủ thẻ và
điểm tiếp nhậnthẻ)
Thẻ Visa là loại thẻ có quy mô phát triển lớn nhất trên toàn cầu. Cuối năm 1990 có
257 triệu thẻ Visa đang lưu hành với doanh thu khoảng 354 tỷ dollars. Cuối năm 1993
doanh thu của thẻ Visa đã tăng lên đến 542 tỷ dollars. Hệ thống máy rút tiền tự động của
Visa khoảng 164.000 máy ATM ở 65 nước trên thế giới. Visa không trực tiếp phát hành
thẻ mà giao lại cho các thành viên, đây là điều kiện thuận lợi giúp cho Visa dễ dàng mở


rộng thị trường hơn các loại thẻ khác. Hiện nay Visa có 22.000 thành viên tạihơn 200
nước, đã phát hành hơn 500 triệu thẻ, 13 triệu CSCNT, 320.000 máy rút tiềnmặt, doanh
số giao dịch hàng năm đạt 800 tỷ dollars.
Thẻ Master là loại thẻ có quy mô lớn trên thế giới. Cũng giống như Visa, MasterCard
là một hiệp hội tài chính quốc tế riêng biệt, không quan hệ trực tiếp với chủ thẻ mà chỉ
quản lý tất cả các thành viên phát hành thẻ. Đến năm 1990, MasterCard đã phát hành

hơn 178 triệu thẻ với trên 5.000 thành viên phát hành thẻ và khoảng 9 triệu CSCNT thanh
toán trên toàn thế giới. Đến năm 1993, tổng doanh thu của MasterCard lên tới 320,6 tỷ
dollars và phát hành được 215,8 triệu thẻ đang lưu hành tại 220 nước. Cho đến nay số
lượng thành viên tham gia vào hiệp hội MasterCard đã lên đến hơn 29.000 thành viên,
mạng lưới rút tiền mặt đã đuợc triển khai rộng rãi với hơn 162.000 ATM đặt tại hơn
192.000 chi nhánh ngân hàng trên thế giới.
1.2 KHÁI NIỆM
Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt được phát hành bởi
các ngân hàng, các định chế tài chính hoặc các công ty. Người chủ thẻ có thể sử dụng thẻ
để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ tại các điểm chấp nhận thanh toán thẻ, rút tiền mặt
tại các ngân hàng đại lý, cơ sở chấp nhận thẻ hoặc tại các máy rút tiền tự động (ATM).
Trong Quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ
ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN ngày 15/05/2007 của
NHNN Việt Nam khái niệm thẻ thanh toán được quy định như sau: “Thẻ ngân hàng là
phương tiện do tổ chức phát hành thẻ phát hành để thực hiện giao dịch thẻ theo các điều
kiện và điều khoản được các bên thỏa thuận”.
Ngày nay thẻ thanh toán vẫn được hiểu một cách nôm na là tiền điện tử là phương tiện
thanh toán hiện đại và tiên tiến trên thế giới. Thẻ thanh toán ra đời và phát triển gắn liền
với sự phát triển và ứng dụng công nghệ tin học trong ngân hàng. Như vậy sẽ có 3 thành
viên tham gia chính là: chủ thẻ, cơ sở chấp nhận thẻ, ngân hàng phát hành.
1.3 CẤU TẠO THẺ:
Các loại thẻ thường có đặc điểm chung là: được làm bằng Plastic, có kích thước theo
tiêu chuẩn quốc tế là rộng 5,5 cm, dài 8,5 cm. Thẻ thường dày từ 2-2,5 mm. Trên thẻ có
in các thông số nhận dạng như: nhãn hiệu thương mại của thẻ, tên và logo của nhà phát
hành thẻ, số thẻ, tên chủ thẻ và ngày hiệu lực (ngày cuối cùng có hiệu lực)… và một số
đặc tính khác tuỳ theo quy định của các Tổ chức thẻ quốc tế hoặc Hiệp hội phát hành
thẻ…
Mặt trước của thẻ:
- Biểu tượng: Mỗi loại thẻ có một biểu tượng riêng, mang tính đặc trưng của tổ chức
phát hành thẻ. Đây được xem như một đặc tính mang tính an ninh nhằm chống giả

mạo.
- Số thẻ: Số này dành riêng cho mỗi chủ thẻ, được dập nổi trên thẻ và được in lại trên
hoá đơn khi chủ thẻ thanh toán bằng thẻ. Tuỳ theo từng loại thẻ mà chữ số khác nhau
và cách cấu trúc theo nhóm cũng khác nhau.
- Thời gian có hiệu lực của thẻ: Là thời hạn mà thẻ được phép lưu hành.
- Tùy theo từng loại thẻ mà có thể ghi ngày hiệu lực cuối cùng của thẻ hoặc ngày đầu
tiên đến ngày cuối cùng được sử dụng thẻ.


-

-

Họ và tên chủ thẻ: In chữ nổi, là tên của cá nhân nếu là thẻ cá nhân, tên của người
được uỷ quyền sử dụng nếu là thẻ công ty. Ngoài ra, có thẻ còn có cả ảnh của chủ thẻ.
Ký tự an ninh trên thẻ, số mật mã của đợt phát hành: Mỗi loại thẻ luôn có ký hiệu an
ninh kèm theo in phía sau của ngày hiệu lực. Ví dụ: Thẻ Visa có chữ V ( hoặc CV, PV,
RV, GV ), thẻ MasterCard có chữ M và chữ C lồng vào nhau.
Mặt sau của thẻ:
Dải băng từ có khả năng lưu trữ các thông tin như: số thẻ, ngày hiệu lực, tên chủ thẻ,
ngân hàng phát hành...
Dải băng chữ ký: trên dải băng này phải có chữ ký của chủ thẻ để cơ sở chấp nhận thẻ
có thể đối chiếu chữ ký khi thực hiện thanh toán thẻ.
1.4 ĐẶC ĐIỂM CỦA THẺ THANH TOÁN:
Tính linh hoạt : Thẻ thanh toán có nhiều loại, đa dạng, phong phú về hạn mức tín
dụng của thẻ nên thích hợp với hầu hết mọi đối tượng khách hàng, từ những khách
hàng có thu nhập thấp (thẻ thường) cho tới những khách hàng có thu nhập cao (thẻ
vàng), khách hàng có nhu cầu rút tiền mặt (thẻ rút tiền mặt), cho tới nhu cầu du lịch
giải trí…, thẻ cung cấp cho khách hàng độ thoả dụng tối đa, thoả mãn nhu cầu của mọi
đối tượng khách hàng.

Tính tiện lợi: thanh toán bất cứ nơi nào không cần mang theo tiền mặt
- Tính an toàn và nhanh chóng:Không tính đến những vấn nạn ăn cắp và làm giả thẻ
thanh toán trên toàn cầu hiện nay, có thể nói người sử dụng thẻ thanh toán rất yên tâm
về số tiền của mình trước nguy cơ bị mất cắp do móc túi hay trộm cắp. Ngay cả trong
trường hợp thẻ bị lấy cắp, ngân hàng cũng bảo vệ tiền cho chủ thẻ bằng số PIN, ảnh và
chữ ký trên thẻ… nhằm tránh khả năng rút tiền của kẻ ăn trộm.
1.5 PHÂN LOẠI
Có thể phân loại như sau:
1.5.1 Phân loại theo công nghệ sản xuất:Có 3 loại
- Thẻ khắc chữ nổi: Là loại thẻ mà trên bề mặt thẻ được khắc nổi các thông tin cần
thiết. Ngày nay, người ta không còn sử dụng loại thẻ này nữa vì kỹ thuật của nó quá
thô sơ, dễ bị lợi dụng, làm giả, mà kết hợp với những kỹ thuật mới như băng từ hoặc
chip thông minh.
- Thẻ băng từ: được sản xuất dựa trên kỹ thuật những thông tin của thẻ và chủ thẻ
được mã hóa trên băng từ mặt sau của thẻ.
- Thẻ thông minh: Đây là loại thẻ thế hệ mới nhất dựa trên kỹ thuật xử lý tin học , một
chíp điện tử hoạt động như một máy tính nhỏ gắn liền với thẻ có tình an toàn và bảo
mật cao. Loại thẻ này chỉ mới sử dụng phổ biến ở các nước phát triển.
1.5.2 Theo chủ thể phát hành:
- Thẻ do ngân hàng phát hành: Là loại thẻ do ngân hàng phát hành giúp cho khách
hàng sử dụng linh động tài khoản của mình tại ngân hàng hoặc sử dụng số tiền do ngân
hàng cấp tín dụng. Đây là loại thẻ được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay, không chỉ
trong phạm vi một quốc gia mà còn trên phạm vi toàn cầu. Ví dụ như: VISA,
MASTERCARD, JCB …


- Thẻ do các tổ chức phi ngân hàng phát hành: là các loại thẻ du lịch giải trí của các tập
đoàn kinh doanh lớn, hoặc cũng có thể do các công ty xăng dầu, các cửa hiệu lớn phát
hành…Ví dụ thẻ Dinners club, Amex..
1.5.3 Theo tính chất thanh toán của thẻ:

