Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Tiểu luận môn nghiệp vụ ngân hàng thương mại tái cấu trúc trong mối quan hệ với hiệu quả nghiên cứu quá trình tái cấu trúc tại các NHTM việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.26 KB, 40 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
-----------

Đề tài môn Nghiệp Vụ Ngân hàng Thương Mại

TÁI CẤU TRÚC TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI HIỆU QUẢ
NGHIÊN CỨU QUÁ TRÌNH TÁI CƠ CẤU TẠI CÁC NHTM
VIỆT NAM
GV:
Thực hiện:

Cô Trần Thị Xuân Hương
Nhóm 9

Thành viên:

Bùi Thị Thủy Dương
Lê Thị Khá
Lê Mi Na
Đào Mỹ Loan
Trương Nhân Nghĩa

TP.Hồ Chí Minh – Năm 2016


I. LÝ THUYẾT VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thông thường được đo lường bằng khả năng
sinh lợi. Các nghiên cứu về hiệu quả hoạt động hay khả năng sinh lợi của ngân hàng cơ
bản dựa trên hai lý thuyết: lý thuyết quyền lực thị trường (MP – Market power) và lý
thuyết cấu trúc hiệu quả (ES – Efficient Structure).


Lý thuyết MP có hai hướng tiếp cận chính: lý thuyết Cấu trúc – Hành vi- Hiệu quả
(SCP – Structure –Conduct- performance) và lý thuyết quyền lực thị trường tương đối
(RMP – Relative Market Power). Lý thuyết SCP cho rằng, cấu trúc của thị trường quyết
định hành vi của công ty, và rằng hành vi quyết định kết quả trên thị trường, chẳng hạn
như khả năng sinh lợi, tiến bộ về kỹ thuật và tăng trưởng. Đặc biệt nhiều ngành có sự tập
trung cao tạo ra những hành vi dẫn đến kết quả kinh tế nghèo nàn, đặc biệt là làm giảm
sản lượng và hình thành giá cả độc quyền (Bain, 1951). Lập luận theo lý thuyết SCB, thị
trường ngân hàng càng tập trung thì lãi suất cho vay càng cao và lãi suất huy động càng
thấp vì mức độ cạnh tranh bị giảm đi.Trong khi đó, lý thuyết RMP gợi ý rằng, các công ty
có thị phần lớn và các sản phẩm khác biệt có thể thực hiện quyền lực thị trường và kiểm
lợi nhuận không cạnh tranh (Berger, 1995a).Chẳng hạn một số ngân hàng lớn với ưu thế
thương hiệu và chất lượng sản phẩm của mình có thể tăng giá sản phẩm, dịch vụ và thu
được nhiều lợi nhuận hơn.
Ngược lại lý thuyết ES cho rằng, mối quan hệ giữa cấu trúc thị trường và hiệu suất
công ty, hay nói cách khác, hiệu suất của công ty tạo nên cấu trúc thị trường. Theo đó các
ngân hàng đạt lợi nhuận cao hơn là do chúng hoạt động hiệu quả hơn (Olweny và Shipho,
2011). Lý thuyết ES thường được đề suất theo hai hướng tiếp cận khác nhau, tùy thuộc
vào loại hiệu suất được xem xét. Ở hướng tiếp cận theo hiệu quả X (X – Efficiency), các
công ty hiệu quả hơn thường đạt được lợi nhuận cao và thị phần lớn hơn, bởi vì họ có khả
năng giảm thiểu chi phí sản xuất ở bất kỳ sản lượng đầu ra nào. Đối với hướng tiếp cận
hiệu quả theo quy mô, mối quan hệ được mô tả ở trên được giải thích dựa trên quy mô.
Các ngân hàng lớn hơn có chi phí sản xuất thấp hơn, nhờ đó lợi nhuận cao hơn là nhờ vào
tính kinh tế theo quy mô.
Bên cạnh 2 lý thuyết trên, lý thuyết về danh mục đầu từ cân bằng cũng đã được sử
dụng để cung cấp cái nhìn sâu sắc hơn trong việc nghiên cứu về khả năng sinh lợi của
ngân hàng (Nzogang và Atemnkeng, 2006). Lý thuyết này cho rằng, nhà đầu tư có thể tối
thiểu hóa rủi ro thị trường cho một mức lợi nhuận kỳ vọng thông qua việc tạo ra danh
mục đầu tư đa dạng hóa. Theo đó, việc đa dạng hóa danh mục đầu tư và các thành phần
danh mục đầu tư mong muốn của các NHTM là kết quả của các quyết định của ban quản
trị ngân hàng.

Như vậy có thể thấy lý thuyết MP cho rằng , khả năng sinh lợi của ngân hàng là
một hàm theo các yếu tố thị trường , trong khi lý thuyết ES và lý thuyết danh mục đầu tư
lại cho rằng hiệu quả của ngân hàng chịu ảnh hưởng của hiệu quả nội bộ, và các quyết
định quản trị, tức các yếu tố bên trong.Như vậy hiệu quả kinh doanh của ngân hàng chịu
tác động của nhiều yếu tố bên trong và bên ngồi. Và trên thực tế đã có nhiều nhà nghiên
cứu đã sử dụng các lý thuyết trên để đo lường các yếu tố tác động đến hiệu quả kinh
doanh của ngân hàng.Tuy nhiên, khơng có một lý thuyết nào có thể liệt kê đầy đủ cả yếu


tố bên trong và bên ngồi đó để giải thích cho sự thay đổi về hiệu quả kinh doanh của
ngân hàng thương mại.
Các yếu tố bên trong dựa trên nền tảng khung phân tích CAMELS và bộ chỉ số
lành mạnh tài chính theo mẫu IMF.
• Khung phân tích CAMELS:
Hiện nay việc phân tích tình hình hoạt động và rủi ro của một ngân hàng thường
được thực hiện bằng khung phân tích CAMELS. CAMELS đã được áp dụng từ những
năm 1970, là hệ thống xếp hạng, giám sát tình hình ngân hàng của Mỹ bao gồm 6 yếu tố:
Mức độ an toàn vốn (Capital Adequacy), Chất lượng tài sản có (Asset Quality), Quản lý
(Management), khả năng sinh lợi (Earning), thanh khoản (Liquidity), mức độ nhạy cảm
với rủi ro thị trường (Sensitivity to Market risk). CAMELS được Ủy ban giám sát ngân
hàng BASEL và Qũy tiền tệ quốc tế (IMF) đề xuất sử dụng.
• Bợ Chỉ sớ lành mạnh tài chính theo chuẩn IMF (FSIs):
Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam bộ Chỉ số lành mạnh tài chính do IMF xây
dựng và ban hành nhằm giúp lành mạnh hóa hệ thống tài chính, cũng như cảnh báo sớm
những nguy cơ, rủi ro có thể xảy ra cho hệ thông tài chính của các quốc gia thành viên.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁI CẤU TRÚC HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI
2.1 Khái niệm tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại
Theo Ngân hàng Thế giới (WB, 1998), tái cấu trúc ngân hàng bao gồm một loạt
các biện pháp được phối hợp chặt chẽ nhằm duy trì hệ thống thanh tốn quốc gia và khả

năng tiếp cận các dịch vụ tín dụng, đồng thời xử lý các vấn đề còn tồn tại trong hệ thống
tài chính là nguyên nhân gây ra khủng hoảng.
Theo Claudia Dziobek và Ceyla Pazarbasioglu, tái cấu trúc ngân hàng là biện
pháp hướng tới mục tiêu nâng cao hiệu suất hoạt động của ngân hàng, bao gồm phục hồi
khả năng thanh toán và khả năng sinh lời, cải thiện năng lực hoạt động của toàn hệ
thống ngân hàng để làm trịn trách nhiệm của một trung gian tài chính và khơi phục lịng
tin của cơng chúng. Theo quan điểm này thì tái cấu trúc ngân hàng bao gồm tái cấu trúc
tài chính (financial restructuring), tái cấu trúc hoạt động (operational restructuring) và
giám sát an tồn. Trong đó, tái cấu trúc tài chính hướng đến việc phục hồi khả năng thanh
khoản bằng cách cải thiện bảng cân đối của các ngân hàng thông qua các biện pháp như
tăng vốn, giảm nợ, hoặc nâng giá trị tài sản. Tái cấu trúc hoạt động hướng đến mục tiêu
nâng mức lợi nhuận bằng cách chú trọng hơn đến chiến lược hoạt động, cải thiện hiệu
quả và năng lực quản lý và hệ thống kế tốn, nâng cao năng lực thẩm định tín dụng. Việc
giám sát và các quy tắc an toàn được đặt ra nhằm mục tiêu cải thiện năng lực hoạt động
của toàn bộ hệ thống ngân hàng dưới vai trò là trung gian tài chính.
Từ những khái niệm trên, có thể khái quát, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương
mại là thực hiện các biện pháp nhằm khắc phục các khiếm khuyết của hệ thống ngân
hàng thương mại nhằm mục đích duy trì sự phát triển ổn định (bền vững, an tồn) và hiệu
quả chức năng trung gian tài chính của hệ thống ngân hàng thương mại trong nền kinh tế,
đặc biệt là chức năng thanh tốn và trung gian tín dụng, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt
động của các NHTM.
2.2. Đặc điểm tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại


Một là, tính quyết liệt trong của cơng cuộc tái cấu: Hoạt động của NHTM có tầm
ảnh hưởng rộng khắp và lan truyền, chính vì vậy khi hệ thống ngân hàng yếu kém sẽ kéo
theo sự suy yếu của tất cả các lĩnh vực khác. Chỉ cần một ngân hàng đổ vỡ, nguy cơ đổ
vỡ toàn hệ thống rất lớn, và lan truyền rộng khắp còn gọi là hiện tượng Domino. Chính vì
vậy tái cơ cấu hệ thống NHTM địi hỏi phải thực hiện một cách quyết liệt.
Hai là, tái cơ cấu hệ thống NHTM là chương trình mang tầm cỡ quốc gia: Như

