Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Tìm hiểu về tín dụng nhà nước công tác huy động vốn trong nước và nước ngoài lấy số liệu minh họa tại địa phương các dự án vay nước ngoài để phát triển và mức độ tác động đến nợ công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.44 KB, 31 trang )

MỤC LỤC

1


Trong giai đoạn hiện nay, vốn là một hoạt động vật chất quan trọng cho mọi
hoạt động của nền kinh tế. Nhu cầu về vốn đang nổi lên như một vấn đề cấp
bách, trong đó đầu tư và tăng trưởng vốn là một cặp phạm trù của tăng trưởng
kinh tế. Do đó, để thực hiện chiến lược phát triển nền kinh tế trong giai đoạn
hiện nay ở nước ta cần đến một lượng vốn lớn.
Vốn cho phát triển kinh tế - xã hội chính là tiền đề để duy trì những thành
quả đã đạt được của nền kinh tế nhờ mấy năm đổi mới vừa qua, đồng thời giữ
vững nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao, tránh cho đất nước rơi vào tình trạng tụt
hậu so với nhiều nước láng giềng trong khu vực và trên thế giới. Trong giai đoạn
hiện nay, nước ta đang tìm mọi cách khơi dậy mọi nguồn vốn trong nước từ
người dân , từ việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đã có tại các cơ sở quốc
doanh, từ nguồn vốn nước ngoài ODA ( hỗ trợ phát triển chính thức ), NGOs
( nguồn viện trợ của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài ) và đầu tư trực tiếp
nước ngoài FDI. Tuy nhiên cần thấy rõ nguồn vốn trong nước là chủ yếu, nguồn
vốn trong nước vừa phong phú vừa chủ động nằm trong tầm tay. Hơn nữa,
nguồn vốn trong nước chính là tiền đề cũng như điều kiện để “đón” các nguồn
vốn từ nước ngoài. Ngược lại, nguồn vốn nước ngoài sẽ không huy động được
nhiều và sử dụng có hiệu quả khi thiếu nguồn vốn “bạn hàng” trong nước.
Mặc dù điều kiện quốc tế thuận lợi đã mở ra những khả năng to lớn để huy
động nguồn vốn từ bên ngoài, nhưng nguồn vốn ở trong nước được xem là quyết
định cho sự phát triển bền vững và độc lập của nền kinh tế.
Qua nghiên cứu thực tế, với cơ sở kiến thức đã tích lũy được trong thời gian
qua, em nhận thấy tầm quan trọng của việc huy động vốn đầu tư trong nước và
nước ngoài, cũng như hoạt động tín dụng đảm bảo nhu cầu về vốn phục vụ cho
phát triển kinh tế VN trong giai đoạn hiện nay. Xuất phát từ tính cấp thiết của
vấn đề này, em đã chọn chuyên đề: “Tìm hiểu về tín dụng nhà nước? Công tác


huy động vốn trong nước và nước ngoài? Lấy số liệu minh họa tại địa phương
các dự án vay nước ngoài để phát triển và mức độ tác động đến Nợ công?”
Nội dung của chuyên đề này bao gồm các nội dung sau:
2


Phần 1: Tìm hiểu về tín dụng nhà nước.
Phần 2: Công tác huy động vốn trong nước và nước ngoài.
Phần 3: Các dự án vay nước ngoài tại Hải Phòng và mức độ tác động đến Nợ
công.

3


PHẦN 1. TÌM HIỂU VỀ TÍN DỤNG NHÀ NƯỚC
I. Những vấn đề chung về tín dụng:
Tín dụng là một phạm trù kinh tế gắn liền với kinh tế hàng hóa. Sự ra đời
và tồn tại của nó bắt nguồn từ đặc điểm của chu chuyển vốn tiền tệ và sự cần
thiết sinh lợi đối với vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi và nhu cầu vốn nhưng chưa
tích lũy kịp dẫn đến sự hình thành quan hệ cung cầu tiền tệ giữa người đi vay và
người cho vay, do đó tín dụng xuất hiện, tồn tại như là một sự cần thiết khách
quan trong nền kinh tế.
1.

Khái niệm:
Tín dụng là các quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng
quỹ tín dụng nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu vốn tạm thời cho quá trình tái
sản xuất và đời sống theo nguyên tắc hoàn trả.

2.


Bản chất của tín dụng:
Tín dụng tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau. Ở bất cứ
phương thức sản xuất nào tín dụng cũng biểu hiện ra bên ngoài là sự vay mượn
tạm thời một vật hoặc một số vốn tiền tệ, nhờ vậy mà người ta có thể sử dụng
được giá trị của hàng hóa trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua trao đổi.
Để vạch rõ bản chất của tín dụng cần thiết phải nghiên cứu liên hệ kinh tế
của tín dụng trong quá trình hoạt động của tín dụng và mối liên hệ của nó với
quá trình tái sản xuất. Về sự vận động của tín dụng, tín dụng là mối quan hệ kinh
tế giữa người cho vay và người đi vay, giữa họ có mối liên hệ với nhau, thông
qua vận động giá trị vốn, tín dụng được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ. Hoặc
quá trình vận động của nó thông qua các quá trình sau:

-

Thứ nhất: Phân phối vốn tín dụng dưới hình thức cho vay.

-

Thứ hai: Sử dụng vốn tín dụng trong quá trình tái sản xuất.

-

Thứ ba: Sự hoàn trả của tín dụng. Đây là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn
của tín dụng.
Sự hoàn trả của tín dụng là đặc trưng thuộc về bản chất vận động của tín
dụng, là dấu ấn phân biệt tín dụng với các phạm trù kinh tế khác.
4



3.

Chức năng của tín dụng:
Là một bộ phận của hệ thống tài chính, quan hệ tín dụng cũng có chức năng
như sau:

-

Chức năng phân phối của tín dụng được thực hiện thông qua phân phối lại vốn.
Phân phối của tín dụng dựa trên cơ sở tự nguyện theo nguyên tắc hoàn trả và có
hiệu quả. Nội dung của chức năng này biểu hiện ở cơ chế huy động các nguồn
vốn tiền tệ nhàn rỗi, phân tán trong xã hội để cho vay, đưa nó vào hoạt động sản
xuất kinh doanh và tiêu dùng, thu hồi vốn cho vay theo kỳ hạn và “tham dự phân
phối” ở các cơ sở đi vay theo số lượng cho vay với tỷ suất lợi tức đã ghi trong
hợp đồng.

-

Chức năng kiểm soát các hoạt động kinh tế của tín dụng có liên quan đến đặc
điểm quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng vốn, đến mối quan hệ giữa người cho
vay và người đi vay thông qua sự quản lý của Nhà nước.