Thẻ tín dụng (Creadit Card)
Thẻ tín dụng là một công cụ thanh toán không dùng tiền mặt, cho phép người sử dụng
khả năng chi tiêu trước trả tiền sau. Khoảng thời gian từ khi thẻ được dùng để thanh toán
tiền mua hàng hóa, dịch vụ tới lúc chủ thẻ trả tiền cho ngân hàng phụ thuộc vào từng loại
thẻ tín dụng của các tổ chức khác nhau.
Nếu chủ thẻ thanh toán toàn bộ số dư nợ vào ngày đến hạn, thời gian này sẽ trở thành
thời gian ân hạn và chủ thẻ hoàn toàn được miễn lãi đối với số dư nợ cuối kỳ. Tuy vậy,
nếu hết thời gian này mà toàn bộ số dư nợ cuối kỳ chưa được thanh toán cho ngân hàng
thì chủ thẻ sẽ chịu những khoản phí và lãi trả chậm.
Khi toàn bộ số tiền phát sinh được hoàn trả cho ngân hàng, hạn mức tín dụng của chủ
thẻ được khôi phục như ban đầu. Đây là tính chất “tuần hoàn” (revolving) của thẻ tín
dụng.
Các tổ chức tài chính như ngân hàng hay các công ty tài chính phát hành thẻ tín dụng
cho khách hàng dựa trên uy tín và khả năng đảm bảo chi trả của từng khách hàng.
Khả năng đảm bảo chi trả được xác định dựa trên tổng hợp nhiều thông tin khác nhau
như: thu nhập, tình hình chi tiêu, mối quan hệ sẵn só đối với các tổ chức tài chính, địa vị
xã hội…của khách hàng. Do đó, mỗi khách hàng có những hạn mức tín dụng khác nhau.
Cũng từ việc thẩm định và phân loại khách hàng mà các ngân hàng cũng như các tổ
chức tài chính đưa ra nhiều sản phẩm thẻ tín dụng đa dạng: ví dụ thẻ tín dụng Visa,
MasterCard có thẻ Vàng (Gold) và thẻ Chuẩn (Classic/Standard)…
Khi sử dụng thẻ, thay bằng tiền mặt, chủ thẻ xuất trình thẻ tín dụng của mình tại các
điểm cung ứng hàng hóa, dịch vụ có chấp nhận thẻ (gọi là đơn vị chấp nhận thẻ) để thanh
toán.
Thẻ thanh toán (Charge Card)
Đề đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng, các tổ chức thẻ đưa ra một loại sản phẩm
thẻ tín dụng đặc biệt, phục vụ những khách hàng có thu nhập cao, có khả năng tài chính
vững vàng và có mức chi tiêu lớn. Đó là thẻ thanh toán (charge card).
Nếu như thẻ tín dụng thông thường cho phép khách hàng có thể trả một phần số dư nợ
cuố kỳ vào ngày đến hạn với điều kiện đảm bảo mức thanh toán tối thiểu thì đối với thẻ
thanh toán, chủ thẻ sẽ phải thanh toán toàn số tiền phát sinh cho ngân hàng khi vào ngày

đến hạn. Tuy nhiên, để đổi lại, khi sử dụng thẻ thanh toán, khách hàng được hưởng một
hạn mức tín dụng đặc biệt cao và không bị chi phối bởi hạn mức tín dụng.
Thẻ ATM
Thẻ ATM là hình thức phát triển đầu tiên của thẻ ghi nợ, cho phép chủ thẻ tiếp cận trực
tiếp tới tài khoản tại ngân hàng từ máy rút tiền tự động. Chủ thẻ có thể thực hiện nhiều
giao dịch khác nhau tại máy rút tiền tự động ATM.
Bao gồm: xem số dư tài khoản, chuyển khoản, rút tiền, in sao kê, xem các thông tin
quảng cáo... Hệ thống máy ATM hiện đại còn cho phép chủ thẻ gửi tiền vào tài khoản của
mình ngay tại các máy ATM và tự mình thực hiện các dịch vụ ngân hàng khác.


Sự tiện lợi là đặc điểm quan trọng nhất của thẻ ATM. Bằng cách nhập mã số cá nhân
(PIN), chủ thẻ có thể tiếp cận tài khoản cá nhân của mình tại ngân hàng mọi nơi, mọi lúc,
24/24h mỗi ngày và 7 ngày trong tuần. Điều này có nghĩa là cùng với thẻ ATM, hệ thống
ATM đã cung cấp cho khách hàng sử dụng thẻ khả năng giao dịch ngoài giờ làm việc,
ngoài trụ sở của ngân hàng và khả năng tự phục vụ.
Theo thời gian, các tổ chức đã tự động kết nối hệ thống ATM với nhau tạo nên một
mạng ATM khu vực, cho phép khách hàng có thể thực hiện giao dịch tại nhiều máy ATM
hơn. Hiện nay hai hẹ thống ATM lớn nhất trên thế giới là CIRRUS của MasterCard và
PLUS của Visa, sẵn sàng cho phép thẻ của các ngân hàng và những tổ chức tín dụng khác
kế nối, tạo nên một mạng lưới rộng khắp toàn cầu.
Thẻ ghi nợ (Debit card)
Với đặc tính thuận tiện, thẻ ATM đã nhanh chóng trở thành sản phẩm rất phổ biến, đặc
biệt có tốc độ tăng trưởng cao tại các thị trường đang phát triển. Tuy nhiên, sử dụng thẻ
ATM, chủ thẻ chỉ có thể tiếp cận với tài khoản của mình từ những máy rút tiền tự động.
Đây là một hạn chế bởi tài khoản cá nhân chưa được tận dụng triệt để trong thanh toán
hàng hóa, dịch vụ tại các đơn vị chấp nhận thẻ. Chính vì lý do này, thẻ ghi nợ ra đời.
Giống như thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ cũng là một phương tiện thanh toán không dùng
tiền mặt. Tuy nhiên, nói về mức độ có thể thay thế tiền mặt, thẻ ghi nợ chiếm ưu thế vượt
trội hơn thẻ tín dụng. Điều này có được bởi tính chất của thẻ ghi nợ.

Bất cứ khách hàng nào có tài khoản mở tại ngân hàng đều có thẻ phát hành thẻ ghi nợ
hoặc trong trường hợp chưa có tài khoản, khách hàng muốn phát hành thẻ ghi nợ thì bản
thân thẻ ghi nợ này sẽ gắn liền với một tài khoản của khách hàng.
Thẻ ghi nợ cho phép khách hàng tiếp cận với số dư trong tài khoản của mình qua hệ
thống kết nối trực tuyến để thanh toán hàng hóa, dịch vụ tài các đơn vị chấp nhận thẻ
hoặc thực hiện các giao dịch liên quan tới tài khoản tại máy rút tiền tự động ATM. Như
vậy, mức chi tiêu của chủ thẻ chỉ phụ thuộc vào số dư trong tài khoản.
Ngân hàng giữ vai trò cung cấp dịch vụ cho chủ thẻ và thu phí dịch vụ. đối với thẻ ghi
nợ, giữa ngân hàng và khách hàng không diễn ra quá trình cho vay, không có việc phân
loại khách hàng để được hưởng hạn mức tín dụng nên khách hàng chỉ cần có tài khoản tại
ngân hàng đề có thể tiếp cận tới sản phẩm thẻ ghi nợ của ngân hàng.
1.5.4
T
heo phạm vi lãnh thổ
Thẻ nội địa: Là thẻ được giới hạn sử dụng trong phạm vi một quốc gia do vậy đồng
tiền giao dịch phải là đồng bản tệ của nước đó. Hoạt động của loại thẻ này rất đơn giản,
chỉ do một ngân hàng hoặc một tổ chức điều hành từ việc phát hành, xử lý trung gian cho
đến thanh toán. Thẻ có nhược điểm là việc sử dụng chỉ giới hạn trong phạm vi một quốc
gia vì vậy việc kinh doanh sẽ không có hiệu quả nếu số cơ sở chấp nhận thẻ ít.
Thẻ quốc tế: Thẻ sử dụng các loại ngoại tệ mạnh để thanh toán, được chấp nhận trên
phạm vi toàn cầu. Thẻ được hỗ trợ quản lý trên toàn thế giới bởi các tổ chức tài chính lớn
như MASTERCARD, VISA… hoạt động thống nhất, đồng bộ. Thẻ quốc tế rất được ưa
chuộng vì tính an toàn tiện lợi của nó.
1.5.5 Theo mục đích và đối tượng sử dụng


Thẻ kinh doanh: Là loại thẻ phát hành cho nhân viên của một công ty sử dụng, nhằm
giúp công ty quản lý chặt chẽ việc chi tiêu của các nhân viên vì mục đích chung của công
ty trong kinh doanh.
Thẻ du lịch và giải trí: Là loại thẻ được phát hành để phục vụ cho ngành du lịch, giải

trí.
1.5.6 Theo hạn mức của thẻ
Thẻ thường: Là một loại thẻ tín dụng nhưng mang tính phổ thông, phổ biến, được sử
dụng rộng rãi trên toàn thế giới.
Thẻ vàng: Là loại thẻ ưu hạng phù hợp với mức sống và nhu cầu tài chính của khách
hàng có thu nhập cao. Thẻ được phát hành cho các đối tượng có uy tín, có khả năng tài
chính lành mạnh, nhu cầu chi tiêu lớn. Điểm khác biệt của thẻ vàng so với thẻ thường là
hạn mức tín dụng lớn.
1.6 VAI TRÒ CỦA THẺ THANH TOÁN
Mặc dù ra đời sau các phương tiện thanh toán khác, nhưng thẻ thanh toán ngày càng
khẳng định vai trò của nó trong thanh toán nhờ vào những vai trò và tính năng ưu việt
của nó so với các phương tiện thanh toán khác.
1.6.1 Đối với người sử dụng thẻ:

Sự
linh hoạt và tiện lợi trong thanh toán ở trong và ngoài nước:
Tiện ích nổi bật cho người sử dụng thẻ là sự tiện lợi và tính linh hoạt hơn hẳn các
phương tiện thanh toán khác. Chủ thẻ có thể thực sự cảm nhận được điều này khi đi du
lịch hay công tác ở nước ngoài. Thẻ thanh toán như Visa, MasterCard và trong phạm vi
nhỏ hơn là Amex và Diners được chấp nhận trên toàn thế giới. Điều này có nghĩa là, khi
dự định ra nước ngoài, thay vì phải chuẩn bị trước một lượng ngoại tệ hay séc du lịch,chủ
thẻ có thể mang theo thẻ thanh toán để thanh toán cho mọi nhu cầu chi tiêu của mình.