trên đã đề cập về tầm ảnh hưởng của hệ hống NHTM đối với nền kinh tế xã hội của một
quốc gia, vì vậy tái cơ cấu hệ thống ngân hàng không chỉ liên quan đến riêng ngành ngân
hàng mà còn liên quan đến nhiều lĩnh vực khác. Nếu chỉ để riêng hệ thống ngân hàng tái
cấu trúc thì sẽ khơng đạt mục tiêu đề ra. Như vậy, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng phải
đảm bảo có sự tham gia, phối hợp tích cực, hiệu quả của nhiều cơ quan quản lý nhà nước.
2.3. Lý do tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại
Lý do thứ nhất để thực hiện tái cấu trúc hệ thống NHTM khi hệ thống ngân hàng
phát sinh những vấn đề bất ổn và có nguy cơ đẩy hệ thống NHTM rơi vào khủng hoảng
kéo theo nguy cơ khủng hoảng kinh tế - xã hội hoặc một ngân hàng lớn bị rơi vào khủng
hoảng có nguy cơ lan rộng ra tồn hệ thống. Trong trường hợp này tái cấu trúc hệ thống
ngân hàng là nhằm hồi sinh hệ thống NHTM. Những dấu hiệu cho thấy hệ thống NHTM
có bất ổn trầm trọng cần phải thực hiện tái cấu trúc nhằm hồi sinh:
+ Khủng hoảng kinh tế kéo dài, môi trường kinh doanh của ngân hàng xấu đi dẫn
đến các mặt hoạt động của ngân hàng kém hiệu quả, nợ xấu gia tăng, tỷ lệ an toàn vốn
giảm sút. Khi nợ xấu trong hệ thống ngân hàng tăng cao, nguy cơ mất vốn của ngân hàng
ngày càng lớn. Hệ thống NHTM có nguy cơ mất thanh khoản, rủi ro vỡ nợ ngày càng
lớn, hệ thống ngân hàng suy yếu, đe dọa sự bất ổn cho cả nền kinh tế, xã hội của một
quốc gia, thậm chí cả khu vực.Trong bối cảnh đó niềm tin của các chủ thể trong nền kinh
tế xã hội và hệ thống ngân hàng giảm sút và ảnh hưởng ngược lại cho chính các ngân
hàng. Vịng xốy đó ngày càng lan rộng, hướng giải quyết duy nhất là tái cấu trúc hệ
thống NHTM.
+ Khuôn khổ giám sát và quản lý yếu: Khi khn khổ giám sát của chính phủ,
ngân hàng trung ương chưa hoàn thiện, nhiều khe hở. Khuôn khổ giám sát kém cộng
thêm với cạnh tranh gay gắt giữa các NHTM và sự quản lý yếu kém trong chính từng
NHTM dẫn đến sự bùng phát những bất ổn trong cả hệ thống. Đây cũng chính là lý do để
tái cấu trúc hệ thống NHTM.
Lý do thứ hai để thực hiện tái cấu trúc hệ thống NHTM là nhằm mục đích duy trì
sự phát triển ổn định, hiệu quả chức năng trung gian tài chính của hệ thống NHTM.
+ Khi nền kinh tế phát triển sẽ đòi hỏi hệ thống NHTM phải thay đổi để thích ứng,
đảm bảo các mặt hoạt động có hiệu quả. Sự thay đổi trong điều kiện này phải theo

ngun lý vịng xốy ốc dẫn đến, do vậy cần thiết phải tái cấu trúc hệ thống NHTM cho
mục tiêu phát triển.
+Việc tái cấu trúc khơng chỉ thực hiện khi hệ thống NHTM trong tình trạng khủng
hoảng với mục tiêu hồi sinh, mà việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng cịn là cơng việc
thường xuyên ngay cả khi hệ thống NHTM đang hoạt động bình thường hay hoạt động
tốt hướng tới mục tiêu phát triển. Tái cấu trúc hệ thống NHTM nếu được xem là công


việc thường xuyên sẽ tránh gây những hậu quả xấu cho hệ thống ngân hàng và nền kinh
tế, giảm thiểu được chi phí cho việc tái cấu trúc.
Như vậy lý do để tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là:
(i)
Hồi sinh hệ thống NHTM yếu kém;
(ii)
Duy trì sự phát triển ổn định và hiệu quả của hệ thống
2.4 Nội dung tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại
2.4.1. Tái cấu trúc tài chính
Nội dung trọng tâm của tái cấu trúc tài chính một NHTM là xử lý nợ xấu, tăng quy
mơ và chất lượng vốn tự có cho các NHTM.
+ Xử lý nợ xấu
Một trong những nội dung cần thiết trong tiến trình tái cấu trúc tài chính
NHTM là phải xác định, nắm chính xác con số nợ tồn đọng của các ngân hàng được tái
cấu trúc là bao nhiêu, trên cơsở đó để có các bước xử lý có hiệu quả. Để xử lý nợ xấu
có thể áp dụng các biện pháp như: cấu trúc lại nợ, xử lý tài sản đảm bảo, bán cho công ty
mua bán nợ, chuyển nợ thành vốn góp, ...
+ Tăng quy mơ và chất lượng vốn tự có của các NHTM. Ngân hàng là loại hình
kinh doanh đặc biệt – kinh doanh ở lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, vốn tự có chỉ chiếm tỷ
trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn kinh doanh nhưng vốn tự có có ý nghĩa rất lớn đối với sự
tồn tại và phát triển của NHTM vì nó không chỉ là yếu tố tạo nền tảng cho hoạt động của
ngân hàng, bảo bảo đảm sự an toàn cho ngân hàng trước những rủi ro khơng lường trước

mà cịn duy trì niềm tin với khách hàng và điều chỉnh hoạt động của ngân hàng, cụ thể:
o Tạo nền tảng cho hoạt động của NHTM: Vốn tự có là nguồn vốn dài hạn để đầu tư cho
văn phòng, thiết bị, cơng nghệ. Mặt khác nó cịn là nguồn vốn để góp vốn, mua cổ phần
của các cơng ty khác hoặc thành lập các công ty trực thuộc (cho thuê tài chính, bảo hiểm,
cơng ty chứng khốn, …).
o Bảo đảm sự an tồn cho NHTM: Vốn tự có là nguồn bù đắp các tổn thất khi có rủi ro
trong cho vay và đầu tư; kinh doanh ngoại tệ, chứng khoán; rủi ro hoạt động,… mà
khơng có nguồn bù đắp. Vì vậy, mặc dù không thể thay thế cho việc quản trị điều hành
kém hiệu quả nhưng vốn tự có của ngân hàng cần thiết như là “tấm đệm”, tăng khả năng
của ngân hàng trong việc chống đỡ những rủi ro không dự tính trước được.
o Duy trì niềm tin và điều chỉnh hoạt động của NHTM: Vốn tự có một mặt tạo niềm tin đối
với khách hàng, mặt khác là yếu tố điều chỉnh chính sách của ngân hàng như cho vay,
đầu tư, các trạng thái kinh doanh của ngân hàng.
2.4.2 Tái cấu trúc hoạt động kinh doanh:
Cùng với việc làm sạch và tái cấu trúc Bảng cân đối kếtoán theo hướng lành
mạnh, các NHTM cần phải triển khai các giải pháp củng cố, chấn chỉnh lại hoạt
động nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng và đáp ứng các chuẩn mực theo
thông lệquốc tế. Tái cấu trúc hoạt động của các NHTM bao gồm các nội dung chính:
+ Thứ nhất, tái cấu trúc về sản phẩm, dịch vụ của NHTM:
Sản phẩm dịch vụ ngân hàng bao hàm toàn bộ các hoạt động mà ngân hàng cung ứng
cho khách hàng liên quan đến hoạt động tiền tệ, tín dụng, thanh tốn,… thơng qua các
kênh phân phối khác nhau nhằm thỏa mãn mọi nhu cầu dịch vụ tài chính của khách hàng
mà pháp luật cho phép.


Danh mục sản phẩm dịch vụ của ngân hàng càng đa dạng, càng thỏa mãn
nhiều nhu cầu của khách hàng, dễdàng thu hút khách hàng, tăng doanh thu, giúp ngân
hàng phát triển ổn định, bền vững. Chính vì vậy, các NHTM cần phải:
- Tập trung củng cố, phát triển các hoạt động kinh doanh chính, loại bỏ các lĩnh
vực kinh doanh rủi ro, kém hiệu quảvà từng bước chuyển dịch mơ hình kinh doanh của

các NHTM theo hướng giảm bớt sựphụthuộc vào hoạt động tín dụng và tăng nguồn thu
nhập từ hoạt động dịch vụphi tín dụng.
- Tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng truyền thống và nghiên cứu,
triển khai, phát triển nhanh các dịch vụngân hàng hiện đại (dịch vụthanh toán điện tử,
ngoại hối, đầu tư, quản lý tài sản, quản lý rủi ro cho khách hàng,…), đáp ứng những nhu
cầu khác nhau của khách hàng.
- Mở rộng phạm vi và quy mô hoạt động ngân hàng ở khu vực có tiềm năng phát
triển và giảm các chi nhánh, điểm giao dịch hoạt động kém hiệu quả.
+ Thứ hai, tái cấu trúc về nhân sự
Nguồn nhân lực ở bất cứ ngân hàng nào là lợi thế so sánh quan trọng vì chính
con người là yếu tố“động nhất” trong mọi quá trình sản xuất. Nguồn nhân lực của NHTM
được đánh giá thông qua hai chỉ tiêu cơ bản là số lượng lao động và chất lượng nguồn
nhân lực.
- Số lượng lao động: là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh nguồn nhân lực của một
NHTM. Nếu số lượng lao động hợp lý ở mỗi chi nhánh, mỗi điểm giao dịch thì sẽ tạo
điều kiện thuận lợi để mở rộng các hoạt động kinh doanh cho các chi nhánh và toàn bộ
hệ thống NHTM.
- Chất lượng nguồn nhân lực: chất lượng nguồn nhân lực của một ngân hàng được
đánh giá qua các chỉ tiêu: trình độ học vấn; trình độ ngoại ngữ; trình độ tin học; các kỹ
năng mềm như giao tiếp, thuyết trình, năng lực giải quyết các vấn đề phát sinh, tinh thần
trách nhiệm, sự nhiệt tình, đạo đức nghề nghiệp, kinh nghiệm chuyên môn. Chất lượng
nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng góp phần trong q trình chực hiện việc nâng cao
năng lực tài chính của NHTM. Nguồn nhân lực đồng đều và chất lượng sẽgiúp triển khai
các hoạt động kinh doanh nhanh chóng và hiệu quả, ngăn ngừa, hạn chế được các rủi ro
trong hoạt động về quy trình, nghiệp vụ và pháp lý. Vì vậy, khơng những trong lĩnh vực
tài chính mà hầu hết các lĩnh vực trong nền kinh tế đều xem chất lượng nhân sự là yếu tố
quyết định. Đặc biệt, bộ máy quản trị ngân hàng cấp cao lại càng phải có chất lượng vì
đây là bộ phận “đầu não” trong việc xây dựng, hoạch định và giám sát thực thi các
chiến lược ở cả hệ thống NHTM.
+ Thứ ba, tái cấu trúc về cơng nghệ

