Tải bản đầy đủ (.docx) (67 trang)

Vận dụng phương pháp webquest trong dạy học chương “nitơ – photpho” và chương “cacbon – silic” – hóa lớp 11 cơ bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.32 MB, 67 trang )

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc ThS. Phạm Thu Oanh đã trực tiếp dành nhiều
thời gian, định hướng đề tài, cung cấp tài liệu và tâm huyết hướng dẫn, giúp đỡ tôi
trong quá trình thực hiện, hoàn thành khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm khoa Khoa học tự nhiên, các thầy cô
giáo đã tham gia giảng dạy lớp Đại học Sư phạm Hóa học K13, các thầy cô trong tổ bộ
môn Hóa học khoa Khoa học tự nhiên – Trường Đại học Hải Phòng và các bạn cùng
lớp Đại học Sư phạm Hóa học K13 đã giúp đỡ, góp nhiều ý kiến quý báu, động viên,
tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành khóa luận này.
Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng hoàn thiện bản khóa luận này bằng cả sự nhiệt
tình và năng lực của mình, tuy nhiên không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong
nhận được những đóng góp quý báu từ các thầy cô và các bạn.
Hải Phòng, tháng 5 năm 2016
Sinh viên
Thanh
Phạm Thị Thanh


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC HÌNH


DANH MỤC VIẾT TẮT
SGK

: Sách giáo khoa

GV


: Giáo viên

HS

: Học sinh

SV

: Sinh viên

CNTT

: Công nghệ thông tin

CD

: Compact dics (đĩa quan được sử dụng để lưu trữ dữ liệu số)

HTML

: Hypertext Markup Language (Ngôn ngữ liên kết siêu văn bản)

ĐHSP

: Đại học Sư phạm

HTTH

: Hệ thống tuần hoàn


PPDH

: Phương pháp dạy học

THCS

: Trung học cơ sở

THPT

: Trung học phổ thông

TN

: Thực nghiệm

ULR

: Universal Resource Locator (tham chiếu nguồn tài nguyên)

ICT

: (Information and Communication Technology) Công nghệ thông tin và

truyền thông


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, khi mà quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc

tế đang diễn ra mạnh mẽ, muốn chiếm lĩnh tri thức đòi hỏi con người phải tự chủ, sáng
tạo và tư duy khoa học. Trước tình hình đó đã đặt ra cho nền giáo dục nước ta phải có
những đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ, vươn tới ngang tầm với sự phát triển
chung trong khu vực và trên toàn thế giới. Trong đó, đổi mới phương pháp dạy học là
yếu tố quan trọng và cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu trên.
Sự cần thiết đổi mới trong giáo dục đã được ghi trong Nghị quyết 40/2000/QH10
về đổi mới Chương trình Giáo dục phổ thông và thể hiện trong Chỉ thị 14/2001/CTTTg ngày 11/6/2001 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện Nghị quyết số
40/2000/QH10 của Quốc hội.
Giáo dục nước ta đã có nhiều đổi mới về nội dung cũng như phương pháp dạy
học (PPDH) và đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến việc đổi mới phương
pháp dạy học theo hướng tăng cường vai trò chủ thể của học sinh. Đồng thời sự phát
triển của khoa học công nghệ đã mở ra những khả năng và điều kiện thuận lợi cho việc
sử dụng phương tiện công nghệ thông tin vào quá trình dạy và học. Việc sử dụng có
tính sư phạm những thành quả của khoa học công nghệ sẽ làm thay đổi hiệu quả của
quá trình dạy học, hiệu quả của việc sử dụng các PPDH.
Trong chương trình hóa học phổ thông, có một số kiến thức, khái niệm, hiện
tượng khá trừu tượng học sinh gặp nhiều khó khăn khi phải tìm hiểu bản chất của hiện
tượng đó. Việc dạy học gặp phải nhiều khó khăn do học sinh khó có thể hình dung
hiện tượng. Thế nhưng với những ưu thế về khả năng đồ họa, mô phỏng mà các
phương tiện dạy học hiện đại đem lại sẽ hỗ trợ và khắc phục những khó khăn trên. Qua
các bài giảng dưới dạng Web, giáo viên có thể phát huy tác dụng tất cả các giác quan
của học sinh trong quá trình truyền thụ kiến thức, làm cho học sinh nhận biết được các
quan hệ giữa các hiện tượng, tái hiện những khái niệm, quy luật... làm cơ sở cho việc
áp dụng kiến thức đã học vào thực tế sản xuất và đời sống.
Trong đó “phương pháp dạy học WebQuest” là một trong những phương pháp
dạy học tích cực hiện nay phù hợp với xu hướng đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng phát triển năng lực của học sinh - phát huy tính tích cực, tự lực, sáng tạo phát
hiện và giải quyết vấn đề giúp các em có khả năng tự chiếm lĩnh tri thức.
5



Nhằm góp phần làm rõ phương pháp dạy học WebQuest trong dạy học nói chung
và môn Hóa học nói riêng, tôi đã chọn đề tài “Vận dụng phương pháp WebQuest trong
dạy học chương “Nitơ – Photpho” và chương “Cacbon – Silic” – Hóa lớp 11 cơ
bản” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng phương pháp dạy học WebQuest để thiết kế dạy học hóa học vô cơ lớp
11 THPT nhằm hình thành cho học sinh (HS) năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp
tác nhóm, khuyến khích HS phát triển các kĩ năng sống hợp tác, biết phát hiện và giải
quyết vấn đề, biết tìm kiếm và xử lý thông tin, từ đó chiếm lĩnh tri thức và có thái độ
sống tích cực, góp phần đổi mới phương pháp dạy học (PPDH), nâng cao chất lượng
dạy học bộ môn.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
-

Nghiên cứu cơ sở lý luận của phương pháp WebQuest.

-

Nghiên cứu nội dung chương trình hóa học 11cơ bản trung học phổ thông (THPT)

-

Thiết kế WebQuest để dạy học hóa học chương “Nitơ – Photpho” và chương “Cacbon
– Silic” – Hóa học cơ bản lớp 11
3. Đối tượng nghiên cứu
Việc thiết kế WebQuest phục vụ cho PPDH Webquest trong dạy học chương
“Nitơ – Photpho” và chương “Cacbon – Silic” – Hóa học cơ bản lớp 11
4. Phạm vi nghiên cứu

Phần hóa học vô cơ lớp 11 THPT chương trình cơ bản.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng WebQuest đảm bảo tính khoa học, thẩm mĩ, đơn giản, dễ sử dụng,
đồng thời đề xuất cách vận dụng hợp lý để phục vụ cho phương pháp webquest sẽ giúp
nâng cao hứng thú học tập của HS, từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học đáp
ứng được đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực – phát triển năng lực của
học sinh ở trường THPT.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu các tài liệu về tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh trong dạy học
hóa học ở trường phổ thông.
6