Tiế
t kiệm thời gian mua, giá trị thanh toán cao hơn:
Thẻ thanh toán có nhiều tiện ích hơn tiền mặt hay séc du lịch cả trước, trong và sau
chuyến đi.
Với séc du lịch, chủ thẻ phải dự định trước xem sẽ tiêu bao nhiêu và phải đến ngân
hàng làm thủ tục để mua séc trước chuyến đi, đồng thời thanh toán tiền trước cho ngân
hàng cùng với một khoản phí dù trên thực tế họ chưa hề sử dụng séc này. Khi trở về, nếu

chưa sử dụng hết số tiền trên séc, hoặc người có séc lại phải mất thời gian và chi phí để
đến ngân hàng làm thủ tục đổi lại từ séc thành tiền hoặc sẽ chấp nhận rủi ro về tỷ giá khi
giữ séc đó lại cho lần sử dụng sau.
Sử dụng thẻ thanh toán đơn giản hơn rất nhiều. Chủ thẻ không cần lên kế hoạch chi
tiêu trước, cũng không cần phải trả tiền truớc cho ngân hàng. Sử dụng thẻ, chủ thẻ được
phép chi tiêu trước, trả tiền sau. Tài khoản của thẻ chỉ bị ghi nợ khi nào chủ thẻ thực sự
chi tiêu và thanh toán bằng thẻ. Thêm nữa, tỷ giá khi bạn thanh toán bằng thẻ cũng
thường có lợi hơn so với sửdụng tiền mặt hay séc du lịch. Như vậy, không những giúp
người sử dụng thẻ tiết kiệm tiền, thẻ còn giúp họ tiết tiệm thời gian mua hàng cũng như
thời gian chờ làm các thủ tục với séc du lịch hay tiền mặt, hạn chế được rủi ro.


Kh
oản tín dụng tự động, tức thời:
Khả năng mua hàng không bị gò bó là một tiện ích của thẻ thanh toán. Dù việc mua
bán có được dự tính trước hay không thì thẻ thanh toán cũng là một nguồn tín dụng tự
động giúp cho các chủ thẻ khỏi phải đến ngân hàng xin vay. Thường thì người ta có tâm
lý ngại đến ngân hàng làm thủ tục xin vay, và họ sẽ đánh giá cao thẻ như là một khoản tín
dụng ngắn hạn, thủ tục phát hành đơn giản (thậm chí có thẻ phát hành qua đường bưu
điện). Hơn thế nữa, chủ thẻ chỉ phải thanh toán một phần nhỏ (hiện quy định là 20%) khi
đến hạn thanh toán (thường là một tháng), số còn lại chủ thẻ có thể trả sau.

Bả
o vệ người tiêu dùng:
Ở các nước phát triển có luật tín dụng tiêu dùng (chẳng hạn như Luật tín dụng tiêu
dùng ở Anh ban hành năm 1974), quy định khách hàng được bảo vệ đối với những món
hàng có giá trị từ 100-15.000 bảng Anh thanh toán bằng thẻ tín dụng. Nếu món hàng đó
không đủ tiêu chuẩn chất lượng thì chủ thẻ có thẻ yêu cầu được ngân hàng phát hành thẻ
bảo vệ, thậm chí có thể được bồi thường. Một số ngân hàng phát hành còn có chế độ bảo
hiểm kèm theo: có hàng hoá thay thế hàng bị mất cắp, hư hỏng hay thất lạc, trả tiền bảo

hiểm tai nạn hoặc tử vong đối với hàng hoá hay dịch vụ thanh toán bằng thẻ thanh toán.
Hơn thế nữa, ngân hàng cũng có chế độ ưu đãi cho chủ thẻ khi sử dụng một số dịch vụ về
sức khoẻ (ví dụ như PPP, BUPA ở Anh), câu lạc bộ hoặc có chế độ thưởng điểm sau mỗi
lần sử dụng thẻ và số điểm này có thể cộng dồn lại để đổi lấy một số hàng hoá khác.






t tiền mặt:
Chủ thẻ có thể rút tiền mặt một cách nhanh chóng ở bất cứ nơi nào, vào bất cứ lúc nào
tại ngân hàng hoặc qua các máy rút tiền tự động (ATM) và sử dụng một số dịch vụ khác
do máy ATM cung cấp như: trả nợ vay, chuyển khoản, xem số dư tài khoản…

Ki
ểm soát được chi tiêu:
Với sao kê hàng tháng do ngân hàng gửi đến chủ thẻ hoàn toàn có thể kiểm soát được
chi tiêu của mình trong tháng, đồng thời tính toán được phí và lãi nếu trả cho mỗi khoản
giao dịch.
Giá cho tất cả những lợi ích mà thẻ mang lại là khoản phí thường niên mà chủ thẻ phải
chịu và tỷ lệ lãi nếu khoản chi tiêu không được trả ngân hàng đúng hạn, lãi suất này có
thể cao ngang với lãi suất của một khoản vay thấu chi. Tuy nhiên, với tất cả những lợi ích
mà thẻ mang lại cho chủ thẻ thì khoản phí này không đáng kể, có thể chấp nhận được.
1.6.2 Đối với cơ sở chấp nhận thẻ:(CSCNT)

Đả
m bảo chi trả:
Đối với người bán lẻ, thẻ thanh toán thuận lợi hơn so với séc. Trường hợp khách hàng
muốn thanh toán bằng séc cho một món hàng có giá trị lớn hơn mức đảm bảo của tờ séc

thì cửa hàng đứng trước sự lựa chọn khó khăn: hoặc là chấp nhận thanh toán séc với số
tiền lớn hơn hạn mức được đảm bảo và chịu rủi ro nếu ngân hàng phát hành từ chối thanh


toán hoặc sẽ không bán được hàng, doanh số bán sẽ giảm. Với thẻ thanh toán, CSCNT có
thể yên tâm là đã được ghi có vào tài khoản ngay khi thông tin được truyền qua hệ thống
máy móc điện tử đến ngân hàng thanh toán. Trường hợp phải xin cấp phép thì việc xin
cấp phép từ ngân hàng phát hành cũng rất nhanh chóng và đảm bảo qua các máy cấp
phép tự động.


ng doanh số bán hàng hoá, dịch vụ và thu hút thêm khách hàng
Chấp nhận thanh toán thẻ là cung cấp cho khách hàng một phương tiện thanh toán
nhanh chóng, tiện lợi do vậy khả năng thu hút khách hàng sẽ tăng lên, doanh số cung ứng
hàng hoá dịch vụ của CSCNT cũng tăng lên. Thẻ thanh toán tạo cho CSCNT một khả
năng cạnh tranh lớn hơn so với các đối thủ khác. Môi trường văn minh, hiện đại trong
giao dịch, mua bán khi thanh toá thẻ là yếu tố quan trong để thu hút khách hàng., đặc biệt
là khách du lịch nước ngoài, các nhà đầu tư.

Nh
anh chóng thu hồi vốn:
Khi dữ liệu về giao dịch thẻ được truyền đến ngân hàng hoặc CSCNT nộp hoá đơn
thanh toán thẻ cho ngân hàng thì tài khoản của CSCNT được ghi có ngay. Số tiền này họ
có thể sử dụng ngay vào mục đích quay vòng vốn hoặc các mục đích khác. Nhanh chóng
luân chuyển vốn là điểm thuận lợi hơn so với séc, séc thường phải mất một thời gian nhất
định mới được thanh toán.

An
toàn, bảo đảm
Giao dịch thẻ được trả tiền ngay vào tài khoản của CSCNT , nhưng dù chưa được

thanh toán ngay thì thanh toán thẻ cũng ít có nguy cơ bị mất cắp hơn là séc hay tiền mặt.
Một ngăn kéo đầy séc hay tiền mặt có giá trị lớn sẽ là mục tiêu của những nhân viên thiếu
trung thực và kẻ trộm, nhưng cũng với một số tiền như vậy được thể hiện trên hoá đơn
thẻ thì sẽ chảng có ai quan tâm đến vì nó chẳng có ý nghĩa với ai khác ngoài CSCNT.

Nh
anh chóng giao dịch với khách hàng:
Khi giao dịch tiền mặt, việc đếm tiền, ghi chép sổ sách là rất phức tạp. Còn giao dịch
thẻ, với các thiết bị chuyển ngân điện tử tại điểm bán hàng EFTPOS (Electronic funds
transfer at point of sale) được sử dụng ngày càng nhiều thì đơn giản, người ta chỉ việc
đưa băng từ của thẻ qua thiết bị này, mọi thông tin trên thẻ được nhận dạng, giao dịch
được thực hiện. Hệ thốngEFTPOS giúp đẩy nhanh quá trình xử lý khi bán hàng, giúp
CSCNT cung cấp cho nhà phát hành thẻ những thông tin về việc bán hàng mà không phải
xử lý thủ công trên giấy tờ.