-

Người có vốn cho vay luôn quan tâm đến sự an toàn của vốn, không những thế,
họ còn mong muốn vốn của họ khi sử dụng có khả năng sinh lợi để họ có thể thu
về thêm khoản lợi tức. Muốn vậy, người cho vay phải am hiểu và kiểm soát hoạt
động của người đi vay, từ khâu xem xét tư cách pháp nhân người vay, tình hình
vốn, mặt hàng sản xuất kinh doanh cả về chất lượng và số lượng, khả năng trả
nợ nói riêng và tình hình tài chính nói chung, quan hệ với các chủ nợ khác…

Sau khi xem xét tư cách pháp nhân để cho vay, người cho vay còn phải kiểm
soát việc sử dụng vốn cho vay có đúng mục đích không, có hiệu quả không để
điều chỉnh lượng vốn và để thu hồi vốn đúng thời hạn, kèm theo lợi tức.

4.

Vai trò của tín dụng trong nền kinh tế thị trường:
Để thực hiện tốt các chức năng trên, tín dụng có vai trò sau:
a, Hoạt động tín dụng đảm bảo nhu cầu về vốn cho nhu cầu sản xuất
kinh doanh vŕ nhu cầu tięu důng cho các cá nhân trong nền kinh tế:

5


Thừa thiếu vốn tạm thời thường xuyên xảy ra ở các doanh nghiệp. Việc
phân phối vốn tín dụng đã góp phần điều hòa trong toàn bộ nền kinh tế, tạo điều
kiện cho quá trình sản xuất được liên tục.
Ngoài ra tín dụng còn là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, là động lực kích
thích tiết kiệm đồng thời là phương tiện cung cấp vốn cho đầu tư phát triển.
Trong nền kinh tế sản xuất hàng hóa, tín dụng là một trong những nguồn hình
thành vốn lưu động và cố định của các doanh nghiệp. Vì vậy tín dụng đã góp
phần động viên vật tư đi vào sản xuất, thúc đẩy ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất để đẩy nhanh quá trình tái sản xuất.
Riêng trong điều kiện nước ta hiện nay, cơ cấu kinh tế còn mất cân đối, lạm
phát và thất nghiệp vẫn còn ở mức độ cao. Vì vậy, thông qua việc đầu tư tín
dụng sẽ góp phần sắp xếp và tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế hợp
lý.
Mặt khác, thông qua hoạt động tín dụng mà sử dụng nguồn lao động và
nguồn nguyên liệu một cách hợp lý, thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế, đồng
thời góp phần giải quyết các vấn đề xã hội.

b, Thông qua hoạt động tín dụng, các tổ chức tín dụng tăng cường
giám sát đối với khách hàng vay vốn, từ đó nâng cao hiệu quả chung trong
toàn bộ nền kinh tế.
c, Thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất:
Hoạt động của ngân hàng là tập trung vốn tiền tệ tạm thời chưa sử dụng, mà
vốn này nằm phân tán ở khắp mọi nơi, trong tay các nhà doanh nghiệp, các cơ
quan nhà nước và của cá nhân, trên cơ sở đó cho các đơn vị kinh tế vay. Tuy
nhiên, quá trình đầu tư tín dụng không phải rải đều cho mọi chủ thể có nhu cầu,
mà việc đầu tư được tiến hành một cách tập trung, chủ yếu là cho các doanh
nghiệp lớn, những doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Đầu tư tập trung là quá
trình tất yếu, vừa đảm bảo tránh rủi ro tín dụng, vừa thúc đẩy quá trình tăng
trưởng kinh tế.

6


d, Tín dụng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và
ngành mũi nhọn:
Trong điều kiện nước ta nông nghiệp là ngành sản xuất đáp ứng nhu cầu
cần thiết cho xã hội, là ngành chịu tác động nhiều nhất của quá trình tự nhiên và
là ngành đang trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Vì vậy, trong giai
đoạn trước mắt, nhà nước cần tập trung đầu tư phát triển nông nghiệp để giải
quyết những nhu cầu tối thiểu của xã hội, đồng thời tạo điều kiện để phát triển
các ngành kinh tế khác.
Bên cạnh đó, nhà nước cần tập trung tín dụng để tài trợ cho các ngành kinh
tế mũi nhọn, nhằm tạo cơ sở và lôi cuốn các ngành kinh tế khác.
e, Góp phần tác động đến việc tăng cường chế độ hạch toán kinh tế của
các doanh nghiệp:
Đặc trưng cơ bản của tín dụng là hoạt động trên cơ sở hoàn trả và có lợi
tức. Vì vậy, hoạt động của tín dụng đã góp phần kích thích sử dụng vốn vay có

hiệu quả. Khi sử dụng vốn vay ngân hàng thì các doanh nghiệp phải tôn trọng
hoạt động tín dụng, tức là phải đảm bảo hoàn trả nợ vay theo đúng thời hạn và
tôn trọng các điều kiện khác đã ghi trong hợp đồng tín dụng. Bằng cách tác động
như vậy, đòi hỏi doanh nghiệp phải quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn, giảm chi phí sản xuất, tăng vòng quay của vốn, tạo điều kiện để nâng
cao doanh lợi doanh nghiệp.
II. Tín dụng nhà nước:
1.

Khái niệm:
Tín dụng nhà nước ( TDNN ) là quan hệ tín dụng giữa một bên là nhà nước
và một bên là các thành phần khác của nền kinh tế và nhà nước là người đi vay.
Chủ thể trong quan hệ TDNN bao gồm người đi vay là nhà nước trung
ương, nhà nước địa phương. Người cho vay là dân chúng, các tổ chức kinh tế và
ngân hàng nước ngoài. Trong nền kinh tế nhà nước là một chủ thể có ngân sách
riêng và kho bạc nhà nước là người đại diện thực hiện các khoản thu và chi ngân
sách.
7


Thu và chi ngân sách có thể diễn ra trong ba trường hợp sau:
-

Thăng bằng ngân sách: Là trường hợp các khoản thu ngân sách đúng bằng các
khoản chi ngân sách. Trong các khoản thu và chi này không tính các khoản vay
nợ và trả nợ.

-

Thặng dư ngân sách: Là trường hợp mà thu lớn hơn các khoản chi ròng. Phần

thặng dư có thể sử dụng để trả các khoản nợ đã vay trong các tài khoản trước
hoặc gửi vào ngân hàng để dùng cho các mục đích sau này.

-

Thiếu hụt ngân sách: Là các khoản thu nhỏ hơn các khoản chi ròng. Để bù đắp
các khoản chi này, kho bạc nhà nước phải đi vay phần thiếu hụt đó. Như vậy,
mục đích đi vay của tín dụng nhà nước là bù đắp khoản bội chi ngân sách.

2.