- Nghiên cứu sách giáo khoa (SGK) và các tài liệu về phương pháp giảng dạy hóa học
cần cho việc xây dựng tiến trình dạy học.
- Tham khảo các tài liệu về ngôn ngữ và các công cụ đơn giản hỗ trợ cho việc thiết kế
WebQuest.
- Sử dụng các ngôn ngữ và công cụ hỗ trợ đơn giản để thiết kế WebQuest dạy học hóa
học được cụ thể hóa trong dạy học phần hóa học vô cơ.
7. Điểm mới của đề tài
- Tạo trang WebQuest bằng công cụ Google Sites, trang WebQuest này đã được xuất
lên mạng.
- Xây dựng nội dung trang WebQuest chương “Nitơ – Photpho” và chương “Cacbon –
Silic” – Hóa học cơ bản lớp 11
8. Cấu trúc của khóa luận
Cấu trúc khóa luận bao gồm:
Mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
Chương 2: Vận dụng phương pháp WebQuest trong dạy học chương “Nitơ – Photpho”
và chương “Cacbon – Silic” – Hóa lớp 11 cơ bản

Kết luận chung
Tài liệu tham khảo

7


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Năm 1995 Bernie Dodge ở trường đại học San Diego State University (Mỹ) đã
xây dựng Webquest trong dạy học. Phương pháp này được tiếp tục phát triển bởi Tom
March (Úc) và Heinz Moser (Thụy Sĩ).
Bernie Dodge nhận thấy rằng Internet ngày càng phổ biến và việc thu thập, xử
lý thông tin trên mạng là một kỹ năng cần thiết trong nghiên cứu, học tập cũng như
trong hầu hết các ngành nghề. Tuy nhiên, việc truy cập thông tin một cách tự do trên
mạng để đáp ứng yêu cầu trong dạy học của HS có những hạn chế như mất nhiều thời
gian để tìm kiếm thông tin có chất lượng, HS dễ bị chệch hướng khỏi đề tài do lượng
thông tin quá nhiều... Để khắc phục nhược điểm, ông đã đề ra phương pháp webquest và
ý tưởng về WebQuest. Đồng hành cùng với ông là Tom March - cũng là giảng viên tại
trường đại học San Diego State. Cả hai ông cùng nhau tạo ra những WebQuest và cùng
tiến hành thực nghiệm với các sinh viên (SV), cải tiến phương pháp, khắc phục những
nhược điểm. Kể từ khi ra đời, WebQuest đã nhanh chóng trở thành một làn sóng phát
triển mạnh mẽ trên khắp thế giới, đặc biệt Brazil, Tây Ban Nha, Trung Quốc, Australia,
Hà Lan, Mỹ là những nước rất quan tâm và phát triển mạnh phương pháp này. Bernie
Dodge cũng đã tạo một trang web riêng (WebQuest.org) nhằm giới thiệu phương pháp
webquest và cho phép mọi người tạo ra các WebQuest miễn phí tại đây.
Sau đó, Tom March nhận thấy rằng, việc giáo viên (GV) xây dựng một
WebQuest chất lượng tốn rất nhiều thời gian và công sức trong khi việc dạy học phải
đảm bảo sự liên tục. Thấu hiểu điều trên, ông đã lập ra một trang web gọi là
“BestWebQuest.com”, tập hợp tất cả những WebQuest trên thế giới và ông phân ra

theo lĩnh vực, GV có thể vào đây chia sẻ và sử dụng các WebQuest như là một nguồn
tài nguyên chung. Các WebQuest đã được ông cùng các cộng sự kiểm tra về mặt nội
dung để đảm bảo HS sẽ phát triển được các mức tư duy theo thang phân loại của
Bloom.
Một đại diện khác của WebQuest nữa mà nếu không nhắc đến ông có lẽ là một
thiếu sót lớn, đó chính là Heinz Moser (Thụy Sĩ). Ông là một giáo sư về giáo dục
truyền thông tại Đại học Zurich và là giáo sư danh dự của ngành giáo dục và nghiên
cứu tại Đại học Kassel. Bernie Dodge và Tom March sáng tạo ra phương pháp
webquest nhưng các ông chỉ dừng lại việc xây dựng các WebQuest cho từng bài riêng
8


biệt, một chủ đề riêng mang tính lịch sử hoặc tính thời sự. Đến Heinz Moser, ông đã
đưa ra thêm một ý tưởng nữa vào năm 2000, đó chính là việc áp dụng WebQuest cho
nhiều bài trong cùng một chương, nhiều chương liên tiếp theo cách học xoắn ốc nhằm
phát triển tri thức một cách vừa củng cố vừa liên tục. Cuốn sách “Abenteuer Internet:
Lernen mit WebQuests” có nội dung gồm những hiểu biết và khái niệm về WebQuest
do Heinz Moser biên soạn được tiếp nhận nồng nhiệt tại Đức.
Riêng ở Việt Nam, khái niệm WebQuest cũng theo trào lưu du nhập vào nước
ta từ khoảng 2007. Có một số GV và một vài khóa luận đề cập đến phương pháp
webquest. Điển hình như các thầy cô trong nhóm thành viên của VVOB Việt Nam đã
đưa vào trang web của mình một chuyên mục giới thiệu về WebQuest. Các chị Trần
Thị Tuyết Nhung, Phạm Thị Nhạn lớp CH K20 - SPKT trường đại học Sư Phạm Hà
Nội cũng thiết kế riêng một trang web (music.easyvn.com) giới thiệu khá đầy đủ và có
kèm ví dụ về WebQuest. Ngoài ra còn có một vài khóa luận cũng nghiên cứu về
WebQuest:
Vận dụng kỹ thuật WebQuest vào dạy học chương “Động lực học chất điểm” vật
lý 10 THPT, khóa luận tốt nghiệp (khuyết danh).
Nguyễn Thị Thu Chi (2007), “Sử dụng WebQuest trong dạy học Lịch sử lớp 11 ở
trường THPT”, khóa luận tốt nghiệp, trường Đại học Giáo dục - Đại học Quốc gia Hà

Nội.
Xây dựng và sử dụng WebQuest trong dạy học Địa Lý lớp 10 – THPT khóa luận
tốt nghiệp (khuyết danh).
Nguyễn Thị Hồng ( 2012), “Sử dụng WebQest trong dạy học Địa Lý lớp 10
THPT”, khóa luận tốt nghiệp.
Đặc biệt, có một số giảng viên đại học đã áp dụng phương pháp webquest vào
dạy học trên đối tượng SV và thu được những kết quả nhất định. Kết quả các nghiên
cứu đã cho thấy rằng phương pháp này ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm của
nhà giáo dục. Tuy nhiên, nó vẫn còn mới mẻ và chưa có sự phát triển rộng rãi ở Việt
Nam. Các tác giả trên đều giới thiệu về phương pháp WebQuest, nêu được những ưu
điểm của phương này cũng như cách thức và công cụ để tạo nên một WebQuest nhưng
chưa tác giả nào tạo được một WebQuest một cách hoàn chỉnh, hoặc có tác giả đã tạo
được nhưng lại chỉ lưu hành nội bộ. Và một điều đặc biệt là các tác giả tạo WebQuest
từ các phần mềm Microsoft Word, PowerPoint hay trên công cụ xây dựng web:
9