Gi
ảm chi phí bán hàng
Thanh toán thẻ giúp CSCNT giảm đáng kể các chi phí cho việc đếm, bảo quản tiền,
quản lý tài chính nhờ vậy cũng giảm được chi phí bán hàng.
Điểm bất đồng giữa CSCNT và ngân hàng là về khoản phí mà CSCNT phải trả cho
ngân hàng. Dù các máy móc thiết bị thanh toán thẻ được các ngân hàng cung cấp và bảo
quản miễn phí, nhưng tuỳ theo quy định của ngân hàng phát hành, CSCNT vẫn phải chịu


một khoản phí tính trên giá trị giao dịch: Khoảng 1,6% giá trị giao dịch đối với thẻ phát
hành ở Anh, 3-4% đối với thẻ Amex (ở bất cứ nước nào)1. Điều này có hợp lý không khi
mà các CSCNT cũng mang lại không ít lợi nhuận cho ngân hàng? (Ở Việt Nam thì tỷ lệ
phí này dao động từ 2,5- 3,6%2)
1.6.3 Đối với ngân hàng
Hơn ai hết, ngân hàng chính là người được hưởng lợi từ hoạt động phát hành và thanh

toán thẻ. Điều này thể hiện trên các mặt sau:

Lợi
nhuận ngân hàng:
Lợi ích lớn nhất mà thẻ đem lại cho ngân hàng phát hành và thanh toán thẻ là lợi
nhuận. Thu nhập từ thẻ mà ngân hàng có được là: phí CSCNT, phí sử dụng thẻ (phí
thường niên) và lãi suất cho khoản tín dụng mà chủ thẻ chậm thanh toán. Đó là chưa kể
các khoản thu từ các dịch vụ ngân hàng và đầu tư kèm theo.
Một yếu tố nữa có thể mang lại lợi nhuận cho ngân hàng từ thẻ đó là lòng trung thành
của khách hàng. Một khi khách hàng đã có tài khoản hoặc thẻ tại ngân hàng thì hiếm khi
họ lại muốn chuyển sang một tổ chức đối thủ khác. Lợi dụng tâm lý này của khách hàng,
ngân hàng có thể tăng lãi suất tương đối cho khoản tín dụng thanh toán thẻ để tăng thêm
lợi nhuận cho ngân hàng mà không sợ mất khách hàng đồng loạt.
Ngoài ra, kinh doanh thẻ còn tạo ra sự “hỗ trợ chéo” rất có hiệu quả cho ngân hàng. Tỷ
lệ lợi nhuận tương đối cao từ kinh doanh thẻ có thể bù đắp cho những hoạt động kém
sinh lời hơn của ngân hàng như kinh doanh trên tài khoản vãng lai (thường lãi suất thấp).

Dị
ch vụ toàn cầu:
Là thành viên của một tổ chức thẻ quốc tế như Visa hay MasterCard, một ngân hàng
dù là nhỏ nhất trên thế giới cũng có thể cho khách hàng một phương tiện thanh toán quốc
tế có chất lượng như bất cứ đối thủ cạnh tranh lớn nào. Ví dụ, mỗi ngày
Fleming/Save&Prosper (một ngân hàng ở Anh) phải thanh toán các giao dịch bằng thẻ tín
dụng với rất nhiều ngân hàng trên toàn thế giới. Nhờ mối quan hệ với các tổ chức thẻ
quốc tế, ngân hàng này chỉ phải thực hiện duy nhất một giao dịch thông qua tổ chức thẻ
quốc tế Visa để trả tiền cho tất cả các khoản này, việc phân bổ tới các ngân hàng khác có
liên quan sẽ do Visa thực hiện. Sau lợi nhuận, khả năng cung cấp dịch vụ toàn cầu là lợi
ích lớn nhất cho ngân hàng, tạo điều kiện cho ngân hàng tham gia vào quá trình toàn cầu
hoá, hội nhập với cộng đồng quốc tế.


Hi
ệu quả cao trong thanh toán:
Bằng việc khuyến khích khách hàng sử dụng thẻ, ngân hàng sẽ thực hiện số giao dịch
séc, tiền mặt ít hơn. Điều này mang lại cho ngân hàng nhiều lợi ích: thực hiện số giao
dịch ít hơn, những thông tin thường nhật được cung cấp bởi các tổ chức thẻ quốc tế Visa,
MasterCard dưới hình thức điện tử làm cho việc ghi nợ tương ứng vào các tài khoản của
khách hàng được nhanh hơn, đơn giản hơn… hoạt động của ngân hàng nhờ vậy cũng
hiệu quả hơn.

Đa
dạng hoá các loại hình dịch vụ ngân hàng:


Thẻ thanh toán ra đời, làm phong phú thêm các dịch vụ ngân hàng, mang đến cho ngân
hàng một phương tiện thanh toán đa tiện ích, thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
Không chỉ có vậy, ở các nước phát triển, phát triển dịch vụ phát hành và thanh toán thẻ
ngân hàng có thêm cơ hội để phát triển các dịch vụ khác song song như: đầu tư hoặc bảo
hiểm cho các sản phẩm. Thông tin về các loại hình dịch vụ này sẽ được gửi đến cho
khách hàng sử dụng thẻ cùng với sao kê hàng tháng của ngân hàng. Theo thống kê, tại
Fleming/Save & Prosper có tới 30% chủ thẻ đã mua các dịch vụ này3.

Hi
ện đại hoá công nghệ ngân hàng:
Đưa thêm một loại hình thanh toán mới phục vụ khách hàng buộc ngân hàng phải
không ngừng hoàn thiện: nâng cao trình độ, trang bị thêm trang thiết bị kỹ thuật công
nghệ để cung cấp cho khách hàng những điều kiện tốt nhất trong thanh toán, đảm bảo uy
tín, sự an toàn, hiệu quả trong hoạt động của ngân hàng.


ng nguồn vốn cho ngân hàng:

Nhờ thẻ thanh toán số lượng tiền gửi của khách hàng để thanh toán thẻ và số lượng tài
khoản của các CSCNT cũng tăng lên. Với lượng giao dịch thẻ tương đối lớn, các tài
khoản này sẽ tạo cho ngân hàng một lượng vốn bằng tiền đáng kể, cũng có thể coi là một
nguồn sinh lợi cho ngân hàng.
Là một phương tiện thanh toán hiện đại, thuận tiện, lợi ích về mọi mặt đối với nhiều
lĩnh vực và nhiều đối tượng trong nền kinh tế, đặc biệt trong công cuộc toàn cầu hoá.
Ngày nay, trên thế giới thanh toán bằng thẻ đã trở thành xu thế tất yếu. Ở các nước phát
triển, trên 80% lưu chuyển hàng hoá, dịch vụ bán lẻ được thực hiện bằng thẻ4. Với phạm
vi thanh toán rộng như vậy, vai trò của thẻ chắc chắn sẽ ngày càng được khẳng định và
mở rộng.
1.6.4 Đối với nền kinh tế - xã hội:
Nhờ những thành tựu rực rỡ trong lĩnh vực công nghệ thông tin những năm gần đây,
công dụng của thẻ thanh toán ngày càng được phát triển và mở rộng. Thẻ ngày càng
thểhiện vai trò lớn của mình trong sự phát triển kinh tế – xã hội. Điều này được thể hiện
trên các mặt sau:

Gi
ảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông
Là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, vai trò đầu tiên của thẻ là làm
giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông. Ở những nước phát triển, thanh toán tiêu dùng
bằng thẻ chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng số các phương tiện thanh toán. Nhờ vậy mà
khối lượng cũng như áp lực tiền mặt trong lưu thông giảm đáng kể.


ng nhanh khối lượng chu chuyển, thanh toán trong nền kinh tế
Hầu hết mọi giao dich thẻ trong phạm vi quốc gia hay toàn cầu đều được thực hiện và
thanh toán trực tuyến (ONLINE) vì vậy tốc độ chu chuyển, thanh toán nhanh hơn nhiều
so với những giao dịch qua các phương tiện thanh toán khác như: séc, uỷ nhiệm thu, uỷ
nhiệm chi… Thay vì thực hiện các giao dịch trên giấy tờ, với giao dịch thẻ, mọi thông tin
đều được xử lý qua hệ thống máy móc điện tử thuận tiện, nhanh chóng.



Th
ực hiện chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước
Trong thanh toán thẻ, các giao dịch đều nằm dưới sự kiểm soát của ngân hàng. Nhờ đó
các ngân hàng có thể dễ dàng kiểm soát được mọi giao dịch, tạo nền tảng cho công tác
quản lý thuế của nhà nước, thực hiện chính sách ngoại hối quốc gia. Thực tế hiện nay,
mọi chế độ, chính sách liên quan đến thẻ đều dựa trên chính sách quản lý ngoại hối của
nhà nước.

Th
ực hiện biện pháp " kích cầu" của nhà nước
Sự tiện lợi mà thẻ mang lại cho người sự dụng, cơ sở chấp nhận thẻ, ngân hàng…
khiến cho ngày càng có nhiều người ưa chuộng sử dụng thẻ, tăng cường chi tiêu bằng thẻ.
Điều này làm cho thẻ trở thành một công cụ hữu hiệu góp phần thực hiện biện pháp “kích
cầu” của nhà nước. Khuyến khích phát hành, thanh toán thẻ cũng là khuyến khích tăng
cầu tiêu dùng. Điều này cũng tạo nên một kênh cung ứng vốn hiệu quả của các ngân hàng
thương mại.