Phân loại:
Tín dụng nhà nước phân ra hai loại:

-

Tín dụng ngắn hạn: Là khoản vay ngắn hạn của kho bạc nhà nước để bù đắp các
khoản bội chi tạm thời. Ví dụ, đầu năm ngân sách cần khoản chi ngay, nhưng
tạm thời chưa có các khoản thu, cần phải đi vay để bù đắp, thời hạn vay thường
dưới một năm. Tín dụng ngắn hạn của nhà nước được thực hiện bằng cách phát
hành kỳ phiếu kho bạc.

-

Tín dụng dài hạn: Là các khoản vay dài hạn của kho bạc nhà nước. Thời hạn
thường từ 5 năm trở lên, việc đi vay dài hạn được thực hiện bằng việc phát hành
công trái.

3.


Ưu và nhược điểm của tín dụng nhà nước:
a, Ưu điểm:

-

Đây là hình thức tín dụng có ưu thế tuyệt đối, là con đường tốt nhất không dẫn
đến lạm phát và các vấn đề kinh tế xã hội.

-

Góp phần ổn định kinh tế xã hội và nâng cao phúc lợi xã hội.

-

Đây là hình thức tín dụng mà nhà nước không bao giờ phải trả nợ, việc thanh
toán sẽ được thực hiện bằng cách phát hành ra đợt mới để trả nợ cũ.

8


-

Việc mua công trái đem lại cho người nông dân những khoản thu nhập và hơn
nữa mua công trái tương tự như gửi tiết kiệm nhưng có thể giàu lên một cách
nhanh chóng mà không phải chịu rủi ro.
b, Nhược điểm:
Tín dụng nhà nước có thể dẫn đến tình trạng chen lấn đầu tư của tư nhân do
gây sức ép tăng lãi suất khiến cho đầu tư của tư nhân giảm xuống trong trường
hợp mức độ huy động tín dụng nhà nước không hợp lý.
III. Kết luận

Tình hình tăng trưởng tín dụng trong các năm từ 2001 - 2012

Qua những phân tích trên, có thể thấy quan hệ tín dụng có vai trò rất quan
trọng trong nền kinh tế nói chung và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa Việt Nam nói riêng. Nó như một loại dầu nhớt bôi trơn giúp cho cỗ
máy nền kinh tế vận hành một cách hiệu quả. Nhìn từ khía cạnh kinh tế thì quan
hệ tín dụng góp phần tạo ra nhiều của cải hơn cho xã hội do nó làm tăng vòng
chu chuyển của tiền tệ, giảm thiểu lượng tiền nhàn rỗi trong xã hội. Còn nhìn từ
khía cạnh xã hội thì quan hệ tín dụng cũng có nhiều ưu điểm mang tính tích cực.
Tuy nó không phải là nhân tố trực tiếp tác động nâng cao đời sống của dân cư
nhưng nhờ có nó mà của cải xã hội được tạo ra nhiều hơn, như vậy một cách
gián tiếp quan hệ tín dụng đã tạo ra tiền đề vật chất để nâng cao đời sống nhân
dân, giúp chất lượng cuộc sống được cải thiện. Và đó cũng chính là mục tiêu mà
9


toàn Đảng toàn dân ta đang phấn đấu thực hiện, mang lại một cuộc sống ấm no
hạnh phúc cho nhân dân.
Trong thời gian qua, tuy đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ nhưng
quan hệ tín dụng ở Việt Nam cũng đã bộc lộ những điểm hạn chế nghiêm trọng.
Tình trạng đó do nhiều nguyên nhân, chủ quan có, khách quan có. Nhưng để
thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì ta
cần tiếp tục tích cực tiến hành đổi mới, hoàn thiện quan hệ tín dụng, để phát huy
hơn nữa những thành tựu và hạn chế tới mức thấp nhất những điểm yếu trong
quan hệ tín dụng ở VN.
Hiện nay, xu hướng thế giới là toàn cầu hóa, nền kinh tế thế giới là một nền
kinh tế mở, việc thông thương ngày càng trở nên không có biên giới. Chúng ta
cùng hy vọng rằng dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước sẽ tận
dụng được những thời cơ, đẩy lùi những thách thức, làm cho nền kinh tế ngày
càng phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, nhanh chóng đưa

nước ta vững bước đi lên con đường xã hội chủ nghĩa.

10


PHẦN 2. CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN
TRONG NƯỚC VÀ NƯỚC NGOÀI
I. Những vấn đề lý luận về vốn phục vụ cho phát triển kinh tế VN:
Trước hết, vốn là điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển sản xuất, đồng
thời là cơ sở để phân phối lợi nhuận và đánh giá hiệu quả các hoạt động kinh tế.
Nó bao gồm những nguồn vật tư và tài sản trong các doanh nghiệp, nguồn tiền
mặt hoặc các tài sản khác dự trữ của người dân. Vì vậy, chính sách tạo vốn cơ
bản phải tuân thủ nguyên tắc lợi ích của người có vốn và do đó, việc sử dụng
vốn nhất thiết phải tuân thủ nguyên tắc hiệu quả kinh tế.
Mục tiêu của chính sách tạo vốn trước hết và chủ yếu là tạo ra môi trường
kinh tế và tiền đề pháp lý để biến mọi nguồn tiền tệ thành tư bản sinh lợi và tăng
trưởng trong quá trình tái sản xuất xã hội. Các nguồn chủ yếu bao gồm: vốn đầu
tư kinh tế của nhà nước, vốn tự có của các doanh nghiệp, vốn bằng tiền và tiền
nhàn rỗi của dân cư và vốn của các doanh nghiệp, tổ chức tài chính quốc tế.
Trong giai đoạn hiện nay, vốn là yếu tố vật chất quan trọng nhất cho tăng
trưởng. Để tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế từ 7-8% thì cần tích lũy một lượng
vốn từ 20-25% GDP. Nếu trong những năm tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế là
hai con số trong vài thập niên tới thì cần tỷ lệ tích lũy vốn phải lên tới trên 30%
GDP. Đây là một nhu cầu lớn cần phải giải quyết để khai thác nguồn vốn đặc
biệt là nguồn vốn trong nước.
Vốn ngân sách nhà nước một thời gian giảm xuống nay đã bắt đầu tăng lên,
năm 1990 là 20% thì tới năm 1994 đã tăng lên 44% ngân sách. Để đạt được kết
quả đó thì nguyên nhân cơ bản là chính sách thuế đã được cải cách một cách
toàn diện và thu được nhiều kết quả cho ngân sách. Năm 1990 thu ngân sách từ
thuế phí chiếm 73,69%, năm 1993 phần thu đó là 93,8%. Nếu so với GDP thì

các tỷ trọng tương tự là 17,3% và 17,06%. Vốn huy động từ các nguồn khác
cũng có xu hướng tăng do chính sách khuyến khích đầu tư tư nhân và tạo dựng
được môi trường đầu tư cho mọi thành phần kinh tế phát triển.