Microsoft Frontpage. Nếu dùng Word, PowerPoint thì không mô tả hết tinh thần của
WebQuest, còn dùng Frontpage thì đòi hỏi người thiết kế phải biết ngôn ngữ HTLM,
rất khó khăn và tương đối phức tạp. Nếu tìm trên mạng một WebQuest thì rất nhiều
nhưng một WebQuest bằng tiếng Việt hoàn chỉnh thì hầu như không có, nhất là trong
lĩnh vực hóa học.
1.2. XU HƯỚNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Ở TRƯỜNG THPT
1.2.1. Sự cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy học
* Yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã nhấn mạnh: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi con người phải có
nhiều năng lực mới: năng lực tư duy độc lập, năng lực tự học và tự cập nhật thường

xuyên kiến thức mới, năng lực thích ứng với những thay đổi… Đây chính là những
năng lực giúp con người Việt Nam “đi tắt đón đầu”, rút bớt khoảng cách lạc hậu so với
các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
* Yêu cầu của sự phát triển khoa học - công nghệ
Một trong những đặc điểm nổi bật của thời đại chúng ta là sự phát triển như vũ
bão của khoa học- công nghệ. Các cuộc cách mạng khoa học trên các lĩnh vực: tin học,
truyền thông, công nghệ… không chỉ làm thay đổi mọi mặt của đời sống kinh tế - xã
hội mà còn có tác động mạnh mẽ đến phương pháp giảng dạy và đánh giá ở đại học.
Dưới ảnh hưởng của các cuộc cách mạng khoa học, nhiều phương tiện kỹ thuật dạy
học hiện đại xuất hiện. Việc sử dụng các phương tiện như: Hệ thống nghe nhìn,
internet… trong quá trình đào tạo đòi hỏi phải đổi mới cách dạy, cách học ở đại học.
*Yêu cầu của dạy học ở trường THPT
Sự phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá đặt ra những yêu cầu
mới đối với người lao động, do đó cũng đặt ra những yêu cầu mới cho sự nghiệp giáo
dục thế hệ trẻ và đào tạo nguồn nhân lực. Một trong những định hướng cơ bản của việc
đổi mới giáo dục là chuyển từ nền giáo dục mang tính hàn lâm, kinh viện, xa rời thực
tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc hình thành năng lực hành động, phát huy
tính chủ động, sáng tạo của HS, coi HS là chủ thể của quá trình dạy học. Định hướng
quan trọng trong đổi mới PPDH là phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển
10


năng lực hành động, năng lực cộng tác làm việc của HS. Đó là những xu hướng quốc
tế trong cải cách PPDH ở nhà trường phổ thông.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo
hướng hiện đại, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ
năng của người học, khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập
trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập
nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp

sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa,
nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong
dạy và học”. Để thực hiện tốt mục tiêu về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT theo
Nghị quyết số 29-NQ/TW, cần có nhận thức đúng về bản chất của đổi mới phương
pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học và một số biện pháp đổi
mới phương pháp dạy học theo hướng này.
1.2.2. Xu hướng đổi mới phương pháp dạy học ở Việt Nam
Cốt lõi của xu hướng đổi mới PPDH hiện nay là:
-

Hướng tới giúp học sinh học tập tích cực, chủ động, sáng tạo, từ bỏ thói quen học tập
thụ động, ghi nhớ máy móc. Coi trọng việc rèn luyện kĩ năng tự học cho HS. Phối hợp
chặt chẽ với những nỗ lực cá nhân trong việc tự học với việc học tập hợp tác trong
nhóm. Thông qua sự hợp tác, HS có thể đạt đến trình độ cao hơn trong việc giải quyết
các vấn đề học tập.

-

Kế thừa, phát triển những ưu nhược điểm trong hệ thống các PPDH truyền thống theo
hướng phát huy tính tích cực của người học. Cung cấp các điều kiện hỗ trợ cho việc
hình thành kiến thức bằng cách khuyến khích người học đặt câu hỏi quy trình học tập
của bản thân có phù hợp với các hình thức mà họ đang sử dụng. Như thế, HS tự đào
tạo bản than thành những “chuyên gia học tập”.

-

Học hỏi, vận dụng một số PPDH phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện dạy học ở địa
phương. Khuyến khích sử dụng các hình thức tổ chức hoạt động học tập ngoài lớp học
kết hợp với việc vận dụng các PPDH hiện đại để rèn luyện cho HS những kĩ năng cần
thiết để có khả năng tự học suốt đời.


-

Đổi mới PPDH đi đôi với việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS.
11


1.2.3. Những quan điểm chỉ đạo đổi mới giáo dục THPT
1.2.3.1. Đường lối, quan điểm chỉ đạo của nhà nước về giáo dục
CT30/1998/CT-TTg về điều chỉnh chủ trương phân ban ở THPT.
Nghị quyết TƯ 2 (khoá VIII) nêu rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục
và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn lyện nếp tư duy sáng tạo của người
học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào trong
quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh,
nhất là sinh viên đại học”.
Nghị quyết 40/2000/QH10 về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đã khẳng
định mục tiêu của việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là: “Xây dựng nội
dung chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông mới nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân
lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền
thống Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu
vực và trên thế giới”.
Chỉ thị 14/2001/CT-TTg về việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông thực
hiện Nghị quyết 40/2000/QH10.
Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 của nước ta đã đề ra nhiệm vụ “Khẩn
trương biên soạn và đưa vào sử dụng ổn định trong cả nước bộ chương trình và sách
giáo khoa phổ thông phù hợp với yêu cầu phát triển mới” và chiến lược phát triển giáo
dục năm 2001 – 2010 cũng cụ thể hóa yêu cầu này.
Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2100 (Ban hành kèm theo Quyết định số
201/2001/QĐ- TTg ngày 28 tháng 12 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ), ở mục 5.2.

ghi rõ: “Đổi mới và hiện đại hoá phương pháp giáo dục. Chuyển từ việc truyền thụ tri
thức thụ động, thầy giảng, trò ghi sang hướng dẫn người học chủ động tư duy trong
quá trình tiếp cận tri thức; dạy cho người học phương pháp tự học, tự thu nhận thông
tin một cách có hệ thống và có tư duy phân tích, tổng hợp; phát triển năng lực của mỗi
cá nhân; tăng cường tính chủ động, tính tự chủ của học sinh, sinh viên trong quá trình
học tập,...”.
- Về PPDH, Luật giáo dục (2005) quy định trong điều 5.
- Về nội dung dạy học, điều 28.1 Luật giáo dục (2005).
- Về phương pháp giáo dục phổ thông, điều 28.2 Luật giáo dục (2005).
12