Cơng nghệ đóng vai trị rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt là trong
thời kỳ hội nhập, sự cạnh tranh khốc liệt của các ngân hàng mạnh trên thế giới. Theo quy
luật, ngân hàng yếu sẽ bị thất bại, ngân hàng mạnh sẽ giành thế chủ động trên thịtrường.
Hiện đại hố cơng nghệ ngân hàng bao gồm:
- Hiện đại về trang thiết bị, máy móc - Đây là những yếu tố cốt lõi để tạo ra các
sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tiện ích và an tồn - Hiện nay bên cạnh các nghiệp vụ
truyển thống các ngân hàng muốn thu hút khách hàng cần phải đa dạng hố các loại hình
dịch vụ. Dịch vụ ngân hàng trong giai đoạn hiện nay chủ yếu là dịch vụ ứng dụng công


nghệ. Nếu khơng hiện đại hố cơng nghệ chắc chắn sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng sẽ
không được nâng cấp và rơi vào tình trạng lạc hậu. Chẳng hạn, các loại thẻ thanh tốn
phải có tính đa năng, tiện ích và an tồn. Đểcó được những tính năng quan trọng đó địi
hỏi NHTM phải đầu tư vào cơng nghệ.
- Hiện đại hố cơng nghệ cịn thể hiện ở các quy trình làm việc trong hệ
thống ngân hàng. Giao dịch một cửa; bộ máy làm việc tách rời nhưng cùng hệ
thống, … Tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng, giảm chi phí nhân lực cho ngân hàng.
- Hệ thống kiểm tra, giám sát, theo dõi thông tin về khách hàng, hệ thống kế tốn,
… của NHTM địi hỏi phải có sựchuẩn xác và hợp lý. Giúp cho các NHTM chủ động
trong việc dự báo, phòng ngừa và hạn chế rủi ro.
Ngân hàng thuộc lĩnh vực cung ứng dịch vụtài chính, hầu hết các mảng hoạt động
của khu vực ngân hàng đều gắn liền với việc tiếp nhận và xử lý thơng tin. Việc ứng dụng
cơng nghệ thơng tin có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển bền vững và có hiệu quả
của từng ngân hàng nói riêng và hệ thống ngân hàng nói chung. Do đó, hiện đại hố cơng
nghệ ngân hàng là một nội dung tất yếu trong lộ trình tái cấu trúc các NHTM bởi khơng
thể tách rời cơ cấu nội dung khác với công nghệ ngân hàng.
+ Thứ tư, hồn thiện mơ hình tổ chức hoạt động
Thông thường cơcấu tổchức hoạt động của các NHTM trước khi tái cấu trúc
thường mang tính chồng chéo và thiếu khoa học dẫn đến việc điều hành cũng như thực
hiện các hoạt động trong hệ thống ngân hàng không có hiệu quả. Bởi vậy, khi tái cấu trúc

NHTM, nội dung về hồn thiện mơ hình tổ chức hoạt động ngân hàng được xem như một
tất yếu.
Các nội dung cơ bản khi tiến hành tái cấu trúc tổ chức và quản lý NHTM:
- Rà soát và tái cấu trúc bộ máy tổ chức sao cho vừa tinh gọn vừa đảm bảo thực
hiện hoạt động của ngân hàng được tiến hành thơng suốt, hiệu quả, phịng ngừa rủi ro
hữu hiệu.
- Phân tách giữa chức năng điều hành và chức năng giám sát để đảm bảo sự kiểm
tra toàn diện và cân bằng về nguồn lực.
2.4.3 Tái cấu trúc hệ thống quản trị:
Các NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt với đặc thù là tổchức kinh doanh “tiền”
nên có độrủi ro cao và mức độ ảnh hưởng lớn đối với hệthống tài chính và tốn bộ nền
kinh tế. Chính vì vậy, quản trị cơng ty đối với NHTM càng có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng.
Vấn đề quản trị công ty đối với hoạt động của các NHTM đã được Ủy ban
Basel ban hành năm 1999, sửa đổi năm 2006, bao gồm 14 nguyên tắc cơ bản và chia
thành sáu nhóm:
+ Bốn nguyên tắc đầu tiên quy định rõ trách nhiệm chung, trình độnăng lực,
thông lệ và cơ cấu riêng của Hội đồng quản trị cũng như cấu trúc công ty.
+ Nguyên tắc thứ 5 quy định ban điều hành phải đảm bảo tất cả các hoạt động
của công ty phải phù hợp với chiến lược kinh doanh, mức độ chấp nhận và chính sách
rủi ro đã được Hội đồng quản trị phê duyệt.
+ Các nguyên tắc từ 6 đến 9 yêu cầu doanh nghiệp phải thiết lập các hệ thống
kiểm soát nội bộvà quản trị rủi ro hiệu quả. Các rủi ro cần phải được phát hiện, theo dõi


trên phạm vi toàn hệ thống, và cụ thể cho từng bộ phận kinh doanh. Doanh nghiệp cần có
mạnh lưới truyền thông nội bộ đối với các rủi ro, Hội đồng quản trị và ban điều hành
phải sử dụng kết quả làm việc của bộ phận kiểm toán nội bộ và kiểm tốn bên ngồi một
cách có hiệu quả.
+ Ngun tắc 10 và 11 quy định về chế độ đãi ngộ. Hội đồng quản trị phải chủ

động giám sát việc thiết lập và thực thi chế độ đãi ngộ, chính sách đãi ngộphải gắn liền
với quan điểm chấp nhận rủi ro một cách thận trọng.
+ Nguyên tắc 12 và 13 quy định Hội đồng quản trị và Ban điều hành tại các
cơng ty có cơ cấu phức tạp phải nắm vững cơcấu hoạt động và rủi ro mà công ty phải đối
mặt, phải hiểu rõ và tìm biện pháp phân tán rủi ro phát sinh.
+ Nguyên tắc 14 quy định quản trịngân hàng phải đảm bảo tính cơng khai và
minh bạch đối với cổ đông và các bên liên quan đến ngân hàng.
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới ln biến động khó lường thì quản trị cơng ty
nói chung và quản trị NHTM càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Chính vì vậy, một trong
những trọng tâm của quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam là nâng cao
năng lực quản trị công ty của các ngân hàng, cải thiện và hướng tới chuẩn mực quốc tế về
quản trị công ty, đảm bảo an tồn, tăng cường tính minh bạch, từ đó nâng cao năng lực
cạnh tranh và phát triển bền vững.
2.4.4 Tái cấu trúc sở hữu
Sở hữu là quan hệ cơ bản, quan hệ xuất phát trong quan hệ sản xuất. Khi phân
tích đặc trưng của mọi phương thức sản xuất người ta phải chỉrõ vai trò quy định của các
quan hệ sở hữu đó với các quan hệ sản xuất và đối với tồn bộ các mặt của xã hội nói
chung. Bản chất của sở hữu là lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế. Nếu khơng có lợi ích thì
bản thân sở hữu sẽ khơng có ý nghĩa. Sở hữu khơng có ý nghĩa tựthân mà là phương tiện
đểcon người thơng qua nó mà thực hiện lợi ích của mình.
Với tư cách là quan hệ chi phối lao động, sở hữu đồng thời quy định cả phương
thức
hoạt động của các chủ thể ở mọi lĩnh vực sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng.
Trong lĩnh vực ngân hàng, sở hữu quyết định chức năng, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động
và việc tuân thủ quy định pháp luật của từng loại hình NHTM.
Theo hình thức sở hữu, có thể phân chia các NHTM thành những nhóm sau:
+ Ngân hàng thuộc sở hữu tư nhân
Là ngân hàng do cá thể thành lập bằng vốn của cá nhân. Loại ngân hàng này
thường nhỏ, phạm vi hoạt động thường là trong từng địa phương và thường gắn liền với
doanh nghiệp và cá nhân ở địa phương.

+ Ngân hàng thuộc sở hữu của các cổ đông (Ngân hàng thương mại cổ phần)
Ngân hàng này được thành lập thông qua phát hành cổphiếu, việc nắm giữ các cổphiếu
cho phép người sở hữu có quyền tham gia quyết định các hoạt động của ngân hàng, tham
gia chia cổtức từthu nhập của ngân hàng đồng thời phải chịu tổn thất có thểxảy ra. Các
ngân hàng cổphần có khảnăng huy động vốn nhanh, quy mơ lớn, vì vậy các NHTMCP
thường là các ngân hàng lớn và có phạm vi hoạt động rộng, đa năng, có nhiều chi nhánh
hoặc công ty con.
+ Ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước


Đây là loại hình ngân hàng mà vốn sở hữu do nhà nước cấp. Các ngân hàng này
thường được thành lập nhằm thực hiện một sốmục tiêu nhất định của chính phủ. Các
NHTM thuộc sở hữu cơng thường được nhà nước hỗ trợ về tài chính và bảo lãnh phát
hành giấy nợ, do vậy rất ít khi bịphá sản. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, các ngân
hàng này phải thực hiện các chính sách của nhà nước có thể dẫn đến những bất lợi trong
hoạt động kinh doanh của mình.
+ Ngân hàng liên doanh
Ngân hàng này được hình thành trên góp vốn của hai hay nhiều bên, thường là
giữa ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài để tận dụng lợi thế của nhau.
Hiện nay sự chuyển biến về sở hữu trong ngành ngân hàng gắn chặt với quá trình cải
cách hệ thống ngân hàng. Ở hầu hết các quốc gia, q trình này diễn ra theo các hướng
chính là tư nhân hóa, quốc hữu hóa hay sáp nhập, mua lại và cổ phần hóa. Việc thay đổi
cấu trúc sở hữu sẽ hỗ trợ nguồn vốn cho hoạt động đầu tư, hoạt động kinh doanh, tạo
điều kiện trao đổi kinh nghiệm, nguồn nhân lực, tài chính, cơng nghệ giữa các đối
tác, giúp các ngân hàng tăng vốn đáp ứng theo u cầu của Chính phủ từ đó góp phần
nâng cao khả năng cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển hiệu quả, bền vững cho hệ thống
này. Xu hướng chung tại các quốc gia, việc sắp xếp lại hệ thống ngân hàng
thương mại là quá trình thay đổi cấu trúc sở hữu theo xu hướng giảm dần tỷ lệ sở hữu
nhà nước, tăng dần tỷ lệ sở hữu trong lĩnh vực này cho các thành phần kinh tế khác. Một
trong những chuyển biến tích cực là các quốc gia chú trọng thu hút vốn đầu tư nước

ngoài thâm nhập vào lĩnh vực ngân hàng.
2.5 Đề án tái cơ cấu các tổ chức tín dụng
Đề án tái cấu trúc các tổ chức tín dụng giai đoạn năm 2011 – 2015 (ban hành kèm
theo quyết định số 254/QĐ-TTG ngày 01/03/2012 của Thủ tướng chính phủ
2.5.1. Mục tiêu:
Trong giai đoạn 2011 - 2015, tập trung lành mạnh hóa tình trạng tài chính và củng
cố năng lực hoạt động của các tổ chức tín dụng; cải thiện mức độ an toàn và hiệu quả
hoạt động của các tổ chức tín dụng; nâng cao trật tự, kỷ cương và nguyên tắc thị trường
trong hoạt động ngân hàng. Phấn đấu đến cuối năm 2015 hình thành được ít nhất 01 - 02
ngân hàng thương mại có quy mơ và trình độ tương đương với các ngân hàng trong khu
vực.
2.5.2 Quan điểm:
Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng và từng tổ chức tín dụng là một quá trình
thường xuyên, liên tục.
Củng cố, phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng đa dạng về sở hữu, quy mơ và
loại hình phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay
Khuyến khích việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại các tổ chức tín dụng theo nguyên
tắc tự nguyện, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và các quyền, nghĩa vụ kinh tế của
các bên có liên quan theo quy định của pháp luật.
Thực hiện cơ cấu lại tồn diện về tài chính, hoạt động, quản trị của các tổ chức tín
dụng theo các hình thức, biện pháp và lộ trình thích hợp.