11


Trong việc huy động vốn để đầu tư phát triển, chúng ta cần phải khẳng định
nguồn vốn trong nước đóng vai trò quan trọng và quyết định. Mặc dù nguồn vốn
này còn thấp so với vốn dài hạn, khó huy động trong hiện tại, nhưng theo ý kiến
của các chuyên gia trong và ngoài nước, cùng với kinh nghiệm của các nước
đang phát triển cho thấy: Nguồn vốn trong nước vẫn là nguồn vốn có tính chất
quyết định, người dân trong nước vẫn chưa dám bỏ vốn ra đầu tư thì người nước
ngoài cũng chưa mạnh dạn bỏ vốn đầu tư vào VN.
Điều mà ai cũng có thể đồng ý với nhau là một nền kinh tế kém phát triển
có thể cất cánh được hay không còn phụ thuộc vào sự tham gia của các nguồn
vốn từ nước ngoài. Có thể thấy vai trò của nguồn vốn bên ngoài có ý nghĩa quan
trọng nhằm hỗ trợ khai thông những cản ngại, tạo sức bật cho nền kinh tế phát
triển. Vì vậy chúng ta nên nỗ lực huy động nguồn vốn từ bên ngoài dưới nhiều
hình thức khác nhau.
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài có tầm quan trọng đặc biệt với phần lớn các
nước đang phát triển và là điều kiện để nhanh chóng thiết lập các quan hệ kinh
tế quốc tế, gắn thị trường nội địa với thị trường thế giới trên cả bốn mặt: thị
trường hàng hóa, thị trường tài chính, thị trường lao động và thị trường thông
tin. Vì vậy, phải xây dựng một chiến lược kinh tế đối ngoại đúng đắn, phù hợp
với những chuyển biến to lớn về kinh tế, chính trị - xã hội và khoa học hiện nay.
Cần có chính sách tài chính thích hợp để khuyến khích đầu tư nước ngoài dưới
hình thức vay nợ, đầu tư tài chính, đầu tư trực tiếp, mở chi nhánh kinh doanh,
thuê chuyên gia… Thực hiện chế độ tài chính ưu tiên như thuế nhập khẩu vật tư
kỹ thuật, dịch vụ thông tin, thuế xuất nhập khẩu thành phẩm, thuế thu nhập,

quyền được đảm bảo tài sản, điều kiện chuyển lợi nhuận và vốn về nước và các
dịch vụ đầu tư ưu đãi khác. Khuyến khích đặc biệt đối với đầu tư nước ngoài
cho các công trình cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc, công nghệ mũi nhọn, các
ngành sử dụng nhiều lao động và những dự án khai thác tài nguyên có số vốn
khổng lồ. Mở rộng thị trường hối đoái bằng cách cho phép nhiều ngân hàng
thương mại có đủ điều kiện về vốn và nghiệp vụ, được kinh doanh ngoại hối và
12


thực hiện dịch vụ thanh toán ngoại thương nhanh chóng, thuận lợi cho các doanh
nghiệp trong và ngoài nước.
Tóm lại, việc kết hợp giữa “khơi trong” và “hút ngoài”, giữa vốn tập trung
của Nhà nước và vốn doanh nghiệp ( có được từ mọi nguồn ) theo một định
hướng đầu tư đúng đắn, trong một cơ chế hoạt động tài chính thích hợp với từng
giai đoạn phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta là yếu tố có ý
nghĩa quyết định đối với việc củng cố và làm lành mạnh nền tài chính quốc gia,
đồng thời cũng là nhân tố tạo nên bước chuyển biến có ý nghĩa cơ bản của công
cuộc đổi mới cơ chế kinh tế.
II. Công tác huy động vốn trong nước và nước ngoài của VN trong thời
gian vừa qua:
1.

Thực trạng huy động vốn trong nước
Thực trạng huy động vốn trong nước của VN được phản ánh thông qua thị
trường vốn những năm gần đây, cụ thể:
a,Thị trường vốn tín dụng ngân hàng:
Sau khi trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO),
Việt Nam đã quan tâm đến việc tái cấu trúc thị trường tài chính nói chung và thị
trường vốn nói riêng, phù hợp với thông lệ quốc tế. Các chủ thể tham gia thị
trường cũng được cải thiện về năng lực tài chính, quy mô, quản trị rủi ro, để

từng bước tham gia vào chuỗi kinh tế toàn cầu. Với độ mở của nền kinh tế và thị
trường vốn, đầu tư xã hội đã có sự bứt phá mạnh mẽ, đặc biệt là đầu tư trực tiếp
nước ngoài, đã đưa Việt Nam lên nhóm các nước có quy mô đầu tư xã hội trên
GDP cao nhất thế giới.
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, tổng đầu tư xã hội sau 4 năm hội
nhập WTO đều ở mức cao; Đầu tư ngoài nhà nước cũng tăng mạnh; Xuất nhập
khẩu liên tục ghi nhận các kỷ lục mới; đưa Việt Nam thoát ra khỏi nhóm nước
có thu nhập thấp vào năm 2011. Những động thái này đã tạo cung vốn lớn cho
nền kinh tế thông qua thị trường vốn. Mặt khác, các chủ thể tham gia trên thị
trường (ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, DN, các quỹ đầu tư...) cần
13


phải tăng quy mô hoạt động, cải thiện tiềm lực tài chính, mở rộng sản xuất, áp
dụng công nghệ trong kinh doanh để nâng cao năng suất lao động.
Điều này đã tạo ra những cơ hội phát triển mới về phía cầu. Tuy nhiên, do thị
trường vốn Việt Nam lệ thuộc lớn vào chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, khi
kinh tế vĩ mô bất ổn, lạm phát tăng cao, chính sách tài chính – tiền tệ điều hành
theo hướng thắt chặt để đạt mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô nên mặt
bất lợi của chính sách thắt chặt đã tác động tiêu cực đến thị trường vốn. Có thể
thấy rõ sự biến động thất thường của TTCK cũng như thị trường vốn tín dụng
ngân hàng, những rủi ro tiềm ẩn từ nội tại các chủ thể tham gia thị trường, tình
trạng sở hữu chéo giữa DN với ngân hàng, giữa ngân hàng với công ty bảo
hiểm, chứng khoán, giữa các ngân hàng với nhau…
Đến nay, hệ thống ngân hàng vẫn đóng vai trò chi phối trên thị trường vốn.
Thị trường cổ phiếu tuy đã được chú ý phát triển song song với tiến trình cổ
phần hóa DN nhà nước (DNNN), nhưng quy mô thị trường cổ phiếu vẫn nhỏ.
Mức độ vốn hóa trên thị trường (của các công ty niêm yết) so với GDP đã được
cải thiện và đạt 39%/GDP vào năm 2010 nhưng lại giảm mạnh xuống còn 26%
vào năm 2012 (cho dù TTCK Việt Nam vẫn được đánh giá là một trong số các