Cải
thiện môi trường văn minh thương mại, thu hút khách du lịch và đầu tư nước ngoài
Thanh toán bằng thẻ là giảm bớt các giao dịch thủ công, tiếp cận với một phương tiện
văn minh của thế giới do đó sẽ tạo ra một môi trường thương mại văn minh, hiện đại hơn.
Đây cũng là một yếu tố thu hút khách du lịch, các nhà đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh việc đem lại lợi ích to lớn cho xã hội, thẻ được sử dụng ngày càng rộng rãi
cũng là nhờ những tiện ích thiết thực mà nó đem lại cho những đối tượng liên quan trực
tiếp: chủ thẻ, CSCNT, ngân hàng.


2. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THẺ THANH TOÁN TẠI VIỆT NAM

2.1 NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN:


Paper: “Testing The Factors Affecting The Development Of Credit Cards In The Vietnam
Banking Industry” của nhóm tác giả: Khanh - C.H.1, Tri - D.N.2*, Anh - T.T.N.3, Dang T.K.C.4
Kết quả nghiên cứu: Nghiên cứu này ghi nhận những yếu tố quan trọng, có ảnh hưởng đến
thị trường thẻ tín dụng tại Việt Nam là đổi mới công nghệ, hành vi khách hàng, tạo ra sản phẩm,
chính sách khuyến khích và các khuôn khổ quan trọng. Cụ thể, hành vi của khách hàng là yếu tố
mạnh mẽ nhất ảnh hưởng đến phát triển thẻ tín dụng tại Việt Nam, tiếp theo chính sách khuyến
mãi, khuôn khổ quan trọng, sự sáng tạo sản phẩm và đổi mới công nghệ là yếu tố ảnh hưởng đến
ít nhất
Phương pháp / Kỹ thuật: Các tác giả tiến hành khảo sát bảng câu hỏi với thang đánh giá
Likert-style để có được các dữ liệu chính. Thăm dò Yếu tố phân tích (EFA), Kaiser-Meyer-Olkin
(KMO) và phép thử Bartlett cũng được sử dụng để kiểm tra mối tương quan giữa các biến độc
lập (sự phát triển của thẻ tín dụng Việt Nam) và năm biến phụ thuộc (đổi mới công nghệ, hành vi
khách hàng, sáng tạo sản phẩm,chính sách khuyến khích và các khuôn khổ quan trọng).
Những phát hiện: Những kết quả này nhấn mạnh rằng sự phát triển của thẻ tín dụng trong
ngành ngân hàng Việt Nam bị ảnh hưởng đáng kể bởi hành vi khách hàng, chính sách khuyến
mãi, các khuôn khổ quan trọng, sản phẩm sáng tạo và đổi mới công nghệ. Mặc dù có một số vấn
đề cần phải được cải thiện, thị trường thẻ tín dụng của Việt Nam vẫn được đánh giá là một thị
trường tiềm năng vượt trội.
Điểm mới: Trong bài báo này, các đề nghị được thực hiện để khám phá cách để cải thiện vấn
đề này và tiếp tục phát triển thị trường thẻ tín dụng tại Việt Nam.

2.2 TRIỂN KHAI THẺ TẠI CÁC NGÂN HÀNG VIỆT NAM
Xu hướng liên kết giữa ngân hàng với các đơn vị sản xuất kinh doanh để phát hành thẻ
thanh toán thay thế tiền mặt ngày càng phát triển. Tuy nhiên, chức năng chi trả của những
chiếc thẻ này vẫn còn manh mún và nhiều hạn chế.
Gần đây, tại TP HCM, một số ngân hàng đã đua nhau tung ra thị trường nhiều loại thẻ
thanh toán thay thế tiền mặt bằng cách liên kết với doanh nghiệp. Ngân hàng thương mại

cổ phần Á Châu (ACB) kết hợp với hệ thống siêu thị Citimart phát hành thẻ ACB Citimart visa electron, cùng Công ty Én Việt cho ra đời thẻ Cát Đằng ACB e.Card. Ngân
hàng Đông Á (EAB) cùng hãng taxi Mai Linh và Công ty bảo hiểm nhân thọ Manulife
VN phát hành 2 loại thẻ thanh toán cùng tên. Dự kiến, trong thời gian tới, EAB còn liên
kết với Công ty dệt may Việt Tiến và dịch vụ viễn thông Viettel.
Hàng chục loại thẻ được các ngân hàng liên kết với doanh nghiệp phát hành ra thị
trường để thanh toán, tên gọi không thống nhất và chức năng cũng bị hạn chế. Chủ thẻ
ACB - Citimart visa electron chỉ sử dụng được trong hệ thống siêu thị, các điểm bán lẻ,
nhà hàng... trong hệ thống các điểm chấp nhận thanh toán thẻ Visa electron, không thể
dùng ở những nơi không có máy chấp nhận loại thẻ này hay dùng đi taxi Mai Linh.
Ngược lại, những chiếc thẻ Đông Á - Mai Linh không thể dùng để mua sắm trong siêu
thị, nơi không có điểm chấp nhận thẻ EAB.
Thực trạng trên là do doanh nghiệp muốn quảng bá thương hiệu của mình nên mỗi loại
thẻ mang một tên gọi khác, chứ thực chất chức năng là sử dụng để thanh toán ở các điểm
chấp nhận thẻ của Đông Á. Ta phải thừa nhận, hạn chế đối với thị trường thẻ VN hiện
nay là về thiết bị và công nghệ. Nhiều ngân hàng không thể đáp ứng hết nhu cầu của
người dân. Một số điểm thanh toán chỉ chấp nhập các loại thẻ của ngân hàng này mà


không thể chấp nhận thẻ của ngân hàng khác. Phương thức thanh toán bằng thẻ hạn chế
nên người dân vẫn thích sử dụng tiền mặt.Theo ông Lê Vũ Kỳ, Phó giám đốc ACB,
người dân ngày càng thích sử dụng thẻ để thanh toán trong mua bán, vì an toàn hơn giữ
tiền mặt. Do số lượng tài khoản cá nhân tại ngân hàng còn rất khiêm tốn, nên việc liên
kết với doanh nghiệp phát hành thẻ là biện pháp khuyến khích người dân giao dịch, thanh
toán qua thẻ nhiều hơn. Tuy nhiên, các ngân hàng vẫn chưa nhận được sự hợp tác chặt
chẽ của doanh nghiệp trong việc trả thu nhập qua thẻ Giám đốc tập đoàn Visa khu vực
Đông Dương Gordon Cooper cho biết, theo kết quả nghiên cứu về thị trường thẻ VN, có
1,5 triệu người tham gia các giao dịch thanh toán có sử dụng thẻ. Với dân số trên 80 triệu
người, trung bình cứ 54 người VN chỉ có một thẻ thanh toán. Con số chi tiêu của người
VN qua thẻ Visa chỉ đạt 0,13% tổng chi tiêu, trong khi tỷ lệ này ở Malaysia là 7% và
Philipines là 5%. "Điều này cho thấy, thị trường thanh toán bằng thẻ của VN vẫn bị bỏ

ngỏ. Các ngân hàng VN vì nhiều lý do đang khai thác thị trường thẻ một cách lẻ tẻ, manh
mún và thiếu hợp tác"
Lược sử về thẻ thanh toán tại Việt Nam
Năm 1990 hợp đồng làm đại lý chi trả thẻ Visa giữa ngân hàng Pháp BFCE và Ngân
hàng Ngoại thương VN đã mở đầu cho sự du nhập của thẻ thanh toán vào VN.
•Năm 1995 cùng với Ngân hàng Ngoại thương TP.HCM, Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Á Châu, Ngân hàng Liên doanh First-Vina-Bank và Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Exim bank được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước VN cho phép chính thức gia
nhập tổ chức thẻ quốc tế Mastercard.
•Năm 1996 Ngân hàng Ngoại thương chính thức là thành viên của tổ chức Visa
International. Tiếp sau đó là Ngân hàng Á Châu, Ngân hàng Công thương VN cũng lần
lượt là thành viên chính thức của tổ chức Visa Card, trong đó Ngân hàng Ngoại
thương và Á Châu thực hiện thanh toán trực tiếp với tổ chức này. Cũng trong năm này
Ngân hàng Ngoại thương VN (Vietcombank) phát hành thí điểm thẻ ngân hàng đầu
tiên, đồng thời Hội các ngân hàng thanh toán thẻ VN cũng được thành lập với bốn
thành viên sáng lập gồm Vietcombank, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu, Ngân
hàng Thương mại Cổ phần Xuất nhập khẩu (Exim bank) và First Vinabank.
•Hành lang pháp lý cho hoạt động thẻ lúc ấy chỉ là quyết định số 74 do Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước ký ban hành ngày10/4/1993, qui định “thể lệ tạm thời về phát
hành và sử dụng thẻ thanh toán”. Việc ứng dụng thẻ ở VN vào thời điểm đó còn bị giới
hạn rất nhiều về cơ sở pháp lý, điều kiện kinh tế, hạ tầng kỹ thuật…
•Thị trường thẻ năm 2006, 2007 trở lên sôi động vì VN đã bước vào sân chơi rộng là
WTO, thị trường tài chính VN càng cạnh tranh quyết liệt hơn khi có thêm nhiều ngân
hàng nước ngoài đầu tư vào đây và dịch vụ thẻ tín dụng, thẻ ATM là một loại “vũ khí”
đắc lực để ngân hàng thâm nhập thị trường.
Tình hình phát triển sản phẩm thẻ tại Việt Nam
Đề án thanh toán không sử dụng tiền mặt, được đặt trong mối quan hệ với kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội theo kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 của Chính phủ và phù hợp
với Đề án phát triển ngành ngân hàng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 ở Việt
Nam, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh về chất và lượng trong thanh toán không dùng tiền