Khơng để xảy ra đổ vỡ và mất an tồn hoạt động ngân hàng ngồi tầm kiểm sốt
của Nhà nước.
2.5.3 Giải pháp chung:
Cơ cấu lại tài chính:

Xử lý nợ xấu:

Bán nợ xấu có tài sản bảo đảm cho Cơng ty Mua bán nợ và Tài sản tồn đọng doanh
nghiệp (DATC) hoặc cho các doanh nghiệp khơng phải tổ chức tín dụng, công ty mua bán
nợ tư nhân và công ty mua bán nợ của các ngân hàng thương mại.
+ Xóa nợ bằng nguồn dự phòng rủi ro; xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Chuyển
nợ thành vốn góp, cổ phần của doanh nghiệp vay; xóa nợ bằng nguồn vốn ngân sách nhà
nước.
+ Chính phủ xem xét mua lại các bất động sản thế chấp vay ngân hàng sắp hoàn
thành hoặc đã hoàn thành nhưng chưa bán được để phục vụ cho mục đích an sinh xã hội
và hoạt động của các cơ quan nhà nước.
• Tăng quy mơ và chất lượng vốn tự có của NHTM: Bảo đảm mức vốn tự có khơng
thấp hơn mức theo quy định của pháp luật và đáp ứng đầy đủ tỷ lệ an toàn tối thiểu
theo quy định của pháp luật thông qua:
+ Tăng vốn điều lệ bằng phát hành cổ phiếu bổ sung, tăng vốn góp từ các cổ đơng,
thành viên góp vốn hiện hành và các nhà đầu tư trong nước, ngồi nước; + Chuyển nợ
thành vốn góp, cổ phần của TCTD được cơ cấu lại.
Đến cuối năm 2015, TCTD phải đạt mức vốn tự có đủ để bù đắp rủi ro tín dụng, rủi
ro thị trường và rủi ro tác nghiệp theo quy định của Basel II.
Cơ cấu lại hoạt động:
• Tập trung củng cố, phát triển các hoạt động kinh doanh chính và loại bỏ các lĩnh
vực kinh doanh rủi ro, kém hiệu quả.
• Tập trung tín dụng ngân hàng vào các ngành, lĩnh vực thuộc 3 khâu đột phá chiến
lược trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 và ưu tiên
vốn tín dụng cho sản xuất, phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu,
công nghiệp phụ trợ, sản xuất - chế biến, doanh nghiệp nhỏ và vừa.
• Từng bước chuyển dịch mơ hình kinh doanh của các ngân hàng thương mại theo
hướng giảm bớt sự phụ thuộc vào hoạt động tín dụng và tăng nguồn thu nhập từ
hoạt động dịch vụ phi tín dụng.
• Đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng, trong đó tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ
ngân hàng truyền thống và phát triển nhanh các dịch vụ ngân hàng hiện đại (dịch
vụ thanh toán, ngoại hối, đầu tư, quản lý tài sản, quản lý rủi ro cho khách hàng,

…).
• Phát triển nhanh dịch vụ thanh tốn một cách an tồn, hiệu quả, đặc biệt là các sản
phẩm, dịch vụ thẻ thanh toán trên cơ sở đẩy mạnh hiện đại hóa cơng nghệ, hệ
thống thanh tốn và tăng các tiện ích thẻ thanh tốn, điểm chấp nhận thẻ.
• Mở rộng phạm vi và quy mô hoạt động ngân hàng ở khu vực nông thôn; phát triển
mạng lưới chi nhánh, điểm giao dịch tại các khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng
xa; giảm các chi nhánh, điểm giao dịch hoạt động kém hiệu quả;
-




Nâng cao tính ổn định và bền vững khả năng chi trả của các TCTD: Tăng mức độ
ổn định nguồn vốn theo hướng tăng tỷ trọng nguồn huy động có kỳ hạn dài; cải
thiện sự cân đối, hợp lý về kỳ hạn và đồng tiền giữa nguồn vốn và sử dụng vốn;
từng bước giảm tỷ lệ dư nợ tín dụng so với huy động vốn và đến cuối năm 2015
đạt mức bình qn tồn hệ thống khơng q 85%.
Cơ cấu lại hệ thống quản trị:
Củng cố và đổi mới hệ thống quản trị ngân hàng phù hợp hơn các thông lệ chuẩn mực
quốc tế:
• Tăng tính minh bạch hóa hoạt động ngân hàng thông qua việc áp dụng cơ chế mới
về cơng bố thơng tin của các TCTD.
• Niêm yết cổ phiếu các ngân hàng thương mại cổ phần trên thị trường chứng
khốn.
• Tăng tính đại chúng của ngân hàng thương mại cổ phần và tăng số lượng các nhà
đầu tư, cổ đơng trong các đợt tăng vốn điều lệ.
• Các tập đồn kinh tế, tổng cơng ty nhà nước là cổ đơng hoặc có vốn góp tại các
TCTD phải có kế hoạch hợp lý thối vốn đầu tư và chấm dứt kinh doanh trong
lĩnh vực ngân hàng.
• Hạn chế sự chi phối, thao túng của cổ đông lớn đối với ngân hàng thương mại cổ

phần; kiên quyết xử lý đối với các cổ đơng lớn, người có liên quan vi phạm quy
định về giới hạn sở hữu cổ phần tại ngân hàng thương mại cổ phần và các TCTD
sở hữu vốn chéo lẫn nhau. Cổ đông, nhà đầu tư, tổ chức tín dụng vi phạm quy định
về góp vốn, mua, sở hữu vốn, cổphần phải được xử lý theo quy định của pháp luật.
Trường hợp tổ chức tín dụng mua lại cổ phiếu, vốn góp của tổ chức tín dụng cơ
cấu lại theo chỉ định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam dẫn đến vượt quá giới
hạn quy định sẽ được xử lý trong thời hạn chậm nhất là 5 năm kể từ khi thực hiện.
• Nâng cao các điều kiện, tiêu chuẩn về năng lực quản trị, kinh nghiệm cơng tác và
trình độ chun mơn đối với các chức danh lãnh đạo, quản lý chủ chốt của các
TCTD (Chủ tịch hội đồng quản trị/hội đồng thành viên, Tổng Giám đốc/Giám đốc,
Thành viên hội đồng quản trị/hội đồng thành viên,…).
• Xây dựng kế hoạch, chiến lược kinh doanh mới.
• Triển khai các quy trình, chính sách kinh doanh nội bộ lành mạnh; Áp dụng có
hiệu quả cao các phương thức quản trị, điều hành tiên tiến phù hợp với thông lệ,
chuẩn mực quốc tế và quy định của pháp luật.
• Phát triển các hệ thống quản trịrủi ro phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực của
Ủy ban Basel, trong đó tập trung vào các hệ thống quản trị rủi ro thanh khoản, rủi
ro tín dụng, rủi ro thịtrường (giá cả, lãi suất, tỷ giá) và rủi ro tác nghiệp; phát triển
các hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ; thực hiện phân loại nợ, trích lập dự phịng
rủi ro phù hợp với thông lệ quốc tế và mức độ rủi ro tín dụng; nâng cao năng lực
đánh giá, thẩm định tín dụng và quản lý, giám sát rủi ro tín dụng của TCTD.
• Đổi mới và nâng cao hiệu quả hệthống kiểm sốt, kiểm tốn nội bộ.
• Cơ cấu, sắp xếp lại các bộ phận chức năng kinh doanh, quản trị, điều hành; sắp
xếp, bố trí hợp lý cán bộ và phát triển đội ngũ cán bộ quản lý và kinh doanh ngân
hàng có trình độ cao, ý thức trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp tốt.




Hiện đại hóa hệ thống cơng nghệ; Phát triển hệ thống thông tin quản lý nội bộ, hạ

tầng công nghệ thơng tin và hệthống thanh tốn nội bộ của các ngân hàng thương
mại; Nâng cấp hệ thống ngân hàng lõi phù hợp với quy mô, mức độ phức tạp hoạt
động và yêu cầu quản trị, điều hành của TCTD.
2.5.4.Giải pháp cụ thể:
Đối với ngân hàng thương mại Nhà nước:
• Tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước
• Tăng nhanh quy mơ và năng lực tài chính thơng qua: phát hành cổ phiếu bổ sung
và nguồn vốn từ Chính phủ; Mua lại, sáp nhập tổ chức tín dụng; Mở rộng nguồn
vốn huy động.
• Nâng cao chất lượng tài sản, kiểm sốt chất lượng tín dụng và giảm tỷ lệ nợ xấu
dưới 3%.
• Đổi mới hệ thống quản trị ngân hàng: hiện đại hóa hệ thống quản trị rủi ro, nâng
cao hiệu quả hệ thống kiểm sốt, kiểm tốn nội bộ.
• Hiện đại hóa hệ thống công nghệ để phát triển dịch vụ ngân hàng mới và nâng cao
chất lượng dịch vụ ngân hàng, hỗ trợ quản trị ngân hàng.
• Tiếp tục mở rộng mạng lưới chi nhánh, điểm giao dịch; ưu tiên khu vực nông
thôn; tích cực gia nhập thị trường tài chính quốc tế và khu vực.
• Tiến hành rà sốt, củng cố các hoạt động kinh doanh chính; cơ cấu lại triệt để các
cơng ty con; từng bước thối vốn đầu tư ngồi ngành.
• Đa dạng hóa các phương thức huy động vốn; đến năm 2015 giảm tỷ lệ dư nợ tín
dụng so với vốn huy động về mức khơng q 90%.
• Phát triển đội ngũ cán bộ.
Đối với các NHTM cổ phần khác:
• NHTM lành mạnh: tự củng cố, chấn chỉnh hoạt động và nâng cao năng lực cạnh
tranh; Mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động; Tham gia xử lý các ngân hàng yếu
kém và thiếu hụt thanh khoản
• NHTM thiếu thanh khoản tạm thời: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tái cấp vốn để
đảm bảo thanh khoản; giám sát chặt chẽ tình hình tài chính và hoạt động; khuyến
khích sáp nhập và hợp nhất
• NHTM yếu kém: NHNNVN tái cấp vốn để đảm bảo thanh khoản; kiểm soát đặc

biệt khi cần thiết. Sáp nhập, hợp nhất và mua lại các NHTM yếu kém.
2.5.5.Lộ trình thực hiện:
- Giai đoạn 2011 – 2012:

Đánh giá, xác định thực trạng hoạt động, chất lượng tài sản và nợ xấu của
các tổ chức tín dụng;

Tiến hành đánh giá và phân loại tổ chức tín dụng;

Xây dựng và triển khai phương án cơ cấu lại tổ chức tín dụng yếu kém và
tổ chức tín dụng khác;

Tập trung hỗ trợ thanh khoản để bảo đảm khả năng chi trả của các tổ chức
tín dụng; thương mại nhà nước (trừ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn Việt Nam);




Triển khai sáp nhập, hợp nhất, mua lại tổ chức tín dụng; * Tăng vốn điều lệ
và xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng; * Cơ cấu lại hoạt động và hệ thống quản
trị.
Kết quả dự kiến: Khả năng chi trả của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng về cơ bản được
bảo đảm, đồng thời xác định, kiểm sốt được tình hình của tổ chức tín dụng yếu kém để
làm cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp cơ cấu lại ở giai đoạn sau.
Giai đoạn 2013:
• Hồn thành sửa đổi, bổ sung các quy định an tồn hoạt động ngân hàng;
• Tiếp tục triển khai lành mạnh hóa tài chính của các tổ chức tín dụng, bao gồm xử
lý nợ xấu và tăng vốn điều lệ;
• Triển khai cơ cấu lại hoạt động và quản trị;