Mục tiêu giáo dục, nguyên lý giáo dục và những quy định về nội dung, PPDH đã
được khẳng định trong Luật giáo dục trên đây là những định hướng cơ sở quan trọng
cho việc xây dựng chương trình dạy học, xác định các mục đích, nội dung và phương
pháp và hình thức tổ chức dạy học. Những định hướng này phù hợp với những quan
điểm hiện đại và tiến bộ về giáo dục trong phạm vi quốc tế, trong đó có mục tiêu đào
tạo con người phát triển toàn diện nhân cách cũng như định hướng gắn giáo dục với
thực tiễn cuộc sống, gắn lí thuyết với thực tiễn, phát triển động cơ, hứng thú học học,
phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của HS. Những định hướng này cũng phù
hợp với yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội trong điều kiện mới đối với đội ngũ
lao động mới.
1.2.3.2. Những định hướng đổi mới từ chương trình giáo dục THPT
Những định hướng về mục tiêu, nội dung dạy học về đổi mới PPDH, hình thức
dạy học và kiểm tra đánh giá được quy định trong chương trình giáo dục THPT:
- Mục tiêu giáo dục Trung học phổ thông:
- Nội dung giáo dục Trung học phổ thông: Giáo dục trung học phổ thông cần
phải củng cố, phát triển những nội dung đó học ở trung học cơ sở, bảo đảm cho HS có
những hiểu biết phổ thông, cơ bản về tiếng Việt, toán, lịch sử dân tộc, kiến thức khác
về khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, pháp luật, tin học, ngoại ngữ, có những hiểu

biết cần thiết tối thiểu về kĩ thuật và hướng nghiệp.
- Phương pháp giáo dục trung học phổ thông: Bao gồm các phương pháp giáo
dục phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm
của từng lớp học, môn học, đối tượng HS; bồi dưỡng cho HS phương pháp tự học, khả
năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình
cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho HS.
- Hình thức tổ chức giáo dục trung học phổ thông: Bao gồm các hình thức tổ
chức dạy học và hoạt động giáo dục ở trong phòng học, trong nhà trường, ngoài phòng
học, ngoài nhà trường sao cho bảo đảm sự cân đối và hài hoà giữa dạy học và hoạt
động giáo dục theo tập thể lớp, nhóm nhỏ, cá nhân; giữa dạy học nội khoá và ngoại
khoá, dạy học bắt buộc và tự chọn; giữa phát triển các năng lực cá nhân của HS và
nâng cao chất lượng giáo dục cho mọi đối tượng HS.
- Đánh giá kết quả giáo dục Trung học phổ thông: Là biện pháp chủ yếu nhằm
xác định mức độ thực hiện mục tiêu giáo dục, có vai trò quan trọng trong việc cải thiện
13


kết quả giáo dục HS. Đánh giá kết quả giáo dục các môn học và hoạt đông giáo dục ở
mỗi lớp và sau cấp học cần phải:
+ Căn cứ vào chuẩn kiến thức và kĩ năng của từng môn học ở từng lớp; từng cấp
học;
+ Phối hợp giữa đánh giá thường xuyên và định kì, giữa đánh giá của GV và tự
đánh giá của HS, giữa đánh giá của nhà trường và của gia đình, cộng đồng;
+ Kết hợp giữa hình thức đánh giá bằng trắc nghiệm khách quan và tự luận;
+ Có công cụ đánh giá thích hợp nhằm đánh giá toàn diện, công bằng, trung thực, có
khả năng phân loại tích cực, giúp GV và HS điều chỉnh kịp thời việc dạy và học.
- Chương trình THPT có những đặc điểm cơ bản:
+ Bước đầu chú ý quan điểm định hướng kết quả đầu ra, hình thành năng lực:
Trong việc xác định mục tiêu dạy học, chương trình xác định các phẩm chất và năng
lực cần phát triển cho HS;

+ Chương trình mang tính phân hóa, chú ý đến khả năng và nguyện vọng của HS
thông qua việc phân thành các ban cũng như các môn học, chủ đề tự chọn;
+Tăng cường hoạt động thực hành nhằm phát huy tính tích cực học tập của HS
+ Điều chỉnh, bổ sung nội dung của các môn học theo hướng cơ bản, hiện đại,
thực tiễn;
+ Chú ý tính hướng nghiệp và tính thực tiễn của nội dung học tập.
+ Đưa ra những định hướng và yêu cầu về đổi mới PPDH.
1.2.4. Đổi mới phương pháp dạy học hóa học theo định hướng phát triển năng lực
1.2.4.1.Khái niệm năng lực[5]
Phạm trù năng lực được hiểu theo những cách khác nhau và mỗi cách hiểu có
những thuật ngữ tương ứng:
Năng lực hiểu theo nghĩa chung nhất là khả năng mà mỗi cá nhân thể hiện khi
tham gia một hoạt động nào đó ở một thời điểm nhất định. Chẳng hạn, khả nang giải
toán, khả năng nói tiếng anh,… thường được đánh giá bằng các trắc nghiệm trí tuệ.
Năng lực là khả năng thực hiện hiệu quả một nhiệm vụ/ một hành động cụ thể,
liên quan đến một lĩnh vực nhất định dựa trên cơ sở hiểu biết, kĩ năng, kĩ xảo và sự sẵn
sàng hành động.
Người học có năng lực hành động về một loại/lĩnh vực hoạt động nào đó cần hội
đủ các dấu hiệu cơ bản sau:
14


- Có kiến thức hay hiểu biết hệ thống/ chuyên sâu về loại/ lĩnh vực hoạt động.
- Biết cách tiến hành hoạt động hiệu quả và đạt kết quả phù hợp với mục đích.
- Hành động có kết quả, ứng phó linh hoạt hiệu quả trong những điều kiện mới
không quen thuộc.
Từ đó có thể đưa ra một định nghĩa về năng lực hành động đó là:
Năng lực là khả năng huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính
tâm lý cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí, …để thực hiện thành công một loại
công việc trong bối cảnh nhất định.