mặt với các mục tiêu: đáp ứng nhu cầu thanh toán của nền kinh tế với các phương tiện


thanh toán không dùng tiền mặt an toàn, hiệu quả, sử dụng thuận tiện, có khả năng từng
bước thay thế tiền mặt trong lưu thông; tăng cường năng lực cạnh tranh của các tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán trên thị trường; góp phần thực thi có hiệu quả chính sách
tiền tệ quốc gia; nâng cao hiệu quả giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước, minh
bạch hóa nền kinh tế, góp phần tích cực vào công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí;
thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam; đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế
quốc tế. Phấn đấu đạt được môi trường thanh toán hiện đại, an toàn, hiệu quả và vững
chắc về cơ sở pháp lý ở Việt Nam vào năm 2020.
- Một số chỉ tiêu về hoạt động thanh toán đến năm 2020
- Đến cuối năm 2010 đạt mức phát hành 15 triệu thẻ, 70% các trung tâm thương mại,
siêu thị, nhà hàng, khách sạn, cửa hàng tự chọn v.v... lắp đặt các thiết bị chấp nhận thanh
toán thẻ. Phấn đấu đến năm 2020 con số này đạt lần lượt là 30 triệu thẻ và 95%.
- Đến năm 2010 tỷ lệ tiền mặt/tổng phương tiện thanh toán không quá 18%. Đến năm
2020 tỷ lệ này phấn đấu khoảng 15%.
- Đạt mức 20 triệu tài khoản cá nhân vào cuối năm 2010; 70% cán bộ hưởng lương
ngân sách và 50% công nhân lao động trong khu vực doanh nghiệp, tư nhân thực hiện trả
lương qua tài khoản. Đến năm 2020 đưa những con số này lên lần lượt là 45 triệu tài
khoản cá nhân (bình quân mỗi người có 0.5 tài khoản - ở một số nước phát triển mỗi
người hiện có hơn 1 tài khoản); 95% cán bộ hưởng lương ngân sách và 80% lao động
được trả lương qua tài khoản.
- Đạt mức 80% các khoản thanh toán giữa các doanh nghiệp với nhau thực hiện qua tài
khoản tại Ngân hàng đến cuối năm 2010 và đạt 95% đến năm 2020.
* Định hướng phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam đến năm 2020
- Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt phải phù hợp với trình độ phát triển của
nền kinh tế, hạ tầng kỹ thuật công nghệ và hệ thống thanh toán. Các giải pháp xây dựng
trong đề án không mang tính hành chính, áp đặt, gây tác động tiêu cực kìm hãm sự phát
triển các hoạt động kinh tế - xã hội;

- Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt đặt trong mối quan hệ cân bằng giữa lợi
ích chung của cộng đồng và lợi ích của người sử dụng dịch vụ thanh toán, của các tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán; những biện pháp hỗ trợ của Nhà nước chỉ mang tính
chất ngắn hạn, nhằm tạo ra bước đột phá ban đầu cho sự phát triển thanh toán không
dùng tiền mặt;
- Các giải pháp phát triển thanh toán không dùng tiền mặt hướng tới việc sử dụng các
biện pháp kinh tế là chủ yếu nhằm huy động các nguồn lực của khu vực tư nhân để đầu
tư phát triển thanh toán không dùng tiền mặt. Nguồn lực của Nhà nước chỉ được sử dụng
trong trường hợp nguồn lực của tư nhân không đủ lớn hoặc cho những dự án mang tính
chiến lược lâu dài, hình thành cơ sở nền tảng để thúc đẩy sự phát triển chung của toàn bộ
các hoạt động thanh toán của nền kinh tế.
2.3 TỔNG QUAN VÀ THỰC TRẠNG THẺ TẠI VIỆT NAM
Trong giai đoạn 2001 – 2005, hoạt động thanh toán ngân hàng có sự chuyển biến mạnh
mẽ. Nhiều phương tiện thanh toán và dịch vụ thanh toán mới, hiện đại, tiện ích ra đời,
đáp ứng được nhiều loại nhu cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán, với phạm vi tiếp


cận mở rộng tới các đối tượng cá nhân và dân cư. Những bước phát triển gần đây trong
lĩnh vực thanh toán ngân hàng thể hiện, như sau:
- Tỷ trọng tiền mặt so với tổng phương tiện thanh toán có xu hướng giảm dần: Năm
1997 là 32,2%; năm 2001 là 23,7%; năm 2004 là 20,3%, năm 2005 là 19% và đến tháng
3 năm 2006 là 18,5% ;
- Từ nền tảng thanh toán hoàn toàn thủ công (mọi giao dịch thanh toán đều dựa trên cơ
sở chứng từ giấy) chuyển dần sang phương thức xử lý bán tự động sử dụng chứng từ điện
tử, đến nay các giao dịch thanh toán được xử lý điện tử chiếm tỷ trọng khá lớn. Thời gian
xử lý hoàn tất một giao dịch được rút ngắn từ hàng tuần trước đây, nay chỉ còn vài phút
(đối với các khoản thanh toán khác hệ thống, khác địa bàn), chỉ trong vòng vài giây hoặc
tức thời (đối với các khoản thanh toán trong cùng hệ thống, hoặc cùng địa bàn);
- Dịch vụ tài khoản cá nhân của hệ thống ngân hàng thương mại phát triển khá nhanh.
Số lượng tài khoản cá nhân trong toàn hệ thống ngân hàng cuối năm 2004 tăng gần 10 lần

so với năm 2000 (từ 135 nghìn tài khoản lên tới 1 triệu 297 nghìn tài khoản).
Số lượng tài khoản cá nhân đến cuối năm 2004 là 2 triệu; năm 2005 đã tăng lên 5 triệu
tài khoản với số dư khoảng 20.000 tỷ đồng. Tốc độ tăng trung bình mỗi năm khoảng
150% về số tài khoản và 120% về số dư. Có được kết quả như trên là do nhiều yếu tố tác
động như: môi trường pháp lý trong lĩnh vực thanh toán ngân hàng có những thay đổi
theo hướng phù hợp hơn, mạng lưới điểm giao dịch phục vụ khách hàng của các ngân
hàng được mở rộng, thanh toán điện tử liên ngân hàng được triển khai có hiệu quả,...
Nhưng có một số lý do chính trực tiếp thúc đẩy sự gia tăng tài khoản cá nhân trong thời
gian qua, đó là: các ngân hàng thương mại đã có nhiều nỗ lực trong quá trình phát triển
cơ sở hạ tầng kỹ thuật nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thanh toán của khách hàng;
chú trọng phát
triển đa dạng và phong phú các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại, đặc biệt là các
dịch vụ ngân hàng bán lẻ với những ứng dụng công nghệ tin học tiên tiến; bắt đầu quan
tâm đến công tác tiếp thị, tuyên truyền quảng cáo, khuyến mãi cho các sản phẩm dịch vụ
của mình khi đưa ra thị trường. Một số ngân hàng còn chủ động tiếp cận với các doanh
nghiệp có đông nhân viên với mức thu nhập ổn định để thực hiện dịch vụ trả lương qua
tài khoản ngân hàng;
- Đối tượng tham gia cung ứng dịch vụ thanh toán không còn giới hạn ở các ngân
hàng, Kho bạc Nhà nước mà còn có cả các tổ chức khác không phải ngân hàng như Công
ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện. Thị trường dịch vụ thanh toán trở nên cạnh tranh hơn,
không chỉ giữa các ngân hàng mà còn giữa ngân hàng và các tổ chức không phải ngân
hàng làm dịch vụ thanh toán. Mỗi một mô hình tổ chức có những đặc trưng riêng, lợi thế
riêng và chiến lược khách hàng riêng, theo đó mà các nhu cầu khác nhau của từng loại
đối tượng khách hàng được đáp ứng;
- Ứng dụng công nghệ và đầu tư trang thiết bị hạ tầng cơ sở phục vụ cho các dịch vụ
thanh toán ngân hàng đặc biệt phát triển mạnh kể từ 2002. Số lượng máy giao dịch tự
động ATM, các thiết bị POS và mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ ngân hàng phát triển
nhanh. Đến tháng 6 năm 2006, lượng ATM tại hệ thống ngân hàng là 2.154 máy (so với
101 máy năm 2002), số lượng đơn vị chấp nhận thẻ khoảng 12.000 (so với 8.789 đơn
vị chấp nhận thẻ năm 2003);