• Hồn thành căn bản cơ cấu lại sở hữu, pháp nhân của ngân hàng thương mại cổ
phần yếu kém;
• Hồn thành cơ cấu lại các cơng ty tài chính và cơng ty cho th tài chính.
Kết quả dự kiến: Nguy cơ đổ vỡ hệ thống các tổ chức tín dụng được loại bỏ. Các tổ chức
tín dụng yếu kém được xử lý về cơ bản. Kỷ cương, kỷ luật trong lĩnh vực ngân hàng được
lập lại và củng cố.
Giai đoạn 2014:
• Hồn thành căn bản cơ cấu lại tài chính của tổ chức tín dụng;
• Các tổ chức tín dụng đáp ứng đầy đủ mức vốn điều lệ thực và các chuẩn mực, giới
hạn an toàn hoạt động ngân hàng theo quy định pháp luật;
• Tiếp tục triển khai cơ cấu lại hoạt động và quản trị;
• Tiếp tục sáp nhập, hợp nhất, mua lại theo nguyên tắc tự nguyện.
Giai đoạn 2015: Hoàn thành cơ cấu lại hoạt động và quản trị.
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA TÁI CẤU TRÚC VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH NGÂN
HÀNG
Hiệu quả kinh doanh của ngân hàng chịu tác động của nhiều yếu tố bên trong và
bên ngoài. Và trên thực tế đã có nhiều nhà nghiên cứu đã sử dụng các lý thuyết về hiệu
quả ngân hàng để đo lường các yếu tố tác động đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
3.1 Một số paper đo lường các yếu tố bên trong tác động đến hiệu quả kinh doanh
của ngân hàng:
STT
Nội dung
1.
Tác giả: Claudia Dziobek & Ceyla Pazarbasioglu, IMF publication,
Lesson from
published April 1998
systemic bank
Trong những thập kỷ gần đây, nhiều quốc gia có kinh nghiệm trong
restructuring
các vấn đề ngân hàng địi hỏi một sự xem xét toàn bộ cả hệ thống

ngân hàng của họ. Thơng thường, các vấn đề có ngun nhân trong
nội địa nước đó như: sự giám sát ngân hàng yếu kém, sự can thiệp về
chính trị và do nguồn vốn không đủ. Hay hệ thống ngân hàng của
một quốc gia có thể đã khơng cịn hợp thời và đang cần thiết lập lại,
giống như trong trường hợp của nhiều quốc gia đang phát triển và tất
cả các quốc gia chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang


kinh tế thị trường. Các sức mạnh bên ngồi, ví dụ như sự rớt giá của
hàng hóa dịch vụ xuất khẩu chính, có thể kích thích hay góp phần
làm tệ hơn cuộc khủng hoảng.
Trong một cuộc khủng hoảng ngân hàng, những người gửi tiền,
những người vay tiền và các cổ đông (owners) của ngân hàng đều
mất niềm tin và họ đồng thời tìm cách đề thu hồi vốn của họ bằng
cách rút tiền ra. Một ngân hàng đơn lẻ có thể khơng thất bại với
những ảnh hưởng mang tính quốc gia, nhưng khi có liên quan đến
một lượng tiền gửi với quy mô mô lớn trong một hệ thống ngân hàng
quốc gia, vấn đề sẽ trở thành hệ thống và gây tê liệt cho nền kinh tế.
Chính phủ khơng có lựa chọn và phải hành động, và giải pháp có sẵn
trong khủng hoảng là thắt chặt và tiết kiệm hơn.
Các quốc gia sử dụng nhiều phương pháp để giải quyết khủng hoảng
ngân hàng, với những mức độ thành công khác nhau. Tác giả của bài
nghiên cứu đã phân tích kinh nghiệm của 24 quốc gia đi đầu trong
việc sửa đổi vào những năm 1980 và những năm đầu thập niên 90: 4
quốc gia công nghiệp, 15 quốc gia đang pháp triển và 5 quốc gia
trong quá trình chuyển đổi sang định hướng thị trường.
2.
The effect of
Mergers and
Acquisition on

Financial
Performance of
banks – A survey
of commercial
banks in Kenya

Tác giả: Gwaya Ondiaki Joash, MBA Student, Kenyatta University,
Kenya, July 2015
Tác động của M&A đến hiệu quả hoạt động tài chính (financial
performance) của các ngân hàng thương mại ở Kenya.
M&A thể hiện một vai trò quan trọng trong việc làm cho các cơng ty
có thể đạt được nhiều mục tiêu và chiến lược tài chính khác nhau. Ở
Kenya, các ngân hàng được sáp nhập với mục tiêu nâng cao năng lực
tài chính của họ. Nghiên cứu này thực hiện dựa trên các ngân hàng
mà có hoạt động sáp nhập hay mua lại ở Kenya trong giai đoạn từ
2000 – 2014. Mục đích của nghiên cứu này là phân tích liệu việc sáp
nhập có tác động lên hiệu quả hoạt động của ngân hàng không.
Nghiên cứu này được thực hiện bởi các mục tiêu sau: để xác định tác
động của M&A lên giá trị của cổ đông và để xác định mối liên hệ của
hoạt động M&A lên khả năng sinh lợi. Nghiên cứu này thống kê tất
cả 14 ngân hàng có hoạt động M&A trong giai đoạn từ 2000 – 2014.
Dữ liệu được thu thập bằng việc sử dụng bảng câu hỏi bao gồm câu
hỏi mở và đóng. Tác giả sử dụng phần mềm SPSS để phân tích các
dữ liệu thu thập được. Nghiên cứu tìm thấy rằng hoạt động M&A làm
gia tăng giá trị cổ đơng của các ngân hàng có hoạt động M&A ở
Kenya. Nghiên cứu cịn phát hiện ra lý do chính tại sao hầu hết các
ngân hàng có hoạt động M&A có thể gia tăng khả năng sinh lợi của
họ. Tác giả khuyến nghị rằng những nghiên cứu hoàn toàn khả thi
nên được thực hiện trước khi quá trình sáp nhập/ mua lại diễn ra. Cho
nghiên cứu xa hơn, việc tìm hiểu tác động của hoạt động sáp nhập/



3. Financial
liberalisation,
crisis, and
restructuring: A
comparative
study of bank
performance and
bank governance
in South East
Asia (Journal of
Banking &
Finance, Volume
29, Issues 8–9,
August–
September 2005,
Pages 2119–
2154)
4. Restructuring
strategy and
performance of
major
commercial bank
in kenya

mua lại trong các lĩnh vực khác của nền kinh tế nên được thiết lập với
một cái nhìn đồng thời với tác động của nó lên lĩnh vực ngân hàng.
Tác giả: Jonathan Williams
Bài báo đánh giá sự tác động của thay đổi trong quản trị ngân hàng

trong hoạt động ngân hàng cho 1 ví dụ về hoạt động các ngân hàng
thương mại ở Đông Nam Á giữa 1990 và 2003. Chúng tôi nhận thấy
rằng quản trị về mặc sở hữu ngân hàng và phạm vi hoạt động ngân
hàng như là vị trí thứ bậc xếp hạng hiệu quả lợi nhuận, thay đổi công
nghệ và năng suất. Giai đoạn được đặc trung bới sự bãi bỏ quy định
tài chính, Cuộc Khủng hoảng châu Á và các chương trình tái cấu trúc
ngân hàng. Để giải quyết tình cảnh khó khăn về tài chính, chính
quyền các nước đơng nam á thực thi chương trình cổ phần hóa liên
ngân hàng và sự gia nhập mở rộng cho chủ sở hữu nước ngoài. Kết
quả hướng tới hỗ trợ việc cổ phần hóa ngân hàng và bãi bỏ sở hữu
nhà nước trong toàn bộ nền kinh tế. Chúng tơi đề nghị lợi ích tiềm
năng cho chủ sở hữu nước ngồi có lẽ mất lâu hơn để nhận ra. Đối
với các ngân hàng tư nhân trong nước, sự thách thức là cải thiện hiệu
quả ngân hàng
Các tổ chức, tùy thuộc vào bản chất của các doanh nghiệp, cấu trúc
của chúng, và quy mô sử dụng các chiến lược khác nhau để đạt được
mức độ mong muốn của họ về sản lượng. Do đó, các tổ chức, doanh
nghiệp phải thực hiện các chiến lược đúng đắn mà họ đã xây dựng
với mức hiệu suất mong muốn phải đạt được. (Thompson và
Strickland, 2008) .Nhiệm vụ của một doanh nghiệp là nâng cao hiệu
quả và lợi nhuận, hầu hết các doanh nghiệp có xu hướng thực hiện
một chiến lược tái cơ cấu doanh nghiệp liên quan đến tái cấu trúc
hoặc tháo gỡ các khu vực hoặc các bộ phận trong tổ chức đó có ảnh
hưởng đến tình hình tài chính và năng lực kinh tế của cơng ty. Theo
Bowman et al (1999), hậu quả của tái cấu trúc có thể được khái niệm
về hiệu ứng trung gian mà có thể có kết quả tích cực hay tiêu cực và
những hiệu ứng trung gian có thể có một số tác động đến hoạt động
tài chính hoặc kinh tế giàu có của cơng ty. Tái cấu trúc là một giải
pháp vấn đề đương đại trong quản lý và dự đoán sự thay đổi
(Acharya, 2009). Mục đích của nghiên cứu này là để thiết lập mức độ

mà những nỗ lực tái cấu trúc khác nhau được thực hiện tại các ngân
hàng thương mại thực hiện trên ảnh hưởng đến hiệu suất của các
ngân hàng. Đối với một nghiên cứu như vậy được thực hiện dữ liệu
sơ cấp sẽ được sử dụng để xác định mức độ mà cơ cấu lại đã được
thực hiện bởi các ngân hàng thương mại. Như vậy câu hỏi đang được
quan tâm được gửi đến nhân viên của các ngân hàng được lựa chọn
để có được thơng tin này và phân tích bằng cách sử dụng của con
người và độ lệch chuẩn. Hiệu suất của các ngân hàng có nguồn gốc


từ dữ liệu thứ cấp là công bố báo cáo tài chính. Từ những lợi nhuận
bất thường có thể được tính tốn để xác định tác động của việc tái cơ
cấu về lợi nhuận của các ngân hàng. Điều này sau đó được theo sau
bởi ít thử nghiệm và kết quả sau đó được trình bày bằng
bảng. Nghiên cứu kết luận rằng cơ cấu lại các ngân hàng dẫn đến cải
thiện hiệu suất của các ngân hàng. Nghiên cứu này đã có một số hạn
chế như: số lượng hạn chế của người tham gia và một số người được
hỏi không đưa ra thơng tin được coi là bí mật dẫn đến người được hỏi
đưa ra thông tin không đáng tin cậy.Nghiên cứu này có nghĩa là có
một mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu và hiệu suất của các ngân
hàng. Đối với chuyển dịch cơ cấu là một thành cơng, quản lý cần
phải có những nhu cầu của người lao động và mối quan tâm trong
việc hoạch định và thực hiện chiến lược
3.2 Một số paper đo lường các yếu tố bên ngoài tác động đến hiệu quả kinh doanh
của ngân hàng:
1. Measuring the Tác giả: Nakhun Thoraneenitiyan & Necmi K. Avkiran
impact of
Bài báo này nghiên cứu mối quan hệ giữa tái cấu trúc ngân hàng sau
restructuring and khủng hoảng, những điều kiện quốc gia cụ thể và hiệu quả ngân hàng ở
country-specific