nước có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới). Vì thế, khi tín dụng cho nền
kinh tế giảm, hệ số giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế giảm (năm
2010 là 4,8 lần, năm 2012 giảm còn 1,76 lần, 9 tháng năm 2013 chỉ còn 1,2 lần),
điều này đã ảnh hưởng lớn đến công việc làm của người lao động.
Mặc dù là thị trường cung cấp vốn chủ yếu cho DN nhưng do khó khăn từ
nền kinh tế, khó khăn từ nội tại các DN và ngân hàng, những điểm nghẽn của
nền kinh tế (nợ xấu, hàng tồn kho) không được giải quyết rốt ráo, trong khi giá
vốn rất cao (lãi suất cho vay bình quân năm 2012 ở mức 13-15%/năm, năm
2013 ở mức 10 -12%/năm), quá sức chịu đựng của DN. Tình trạng nhiều DN
không tiếp cận được vốn, trong khi hàng tồn kho tăng cao (năm 2012 bình quân
khoảng 28-30%; 9 tháng năm 2013 tăng bình quân 9,3%), năng lực cạnh tranh
thấp, kinh doanh thua lỗ (tính đến 30/9/2013, số DN kê khai lỗ chiếm gần 66%)
14


… dẫn đến nhiều DN phá sản, ngừng hoạt động, giải thể, kéo theo cầu về vốn
giảm mạnh, khiến tăng trưởng tín dụng năm 2012 chỉ dừng lại ở con số 8,91%
so với mục tiêu được. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đưa ra là 15-17%, 9 tháng
đầu năm 2013 tăng 6,14% so với chỉ tiêu 12%/năm. Nợ xấu và tốc độ tăng nợ
xấu. Điều này không có nghĩa là chất lượng nợ tốt lên mà do hệ thống ngân hàng
đã cơ cấu lại nợ, chiếm khoảng 10% tổng dư nợ, sử dụng dự phòng rủi ro để xử
lý khoảng 3%, bán nợ xấu qua Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng
Việt Nam (VAMC) khoảng 0,3%. Với những giải pháp xử lý này, nợ xấu của hệ
thống ngân hàng đã giảm xuống còn 4,64%.
b,Thị trường chứng khoán:
Mặc dù nền kinh tế vẫn còn phải đối mặt với không ít khó khăn nhưng kinh
tế vĩ mô dần ổn định đã góp phần tác động tích cực hơn đến tâm lý nhà đầu tư và
sự phát triển của TTCK. Kết thúc quý II/2013, thị trường cổ phiếu đã tăng khá
mạnh. Chỉ số VN-Index tăng lên mức 524,5 điểm với khối lượng giao dịch lên
tới hơn 94 triệu cổ phiếu, tương đương gần 1.661 tỷ đồng/phiên..Tuy nhiên, các

giao dịch trên thị trường không ổn định, dòng vốn nội có dấu hiệu chững lại do
thiếu thông tin hỗ trợ đủ mạnh, trong khi đó các quỹ đầu tư ngoại có những hoạt
động thoái vốn. Chỉ riêng trong tháng 6 và tháng 8/2013, khối ngoại đã bán ròng
với giá trị lần lượt là 1.543 tỷ đồng và 881 tỷ đồng, dẫn đến thị trường cổ phiếu
bị chững lại với nhịp giảm khá mạnh.. Như vậy, mặc dù vẫn được xem là thị
trường có tốc độ tăng trưởng khá so với năm 2012 nhưng TTCK vẫn tiềm ẩn
những rủi ro ngắn hạn, tính thanh khoản còn thấp. Thị trường trái phiếu DN vẫn
chưa phát triển, ngân hàng vẫn là thành viên chủ chốt tham gia thị trường này.
Những bất cập này đã hạn chế việc cung cấp vốn với giá cạnh tranh cho các DN.
2. Thực trạng huy động vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

Vốn đầu tư nước ngoài có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế Việt
Nam. Đó vừa là nguồn bổ sung vốn cho đầu tư, vừa là một cách để chuyển giao
công nghệ, cũng là một giải pháp tạo việc làm và thu nhập cho người lao động,
tạo nguồn thu cho ngân sách và thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu
15


kinh tế… Tuy nhiên, để huy động và sử dụng nguồn vốn này hiệu quả trong bối
cảnh kinh tế khó khăn hiện nay không hề dễ dàng.
Nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam được thể hiện dưới 04 hình thức
chính: (a) Đầu tư trực tiếp (FDI); (b) Đầu tư gián tiếp (FII); (c) Tín dụng quốc tế
(chủ yếu thu hút qua hình thức thu hút vốn ODA); (d) Nguồn kiều hối gửi về
Việt Nam hàng năm.
a, Nguồn vốn đầu tư trực tiếp (FDI):
Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn này, ngay từ năm 1987,
Chính phủ đã ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Từ đó, việc thu
hút nguồn vốn này đã đạt những thành tựu quan trọng.
Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến
hết tháng 11/2012, cả nước có 14.198 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đăng

ký là hơn 208,1 tỷ USD. Quá trình thu hút FDI có thể chia ra các giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1988-1990, Luật Đầu tư nước ngoài vừa mới ra đời. Vì vậy,
việc thu hút vốn FDI lúc này chưa tác động rõ rệt đến kinh tế - xã hội Việt Nam.
- Giai đoạn hai từ 1991-1997 là những năm diễn ra làn sóng FDI thứ nhất.
Giai đoạn này đã thu hút được 2.130 dự án với vốn đăng ký là hơn 33,4 tỷ USD,
vốn thực hiện 12,34 tỷ USD. Trong đó, chỉ riêng năm 1997, vốn thực hiện đã đạt
3,115 tỷ USD, gấp gần 9,5 lần năm 1991.
- Giai đoạn 1998-2004, do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài
chính khu vực, nên trong số 3.968 dự án mới trong giai đoạn này, phần lớn có
quy mô nhỏ. Nếu năm 1998 có hơn 5 tỷ USD vốn đăng ký, thì sang năm 1999
đã giảm còn một nửa với 2,565 tỷ USD và hồi phục dần đến năm 2004 là 4,547
tỷ USD.
- Giai đoạn 2005-2009, bắt đầu một làn sóng FDI thứ hai vào Việt Nam.
Đỉnh điểm là năm 2008 khi vốn đăng ký đạt hơn 71 tỷ USD.
- Giai đoạn từ năm 2010 đến nay, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài
chính - kinh tế toàn cầu, tình hình thu hút có chiều hướng giảm xuống. Cụ thể,
năm 2011, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đặt mục tiêu thu hút khoảng 20-21 tỷ USD
16


vốn FDI, nhưng kết quả là chỉ đạt 14,7 tỷ USD. Năm 2012, mặc dù đã giảm mục
tiêu thu hút xuống còn 15-17 tỷ USD, nhưng tính đến hết tháng 11, Việt Nam
mới thu hút được 12,181 tỷ USD, giảm 21,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Như
vậy, việc đạt mục tiêu này đang trở thành nhiệm vụ bất khả thi đối với Việt Nam.