- Xu hướng liên doanh liên kết giữa các ngân hàng đã hình thành, giúp cho nhiều ngân
hàng thương mại nhỏ vượt qua những hạn chế về vốn đầu tư vào công nghệ và trang thiết
bị phục vụ cho hệ thống thanh toán. Việc liên doanh liên kết trong phát hành và
thanh toán thẻ trở thành một yếu tố không nhỏ góp phần vào sự tăng trưởng lượng thẻ
phát hành ra lưu thông gần đây.
Một số kết quả đạt được
* Về phát hành thẻ: Thẻ ngân hàng tiếp tục là phương tiện thanh toán đa dụng, tiện ích,
được các ngân hàng thương mại (NHTM) chú trọng phát triển, có tốc độ phát triển nhanh
chóng. Tính đến cuối tháng 03/2013, đã có 52 tổ chức đăng ký phát hành thẻ, số lượng
thẻ được phát hành của 48 tổ chức đạt trên 57,1 triệu thẻ (tăng 38,5% so với cuối năm
2011) với khoảng 378 thương hiệu thẻ, trong đó hầu hết là thẻ ghi nợ (chiếm 93,6%), thẻ
tín dụng (chiếm 3,1%); tỷ lệ sử dụng thẻ ngân hàng so với các phương tiện TTKDTM
khác đang có xu hướng tăng lên. Dịch vụ thẻ ngân hàng phát triển đã giúp NHTM có
thêm kênh huy động vốn và phát triển thêm các dịch vụ giá trị gia tăng với nhiều tiện ích
khác nhau cung cấp cho khách hàng.
Bên cạnh việc phát triển số lượng thẻ, các NHTM ngày càng quan tâm đến việc cải
thiện chất lượng dịch vụ bằng việc tăng khả năng thanh toán cho chủ thẻ thông qua phát
hành thẻ thanh toán đồng thương hiệu và đa ứng dụng có liên kết với các tổ chức khác,
như trường học, hãng taxi, hãng hàng không…; chú trọng tăng độ an toàn, bảo mật của
thẻ thanh toán như ứng dụng công nghệ Chip trong hoạt động phát hành và thanh toán
thẻ, như phát hành và chấp nhận thanh toán thẻ chip chuẩn EMV.
* Cơ sở hạ tầng phục vụ cho thanh toán thẻ tiếp tục được đầu tư và cải thiện: Đến cuối
tháng 3/2013, có 46 NHTM đã trang bị máy ATM/POS với số lượng trên 14.300 ATM và
hơn 101.400 POS. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã chỉ đạo các công ty chuyển mạch,
các ngân hàng phát hành thẻ hoàn thành kết nối liên thông hệ thống ATM trên phạm vi
toàn quốc, qua đó thẻ của một ngân hàng đã có thể sử dụng để rút tiền tại hầu hết ATM
của các ngân hàng khác. Để thực sự phát huy tác dụng làm giảm tiền mặt trong việc sử
dụng thẻ, NHNN đã chỉ đạo triển khai kết nối liên thông mạng lưới POS và phát triển

thanh toán thẻ qua POS. Đến cuối năm 2012, về cơ bản hoàn thành kết nối về kỹ thuật
trên toàn quốc, với trên 76.000 POS của trên 720 chi nhánh tổ chức tín dụng và 20.600
đơn vị chấp nhận thẻ đã được kết nối liên thông; số lượng và giá trị thanh toán qua POS
tiếp tục tăng nhanh, đạt mức gần 21 triệu giao dịch và 95.000 tỷ đồng; nhận thức về thanh
toán thẻ qua POS đã có sự chuyển biến tích cực ở các địa phương, việc sử dụng thẻ thanh
toán qua POS đang dần trở nên phổ biến ở các thành phố lớn; nhận thức chung của xã hội
về TTKDTM đang thay đổi, xu hướng thanh toán bằng thẻ của dân cư cũng bắt đầu gia
tăng. Một số đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT) đã có những nhận thức tích cực về lắp đặt
và chấp nhận thanh toán thẻ qua POS.
Trong vài năm gần đây, hoạt động thanh toán thẻ tại thị trường Việt Nam phát triển
ngày càng mạnh, nhờ sự phát triển nhanh chóng của Công nghệ thông tin, ứng dụng công
nghệ mới trong các hoạt động Ngân hàng và sự chuyển hướng tập trung của các Ngân
hàng vào lĩnh vực bán lẻ.


Các số liệu thống kê cho thấy thanh toán qua thẻ đang ngày càng gia tăng thể hiện qua
số lượng thẻ phát hành, giá trị giao dịch qua thẻ và cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động
thanh toán thẻ đều tăng mạnh.
Nếu quí 3-2012 chỉ có 4,95 triệu giao dịch được thực hiện thông qua các loại thẻ với
tổng giá trị 17.730 tỉ đồng, thì hai con số này đã có mức tăng trưởng là 33% và 57%
trong quí 3-2013, đạt 6,57 triệu giao dịch với tổng giá trị là 27.890 tỉ đồng.
Số lượng thẻ phát hành của các ngân hàng trong nước kể cả thẻ thanh toán nội địa và
quốc tế đều tăng. Đến cuối quý 3/2013, tổng số thẻ thanh toán nội địa (thẻ ATM) đã được
phát hành trên cả nước là 57,23 triệu thẻ và số thẻ thanh toán quốc tế (thẻ tín dụng và ghi
nợ quốc tế) được phát hành tại Việt Nam là 5,7 triệu thẻ;
Về cơ sở hạ tầng phục vụ thanh toán thẻ: đến quý III/2013, cả nước có 14.584 máy
ATM và 119.158 thiết bị chấp nhận thẻ; tăng 664 ATM và 29.201 POS so với cùng kỳ
năm trước.
Giá trị trung bình cho một giao dịch thông qua thiết bị chấp nhận thẻ cũng tăng dần
trong ba quí đầu năm. Cụ thể, giá trị giao dịch trung bình/một giao dịch là 4,79 triệu đồng

trong quí 1, quí 2 là 5,24 triệu đồng, và 5,85 triệu đồng trong quí 3.
Tuy nhiên, xét trên tổng thể, tổng giá trị giao dịch qua thiết bị chấp nhận thẻ của người
dân trên cả nước là 36.134 tỉ đồng trong quí 3, thấp hơn nhiều so với tổng giao dịch
246.000 tỉ đồng qua máy ATM trong cùng thời điểm.


3. RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ CỦA NGÂN HÀNG:
3. 1 KHÁI NIỆM.
Trong thuật ngữ tài chính, rủi ro là khả năng mất mát tài chính của ngân hàng. Rủi
ro gắn liền với bất cứ hoạt động tài chính nào và cũng như bản thân các giao dịch tài
chính đó cần được quản lý một cách đúng mực. Các ngân hàng có thể phải đối mặt với
các tổn thất lớn nếu không quản lý chặt chẽ các rủi ro.
Rủi ro trong hoạt động thẻ là các tổn thất về vật chất hoặc phi vật chất có liên quan
tới hoạt động kinh doanh thẻ, bao gồm hoạt động phát hành và hoạt động thanh toán thẻ.
Đối tượng chịu rủi ro là ngân hàng, chủ thẻ hoặc ĐVCNT.
3.2 CÁC LOẠI RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Ở những góc độ khác nhau thì người ta phân rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ
thành những loại khác nhau. Cụ thể là:
3.2.1 Xem xét từ góc độ vĩ mô
- Rủi ro do môi trường pháp lý:
Trong hoạt động kinh doanh thẻ, quá trình thực hiện giao dịch đôi khi có liên quan đến
các chủ thẻ nước ngoài, do vậy có một số vấn đề không những bị điều chỉnh bởi luật pháp
trong nước mà còn bị điều chỉnh bởi luât pháp nước ngoài, thông lệ quốc tế. Nếu các chủ
thẻ không nắm bắt được các nội dung, qui phạm pháp luật sẽ dẫn đến rủi ro.
-Rủi ro do tình hình kinh tế thay đổi:
Sự phát triển của lĩnh vực kinh doanh thẻ cũng như các lĩnh vực khác phụ
thuộc chủ yếu vào sự phát triển của nền kinh tế. Khi nền kinh tế thay đổi, cụ thể là các cơ
chế, chính sách như thuế thu nhập, thuế nhập khẩu,… sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu chi tiêu
hoặc du lịch, cũng như khả năng hoàn trả của chủ thẻ. Bên cạnh đó còn ảnh hưởng đến

hiệu quả của việc đầu tư, đổi mới trang thiết bị ngành thẻ của các ngân hàng.
- Rủi ro do tình hình chính trị thay đổi
Hệ thống chính trị xảy ra biến cố sẽ tác động đến nền kinh tế, dẫn đến khả năng xảy
ra rủi ro, đặc biệt trong quan hệ với nước ngoài hoặc các tổ chức quốc tế. Bất cứ một lệnh
cấm vận nào có hiệu lực thực hiện với nước có liên quan đều ảnh hưởng và có thể gây
nên tổn thất. Nguyên nhân gây nên rủi ro này là do tình hình chính trị trên thế giới biến
động làm ảnh hưởng đến các chính sách kinh tế trong nước, làm ảnh hưởng đến mối quan
hệ của các ngân hàng với nhau và với chủ thẻ.
3.2.2 Đứng trên góc độ của Ngân hàng thương mại:
Rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ có những loại sau:
– Rủi ro về môi trường chính trị, kinh tế, xã hội:
Sự phát triển của hoạt động thẻ cũng giống như các hoạt động kinh tế khác phụ thuộc
chủ yếu vào sự phát triển của nền kinh tế. Bởi phát triển kinh tế gắn liền mới tiền tệ ổn
định và thu nhập của dân cư tăng lên…Tuy nhiên tốc độ phát triển của nền kinh tế, đặc


điểm nền kinh tế đem lại những rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh thẻ. Chu kỳ
suy thoái của nền kinh tế,tình trạng bất ổn, biến động về lạm phát, ngân sách, giá cả cũng
là những nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói
chung và dịch vụ thẻ nói riêng.
Môi trường chính trị ổn định , an toàn cũng là điều kiện thuận lợi để phát triển dịch vụ
tài chính ngân hàng nói chung và hoạt động thẻ nói riêng. Ngược lại, sự bất ổn về chính
trị trong nước sẽ đe dọa làm song du lịch và đầu tư trong và ngoài nước, từ đó ảnh hưởng
đến việc kinh doanh các loại thẻ quốc tế.
Ngoài ra, tâm lý, thói quen của người tiêu dung cũng là một thách thức lớn, tiềm ẩn
những rủi ro cho dịch vụ thẻ. Thói quen sử dụng tiền mặt của người tiêu dung và thói
quen chỉ chấp nhận thanh toán bằng tiền mặt của các đơn vị kinh doanh dẫn đến khó
khăn trong kinh doanh thẻ.Và đôi khi nhiều chiến lược kinh doanh thẻ đi đến phá sản do
không tìm được người tiêu dùng cũng như khó khăn trong việc lập ra hệ thống các điểm
bán hàng chấp nhận các loại thẻ này.