các nước châu Á từ năm 1997 đến 2001 bằng cách sử dụng một tiếp
factors on the
cận tích hợp dữ liệu phân tích sự phát triển và phân tích biến ngẫu
efficiency of
nhiên.
post-crisis East
Chúng tơi tập trung vào việc tái cấu trúc trong phạm vi liên quan đến
Asian banking
quyền sở hữu ngân hàng.
systems:
Những kết quả chỉ ra rằng mặc dù sáp nhập trong nước tạo ra nhiều
Integrating DEA ngân hàng hiệu quả hơn, nhìn chung, tái cấu trúc không dẫn dến nhiều
with SFA (Socio- hệ thống ngân hàng hiệu quả hơn.
Economic
Hệ thống ngân hàng thiếu hiệu quả phần lớn là do các điều kiện quốc
Planning
gia cụ thể, đặc biệt, lãi suất cao, tập trung thị trường và sự phát triển
Sciences, Volume kinh tế.
43, Issue 4,
December 2009,
Pages 240–252)
2. Exploring the
Tác giả: Sophocles N. Brissimis & Manthos D. Delis & Nikolaos I.
nexus between
Papanikolaou)
banking sector
Mục đích của nghiên cứu ngày là để xem xét mối quan hệ giữa cải
reform and
cách lĩnh vực ngân hàng và hoạt động ngân hàng – phạm vi hiệu quả,
performance:

tất cả yếu tố gia tăng năng suất và biên lãi suất ròng – xem xét sự ảnh
Evidence from
hưởng thông qua cạnh tranh và chấp nhận rủi ro ngân hàng. Để kết
newly acceded
thúc nghiên cứu này, chúng tôi phát triển một mơ hình theo kinh
EU countries
nghiệm của sự hoạt động ngân hàng, điều này được ước tính một cách
(Journal of
phù hợp bằng cảch sử dụng kỹ thuật kinh tế lượng mới.


Banking &
Finance, Volume
32, Issue 12,
December 2008,
Pages 2674–
2683)

Mơ hình được áp dụng dữ diệu bảng ngân hàng từ 10 quốc gia vừa
được gia nhập EU. Kết quả chỉ ra rằng cả cải cách lĩnh vực ngân hàng
và sự cạnh tranh dùng một sự tác động tích cực trong hiệu quả ngân
hàng, trong khi hiệu quả của sự cải cách trong tất cả các yếu tố tăng
trưởng năng suất đáng kể chỉ hướng tới kết thúc quá trình cải cách.
Cuối cùng, sự ảnh hưởng của vốn và rủi ro tín dụng trong hoạt động
ngân hàng là một trong những trường hợp tiêu cực trong khi nó có vẻ
rằng tài sản có tính thanh khoản cao hơn giảm sự hiệu quả và năng suất
của các ngân hàng.

3.4 M&A xu hướng các nước trên thế giới sử dụng trong quá trình tái cấu trúc ngân
hàng.

Hoạt động sáp nhập và mua lại ngân hàng M&A diễn ra từ lâu trên thế giới, nhất
là ở Mỹ trong giai đoạn 1966-2008. Năm thương vụ mua, bán ngân hàng lớn nhất thế giới
đã diễn trong vòng gần 10 năm nay như: Ngân hàng Barclays mua lại ABN AMRO với
giá 91 tỷ USD; Bank of America mua lại Merrill Lynch trong thương vụ trị giá 50 tỷ
USD. Ngân hàng MUFG (thuộc Mitsubishi UFJ Financial Group) mua lại UFJ Holdings
(UFJ); JP Morgan Chase mua BankOne với giá 58 tỷ USD; Bank of America mua lại
FleetBoston Financial với giá 48 tỷ USD...
3.4.1 Tác động tích cực của hoạt động M&A:

Động cơ chính thúc đẩy hoạt động sáp nhập và mua lại của các tổ chức tài chính là
để tối đa hóa tài sản của cổ đơng và tối đa hóa lợi ích của nhà quản lý.
STT
Nội dung
1.
Tác giả: Gwaya Ondiaki Joash, MBA Student, Kenyatta University,
The effect of
Kenya, July 2015
Mergers and
Tác động của M&A đến hiệu quả hoạt động tài chính (financial
Acquisition on
performance) của các ngân hàng thương mại ở Kenya.
Financial
M&A thể hiện một vai trò quan trọng trong việc làm cho các cơng ty
Performance of
có thể đạt được nhiều mục tiêu và chiến lược tài chính khác nhau. Ở
banks – A survey Kenya, các ngân hàng được sáp nhập với mục tiêu nâng cao năng lực
of commercial
tài chính của họ. Nghiên cứu này thực hiện dựa trên các ngân hàng
banks in Kenya
mà có hoạt động sáp nhập hay mua lại ở Kenya trong giai đoạn từ

2000 – 2014. Mục đích của nghiên cứu này là phân tích liệu việc sáp
nhập có tác động lên hiệu quả hoạt động của ngân hàng không.
Nghiên cứu này được thực hiện bởi các mục tiêu sau: để xác định tác
động của M&A lên giá trị của cổ đông và để xác định mối liên hệ của
hoạt động M&A lên khả năng sinh lợi. Nghiên cứu này thống kê tất
cả 14 ngân hàng có hoạt động M&A trong giai đoạn từ 2000 – 2014.
Dữ liệu được thu thập bằng việc sử dụng bảng câu hỏi bao gồm câu
hỏi mở và đóng. Tác giả sử dụng phần mềm SPSS để phân tích các
dữ liệu thu thập được. Nghiên cứu tìm thấy rằng hoạt động M&A làm
gia tăng giá trị cổ đơng của các ngân hàng có hoạt động M&A ở
Kenya. Nghiên cứu còn phát hiện ra lý do chính tại sao hầu hết các


ngân hàng có hoạt động M&A có thể gia tăng khả năng sinh lợi của
họ. Tác giả khuyến nghị rằng những nghiên cứu hoàn toàn khả thi
nên được thực hiện trước khi quá trình sáp nhập/ mua lại diễn ra. Cho
nghiên cứu xa hơn, việc tìm hiểu tác động của hoạt động sáp nhập/
mua lại trong các lĩnh vực khác của nền kinh tế nên được thiết lập với
một cái nhìn đồng thời với tác động của nó lên lĩnh vực ngân hàng.
2. The safety and Tác giả: Jens Hagendorff, Maria J. Nieto, and Larry D. Wall,
soundness Effects Working Paper 2012-13, Federal Reserve bank of Atlanta
of bank M&A in Bài này nghiên cứu tác động của M&A ngân hàng Châu Âu dựa trên
the EU
sự thay đổi mức độ an toàn và danh tiếng của cả ngân hàng mua lại
và ngân hàng mục tiêu. Các tác giả nhận thấy vốn hóa, khả năng tạo
ra lợi nhuận và thanh khoản cho thấy những dấu hiệu của sự trở lại
có ý nghĩa kinh tế thống kê đối với các ngân hàng mua lại. Các ngân
hàng mua lại trong những thương vụ xuyên quốc gia có xu hướng
hoạt động tốt hơn khi những người giám sát và hệ thống bảo hiểm
tiền gửi của quốc gia họ nghiêm khắc hơn so với quốc gia của ngân

hàng mục tiêu. Đối với những ngân hàng mục tiêu, sự giám sát chặt
chẽ hơn và chế độ bảo hiểm tiền gửi khó khăn hơn có xu hướng thay
đổi tích cực hơn sau khi sáp nhập về mặt thanh khoản và hiệu quả
hoạt động.
3. The impact of Tác giả: Said Gattoufi (Oman), Saeed Al-Muharrami (Oman), Aiman
mergers and
Al-Kiyumi (Oman), Banks and Bank Systems, Volume 4, Issue 4,
acquisitions on
2009
the efficiency of
Bài nghiên cứu cung cấp một đánh giá thực nghiệm của sự hợp nhất
GCC banks
ngân hàng ở các quốc gia GCC (Gulf Cooperation Council). Phương
pháp DEA được sử dụng để tìm ra tác động của M&A lên hiệu quả
mang tính kỹ thuật của các ngân hàng liên quan đến sự hợp nhất.
Nghiên cứu xem xét 42 ngân hàng thương mại giai đoạn 2003 –
2007, 10 trong số đó có liên quan đến hoạt động M&A trong suốt giai
đoạn nghiên cứu. Bằng việc so sánh hiệu quả hoạt động của 10 ngân
hàng này với toàn bộ mẫu các ngân hàng và với các ngân hàng khơng
có hoạt động M&A trong thời gian này, một kết luận có ý nghĩa đã
được rút ra. Kết luận chính là, mặc dù bị giới hạn, có một tác động
tích cực của M&A lên hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương
mại.
3.4.2 Tác động tiêu cực của hoạt động M&A:

STT
1. Do Mergers
and Acquisitions
Vacillate the
Banks

Performance?

Nội dung
Tác giả: Muhammad IrfanShakoor, Muhammad ZulqarnainAsab,
Waseem Ahmed Khan; Research Journal of Finance and Accounting,
Vol.5, No.6, 2014
Ngày nay nền kinh tế Pakistan đang đối mặt với những vấn đề về tài
chính, an ninh và chính trị làm ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng kinh


(Evidence from
Pakistan Banking
Sector)

tế của quốc gia này. Bài nghiên cứu được thực hiện để phân tích hoạt
động M&A làm tăng hay giảm hiệu quả hoạt động của các ngân hàng
Pakistan. Các chỉ số tài chính như chỉ số về khả năng sinh lợi (ROA,
ROE …), chỉ số về thanh khoản (DTA, ATD, CTA), chỉ số đầu tư
(ROI, EPS), chỉ số khả năng thanh toán (DE, IC, DR) được sử dụng
để phân tích tác động của M&A lên hiệu quả hoạt động của ngân
hàng Pakistan. Kết quả là, M&A có mối quan hệ ngược chiều với
hiệu quả hoạt động ngân hàng ở Pakistan và kết quả này gợi ý các
ngân hàng nên thực hiện các phân tích tài chính trước khi tiến hành
các thương vụ M&A.