Năng lực của cá nhân được đánh giá qua phương thức và kết quả hoạt động của
cá nhân đó khi giải quyết các vấn đề của cuộc sống.
1.2.4.2. Cấu trúc của năng lực[5]
- Vòng tròn nhỏ ở tâm là năng lực (định
hướng theo chức năng)
- Vòng tròn giữa bao quanh vòng tròn
nhỏ là các thành tố của năng lực: kiến
thức, các khả năng nhận thức, các khả
năng thực hành/ năng khiếu, thái độ, xúc
cảm, giá trị và đạo đức, động cơ.
- Vòng tròn ngoài là bối cảnh (điều kiện/
hoàn cảnh có ý nghĩa)

Hình 1.1: Định hướng chức năng và cấu
trúc đa thành tố của phát triển năng lực
Ví dụ: Năng lực sử dụng ngôn ngữ thường gồm các năng lực thành phần như đọc
hiểu, nghe hiểu, nói, viết,… định hướng thực hiện chức năng giao tiếp, tư duy kết nối
trong đó cả thái độ và các thành tố khác như xúc cảm, giá trị, niềm tin,… trong một
bối cảnh có ý nghĩa.
Như vậy năng lực không phải là cấu trúc bất biến mà là một cấu trúc động, có
tính mở đa thành tố, đa tầng bậc, hàm chức trong nó không chỉ là kiến thức, kĩ năng,…
mà cả niềm tin, giá trị, trách nhiệm xã hội,… thể hiện ở tính sẵn sàng hành động trong
những điều kiện thực tế, hoàn cảnh thay đổi.
1.2.4.3. Năng lực của học sinh

15


Năng lực của HS là khả năng làm chủ những hệ thống kiến thức, kĩ năng, thái độ,… phù
hợp với lứa tuổi và vận hành (kết nối) chúng một cách hợp lí vào thực hiện thành công nhiệm

vụ học tập, giải quyết hiệu quả những vấn đề đặt ra cho chính các em trong cuộc sống.[5]
Có 3 dấu hiệu cần lưu ý về năng lực của HS
- Năng lực không chỉ là khả năng tái hiện tri thức, thông hiểu tri thức, kĩ năng
học được,… mà quan trọng là khả năng hành động, ứng dụng/ vận dụng tri thức, kĩ
năng học được để giải quyết những vấn đề của cuộc sống đang đặt ra với các em.
- Năng lực không chỉ là vốn kiến thức, kĩ năng thái độ sống phù hợp với lứa tuổi
mà là sự kết hợp hài hòa của cả 3 yếu tố này thể hiện ở khả năng hành động (thực hiện
hiệu quả, muốn hành động và sẵn sàng hành động đạt mục đích đề ra (gồm động cơ, ý
chí, sự tự tin và trách nhiệm xã hội,…)
- Năng lực được hình thành, phát triển trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ
học tập ở trong lớp học và ở ngoài lớp học. Nhà trường là môi trường giáo dục chính
thống giúp HS hình thành những năng lực chung, năng lực chuyên biệt phù hợp với
lứa tuổi, song đó không phải là nơi duy nhất. Những môi trường khác như gia đình,
cộng đồng… cùng góp phần bổ sung và hoàn thiện các năng lực của các em.[5]
Các năng lực được định hướng phát triển cho HS:
- Năng lực tự giải quyết vấn đề và sáng tạo đòi hỏi học sinh phải biết phát hiện
và làm rõ vấn đề, đề xuất và lựa chọn giải pháp, thực hiện và đánh giá các giải pháp
giải quyết vấn đề, nhận ra ý tưởng mới, hình thành và triển khai ý tưởng mới, tư duy
độc lập.
- Ở năng lực thẩm mỹ, học sinh biết nhận ra cái đẹp, diễn tả và giao lưu thẩm mỹ,
tạo ra cái đẹp.
- Năng lực thể chất: Sống thích ứng và hài hòa với môi trường, rèn luyện sức
khoẻ thể lực, nâng cao sức khoẻ tinh thần.
- Năng lực giao tiếp: sử dụng tiếng Việt, sử dụng ngoại ngữ, xác định mục tiêu
giao tiếp, thể hiện thái độ giao tiếp, lựa chọn nội dung và phương thức giao tiếp.
- Năng lực hợp tác: xác định mục đích và phương thức hợp tác, xác định trách
nhiệm và hoạt động của bản thân, xác định nhu cầu và khả năng của người hợp tác, tổ
chức và thuyết phục người khác, đánh giá hoạt động hợp tác.
- Năng lực tính toán: sử dụng các phép tính và đo lường cơ bản, sử dụng ngôn
ngữ toán, sử dụng công cụ tính toán.

16


- Năng lực công nghệ thông tin và truyền thông: sử dụng và quản lý các phương
tiện, công cụ của công nghệ kỹ thuật số; nhận biết, ứng xử phù hợp chuẩn mực đạo
đức và pháp luật trong xã hội số hóa…
1.2.4.4. Quá trình hình thành năng lực[5]
Quá trình hình thành năng lực có thể mô hình hoá bằng một sơ đồ hình bậc thang
gồm các bước tăng tiến hình thành năng lực như sau:
1-Tiếp nhận thông tin
2-Xử lý thông tin
3-Áp dụng/vận dụng kiến thức (thể hiện
khả năng)
4-Thái độ và hành động
5-Sự kết hợp đầy đủ các yếu tố trên để
tạo thành năng lực
6-Tính trách nhiệm, thể hiện sự chuyên
nghiệp/ thành thạo
7-Kết hợp với kinh nghiệm/ trải nghiệm
thể hiện bằng năng lực nghề.

Hình 1.2 : Mô hình phát triển năng lực
1.2.4.5. Đặc trưng phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực
Việc đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực thể hiện qua bốn đặc
trưng cơ bản sau:
Một, dạy học thông qua tổ chức liên tiếp các hoạt động học tập, giúp học sinh tự khám phá
những điều chưa biết chứ không thụ động tiếp thu những tri thức được sắp đặt sẵn. Giáo viên là người
tổ chức và chỉ đạo học sinh tiến hành các hoạt động học tập phát hiện kiến thức mới, vận dụng sáng
tạo kiến thức đã biết vào các tình huống học tập hoặc tình huống thực tiễn...
Hai, chú trọng rèn luyện cho học sinh biết khai thác sách giáo khoa và các tài liệu học tập, biết

cách tự tìm lại những kiến thức đã có, suy luận để tìm tòi và phát hiện kiến thức mới... Định hướng
cho học sinh cách tư duy như phân tích, tổng hợp, đặc biệt hoá, khái quát hoá, tương tự, quy lạ về
quen… để dần hình thành và phát triển tiềm năng sáng tạo.
Ba, tăng cường phối hợp học tập cá thể với học tập hợp tác, lớp học trở thành môi trường giao
tiếp GV - HS và HS - HS nhằm vận dụng sự hiểu biết và kinh nghiệm của từng cá nhân, của tập thể
trong giải quyết các nhiệm vụ học tập chung.