– Rủi ro về môi trường pháp lý:
Trong hoạt động kinh doanh, các yếu tố pháp lý có tác động đến hoạt động kinh doanh
bao gồm: hệ thống pháp luật, hệ thống các biện pháp bảo đảm cho pháp luật được thực
thi và sự chấp hành pháp luật của các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh,các ngành
có liên quan.Hoạt động kinh doanh luôn chịu tác động của 3 yếu tố trên.Các yếu tố này
có quan hệ đan xen và tác động đến các hoạt động kinh doanh một cách tổng thẻ chứ
không riêng rẽ.
Môi trường pháp lý không ổn định, thiếu đồng bộ sẽ khó khăn cho công tác quản lý rủi
ro, đồng thời tạo điều kiện cho bọn tôi phạm thẻ hoành hành , gây thiệt hại cho các bên
liên quan trong quá trình phat hành, thanh toán và sử dụng thẻ.
– Rủi ro tín dụng:
Là rủi ro liên quan đến việc không có khả năng trả nợ của những chủ thẻ( đối với sản
phẩm thẻ tín dụng hoặc thấu chi thẻ ghi nợ), đối với hình thức cấp hạn mức dựa trên việc
đánh giá uy tín, thu nhập, khả năng trả nợ của khách hàng mà không cần bất kỳ tài sản
đảm bảo nào. Đây là loại rủi ro cơ bàn và thường xuyên xảy ra trong hoạt động kinh
doanh của các NHTM. Chúng luôn tiềm ẩn trong suốt quá trình trước, trong và sau khi
phát hành thẻ tín dụng mà biểu hiện ra bên ngoài là: món vay thẻ tín dụng không thu hồi
được, nợ quá hạn, nợ khó đòi…
– Rủi ro hoạt động:
Đây là mảng rủi ro đặc thù và có tiềm năng lớn nhất của dịch vụ thẻ do nghiệp vụ thẻ
diễn ra tương đối phức tạp,đòi hỏi nhiều đối tượng tham gia và liên quan đến công nghệ
hiện đại, tinh vi, có tính toàn cầu. Rủi ro hoạt động bao gồm :


– Rủi ro do cán bộ nhân viên ngân hàng:
+ Thực hiện các nghiệp vụ vượt quá thẩm quyền cho phép hoặc không đúng chức năng
nhiệm vụ được giao hoặc lợi dụng quyền hạn của mình cố tình thực hiện các giao dịch
gian lận thẻ nhằm chiếm đoạt tiền của ngân hàng, của khách hàng;
+ Năng lực trình độ nghiệp vụ không đáp ứng yêu cầu công việc dẫn đến thực hiện sai
qui trình nghiệp vụ, gây sai sót, nhầm lẫn trong quá trình xử lý gây thiệt hại cho ngân

hàng;
+ Đã chuyển khỏi đơn vị, thay đổi nhiệm vụ công tác nhưng không bàn giao lại mã
truy cập và mật khẩu truy cập hệ thống cho người kế nhiệm hoặc người có trách nhiệm.
+ Phát tán thông tin khách hàng, dữ liệu giao dịch thẻ cho các cá nhân, tổ chức tội
phạm sử dụng thực hiện các giao dịch gian lận.
+ Cán bộ vi phạm qui định về bảo mật, an toàn thông tin như cho mượn mã truy cập,
để lộ mật khẩu, mã truy cập để người khác lợi dụng.
+ Cán bộ không được giao đúng quyền hạn, phạm vi làm việc được phép hoặc được
phân công quyền hạn thực hiện nhiều khâu trong qui trình nghiệp vụ, không có kiểm tra
chéo dẫn đến lợi dụng quyền hạn thực hiện các giao dịch gian lận.
+ Hướng dẫn khách hàng không đầy đủ, không rõ ràng và cụ thể các qui định, qui trình
nghiệp vụ về sản phẩm, dịch vụ thanh toán thẻ có liên quan dẫn tới việc khách hàng
không tuân thủ những qui định của ngân hàng, gây ra rủi ro cho khách hàng, cho ngân
hàng.
– Rủi ro do qui định, qui trình chưa phù hợp
+ Qui định, qui trình chưa đúng với cơ chế, chính sách hiện hành.
+ Qui định, qui trình, hợp đồng, thỏa thuận và các văn bản khác có giá trị như hợp
đồng, thỏa thuận có điểm, có điều khoản bất cập, chưa hoàn chỉnh, không chặt chẽ,
không rõ ràng… tạo ra các kẽ hở cho khách hàng hoặc cán bộ ngân hàng lợi dụng hoặc từ
chối thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm liên quan dẫn đến thiệt hại vật chất, uy tín cho ngân
hàng.
+ Qui định, qui trình chưa phù hợp, chưa rõ ràng dẫn đến khó khăn cho cán bộ nghiệp
vụ hoặc làm giảm tốc độ xử lý công việc trong quá trình thực hiện nghiệp vụ.
– Rủi ro từ hệ thống công nghệ thông tin:
+ Hệ thống công ngệ thông tin liên quan đến dịch vụ thẻ bao gồm: Hệ thống máy chủ,
hệ thống thiết bị đầu cuối (máy thanh toán thẻ EDC,ATM,…), đường truyền thông, phần


mềm xử lý thẻ không tương thích, không đồng bộ, lạc hậu, không đáp ứng yêu cầu phát
triển sản phẩm, dịch vụ thẻ, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh thẻ;

+ Sự cố, trục trặc, hỏng hóc hoặc bị ngừng trệ làm gián đoạn hoạt động của hệ thống,
ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ thẻ, giảm doanh số thanh toán và sử dụng thẻ.
+ Hệ thống không đáp ứng yêu cầu bảo mật, an ninh mạng theo qui định, chuẩn mực
của ngành dịch vụ thẻ, các tổ chức thẻ nội địa và quốc tế, của ngân hàng nhà nước dẫn
đến rủi ro bị lộ thông tin hoặc bị đánh cắp thông tin ảnh hưởng đến uy tín và thiệt hại tài
chính cho ngân hàng.
– Rủi ro từ phía khách hàng:
Chủ thẻ không thực hiện đúng qui định của ngân hàng về quản lý và sử dụng thẻ, số
PIN trong quá trình sử dụng thẻ như cho người khác mượn thẻ, để lộ thông tin về thẻ,
PIN, để mất cắp, thất lạc thẻ… dẫn đến bị các đối tượng gian lận lợi dụng.
Nguyên nhân gây nên rủi ro này là do người dân chưa quen với việc sử dụng thẻ, chưa
có ý thức cảnh giác với bọn gian lận, chưa tự bảo vệ thông tin thẻ. Ngoài ra còn có thể do
thói quen tin người nên bị kẻ gian lợi dụng. Khi chủ thẻ gặp rủi ro sẽ liên quan trực tiếp
đến ngân hàng.
– Rủi ro do bên thứ ba:
Bên thứ ba là các nhà cung cấp, các đối tác được NHTM thuê hoặc hợp tác với NHTM
cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh thẻ. Trong hoạt động kinh doanh
thẻ, cũng có những rủi ro như sau:
+ Bên thứ ba đột ngột không thể tiếp tục cung cấp dịch vụ hỗ trợ, bảo trì,… theo hợp
đồng đã ký kết với ngân hàng làm ảnh hưởng đến hệ thống, hoặc hệ thống ngừng hay
không hoạt động bình thường.
+ Đối tác cung cấp vật tư, thiết bị phục vụ cho hoạt động kinh doanh thẻ của ngân
hàng không đảm bảo đúng chất lượng, yêu cầu kỹ thuật và tiến độ giao hàng,… dẫn đến
việc gián đoạn hoạt động kinh doanh thẻ, ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ và uy tín của
ngân hàng.
+ Nhân viên của bên thứ ba do năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp yếu kém,
xử lý khắc phục sự cố kéo dài hoặc gây sai sót nhầm lẫn dẫn đến thiệt hại tài chính cho
ngân hàng. Hoặc tiết lộ thông tin liên quan đến hệ thống, cơ sở dữ liệu, tài khoản khách
hàng,… mà không có sự chấp thuận bằng văn bản của ngân hàng gây ra tổn thất cho ngân
hàng.

+ Bên thứ ba từ chối trách nhiệm khắc phục hậu quả sau khi xảy ra sự cố, sai sót phát
sinh do lỗi của nhân viên hoặc bên thứ ba gây ra.


×