3.4.3 Tác động không đáng kể của hoạt động M&A:

STT
1. Differential
impact of Korean

banking system
reforms on bank
productivity

Nội dung
Tác giả: Rajiv D. Banker, Hsihui Chang, Seok-Young Lee
Bài nghiên cứu này nghiên cứu việc cải cách hệ thống ngân hàng ở
Hàn quốc đã ảnh hưởng như thế nào đến sự thay đổi năng suất
(productivity) theo thời gian và không gian trong lĩnh vực ngân hàng
bằng cách sử dụng phương pháp DEA. Dựa trên dữ liệu bảng của 14
ngân hàng thương mại Hàn quốc giai đoạn 1995-2005. Bài nghiên
cứu nhận thấy có một sự khác biệt trong năng suất đạt được từ hoạt
động M&A tùy theo loại ngân hàng trong q trình nghiên cứu. Đặc
biệt tác động tích cực của M&A lên năng suất của những ngân hàng
toàn quốc lâu đời lớn hơn những ngân hàng mới được thiết lập theo
kiểu rộng khắp cả nước. Thêm vào đó bài nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ
an tồn vốn CAR có tác động tích cực và tỷ lệ nợ xấu có tác động
tiêu cực lên năng suất.
2. M&A and
Tác giả: Yener Altunbas and David Marques lbanez, Working paper
bank perfomance No.398/ October 2004, European Central Bank
in Europe the role Kết quả nghiên cứu cho thấy, trung bình, sáp nhập ngân hàng ở Châu
of strategic
Âu sẽ cho ra kết quả cải thiện về lợi nhuận trên vốn. Ngồi ra bài
similarities
nghiên cứu cũng tìm thấy những kết quả khác biệt khá lớn đối với
sáp nhập nội địa và sáp nhập xuyên quốc gia. Đối với những thương
vụ nội địa, có thể khá tốn kém để hợp nhất các khoản vay, thu nhập,
chi phí , tiền gửi và chiến lược của những tổ chức khác nhau. Cịn đối
với những thương vụ M&A xun quốc gia thì sự khác biệt của các

đối tác trong chiến lược cho vay và rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến một
hiệu quả hoạt động cao hơn bởi vì tính đa dạng trong nguồn vốn của
họ, cấu trúc chi phí cũng như kỹ thuật và những chiến lược đầu tư
tiến bộ sẽ dẫn đến hiệu quả tốt hơn.
3. Mergers and
Tác giả: Joseph K. Achua1and Patience Ola, Proceedings of 5th
Acquisitions
Annual American Business Research Conference
Recapitalization
Bài nghiên cứu cung cấp một sự thấu hiểu về tác động của M&A lên
Strategy and


Banks’ Financial
Volatility in
Nigeria

sự khơng ổn định về mặt tài chính của các ngân hàng ở Nigeria bằng
việc sử dụng 8 chỉ số tài chính. Dữ liệu được thu thập từ 2001 đến
2009 cho giai đoạn trước và sau M&A. Kết quả t-test chỉ ra rằng
khơng có sự cải thiện đáng kể trong hiệu quả hoạt động tài chính của
các ngân hàng sau M&A trong tất cả các biến về khả năng sinh lợi,
thanh khoản, đòn bẩy và thu nhập.

IV. THỰC TIỄN TÁI CẤU TRÚC HỆ THỐNG NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM
Tái cơ cấu lại hệ thống ngân hàng là một xu thế khách quan trên thế giới. Những cuộc
khủng hoảng tài chính trong lịch sử hiện đại đã cho thấy, cần thiết phải khơi phục các điều kiện
tài chính ổn định mới hỗ trợ kinh tế phát triển. Tái cơ cấu ngân hàng không là hành động đơn lẻ
của một lĩnh vực, mà là một phần phát triển của khu vực tài chính và vừa là động lực, vừa là yêu
cầu trong quan hệ biện chứng với các lĩnh vực kinh tế khác trong quá trình chuyển đổi cơ cấu

kinh tế.
Đánh giá lại chặng đường thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn
2011- 2015 và cũng là kết thúc giai đoạn 1 thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. Có thể nói,
hoạt động tái cấu trúc đã đạt được những kết quả nhất định trên các khía cạnh mua bán sáp nhập,
hợp nhất, ổn định tạm thời thanh khoản của hệ thống ngân hàng.
Vào năm 2011, ngành ngân hàng phải đối diện với “cơn bão khủng hoảng” khi hầu hết
ngân hàng, kể cả ngân hàng lớn, có nguy cơ mất khả năng thanh tốn. Trước tình hình đó, Thủ
tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 1-3-2012 phê duyệt Đề án tái cơ cấu hệ
thống các TCTD giai đoạn 2011-2015 (gọi tắt là Đề án 254), nhờ đó, hệ thống các TCTD của
Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực.
Đề án đã đặt ra một lộ trình phù hợp, với những biện pháp quyết liệt, mạnh mẽ, giải quyết
được những vấn đề cấp bách của quá trình tái cơ cấu, đồng thời đặt tiền đề cho sự phát triển an
toàn, bền vững của cả hệ thống lâu dài. Qua đó, quá trình tái cơ cấu giai đoạn 2011-2015 đã giải
quyết kịp thời vấn đề thiếu thanh khoản hệ thống; xử lý các TCTD yếu kém nhưng vẫn đảm bảo
an toàn của hệ thống với mức tổn thất và chi phí thấp nhất cho ngân sách Nhà nước; tạo nền tảng
trụ cột cho hệ thống ngân hàng hoạt động bình thường, xử lý tốt nợ xấu.
Kết quả cụ thể của 4 năm triển khai đề án tái cơ cấu là giảm được 17 TCTD, chi nhánh
ngân hàng nước ngồi thơng qua mua bán và sáp nhập (M&A), rút giấy phép, giải thể; tỷ lệ nợ
xấu đến cuối năm 2015 chỉ còn khoảng 2,72%; mặt bằng lãi suất cho vay đã được đưa về mức 79%/năm từ mức 25-35%/năm của năm 2011; thanh khoản thông suốt, thị trường vàng được sắp
xếp lại và ổn định.
• Chủ trương và chính sách triển khai tái cấu trúc hệ thống ngân hàng
Sau Nghị quyết Trung ương 3 (Khóa XI), việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương
mại (NHTM) được đặt ra và có lộ trình cụ thể. Cuối năm 2011, Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
đã đưa ra 4 mục tiêu của tái cơ cấu hệ thống ngân hàng bao gồm: (i) Lành mạnh hóa hệ thống
ngân hàng; (ii) Nâng cao năng lực cạnh tranh cho hệ thống ngân hàng; (iii) Cấu trúc lại cơ cấu
hoạt động của hệ thống ngân hàng; (iv) Hệ thống ngân hàng phải hội nhập và có sức cạnh tranh
với quốc tế.


Tiếp đó, ngày 01/03/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Ðề án cơ cấu lại hệ thống tổ

chức tín dụng (TCTD) giai đoạn 2011-2015 kèm theo Quyết định 254/QÐ-TTg. Ðây được xem
là một nỗ lực về mặt pháp lý quan trọng nhất cho tới nay trong việc tái cấu trúc hệ thống ngân
hàng, tạo ra một hành lang rộng để xử lý các ngân hàng yếu kém và đề ra một lộ trình cho đến
năm 2015. Theo lộ trình thực hiện, NHNN đã đề ra những nội dung của tái cấu trúc tập trung vào
các nội dung sau:
- Về vốn: NHNN yêu cầu các ngân hàng lớn tham gia mua cổ phần, tham gia vào quản trị điều
hành và cơ cấu lại các khoản mục đầu tư; mua lại hoặc hợp nhất, sáp nhập nếu cần. NHNN cũng
sẽ tham gia giám sát chặt chẽ q trình này. Theo đó, nếu các ngân hàng khơng thể tự tái cấu trúc
thì NHNN sẽ can thiệp và thậm chí tính đến việc hợp nhất hoặc sáp nhập. Trên thực tế, các ngân
hàng nhỏ đều có vốn điều lệ dưới mức quy định tối thiểu (3.000 tỷ đồng) nên khơng thể tự mình
tái cấu trúc nếu khơng có sự giúp đỡ từ bên ngồi. Vì vậy, NHNN cùng với các cơ quan giám sát
và theo dõi của cơ quan quản lý để giúp các ngân hàng nhỏ tìm kiếm các đối tác nâng cao năng
lực vốn, năng lực quản trị, đảm bảo thanh khoản và an toàn vốn.
- Về xử lý nợ xấu: NHNN đã ban hành Quyết định số 780/QÐ-NHNN ngày 23/04/2012
cho phép “các khoản nợ được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ do TCTD, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng có chiều hướng tích
cực và có khả năng trả nợ tốt sau khi điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ được giữ nguyên nhóm
nợ như đã được phân loại theo quy định trước khi điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ”.
Ngoài ra, cơ quan này cũng đã có Văn bản số 2871/NHNN-TD yêu cầu 14 ngân hàng gồm:
Agribank, BIDV, Vietinbank, Vietcombank, ACB, Eximbank, Sacombank, Techcombank, MB,
MSB, VPBank, VIB, SeaBank và SHB chủ động, tích cực thực hiện các giải pháp xử lý nợ theo
các quy định hiện hành; Thực hiện mua, bán nợ theo quy định tại Quyết định số 59/2006/QÐNHNN ngày 21/02/2006 về Quy chế mua, bán nợ của TCTD, trong đó cho phép 14 ngân hàng
mua bán nợ dưới dạng cho DN vay và nợ của các TCTD vay lẫn nhau.
- Về thanh khoản: NHNN đã phối hợp với các ngân hàng mạnh để cung cấp thanh khoản
cho các ngân hàng yếu để giảm thiểu rủi ro thanh khoản của hệ thống. Ðồng thời, NHNN đã cho
các ngân hàng gia hạn nợ đối với DN và cho phép nhóm 14 ngân hàng mua bán nợ dưới dạng
cho DN vay và nợ của các TCTD vay lẫn nhau.
- Về quản trị ngân hàng: NHNN đã ban hành một số văn bản liên quan đến vấn đề này,
đặc biệt là các thông tư thay thế Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010 quy định về các tỷ



lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD và Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày
22/4/2005 về việc ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phịng để xử lý rủi
ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD. Theo Ðề án cơ cấu lại các TCTD giai đoạn
2011-2015, thì cuối năm 2015, TCTD phải đạt mức vốn tự có đủ để bù đắp rủi ro tín dụng, rủi ro
thị trường và rủi ro tác nghiệp theo quy định của Basel II.


Kết quả thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng giai đoạn 2011-2015

Nhìn lại giai đoạn 2011-2015, việc thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng đã đạt được
những kết quả nhất định. Năm 2012, NHNN đã thực hiện phân loại các NHTM thành các nhóm
để ấn định mức rủi ro, cụ thể:
- Nhóm thứ 1: Các ngân hàng có tình hình tài chính lành mạnh có năng lực và quy mô đủ
lớn để tiếp tục phát triển thành những ngân hàng trụ cột, đủ sức cạnh tranh với khu vực và quốc
tế. Ước tính có khoảng 15 ngân hàng loại này, chiếm khoảng 80% thị phần hoạt động của cả hệ
thống ngân hàng.
- Nhóm thứ 2: Các ngân hàng có tình hình tài chính lành mạnh nhưng có quy mơ nhỏ,
khơng có nhu cầu hoặc khơng có điều kiện phát triển quy mơ cao hơn nữa. NHNN sẽ có quy
định đảm bảo giám sát chặt chẽ cũng như phân khúc thị trường để đảm bảo cho các ngân hàng
này hoạt động hiệu quả.
- Nhóm thứ 3: Ngân hàng đang có tình hình tài chính khó khăn cần phải cấu trúc lại.
NHNN sẽ tham gia giám sát chặt chẽ, yêu cầu các ngân hàng tham gia mua cổ phần, tham gia
vào quản trị điều hành và cơ cấu lại các khoản mục đầu tư; mua lại hoặc hợp nhất, sáp nhập nếu
cần.
Năm 2012, NHNN tập trung củng cố thanh khoản hệ thống ngân hàng, lành mạnh hóa
hoạt động tài chính của các NHTM mà trọng tâm là xử lý nợ xấu và minh bạch hóa tài chính và
tái cơ cấu tổ chức, hoạt động và quản trị hệ thống ngân hàng.
Năm 2013, NHNN chuyển sang giai đoạn hai của nhiệm vụ lành mạnh hóa tài chính hệ
thống ngân hàng với việc tăng cường xây dựng các qui định về an toàn vốn, xử lý nợ xấu hệ

thống qua việc thành lập Công ty quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) và tăng
cường quản trị rủi ro, hướng đến chuẩn mực Basel II. Kết quả là, trong 2 năm, đã có 9 NHTM
nhỏ đã được đưa vào chương trình phải thực hiện tái cơ cấu bắt buộc thông qua các biện pháp
khác nhau như hợp nhất (SCB, Ficombank, TinnghiaBank), sáp nhập (Habubank vào SHB) và tự
tái cơ cấu (TienphongBank, TrustBank, Navibank, Westernbank và GP Bank).