17


Bốn, chú trọng đánh giá kết quả học tập theo mục tiêu bài học trong suốt tiến trình dạy học
thông qua hệ thống câu hỏi, bài tập (đánh giá lớp học). Chú trọng phát triển kỹ năng tự đánh giá và
đánh giá lẫn nhau của học sinh với nhiều hình thức như theo lời giải/đáp án mẫu, theo hướng dẫn,
hoặc tự xác định tiêu chí để có thể phê phán, tìm được nguyên nhân và nêu cách sửa chữa các sai sót.
1.3.TỔNG QUAN VỀ VIỆC ỨNG DỤNG ICT TRONG DẠY HỌC HÓA HỌC Ở
TRƯỜNG THPT
1.3.1.Thực trạng về việc ứng dụng ICT trong giáo dục ở Việt Nam
Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) là một “tập hợp đa dạng các công cụ
và tài nguyên công nghệ được sử dụng để giao tiếp, tạo ra, phổ biến, lưu giữ và quản
lý thông tin”. Các công nghệ này bao gồm phần cứng và mạng máy tính, các phần
mềm cần thiết, Internet, công nghệ truyền thông (đài và vô tuyến) và điện thoại. Thuật
ngữ ICT ra đời vào năm 1997, trong một báo cáo của Dennis Stevenson gửi chính phủ
Anh và được lan truyền rộng rãi trong các tài liệu mới của chương trình giảng dạy của
quốc gia Anh vào năm 2000.
Riêng CNTT - đặc biệt là Internet, bắt đầu được sử dụng ở Hoa Kỳ vào năm
1995 và sau đó được phổ biến rộng rãi trên toàn thế giới. Ngày nay, thật khó có thể
hình dung được thế giới của chúng ta sẽ như thế nào nếu như không có các ứng dụng
CNTT. Nhiều chương trình đào tạo ở các trường đại học và phổ thông của các nước có
nền giáo dục tiên tiến từ lâu đã sử dụng những chức năng của công nghệ vào trong
giảng dạy. Đổi mới PPDH bằng CNTT cũng là một chủ đề lớn được UNESCO đưa ra

thành chương trình của thế kỷ XXI và dự đoán sẽ có sự thay đổi nền giáo dục một
cách căn bản vào đầu thế kỷ XXI do ảnh hưởng của CNTT.
Ở nước ta, năm học 2008 – 2009 là năm học đầu tiên triển khai thực hiện Chỉ thị
số 55/2008/CT - BGDĐT ngày 30/9/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đào tạo về tăng
cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục giai đoạn 2008 –
2012. Năm học 2008 – 2009 được chọn là “Năm học đẩy mạnh ứng dụng CNTT, đổi
mới quản lý tài chính và xây dựng trường học thân thiện, HS tích cực”, Bộ Giáo dục
và Đào tạo đã nêu rõ:
-

Tổ chức tốt việc dạy học Tin học ở các cấp học, bậc học, ngành học nhằm phổ cập Tin
học trong nhà trường.

18


-

Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong Giáo dục và Đào tạo ở các cấp học, bậc học, theo
hướng sử dụng CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực cho đổi mới phương pháp
giảng dạy, học tập ở các môn học.
Qua tham khảo các tài liệu [1], tính đến năm 2009, đã có 20% GV trung học,
30% trường THPT, 25% trường THCS ứng dụng CNTT. Trong đó, từ 2–5% số bài
giảng được sử dụng phần mềm dạy học và có ứng dụng CNTT.
Ứng dụng CNTT trong giảng dạy, không chỉ phát triển mạnh ở các thành phố lớn
mà còn phát triển ở nhiều xã vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế đặc biệt khó khăn đã góp
phần đẩy nhanh tiến trình công bằng trong giáo dục. Với sự trợ giúp của CNTT, việc
dạy và học đã mang lại hiệu quả thiết thực, nhất là các môn xã hội cho những vùng ít
có cơ hội tiếp cận với các nguồn thông tin.
Hiện nay các trường phổ thông điều trang bị phòng máy, phòng đa năng, nối

mạng Internet và Tin học được giảng dạy chính thức. Một số trường còn trang bị thêm
thiết bị ghi âm, chụp hình, quay phim (Sound Recorder, Camera, Camcorder), máy
quét hình (Scanner), và một số thiết bị khác, tạo cơ sở hạ tầng CNTT cho GV sử dụng
vào quá trình dạy học của mình.
Công nghệ phần mềm phát triển mạnh, đặc biệt là các phần mềm mã nguồn mở
phục vụ cho giáo dục cũng đạt được những thành tựu đáng kể: Phần mềm văn phòng
(OpenOffice.org), thư viện số (Emilda, phpmylibrary, Koha, OpenBiblio), quản lý
mạng lớp học (Mythware, i–Talc của Intel),… ngoài ra còn có hệ thống quản lý Elearning (Moodle, Dokeos) và các phần mền đóng gói, tiện ích khác.
Qua tìm hiểu, việc ứng dụng CNTT vào dạy học ở nước ta trong những năm vừa
qua đã có những ưu điểm và hạn chế nhất định.

 Ưu điểm
-

Môi trường đa phương tiện kết hợp những hình ảnh đoạn phim, ảnh chụp trên máy
quay… với âm thanh, văn bản, biểu đồ… được trình bày qua máy tính theo giáo án
vạch sẵn nhằm đạt hiệu quả tối đa qua một quá trình học đa giác quan.

-

Các phần mềm và công cụ có thể mô phỏng nhiều quá trình, hiện tượng trong tự nhiên,
xã hội con người mà không thể hoặc không nên để xảy ra trong điều kiện nhà trường.

-

Công nghệ tri thức nối tiếp trí thông minh của con người, thực hiện những công việc
mang tính trí tuệ cao của các chuyên gia lành nghề trên những lĩnh vực khác nhau.
19



-

Những ngân hàng dữ liệu khổng lồ và đa dạng được kết nối với nhau và với người sử
dụng qua những mạng máy tính kể cả Internet… có thể được khai thác để tạo nên
những điều kiện cực kì thuận lợi và nhiều khi không thể thiếu để HS học tập trong
hoạt động và bằng hoạt động tự giác, tích cực và sáng tạo, được thực hiện độc lập hoặc
trong giao lưu.

-

Những thí nghiệm, tài liệu được cung cấp bằng nhiều kênh: kênh hình, kênh chữ, âm
thanh sống động làm cho HS dễ thấy, dễ tiếp thu và bằng suy luận có lý, HS có thể có
những dự đoán về các tính chất, những quy luật mới. Đây là một công dụng lớn của
ICT trong quá trình đổi mới PPDH.
Có thể khẳng định rằng, môi trường ICT chắc chắn sẽ có tác động tích cực tới
sự phát triển trí tuệ của HS và điều này làm nảy sinh những lý thuyết học tập mới.