17


Đầu tư trực tiếp (FDI) vào Việt Nam giai đoạn 2006-2011
Năm


Vốn đăng ký
Vốn thực hiện
Giá trị (triệu Tỷ lệ tăng so với Giá trị (triệu Tỷ lệ tăng so với

USD)
2006 (%)
USD)
2006
12.044
4.100
2007
21.348
77,8
8.030
2008
71.726
497.5
11.500
2009
23.107
92,5
10.000
1010
19.764
64,6
11.000
2011
14.696
22,4

11.000
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

2006 (%)
95,9
180,5
143,9
168,3
168,3

b, Nguồn vốn đầu tư gián tiếp (FII):
Các doanh nghiệp Việt Nam đang trong quá trình cải cách và cổ phần hoá
nhằm gia tăng năng lực và hiệu quả cạnh tranh khi gia nhập WTO. Cổ phần hoá
phải đi đôi với việc hình thành các thị trường vốn, các kênh huy động vốn (hạt
nhân là thị trường chứng khoán (TTCK)). Các mối quan hệ kinh tế gia tăng,
dòng vốn lưu chuyển nhanh sẽ góp phần tạo ra các hiệu ứng tốt đối với hoạt
động của các doanh nghiệp. Vì vậy, việc tham gia của các nhà đầu tư FII sẽ có
tác động mạnh mẽ đến thị trường tài chính, giúp cho thị trường tài chính minh
bạch và hoạt động hiệu quả hơn, xác lập giá trị thị trường của các cổ phiếu niêm
yết một cách chuyên nghiệp, giảm thiểu những giao động “phi thị trường”, góp
phần vào giải quyết một cách cơ bản các mối quan hệ kinh tế (vốn, công nghệ,
quản lý…).
Có thể chia quá trình thu hút nguồn vốn này ra các giai đoạn sau:
Giai đoạn 1991-1997: Tuy chưa có TTCK, FII đã vào Việt Nam từ những
năm đầu thập niên 90 thế kỷ XX. Thời gian này có 7 quỹ với số vốn khoảng 400
triệu USD; trong đó có 4 quỹ đại chúng niêm yết ở Anh, Ireland... Đây là những
quỹ mạo hiểm, sẵn sàng chấp nhận rủi ro.
Sau khi Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Mỹ, giá chứng chỉ các quỹ
này tăng và luôn cao hơn NAV (giá trị tài sản ròng). Hai năm 1996-1997, do tác
động của khủng hoảng tài chính châu Á, giá chứng chỉ của 4 quỹ niêm yết giảm

mạnh, mức chiết khấu từ 43,6-47,7% so với NAV. Lúc bấy giờ, số công ty cổ
18


phần hóa còn ít. Suốt những năm 1992-1998 cả nước chỉ có 38 doanh nghiệp tư
nhân được thành lập, 128 đơn vị được cổ phần hóa.
Giai đoạn 1997-2002: Khủng hoảng tài chính châu Á cũng có những tác
động tiêu cực tới thu hút vốn FII vào Việt Nam. Từ năm 1998-2002 không có
quỹ đầu tư mới ra đời. Trái lại, các quỹ “đua nhau” rút vốn, giảm quy mô: 5/7
quỹ rút khỏi Việt Nam; một quỹ thu hẹp 90% quy mô; chỉ còn duy nhất quỹ
Vietnam Enterprise Investment Fund (Veil) bám trụ.
Giai đoạn 2003 đến nay: Từ năm 2003, dòng vốn FII vào Việt Nam hồi
phục, tăng dần từng năm và tăng đột biến vào năm 2006-2007. Báo cáo của
Ngân hàng ANZ cho biết, từ năm 2001-2006 vốn FII đạt khoảng 12 tỷ USD và
năm 2007 đạt khoảng 5,7 tỷ USD. Năm 2008 và đầu năm 2009, trước những khó
khăn của nền kinh tế, dòng vốn FII có dấu hiệu chững lại và một phần đã được
rút ra. Từ cuối quý II/2009, có sự đảo chiều và quay trở lại của vốn FII, nhưng
không thật sự mạnh như mong đợi. Trong năm 2010, nguồn vốn FII vào Việt
Nam đạt 1,7 tỷ USD, năm 2011 đạt mức 1 tỷ USD.
Theo thống kê của ngân hàng HSBC, quý I/2012, có khoảng 500 triệu USD
chảy vào TTCK Việt Nam. Tuy nhiên, sang quý II, thị trường lại có những biến
chuyển khác. Chỉ tính riêng trên sàn chứng khoán TP. Hồ Chí Minh từ đầu năm
đến nay, dòng vốn FII đã âm hơn 4,9 triệu USD, trong khi đó, quý I/2012 khối
này đã mua ròng gần 43 triệu USD. Sự suy giảm của dòng vốn FII cũng chính là
lý do TTCK càng ngày càng ảm đạm trong những tháng qua.
c, Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA):
Đây là nguồn hỗ trợ phát triển chính thức, là hình thức tín dụng quốc tế
nhằm hỗ trợ các nước cải thiện môi trường đầu tư hoặc cải thiện môi trường
sống của quốc gia.
Lãi suất vay ODA thường thấp, bình quân từ 2-4%/năm so với lãi vay

thương mại. Nguồn vốn ODA vào Việt Nam gia tăng đáng kể ở cả 3 giác độ:
cam kết, ký kết và giải ngân. Trong đó, nguồn vốn dành cho nhà đầu tư cơ sở hạ