Năm 2014, NHNN hồn thiện Thơng tư số 13/2010/TT-NHNN với mục tiêu hướng các
NHTM tiếp cận việc quản lý rủi ro theo Basel II.
Năm 2015, NHNN tiếp tục triển khai quyết liệt và đồng bộ hơn giai đoạn 2 với trọng tâm
tái cơ cấu, sáp nhập và xử lý nợ xấu. Cùng với việc tạo điều kiện thuận lợi và ủng hộ hoạt động
sáp nhập, hợp nhất trên cơ sở tự nguyện, phù hợp với lợi ích, chiến lược kinh doanh của từng
NHTM và bảo đảm tuân thủ các quy định của pháp luật, NHNN xem xét áp dụng biện pháp can
thiệp, thông qua mua cổ phần và sáp nhập bắt buộc một số NHTM “dưới chuẩn”, với sự tham gia
tích cực của các NHTM Nhà nước và khuyến khích thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Trong
quý II/2015, thơng qua hình thức mua bán và sáp nhập (M&A), hệ thống ngân hàng đã thực hiện
cơ cấu một số ngân hàng như Sacombank-Southernbank, Vietinbank-PGBank, BIDV–MHB,
Vietcombank-SaigonBank, MaritimeBank-MekongBank, EximBank- NamAbank.Vietcombank,
BIDV hay Vietinbank đều đã và đang chính thức tham gia sáp nhập với các ngân hàng có quy mơ
nhỏ hơn để vừa hỗ trợ, vừa tăng quy mô và “kéo” nhau cùng phát triển. Vietcombank có thương
vụ với SaigonBank và đồng thời cũng đang cử nhân sự, nguồn lực chia sẻ hỗ trợ NHNN với
“gánh” tái cơ cấu ở một số các ngân hàng còn chưa đạt hiệu quả tái cơ cấu như: ngân hàng Xây
dựng, Eximbank, Đông Á Bank.Vietinbank đang trong quá trình thực thi sáp nhập PGBank và
cũng cử người, chia sẻ nguồn lực cho ngân hàng Ocean Bank với chủ sở hữu 100% vốn là
NHNN.BIDV đã nhận sáp nhập MHB – như một tâm điểm của đột phá M&A để có NH lớn
mạnh ở tầm khu vực và vươn tay cánh tay cho mọi thị trường trên cả nước. BIDV cũng tham gia
hỗ trợ cho NHNN “làm bà đỡ” thực thi thương vụ sáp nhập đầu tiên giữa ba tổ chức trong hệ
thống nhà băng vào cuối 2011, khởi lên làn sóng M&A để tái cấu trúc mạnh mẽ…
Từ năm 2012 đến năm 2015, hệ thống NHTM và TCTD đã giảm bớt 5 NHTM cổ phần
thông qua hoạt động sáp nhập, hợp nhất (Đệ Nhất, Tín Nghĩa, Nhà Hà Nội, Phương Tây, Đại Á)

và NHNN đã mua lại 3 NHTM cổ phần (VNCB, OceanBank và GPBank). Đồng thời, hai cơng
ty tài chính đã được hợp nhất, giải thể; một cơng ty cho th tài chính bị rút giấy phép; một cơng
ty tài chính đã được NHNN ủng hộ chủ trương bán lại cho tổ chức khác. Hiện hệ thống ngân
hàng Việt Nam có một NHTM nhà nước (Agribank), 37 ngân hàng TMCP (kể cả 3 NHTM đã bị
NHNN mua lại với giá 0 đồng), 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 4 ngân hàng liên doanh, 1
ngân hàng chính sách và 1 ngân hàng hợp tác xã.
Một số TCTD phi ngân hàng quá yếu kém, chi phí cơ cấu lại quá lớn so với lợi ích đem
lại từ việc duy trì hoạt động đang được tiếp tục rà soát, đánh giá và xem xét xử lý. Một số tập


đồn và tổng cơng ty nhà nước đang trong q trình đàm phán bán lại cơng ty tài chính cho nhà
đầu tư khác. Những TCTD phi ngân hàng hoạt động bình thường cũng đang triển khai cơ cấu lại
theo Quyết định số 254/QĐ-TTg để nâng cao mức độ an toàn, hiệu quả kinh doanh và năng lực
cạnh tranh…
Nhìn chung, quá trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD được thực hiện theo đúng Đề án đã
được phê duyệt, với những kết quả cụ thể: Hệ thống NHTM đã ngày càng cải thiện được tính
thanh khoản, đẩy lùi nguy cơ đổ vỡ; Giảm sở hữu chéo trong hệ thống NHTM, giúp các ngân
hàng tăng sức cạnh tranh trên thương trường; Số dư tiền gửi của TCTD tại NHNN luôn cao hơn
so với yêu cầu dự trữ bắt buộc.
Bên cạnh đó, phải kể đến sự cải thiện đáng kể của hệ thống pháp lý, tạo “đường ray” thúc
đẩy quá trình tái cơ cấu đi nhanh và đúng hướng, đồng thời, mở rộng “cửa” hơn cho các nhà đầu
tư nước ngoài. Để hỗ trợ cho quá trình cơ cấu lại các TCTD và bảo đảm cho các TCTD hoạt
động an toàn, lành mạnh, Chính phủ và NHNN đã ban hành thêm các văn bản như: Nghị định số
01/2013/NĐ-CP về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của TCTD Việt Nam; Quyết định số
48/2013/QĐ-TTg ngày 1/8/2013 quy định về việc góp vốn, mua cổ phần bắt buộc của TCTD
được kiểm soát đặc biệt; các Thông tư của NHNN bao gồm các quy định về phân loại nợ, trích
lập và sử dụng dự phịng rủi ro (Thơng tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/1/2013); kiểm soát,
toán độc lập, cấp phép; quản lý mạng lưới; niêm yết cổ phiếu của các TCTD trên thị trường
chứng khoán...
Hạn chế của tái cấu trúc ngân hàng tại Việt Nam

Quá trình tái cơ cấu giai đoạn 2011-2015 đã tạo cho hệ thống các tổ chức tín dụng
(TCTD) một diện mạo mới, sẵn sàng hướng tới mục tiêu hội nhập quốc tế. Thành tích tuy có
nhiều nhưng hạn chế vẫn cịn đó, và đây sẽ là động lực, là mục tiêu hành động cho các TCTD
trong giai đoạn tiếp theo.
Trong giai đoạn tiếp theo, việc tái cơ cấu các tổ chức tín dụng sẽ phải “lạc quan trong
thận trọng”, bởi vẫn còn nhiều hạn chế, tồn tại cần bước đi quyết liệt hơn nữa. Những tồn tại
như: thứ nhất là tình trạng sở hữu chéo, cho vay “sân sau”; thứ hai là nợ xấu, tuy rằng NHNN
đang xử lý được nhưng lại tập trung vào Công ty Quản lý tài sản (VAMC), khiến nợ xấu chưa
được giải quyết rốt ráo.
Trên thực tế, hệ thống các TCTD vẫn còn một số ngân hàng thuộc diện yếu kém, bị kiểm
soát đặc biệt và trong tầm “sắp” bị kiểm soát đặc biệt. Tuy nhiên, đáng lo ngại nhất là sở hữu


chéo, khi vì lợi ích, các “ơng chủ” lập ra nhiều cơng ty tài chính, đầu tư chéo, cho vay chéo chính
cơng ty của mình khiến nợ xấu tăng cao, gây mất an toàn cho hệ thống TCTD.
Để giải quyết sở hữu chéo, năm 2010, NHNN đã ban hành Thông tư 13/2010/TT-NHNN
về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động, năm 2014, NHNN ban hành Thông tư 36/2014/TTNHNN quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD, chi nhánh ngân
hàng nước ngồi, tạo ra khn khổ pháp lý mới về bảo đảm an tồn cho hoạt động ngân hàng.
Tiếp đó, NHNN đã ban hành Thông tư 06/2015/TT-NHNN quy định thời hạn, trình tự, thủ tục
chuyển tiếp đối với trường hợp sở hữu cổ phần vượt giới hạn quy định tại Điều 55 Luật các
TCTD, hạn đến cuối năm 2015 phải lập được kế hoạch khắc phục việc sở hữu cổ phần vượt giới
hạn. Tuy nhiên, mặc dù thông tư ban hành nhiều nhưng sở hữu chéo vẫn chưa được giải quyết
triệt để, bởi có những sở hữu chéo nằm trong “thế giới ngầm” nên khó có thể nắm bắt và cải tổ
toàn diện.
Hơn nữa, về nợ xấu, mặc dù các con số đều đưa ra kết quả khả quan, tuy nhiên, có nhiều
ý kiến cho rằng, với tăng trưởng tín dụng cao thì tổng dư nợ, trong đó có nợ xấu cũng sẽ tăng
tương ứng. Bên cạnh đó, nhiều tổ chức tín dụng, ngân hàng và người đi vay thực hiện phương
thức đáo hạn, đảo nợ, xử lý, tái cơ cấu lại nợ để chuyển từ nợ quá hạn thành chưa đến hạn, từ nợ
xấu thành nợ chưa xấu lắm. Qua nhiều lần tái cơ cấu và đảo nợ như vậy, những khoản nợ thuộc
nhóm nợ đủ tiêu chuẩn, nợ cần chú ý có nguy cơ “bục” ra thành nợ xấu trong giai đoạn tiếp theo.

Bên cạnh những “nút thắt” về nợ xấu, sở hữu chéo, hệ thống ngân hàng và các TCTD của
Việt Nam vẫn còn nhiều điều khiến người trong cuộc “ngao ngán” như quy mô nhỏ lẻ, thông tin
thiếu minh bạch, hệ thống quản trị rủi ro cũng như cơng nghệ cịn yếu kém… Theo đánh giá gần
đây của các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB),
năng lực quản trị rủi ro, năng lực tài chính của hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn thuộc nhóm
yếu trong khu vực. Trong khi nhiều ngân hàng trên thế giới đã áp dụng tiêu chuẩn quản trị rủi ro
Basel III thì các ngân hàng của Việt Nam vẫn đang loay hoay để lên Basel II.

V. GIẢI PHÁP RÚT RA VÀ BÀI HỌC:

1. Hồn thiện khn khổ pháp lý về Tiền tệ Ngân hàng
- Sửa đổi, bổ sung các quy định về cơ cấu lại các tổ chức tín dụng, xử lý các tổ
chức tín dụng yếu kém và xử lý nợ xấu, trong đó đề cao thẩm quyền can thiệp của Nhà
nước và trách nhiệm của các tổ chức tín dụng trong việc xử lý các yếu kém, tồn tại và các


×