 Hạn chế

Theo nhận định của một số chuyên gia, việc đưa ICT ứng dụng vào lĩnh vực
giáo dục và đào tạo bước đầu đã đạt được những kết quả khả quan. Tuy nhiên, những
gì đã đạt được vẫn còn hết sức khiêm tốn. Khó khăn, vướng mắc và những thách thức
vẫn còn ở phía trước bởi những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn.
-

Tuy máy tính điện tử mang lại rất nhiều thuận lợi cho việc dạy học nhưng trong một
mức độ nào đó, công cụ hiện đại này cũng không thể hỗ trợ GV hoàn toàn trong các
bài giảng của họ. Nó chỉ thực sự hiệu quả đối với một số bài giảng chứ không phải
toàn bộ chương trình do nhiều nguyên nhân, mà cụ thể là, với những bài học có nội
dung ngắn, không nhiều kiến thức mới, thì việc dạy theo phương pháp truyền thống sẽ

thuận lợi hơn cho HS, vì GV sẽ ghi tất cả nội dung bài học đó đủ trên một mặt bảng và
như vậy sẽ dễ dàng củng cố bài học từ đầu đến cuối mà không cần phải lật lại từng
“slide” như khi dạy trên máy tính điện tử. Những mạch kiến thức “vận dụng” đòi hỏi
GV phải kết hợp với phấn trắng bảng đen và các PPDH truyền thống mới rèn luyện
được kỹ năng cho HS.

-

Bên cạnh đó, kiến thức, kỹ năng về CNTT ở một số GV vẫn còn hạn chế, chưa đủ vượt
ngưỡng để đam mê và sáng tạo, thậm chí còn né tránh. Mặt khác, PPDH cũ vẫn còn
như một lối mòn khó thay đổi, sự uy quyền, áp đặt vẫn chưa thể xoá được trong một
thời gian tới. Việc dạy học tương tác giữa người - máy, dạy theo nhóm, dạy phương
pháp tư duy sáng tạo cho HS, cũng như dạy HS cách biết, cách làm, cách chung sống
và cách tự khẳng định mình vẫn còn mới mẻ đối với GV và đòi hỏi GV phải kết hợp
20


hài hòa các PPDH đồng thời phát huy ưu điểm của PPDH này làm hạn chế những
nhược điểm của PPDH truyền thống. Điều đó làm cho CNTT, dù đã được
đưa vào quá trình dạy học, vẫn chưa thể phát huy trọn vẹn tính tích cực và hiệu quả
của nó.
-

Việc sử dụng CNTT để đổi mới PPDH chưa được nghiên cứu kỹ, dẫn đến việc ứng
dụng nó không đúng chỗ, không đúng lúc, nhiều khi lạm dụng nó.

-

Việc đánh giá một tiết dạy có ứng dụng CNTT còn lúng túng, chưa xác định hướng
ứng dụng CNTT trong dạy học. Chính sách, cơ chế quản lý còn nhiều bất cập, chưa tạo

được sự đồng bộ trong thực hiện. Các phương tiện, thiết bị phục vụ cho việc đổi mới
PPDH sử dụng CNTT (phương tiện chiếu projector,…) còn thiếu, chưa đồng bộ và
chưa hướng dẫn sử dụng nên khó triển khai rộng khắp, hiệu quả.

-

Việc kết nối, sử dụng Internet chưa được thực hiện triệt để và có chiều sâu; sử dụng
không thường xuyên do thiếu kinh phí, do tốc độ đường truyền chậm. Công tác đào
tạo, công tác bồi dưỡng, tự bồi dưỡng đội ngũ GV chỉ mới dừng lại ở việc xoá mù tin
học nên GV chưa đủ kiến thức, mất nhiều thời gian và công sức để sử dụng CNTT
trong lớp học một cách có hiệu quả.
1.3.2.Các hình thức ứng dụng ICT trong dạy học
Hiện nay trên thế giới, người ta phân biệt rõ ràng hai hình thức ứng dụng ICT
trong dạy và học, đó là Computer Base Training (CBT: dạy dựa vào máy tính) và Elearning (học dựa vào máy tính).[1]

-

CBT: là hình thức GV sử dụng máy vi tính trên lớp, kèm theo các trang thiết bị như
máy chiếu, các thiết bị đa phương tiện để hỗ trợ truyền tải kiến thức đến HS, kết hợp
với phát huy những thế mạnh của các phần mềm máy tính như hình ảnh, âm thanh,
các tư liệu phim ảnh, sự tương tác giữa người và máy.

-

E-learning là hình thức HS sử dụng máy tính để tự học các bài giảng mà GV soạn sẵn,
hoặc xem những đoạn phim về tiết dạy của các GV hay trao đổi trực tuyến với GV
thông qua mạng Internet.
Điểm khác biệt giữa E-learning và CBT là E-learning lấy người học làm trung
tâm, người học tự làm chủ quá trình học tập của mình. Còn CBT là hình thức hỗ trợ
cho GV, lấy người dạy làm trung tâm và cơ bản vẫn dựa trên mô hình lớp học cũ. Ở

nước ta hiện nay, ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) vào đổi mới PPDH đã được
nghiên cứu và thử nghiệm, trong đó có một số mô hình được đánh giá là thành công
21


như “Teaching and Learning with computer” của công ty IBM và “Teaching to the
Future” của công ty Intel.
Căn cứ vào tình hình thực tiễn và những thành tựu nêu trên, có thể nhận định
rằng ngành giáo dục phổ thông nước ta chỉ đang phát triển ở hình thức CBT. Vì vậy,
phương hướng phấn đấu và phát triển tiếp theo sẽ là tích hợp ICT vào quá trình dạy
học. Đồng thời đổi mới dần PPDH và xây dựng một mô hình giáo dục hiện đại mới
phù hợp hơn, trong đó việc phát triển và đẩy mạnh sử dụng E-learning trong giáo dục
là mục tiêu cần đạt được. Tuy nhiên, việc học theo E-learning (học thông qua mạng
Internet) lại còn quá mới mẻ so với HS THPT và không giúp HS hiểu được cặn kẽ vấn
đề. Phương pháp webquest chính là sự kết hợp cả hai cách ứng dụng ICT trên, vừa
giúp HS tự tiếp cận kiến thức thông qua mạng Internet và trang WebQuest, vừa giúp
HS hiểu sâu sắc vấn đề khi GV tổng kết, giải quyết những vấn đề HS hiểu lệch hoặc
chưa hiểu tới ngay tại buổi báo cáo của HS.
1.4.TỔNG QUAN VỀ PHƯƠNG PHÁP WEBQUEST VÀ TRANG WEBQUEST
1.4.1. Phương pháp dạy học WebQuest
Cùng với việc ra đời và phổ biến của internet, ngày nay việc thu thập và xử lý
thông tin trên mạng là một kỹ năng cần thiết trong nghiên cứu và học tập cũng như
trong lao động nghề nghiệp. Việc ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng internet
trong dạy học ngày càng trở nên quan trọng. Tuy nhiên, việc học sinh truy cập thông
tin một cách tự do trên mạng internet trong dạy học có những nhược điểm chủ yếu là:
- Việc tìm kiếm thường kéo dài vì lượng thông tin trên mạng lớn, dễ bị chệch
hướng khỏi bản thân đề tài.
- Nhiều tài liệu được tìm ra với nội dung chuyên môn không chính xác, có thể dẫn đến
“nhiễu thông tin”.
- Chi phí quá lớn cho việc đánh giá và xử lý thông tin trong dạy học.