19


tầng chiếm 40% tổng vốn ODA đã góp phần phát triển mạnh mẽ kinh tế Việt
Nam.
d, Nguồn kiều hối gửi về Việt Nam hàng năm:
Ngày 12/09/1999, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
170/1999/QĐ-TTg khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài chuyển tiền về
nước. Tiếp theo đó từ đầu tháng 06/2006, Pháp lệnh Ngoại hối của Việt Nam bắt
đầu có hiệu lực đã tác động trực tiếp đến nguồn kiều hối, cụ thể là việc mở rộng
đối tượng được vay vốn nước ngoài, bao gồm cả cá nhân. Việt kiều có thể
chuyển tiền về nước cho người thân để đầu tư, kinh doanh dưới hình thức cho
vay, cho mượn vốn kinh doanh.
Bên cạnh đó, lãi suất tiền gửi nội tệ cũng có sự chênh lệch khá cao so với
lãi suất ngoại tệ nên đã thúc đẩy kiều hối tăng. Ngoài ra, số lượng người đi xuất
khẩu lao động tăng lên hàng năm. Trong 02 năm 2010-2011, bình quân lượng
kiều hối gửi về Việt Nam theo đường chính thức thông qua hệ thống ngân hàng
mỗi năm khoảng 9 tỷ USD; riêng năm 2012, mặc dù kinh tế thế giới và Việt
Nam còn rất khó khăn, lượng kiều hối gửi về Việt Nam vẫn không giảm, dự kiến
năm nay, kiều hối trên 10 tỷ USD.
Như vậy, nếu tính từ năm 2006 đến nay, thì tổng lượng kiều hối gửi về Việt
Nam khoảng 55 tỷ USD. Đây là một lượng tiền rất lớn nằm trong dân cần khai
thác, đưa vào phục vụ đầu tư sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó, chúng ta có thể phân tích thêm công tác huy động vốn nước
ngoài tại VN dựa vào dự báo diễn biến các dòng vốn trong những năm tới:
Theo nghiên cứu của TS. Lương Văn Khôi và các cộng sự (Bộ Kế hoạch và
Đầu tư), trong nửa đầu năm 2012,dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

(FDI)toàn cầu đạt 668 tỷ USD, giảm 8% (tương đương 61 tỷ USD) so với cùng
kỳ năm 2011 do tốc độ phục hồi của kinh tế toàn cầu đi xuống trong quý
II/2012. Mức sụt giảm 61 tỷ USD này chủ yếu do dòng vốn FDI vào Mỹ giảm
37 tỷ USD và FDI vào các nước BRIC giảm 23 tỷ USD. Tổ chức UNCTAD

20


(7/2012) dự báo dòng vốn FDI 2012 đạt mức khoảng 1.600 tỷ USD, cao hơn 1
chút so với mức 1.524 tỷ năm 2011.
Dòng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) toàn cầu của các nước phát
triển dành cho các nước đang phát triển, theo báo cáo của OECD (tháng 4/2012)
đã giảm gần 2,7% trong năm 2011. Khó khăn tài chính tại một số quốc gia thuộc
DAC ảnh hưởng đến ngân sách dành cho ODA. Khảo sát của OECD về kế
hoạch chi tiêu của các nước tài trợ trong giai đoạn 2012-2015 cho thấy,dòng vốn
ODA toàn cầu có thể tăng 6% trong năm 2012, chủ yếu do tăng các khoản cho
vay ưu đãi từ các tổ chức đa phương từ nguồn bổ sung vốn cho giai đoạn 20092011.Tuy nhiên, từ năm 2013, khi tác động tiêu cực của suy thoái kinh tế lên
dòng vốn viện trợ hiện hữu đầy đủ, dòng vốn ODA toàn cầu sẽ trì trệ hơn.
Dòng vốn kiều hốivào các nước đang phát triển ước tính đạt 372 tỷ USD
trong năm 2011, tăng 12,1% so với năm 2010 và dự báo sẽ tăng lên 399 tỷ USD
vào năm 2012 (WB, 4/2012). Dòng vốn kiều hối toàn cầu, bao gồm cả dòng vốn
vào các nước thu nhập cao tăng từ 453 tỷ USD trong năm 2010 lên 501 tỷ USD
năm 2011 và dự báo tăng lên 533 tỷ USD năm 2012. So với các dòng vốn khác,
dòng vốn kiều hối ổn định trong suốt thời kỳ khủng hoảng.
Trong điều kiện thị trường vốn của Việt Nam đang gặp khó khăn như hiện
nay, việc phần lớn các dòng vốn quốc tế tiếp tục xu hướng hồi phục, mặc dù với
tốc độ chậm hơn do ảnh hưởng của khủng hoảng nợ công châu Âu, sẽ tác động
tích cực tới tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, tình hình thu hút các
dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam năm 2012 cho thấy, Việt Nam chưa
tận dụng được hết những lợi thế này. Đặc biệt, trong bối cảnh, cạnh tranh thu hút

vốn đầu tư cũng đang diễn ra quyết liệt giữa Việt Nam với nhiều nước trong khu
vực và trên thế giới, nhất là các nước khu vực Đông và Nam Âu, khu vực Đông
Nam Á với hoàn cảnh tương tự, nhưng có một số mặt lợi thế hơn Việt Nam.
Nguyên nhân của thực trạng này được xem từ sự yếu kém nội tại của các
thành viên tham gia thị trường (ngân hàng, công ty chứng khoán, DN...), từ thể
chế thị trường trong việc xây dựng khuôn khổ pháp lý, vai trò của các cơ quan
21


quản lý có liên quan đến quá trình giám sát, cũng như việc tổ chức bộ máy,
nguồn nhân lực, các công cụ và phương tiện thanh tra, giám sát. Thực tiễn cho
thấy kỷ luật thị trường cũng chưa đủ chặt chẽ để điều chỉnh, giám sát, đảm bảo
thị trường vốn phát triển ổn định và hiệu quả.

22


PHẦN 3. CÁC DỰ ÁN VAY NƯỚC NGOÀI TẠI HẢI PHÒNG VÀ
MỨC ĐỘ TÁC ĐỘNG ĐẾN NỢ CÔNG
Tính đến tháng 10/2014, mặc dù tình hình kinh tế trong nước và quốc tế có
nhiều khó khăn, tuy nhiên các khu công nghiệp, khu kinh tế tại Hải Phòng đã thu
hút được 22 dự án FDI được cấp phép đầu tư mới, 16 dự án điều chỉnh bổ sung
tăng vốn đầu tư, tổng vốn đầu tư FDI đạt 935.315.728 USD, bằng 51% so với
cùng kỳ năm 2013 và bằng 78% so với kế hoạch năm 2014. Cũng tại thời điểm
này, 9 dự án đầu tư trong nước đã được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư và 5 dự
án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với tổng số vốn đăng ký là 3.713,4 tỷ đồng,
bằng 47% so với kết quả năm 2013.
Cũng theo số liệu thống kê từ Ban quản lý các khu kinh tế Hải Phòng, từ
năm 2011 đến nay, Hải Phòng nhận được sự tài trợ trực tiếp nguồn vốn ODA
cho 8 dự án với tổng vốn đầu tư 466,86 triệu USD (trong đó vốn vay ODA là

248,11 triệu USD và vốn đối ứng trong nước là 218,75 triệu USD) từ nhiều quốc
gia và tổ chức tài chính quốc tế như: Jica, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng phát
triển Châu Á, Đức, Pháp, Phần Lan, Hàn Quốc…
Trong các dự án có nguồn vốn vay nước ngoài tại Hải Phòng, có thể kể đến
một số dự án trọng điểm sau:
I. Siêu dự án 1,5 tỷ USD của LG
“Nhà máy 1,5 tỷ USD của LG chuẩn bị khai trương tại KCN Tràng Duệ,
Hải Phòng. Điều này được kì vọng sẽ góp phần quan trọng vào kim ngạch xuất
khẩu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của thành phố cảng.” ( Theo báo điện tử
Vietnamnet.vn )
Với quy mô nhà máy này của LG, các sản phẩm điện tửkhông chỉ được tiêu
thụ tại thị trường Việt Nam mà nó sẽ góp phần quan trọng trong việc nâng kim
ngạch xuất khẩu của Hải Phòng khi nhà máy này chính thức hoạt động. Đây là
một dự án đầu tư lớn nhất của thành phố trong nhiều năm qua, một điểm nhấn
quan trọng trong thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài của Hải Phòng.
23


Tháng 10/2013, LG được cấp phép đầu tư 1,5 tỷ USD vào Việt Nam để sản
xuất và lắp ráp hàng hóa điện, điện tử. Trước đó, tổng vốn đầu tư của LG chỉ dự
kiến khoảng 300 triệu USD nhưng sau đó chính hãng này đã quyết định tăng
vốn gấp 5 lần con số trên tại Việt Nam. Dự án này cũng khẳng định rằng LG rất
coi trọng thị trường Việt Nam, xem Việt Nam như là một thị trường trọng điểm.
Với tổng mức đầu tư 1,5 tỷ USD nhà máy của LG sẽ không chỉ sản xuất các
thiết bị điện tử tiêu dùng đã trở nên quen thuộc với thị trường Việt Nam như ti
vi, máy giặt, điều hòa mà còn sẽ sản xuất cả các thiết bị đo điện tử, thiết bị phát
thanh kỹ thuật số cho ô tô. Dự kiến sẽ có nhiều dòng sản phẩm thông minh và
công nghệ tiên tiến nhất trên thế giới sẽ được sản xuất tại nhà máy này và được
xuất khẩu ra thị trường nhiều nước trên thế giới.
Theo Đại diện Tổng Công ty Phát triển Đô thị Kinh Bắc - đơn vị quản lý

KCN Tràng Duệ, từ đầu năm 2013, LG đã ký thỏa thuận hợp đồng thuê lại đất
với diện tích hơn 400.000m2 tại Khu KCN Tràng Duệ. Thế nhưng, cho đến thời
điểm chuẩn bị chính thức khai trương, dự án của LG đã có diện tích lên tới
800.000 m2 và giữ vị trí quán quân về đầu tư nước ngoài tại Hải Phòng.
Vẫn theo đại diện Tổng Công ty Phát triển Đô thị Kinh Bắc, việc LG đầu tư
vào Tràng Duệ hứa hẹn sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho việc đẩy mạnh
thu hút đầu tư vào Khu Tràng Duệ thuộc Khu kinh tế Đình Vũ - Cát Hải của
KBC, nhất là thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp đối tác, vệ tinh của LG.
Được biết, trong năm 2015, các dự án giao thông kết nối từ nhà máy của
LG tại Tràng Duệ tới sân bay, cảng biển, Hà Nội và các tỉnh, thành phố khác của
Việt Nam cũng đang được thi công. Như vậy, Hải Phòng đã sẵn sàng cho khai
trương siêu dự án của LG tại vùng Đông Bắc - một dự án đang kỳ vọng sẽ thúc
đẩy Hải Phòng phát triển mạnh mẽ.
II. Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng tại Lạch Huyện
“Sáng 14-4-2013, tại khu vực Lạch Huyện, đảo Cát Hải (huyện Cát Hải),
Cục Hàng hải Việt Nam (Bộ Giao thông- Vận tải) tổ chức lễ khởi công hợp phần
A- giai đoạn khởi động Dự án đầu tư xây dựng Cảng cửa ngõ quốc tế Hải
24


Phòng. Đây là cảng quốc tế quy mô lớn nhất từ trước đến nay được xây dựng tại
miền Bắc theo quy hoạch là cảng quốc tế loại 1A.” ( theo báo điện tử
Ourcity.com.vn )
Theo Cục Hàng hải Việt Nam, dự án được xây dựng từ phía Nam cửa Lạch
Huyện, trên địa bàn huyện đảo Cát Hải – TP. Hải Phòng, với tổng vốn đầu tư là
25.100 tỷ đồng, một phần vốn được hỗ trợ từTổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản
(JICA), đánh dấu mốc quan trọng trong dịp kỷ niệm 40 năm quan hệ ngoại giao
Việt Nam- Nhật Bản.Theo thiết kế, Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng được đầu
tư cơ sở hạ tầng và công nghệ bốc xếp đồng bộ và hiện đại có khả năng tiếp
nhận được tàu container trọng tải lớn từ 4000 - 6000 TEU và lên đến 8.000 TEU

(tương đương với tàu trọng tải 100.000 tấn hoạt động trên tuyến vận tải biển
xa ).
Dự án Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng được chia thành hai hợp phần. Hợp
phần A: Xây dựng cơ sở hạ tầng dùng chung cho cảng trong các giai đoạn
(luồng tàu, vũng quay tàu, đê chắn sóng, đê chắn cát, đường ngoài cảng, tôn tạo
xử lý nền đất yếu...). Tổng mức đầu tư lên tới hơn 18.600 tỷ đồng, bằng nguồn
vốn ODA Nhật Bản và NSNN. Hợp phần B: đầu tư 2 bến, chiều dài 750m, trang
thiết bị khai thác, xếp dỡ, cho tàu container trọng tải đến 100.000 DWT. Tổng
mức đầu tư hơn 6.500 tỷ đồng. Chủ đầu tư là Công ty TNHH Cảng container
quốc tế Hải Phòng.Đây là dự án hợp tác lớn dự kiến hoàn thành vào năm 2016.
Sau khi đi vào hoạt động, Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng sẽ góp phần đưa
hàng hóa xuất, nhập khẩu của khu vực miền Bắc có thể đi thẳng tới thị trường
châu Âu, châu Mỹ (không phải trung chuyển qua các cảng trung chuyển tại khu
vực như Xingapo, Hồng Kông); góp phần thu hút lượng hàng quá cảnh khu vực
Đông Bắc Lào qua tuyến hành lang Đông - Tây và khu vực Nam Trung Quốc
qua các tuyến thuộc chương trình hai hành lang, một vành đai.
III. DỰ ÁN PHÁT TRIỂN GIAO THÔNG ĐÔ THỊHẢI PHÒNG

25


×