- Việc tiếp thu kiến thức qua truy cập thông tin trên mạng có thể chỉ mang tính thụ
động mà thiếu sự đánh giá, phê phán của người học.
Để khắc phục những nhược điểm trên người ta đã phát triển phương pháp WebQuest.
1.4.1.1. Khái niệm phương pháp dạy học WebQuest
Ngày nay WebQuest được sử dụng rộng rãi trên thế giới, trong giáo dục phổ
thông cũng như đại học. Có rất nhiều định nghĩa về WebQuest tuy nhiên giới hạn lại
có thể hiểu WebQuest là một trang Web trợ giúp học tập, trong đó các nội dung học tập
22


được đưa ra dưới dạng câu hỏi đồng thời cung cấp nguồn tài liệu tham khảo (chủ yếu
từ internet) để học sinh có thể sử dụng trả lời các câu hỏi đó.
Theo nghĩa hẹp, WebQuest được hiểu như một phương pháp dạy học (WebQuest
- Method), theo nghĩa rộng, WebQuest được hiểu như một mô hình, một quan điểm về
dạy học có sử dụng mạng internet.
WebQuest cũng là bản thân đơn vị nội dung dạy học được xây dựng để sử dụng
phương pháp này và là trang WebQuest được đưa lên mạng. Khi gọi WebQuest là một
phương pháp dạy học, cần hiểu đó là một phương pháp phức hợp, trong đó có thể sử
dụng những phương pháp cụ thể khác nhau. Với tư cách là một phương pháp dạy học,
có thể định nghĩa WebQuest như sau:
WebQuest là một phương pháp dạy học mới, được xây dựng trên cơ sở phương
tiện dạy học mới là công nghệ thông tin và Internet. Trong tiếng Việt chưa có cách
dịch hoặc dùng thuật ngữ thống nhất cho khái niệm này. Trong tiếng Anh, Web ở đây
nghĩa là mạng, Quest nghĩa là tìm kiếm, khám phá. Dựa trên thuật ngữ và bản chất của
khái niệm có thể gọi WebQuest là phương pháp “khám phá trên mạng”. WebQuest là
một dạng đặc biệt của dạy học sử dụng truy cập mạng Internet.
WebQuest là một phương pháp dạy học, trong đó học sinh tự lực thực hiện trong
nhóm một nhiệm vụ về một chủ đề phức hợp, gắn với tình huống thực tiễn. Những
thông tin cơ bản về chủ đề được truy cập từ những trang liên kết (Internet links) do
giáo viên chọn lọc từ trước. Việc học tập theo định hướng nghiên cứu và khám phá,

kết quả học tập được học sinh trình bày và đánh giá.
WebQuest có thể chia thành các WebQuest lớn và các WebQuest nhỏ:
- WebQuest lớn: xử lý một vần đề phức tạp trong một thời gian dài (ví dụ cho đến một
tháng), có thể coi như một dự án dạy học.
- WebQuest nhỏ: trong một vài tiết học (ví dụ 2 đến 4 tiết), học sinh xử lý một đề tài
chuyên môn bằng cách tìm kiếm thông tin và xử lý chúng cho bài trình bày, tức là các
thông tin chưa được sắp xếp sẽ được lập cấu trúc theo các tiêu chí và kết hợp vào kiến
thức đã có trước của các em.
WebQuest có thể được sử dụng ở tất cả các loại hình trường học. Điều kiện cơ
bản là học sinh phải có kỹ năng đọc cơ bản và có thể tiếp thu, xử lý các thông tin dạng
văn bản. Bên cạnh đó, học sinh cũng phải có những kiến thức cơ bản trong thao tác với
máy tính và Internet.
23


WebQuest có thể sử dụng cho mọi môn học. Ngoài ra, WebQuest rất thích hợp
cho việc dạy liên môn.
1.4.1.2. Đặc điểm của việc học tập với phương pháp webquest
Dạy học với phương pháp webquest có những đặc điểm riêng khác với các
phương pháp khác:
Chủ đề dạy học: chủ đề phải gắn với tình huống thực tiễn và mang tính phức hợp, có thể là
những tình huống lịch sử mang tính điển hình, hoặc những tình huống có tính thời sự. Những tính
huống này có thể được xem xét dưới nhiều phương diện khác nhau và có thể có nhiều quan điểm để
giải quyết.
Định hướng hứng thú HS: Nội dung của chủ đề và PPDH phải định hướng vào hứng thú, tích
cực hoá động cơ học tập của HS.
Tính tự lực cao của người học: Quá trình học tập là quá trình tự điều khiển, HS cần tự lực hoàn
thành nhiệm vụ được giao, tự điều khiển và tham gia vào quá trình kiểm tra, đánh giá. HS sẽ chủ động
tiếp cận và lĩnh hội kiến thức, tự giác hơn trong học tập, GV chỉ đóng vai trò là người tư vấn, hướng
dẫn.

Quá trình học tập là quá trình tích cực và kiến tạo: Khác với việc truy cập mạng thông
thường nhằm thu thập thông tin, trong phương pháp webquest HS cần lấy và xử lý thông tin thông qua
trang WebQuest nhằm giải quyết nhiệm vụ đề ra (tích cực). HS cần có quan điểm riêng dựa trên cơ sở
lập luận để trả lời câu hỏi hoặc giải quyết vấn đề (kiến tạo).
Quá trình học tập mang tính xã hội và tương tác: Hình thức làm việc trong webquest chủ yếu
là làm việc nhóm, do đó việc học tập mang tính xã hội và tương tác. HS có thể rèn luyện tính cộng đồng,
biết trình bày quan điểm và lắng nghe phản hồi cũng như nhận xét quan điểm của bạn bè và của chính
mình.
Quá trình học tập định hướng nghiên cứu và khám phá: Để giải quyết vấn đề đặt ra HS cần
áp dụng các phương pháp làm việc theo kiểu nghiên cứu và khám phá. Những hoạt động điển hình
của HS trong phương pháp webquest là tổng kết, đánh giá, hệ thống hóa, trình bày trong sự trao đổi
với những HS khác. HS cần thực hiện và từ đó phát triển những khả năng tư duy như: so sánh, phân
loại, suy luận, kết luận, phân tích sai lầm, chứng minh…
1.4.1.3. Cấu trúc của một WebQuest
Một WebQuest thường gồm các phần:
Giới thiệu (Introduction)
Nhiệm vụ (Task)
24


Tiến trình (Process)
Nguồn tài liệu (Resources)
Đánh giá (Evaluation)
Kết luận (Conclusion).

25


×